Văn học Việt Nam hiện đại - Phương pháp tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Khải trong giảng dạy: Phần 2
lượt xem 12
download
Tiếp nối nội dung phần 1, phần 2 Tài liệu Phương pháp tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Khải của TS. Đào Thủy Nguyên tương ứng với nội dung chương 3 - Cảm hứng chiêm nghiệm - triết lý, cũng là chương cuối cùng của Tài liệu. Qua công trình này bạn đọc sẽ hiểu hơn về các tác phẩm của tác giả Nguyễn Khải.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Văn học Việt Nam hiện đại - Phương pháp tiếp cận các sáng tác của Nguyễn Khải trong giảng dạy: Phần 2
- Chương ba CẢM HỨNG CHIÊM NGHIỆM - CHIẾTLÝ I - NGUYỄN KHẢI VỚI NĂNG LỰC PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ VÀ XU HƯỚNG TRIẾT LUẬN Nghiên cứu tác phẩm Nguyễn Khải, nhiều nhà phê bình chú ý tới năng lực phát hiện vấn đề như một dấu hiệu nổi bật trong sáng tác của ông. Nguyễn Khải không chỉ là "một tài năng phát hiện vấn đề" (Nguyễn Đăng Mạnh) ở những mặt phức tạp, khuất tối của hiện thực mà còn "rất giỏi phát hiện ra những vấn đề ẩn sau các sự vật, hiện tượng tưởng như thật giản đơn quen thuộc" [13]. Đọc Nguyễn Khải, người ta nghĩ ngay đến vấn đề ông đặt ra qua tác phẩm của mình, bởi điều "Nguyễn Khải quan tâm trước tiên: vấn đề! Câu chuyện hình thành và phát triển theo yêu cầu của vấn đề. Chi tiết này, cốt truyện nọ, nhân vật kia cần có là đều vì yêu cầu thể hiện các vấn đề mà anh muốn nói" [265]. Tìm kiếm phát hiện vấn đề, rồi gợi mở, đặt ra các vấn đề của đời sống để có cơ hội cùng bàn bạc, trao đổi, tranh luận, triết lý với những người cùng thời là chủ đích mà Nguyễn Khải luôn hướng tới với tinh thần nhập cuộc. Với mục đích trao đổi, bàn luận, đối thoại, "Nguyễn Khải không dừng lại ở việc nêu vấn đề, ông cố gắng trình bày sự nghiên cứu, nghiền ngẫm của riêng mình" [13]. Những chiêm nghiệm của ông nhằm "nhận thức lại, kiến giải lại, đánh giá lại" (Bakhtin) về cuộc đời và con người trên cơ sở một tư duy khoa học, cho thấy sự phấn đấu kiên trì của ông theo quan niệm: 176
- "Văn học là khoa học của lòng người, là lịch sử của lòng người". "Sự thật chỉ có thể viết về những tấm lòng, những tâm trạng của các giai cấp trong xã hội với mọi sự phức tạp, tinh vi và ngoắt ngoéo có thật của nó, như thế mới là sự thật theo quan niệm chân thật của tôi" [71]. Nhìn chung, sáng tác của Nguyễn Khải không bị bó hẹp ở những nhận xét, đánh giá vụn vặt có tính nhất thời. Ông có ý thức khái quát cuộc sống ở mức độ cao và rút ra những chiêm nghiệm mang ý nghĩa triết lý, đạo đức nhân sinh có tính bền vững. Khuynh hướng chiêm nghiệm - triết lý đã hình thành ở Nguyễn Khải từ rất sớm... Từ Mùa lạc, người đọc nhiều khi đã thấy Nguyễn Khải "thông qua nhân vật để nêu lên những vấn đề triết lý bình luận về một hiện tượng của cuộc sống (...). Nói chung, Nguyễn Khải đã thành công, phân tích sâu sắc nhiều vấn đề, đào sâu tâm lý nhân vật, phát hiện những khía cạnh của mâu thuẫn qua những câu chuyện rất bình thường của đời sống và hướng sự suy nghĩ của người đọc về một vấn đề nhất định, làm cho người đọc nhận thức được sâu sắc vấn đề xã hội mà tác giả nêu lên" [28]. Tuy nhiên, thế mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải lúc ấy chủ yếu là sự nồng nhiệt và hào hứng của tuổi trẻ, những lời tổng kết có tính chất lý thuyết không tránh khỏi có những lúc hấp tấp, vội vàng. Độc giả, vì thế, hầu như mới chỉ được nghe thấy chứ chưa được cảm nhận một cách thấm thía về những chiêm nghiệm. Những triết lý như thế này, dường như chưa có đủ chiều sâu chiêm nghiệm của cả tác giả và nhân vật: "Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con 177
- đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy..." [122,265] (Lời tác giả). "Khi đã được sống trong cái hạnh phúc bình thường thì lại càng muốn đầy đủ mãi, vun đắp vào mãi không bao giờ cảm thấy vừa lòng (...). Vì sợi dây ràng buộc của gia đình ghê gớm lắm, năm tháng qua đi, lúc đầu còn cựa quậy, nhưng lâu dần thì chính anh lại tự thắt anh lại, như con diều hâu ấy mà, không sao thoát ra được nữa" [122, 470] (Lời Nam). Hai cuốn tiểu thuyết: Chiến sĩ và Chủ tịch huyện ra đời cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ đã dần bộc lộ rõ khuynh hướng triết lý của Nguyễn Khải. Có thể gặp ở đó những nhận xét vừa thông minh vừa hóm hỉnh, những châm ngôn xử thế sâu sắc, những triết lý có giá trị từ những chuyện rất bình thường. Nếu trước đây, triết lý của Nguyễn Khải thiên về các vấn đề chính trị, xã hội thì đến hai tác phẩm này nhiều vấn đề thế sự đã dược Nguyễn Khải quan tâm và chiêm nghiệm một cách sâu sắc. Từ sau năm 1975, xu hướng triết lý thế sự ngày càng gia tăng, và nó trở thành nội dung chủ yếu trong các tác phẩm của Nguyễn Khải từ sau đổi mới. Đánh giá và chiêm nghiệm hiện thực trên cơ sở của những quan niệm triết học mang tính nhân bản, đó là đặc sắc riêng của sáng tác Nguyễn Khải từ sau 1975. Hầu hết tiểu thuyết của ông ở giai đoạn này đều mang tính chất của những cuốn tiểu thuyết triết luận. Cha và con và... là cuốn tiểu thuyết "triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội bằng ngôn ngữ tự sự" (Lại Nguyên Ân). "Gặp gỡ cuối năm là một tiểu thuyết kịch - triết lý" (Nguyễn Văn Lưu) mà ở đó mỗi nhân vật "là 178
- một đơn vị nghệ thuật để cân chở một triết lý nào đó" của tác giả (Lê Thành Nghị). Thời gian của người là "triết lý về cách sống" (Nguyễn Đăng). Một cõi nhân gian bé tý là triết lý về số phận con người trong cõi nhân gian đầy biến động này... Ở các truyện ngắn sau 1975, Nguyễn Khải cũng không dừng lại ở những suy tư chiêm nghiệm về lẽ sống, về lý tưởng mà chăm chú quan sát, lý giải, chiêm nghiệm con người ở những bình diện tồn tại khác nhau của nó: trong không gian, thời gian, trong quan hệ chủ quan, khách quan, trong quy luật nhận thức... Đúng như nhận xét của Lại Nguyên Ân: Giờ đây, "những câu chuyện cuộc đời ở anh (Nguyễn Khải đang như muốn trực tiếp chuyển thẳng thành một thứ triết lý về thực tại, và đi kèm với điều đó, thành phần lập luận, biện giải trên các trang văn xuôi của anh đang trở nên lấn át thành phần kể chuyện" [5]. Những chiêm nghiệm - triết lý của Nguyễn Khải thường là phong phú về nội dung và sinh động về sắc thái. Ở đó có cả cái thông minh bác học lẫn cái láu lỉnh, suồng sã, dân dã trong những triết luận không chỉ về những vấn đề lớn lao như hạnh phúc, niềm tin, lý tưởng... mà còn cả về những chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt như miếng ăn, đồng tiền, nỗi nhục và sự hèn hạ... của con người. Tác phẩm Nguyễn Khải luôn hàm chứa những tư tưởng triết học sâu sắc nhưng không xa vời bởi đó là sự chắt lọc, kết tinh từ những trải nghiệm của một con người, một nhà văn vừa có tài năng, vừa giàu tâm huyết, lại luôn có ý thức gắn bó với cuộc đời, với dân tộc, với thời đại. Nhiều triết lý có tính chất nghiệm sinh đã đạt đến độ thâm trầm đáng quý: 179
- - "Phải có một lần làm nạn nhân mới biết họ sự tàn ác của những lần làm thủ phạm" [124, 36]. - "Sống tới cái tuổi ngoài 50 mới nghiệm ra sự thành bại của một đời người, không phụ thuộc bao nhiêu vào cái lập chí ban đầu. Còn thời thế, còn bao nhiêu là may rủi đã quyết định cái sinh mạng bé nhỏ của mình" [144, 564]. Trong tác phẩm, nhà văn thường vừa tự sự vừa trữ tình, vừa kể chuyện vừa tham gia vào câu chuyện bằng những lời bình luận, triết lý đầy sắc thái trữ tình. Ông không ngại bộc lộ trực tiếp tư tưởng của mình dưới hình thức những lời triết lý trừu tượng. Và cố nhiên, không phải ông đã dễ dàng tránh được. Đề cao tính triết lý và ý nghĩa triết học đạo đức của các vấn đề, của các nhân vật, Nguyễn Khải thể hiện rõ ý thức coi trọng nhu cầu nhận thức và hiểu biết của con người thời đại. Sự băn khoăn cho rằng: "Các nhân vật tiểu thuyết của ta cái áo mặc thì to nhưng cái đinh mắc vào (ý nghĩa triết học) thì hãy còn bé quá" [39, 352 - 353] là nguyên nhân khiến Nguyễn Khải chú trọng đào sâu tìm đếm ý nghĩa triết học cho tác phẩm và nhân vật của mình. Ý thức ấy, một mặt, đem lại cho cả tác giả và độc giả một cái nhìn sâu sắc vào cuộc đời và con người, từ đó tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ thú vị bởi những triết lý vừa tinh tế vừa thâm thuý. Nhưng mặt khác dường như căn bệnh "sính triết lý" (từ dùng của Nguyễn Văn Lưu) cũng đã manh nha và bộc lộ những mầm mống bất cập của nó. Ấy là khi, nhu cầu triết lý của nhà văn đã làm mất đi tính hồn nhiên, tự nhiên của bản thân cuộc đời, của tính cách nhân vật, đã chi phối, tác động mạnh tới mức làm "'xiêu lệch" (Ngô Thảo) cả cách suy nghĩ, cách ăn nói của nhân vật. Và 180
- điều này đã làm giảm đi phần nào sức hấp dẫn của nhân vật Nguyễn Khải, bởi sự lặp lại một cách đơn điệu của một vài dạng tính cách. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Văn Lưu đưa ra nhận xét: "Đọc Nguyễn Khải gần đây, ta có cảm giác như đang đứng trước một con người nghiêm nghị, mắt chong chong nhìn vào cuộc đời và bất kể ở đâu cũng có thể lôi ra một triết lý" [243, 257]. Dễ dàng nhận thấy: Các nhân vật của Nguyễn Khải từ người già đến người trẻ, từ trí thức đến thị dân, nông dân, công nhân, bộ đội, ai ai cũng đều có những suy nghĩ sâu sắc và ở mức độ này hay mức độ khác, có lúc, dường như họ đã có dáng dấp của một triết nhân. Thêm vào đó, triết lý của Nguyễn Khải chủ yếu được phát biểu trực tiếp bằng ngôn ngữ lý luận chứ không được thể hiện bằng ngôn ngữ hình tượng như trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu nên chưa tạo được dư ba trong lòng người đọc bởi sự ám ảnh của hình tượng nghệ thuật. Ít sử dụng các thủ pháp nghệ thuật hỗ trợ cho diễn đạt như trong sáng tác của Ma Văn Kháng, của Nguyễn Minh Châu, hay của Nguyễn Huy Thiệp... mà thường đặt vấn đề một cách trực diện, đôi khi nặng về thuyết lý hơn là triết lý, tác phẩm của Nguyễn Khải không tránh khỏi có những lúc trở nên khô khan và gây cảm giác nặng nề. Theo chúng tôi thì: Chỉ khi nào những chiêm nghiệm, triết lý được rút tỉa từ chính những trải nghiệm của nhà văn hay của nhân vật gắn với xúc cảm mạnh mẽ của người viết và phù hợp (tạo được sự cá tính hoá trong ngôn ngữ và tính cách 181
- nhân vật) thì chúng mới có sức hấp dẫn và lôi cuốn thật sự. Là người thông minh, Nguyễn Khải hiểu rõ cái "gã" và cái "tạng" của mình. Có lẽ vì thế, nhà văn đã tìm tòi và sáng tạo nên một nhân vật đặc biệt là người phát ngôn phù hợp nhất cho những chiêm nghiệm, triết lý của mình. Đó là nhân vật Người kể chuyện. II. ƯU THẾ CỦA NHÂN VẬT NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VIỆC MỞ RỘNG VÀ ĐÀO SÂU VÀO CÁC VẤN ĐỀ TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA ĐỜI SỐNG Đọc truyện Nguyễn Khải, ta thường được tiếp xúc với nhân vật Người kể chuyện. Theo dòng thời gian, trên hành trình sáng tác của nhà văn, nhân vật đó cũng có sự phát triển trong tư chất và diện mạo. Nhìn chung, có khác với nhiều người viết cùng thời, nhân vật Người kể chuyện của Nguyễn Khải thường không phải là người nắm giữ toàn bộ "bí mật" của câu chuyện, là người ban phát chân lý - cái chân lý được rút ra qua sự trải nghiệm, sự đúc kết của cộng đồng. Người kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Khải có một gương mặt riêng, cụ thể và sinh động, có cá tính, có lai lịch tiểu sử có ý kiến, có tư tưởng riêng trước mỗi vấn đề đặt ra trong tác phẩm. Người kể chuyện đã trở thành một nhân vật văn học. Anh ta cũng có những ưu điểm và nhược điểm như mọi con người bình thường, có khi cũng "nông nổi bốc đồng", thậm chí "hồ đồ" khi đánh giá con người, cũng "ngại va chạm" và hãy "né tránh", cũng "háo danh" và "hay dỗi vặt"... Tuy nhiên, ở nhân vật này còn có - thật mãnh liệt - cái ý thức thường xuyên soi rọi lại diện mạo tinh thần của mình để điều chỉnh tư tưởng và hành vi cá nhân 182
- cho phù hợp với chuẩn mực tiến bộ của đời sống xã hội. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn phát hiện ra rằng: Nhân vật Người kểch chuyện của Nguyễn Khải "rất gần với chúng ta" cả ở những ưu điểm và nhược điểm trong suy nghĩ và trong cách nghĩ. Chính sự gần gũi này làm cho những chiêm nghiệm giờ đây của Nguyễn Khải - những chiêm nghiệm mang đậm dấu ấn của sự trải nghiệm cá nhân- thêm thấm thía và có sức thuyết phục. Khảo sát các truyện ngắn của Nguyễn Khải in trong các tập: Hà Nội trong mắt tôi, Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu, Một thời gió bụi, Truyện ngắn và tạp văn, Chút phân của đời, Truyện ngắn chọn lọc, Tuyển tập truyện ngắn, Tuyển tập Nguyễn Khải (tập III). cùng với các tiểu thuyết của Nguyễn Khải viết sau 1975, chúng tôi nhận thấy: Nguyễn Khải đã sử dụng hình tượng nhân vật Người kể chuyện như một phương tiện nghệ thuật quan trọng để chuyển tải tư tưởng của mình. Trong 72 truyện ngắn của Nguyễn Khải sau 1975, có tới 60 truyện ngắn xuất hiện nhân vật Người kể chuyện hữu hình trong tư cách nhân vật xưng Tôi. Và trong 60 nhân vật xưng Tôi này lại có tới 59 nhân vật là người cầm bút (nhà văn hoặc nhà báo). Trong 6 tiểu thuyết của Nguyễn Khải thì Người kể chuyện hữu hình - nhân vật xưng Tôi - người cầm bút - xuất hiện trong 3 cuốn (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Vòng sóng đến vô cùng). Nhân vật Người kể chuyện này trực tiếp tham dự vào câu chuyện ở nhiều vị trí linh hoạt, để phù hợp với mục đích kể chuyện và chiêm nghiệm của tác giả. Trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, Người kể chuyện khi 183
- thì là nhân vật chính kể lại câu chuyện của chính mình, lấy mình ra làm đối tượng để suy ngẫm, chiêm nghiệm (Một giọt nắng nhạt, Nghề văn cũng lắm công phu, Anh hùng bĩ vận...), khi thì là nhân vật phụ trong vai trò người tổ chức, dẫn chuyện để cho nhân vật chính tự kể về mình (Chuyện tình của mỗi người...), hoặc trực tiếp kể lại câu chuyện của nhân vật chính (Tiền, Đời khổ, Nắng chiều, Nếp nhà...). Trong tiểu thuyết, Người kể chuyện có một "sân khẩu rộng rãi để "đổi vai" nên có điều kiện nhìn thấy và chiêm nghiệm được nhiều mặt của hiện thực. Ngay từ truyện vừa Hãy đi xa hơn nữa của Nguyễn Khải ra đời ở đầu thập niên 60, người ta đã thấy xuất hiện nhân vật Người kể chuyện hữu hình là người cầm bút. "Đó là con người luôn luôn suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc đời, về bề sâu của lâm hồn con người, về những quan hệ đạo đức mới, về vị trí của mỗi người trong cuộc đấu tranh chung" [59]. Tuy nhiên, giữa cái tôi - Người kể chuyện - nhà văn trong Hãy đi xa hơn nữa với cái tôi - Người kể chuyện - nhà văn trong những sáng tác của Nguyễn Khải sau 1975 đã có một bước phát triển mới trên nhiều phương diện. Cái tôi trước 1975 dù có ý thức trình ra những cảm nhận, suy nghĩ riêng của mình trước con người và cuộc sống, nhưng người đọc nhận thấy đó chủ yếu vẫn là những phát ngôn của "người cán bộ" theo tinh thần cộng đồng, theo chiều hướng chung của tư tưởng thời đại. Và tính độc thoại trong phân tích, bình luận, triết lý của chủ thể trần thuật hầu như không dành khoảng trống nào cho những đối thoại và liên tưởng của người đọc. Nếu như nhân vật Người kể chuyện trước đây đứng cao hơn 184
- các nhân vật khác, nhân danh cái hay cái tốt theo quan điểm cộng đồng để "kêu gọi người đọc hãy nhìn chu đáo xung quanh và vào chính bản thân mình, cố gắng nâng mình lên theo cái tầm lớn lao của thời đại" [59] thì nhân vật Người kể chuyện trong sáng tác của Nguyễn Khải hôm nay lại như một người bạn đi bên cạnh ta, thủ thỉ tâm tình trò chuyện, giãi bày, và cả tranh luận, đối thoại nữa để cùng người đọc chia sẻ và đồng cảm với những chiêm nghiệm của cá nhân mình. Một người cầm bút từng trải hãy suy ngẫm luôn hiện diện trong vai trò Người kể chuyện - trực tiếp tham dự, lúc là người trong cuộc vừa tự nghiệm, tự vấn, tự giãi bày, lúc là một chứng nhân chăm chú dõi theo diễn biến cuộc đời và số phận của từng nhân vật rồi bình luận, triết lý. Thiết nghĩ, chọn một chỗ đứng như vậy để chiêm nghiệm hiện thực, Nguyễn Khải đã tìm được một cách thức hữu hiệu cho ngòi bút của mình có điều kiện để lui - tới, vừa bảo đảm tính khách quan của đối tượng chiêm nghiệm, vừa giữ được yêu cầu chủ quan của chủ thể sáng tạo. Trong nhiều trường hợp, ở chính nhân vật Người kể chuyện - nhân vật xưng Tôi - người cầm bút đã diễn ra một quá trình tự thức nhận, tự phản tỉnh, tự sám hối nghiêm khắc và riết róng. Những day dứt, dằn vặt của một người làm nghề sáng tạo luôn tha thiết và tâm huyết với nghề, coi nghề viết không chỉ là một công việc để kiếm sống mà cao hơn nhiều, đó còn là lẽ sống, là sự nghiệp của cả cuộc đời mình được Nguyễn Khải khai thác và thể hiện triệt để mỗi khi ông có dịp "nhìn lại những trang viết của mình". Không chút né tránh, khi nhận ra 185
- những non nớt, những nghèo nàn giản đơn trong cách nhìn và cách nghệ một thời, Nguyễn Khải trung thực trải lòng mình lên trang viết. Người đọc bắt gặp ở đây, không chỉ là một con người với khát vọng hoàn thiện nhân cách cá nhân mà còn là một người cầm bút tỉnh táo, giàu lòng tự trọng, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đối mặt với những hay dở, tốt xấu trong nhận thức một thời để chiêm nghiệm, và hơn thế - chiêm nghiệm lại. Sự chiêm nghiệm lại của nhà văn ở đây tỏ rõ một tinh thần thực sự nghiêm túc và khoa học. Không phải nhìn nhận lại để lên án, để phủ nhận và đọc lời "ai điếu" cho những nhận thức cũ trước đây, mà để tìm tới những nhận thức mới, tiếp cận với chân lý vĩnh cửu của đời sống. Đó là định hướng đúng đắn của một người viết đầy trách nhiệm, biết và dám "gạt bỏ sai lầm khỏi cái chủ quan" để đi gần đến chân lý. Trong tư cách một nhân vật - nhân vật Người kể chuyện - nhà văn có khả năng phân thân để tự khám phá chính mình, tự đối thoại với mình. Cái hồn nhiên, bồng bột của một "thời lãng mạn" được chiêm nghiệm lại bằng những lời sám hối chân thành: "Có một thời, mà thời ấy kẻo hơi quá dài, những ba chục năm, chúng ta chỉ tôn trọng có ý chí, có nghị lực, có chính trị, có tư tưởng" [144, 478]. Hoặc "nghĩ mà tiếc cho những năm tháng đã qua, chỉ hiểu đời có một nửa, chỉ biết người có một nửa, cái nửa ai cũng nhìn thấy còn lại bỏ hẳn một nửa chỉ nhà văn mới nhìn thấy. Nên bây giờ lớn tuổi rồi vẫn cứ phải đi. Đi để tìm lại những cái đã đánh mất" [145, 42]. Từ điểm nhìn của một Người kể chuyện lại là một người 186
- viết từng trải có ý thức khám phá, phát hiện để tìm đến cội nguồn mọi chân lý đời sống và nghệ thuật, Nguyễn Khải thường xuyên soi rọi lại quá khứ dưới góc nhìn của thời gian hiện tại. Những hồi ức, hồi tưởng luôn trở đi trở lại trong trường nhìn, trường suy nghĩ của con người hôm nay. Sự đan cài hiện tại và quá khứ, quá khứ trong hiện tại tạo nên những liên tưởng, những suy ngẫm vừa phong phú vừa rộng mở để những chiêm nghiệm giờ đây không dừng ở tính thuyết lý một chiều mà bộc lộ tính đối thoại dân chủ và bình đẳng. Tuy nhiên, quá sa đà vào những hồi ức hồi tưởng, không khỏi có lúc Nguyễn Khải tự lặp lại chính mình. Những chi tiết truyện, nhân vật truyện trở đi trở lại gần như nguyên dạng trong tác phẩm của ông thường gây cho người đọc cảm giác quen thuộc và nhàm chán. Chẳng hạn: chi tiết về cái chết của người du kích và kỷ niệm với những người chị - bạn cùng ngành y một thuở - của nhân vật người kể chuyện trong hai truyện ngắn Ngôi chùa của các chị và Chợt nghĩ về những người đã chết. Hay câu thơ "Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân" được sử dụng hai lần, một - ở cuối truyện ngắn Anh Thanh Tịnh, một - ở cuối tiểu thuyết Một cõi nhân gian bé tý, cùng bộc lộ tâm sự cô đơn và tê tái về những ngày cuối của tuổi già... rõ ràng đã làm giảm sức hấp dẫn của hình tượng nghệ thuật. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận rằng nhờ cách kể chuyện giàu chất chiêm nghiệm mà nhiều mối đồng cảm giữa nhà văn - người kể chuyện và độc giả đã được thiết lập. Và đó là cơ sở cho lời nhận xét sau đây của Vương Trí Nhàn: "Trong những trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi vui buồn khi quan 187
- sát việc đời, [229, 59]. Cái hăm hở và táo bạo trong những chiêm nghiệm thời trai trẻ, qua tháng năm dần trở nên chín chắn, đằm thắm và khoan hoà. Không còn nữa thái độ "ngông nghênh, hiếu thắng" với cách "nói lấy được", và "những trang viết kiêu ngạo chỉ khẳng định có một niềm tin, một lẽ sống rồi dạy dỗ, rồi lên án, rồi chế giễu tất cả những gì khác biệt với mình". Nếu trước kia nhà văn thật chủ quan khi khái quát đời sống, đầy tự tin đến mức tự kiêu nghĩ rằng mình có thể "đi guốc vào bụng thiên hạ", thì nay kinh nghiệm cá nhân và sự từng trải đã giúp ông "hiểu thêm một chân trời khác ngoài những chân trời đã biết" và "nhận ra từ cuộc sống có nhiều hệ luỵ của mỗi ngày vẫn có thể phát sáng tới vô cùng" (Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu). Vì vậy, âm sắc chung của giọng văn Nguyễn Khải giờ đây là "hạ giọng trước cuộc đời" (Nguyễn Đăng Mạnh), "vừa nói vừa ngập ngừng vừa chậm rãi, chỉ sợ mình sẽ khái quát sai một lần nữa" (Vương Trí Nhàn). Sự thức nhận về cái bí ẩn đến không cùng của đời sống con người và cái hữu hạn của "sự hiểu biết không bao giờ là đủ về con người" (Bakhtin) khiến Nguyễn Khải nhìn cuộc sống linh hoạt hơn. Từ chỗ cái gì cũng muốn quy về "sự có lý" của nó: "Cái gì cũng có lý, một đời người nhất cử nhất động đều có lý" (Phía khuất mặt người) đến chỗ phát hiện "đời người đến là lắm chuyện vô lý và tội nghiệp" (Nhóm bạn thời kháng chiến), và nhận thức được rằng: "Con người là một tổng thể vô cùng phức tạp, làm sao có thể cân đo, đong đếm, có thể chia nó ra, ép nó lại thành những tiêu chuẩn 188
- chính xác trong một hệ thống hoạt động kinh tế ? Vả lại con người dâu chỉ tồn tại trong có hoạt động kinh tế, mà còn có hoạt động chính trị, hoạt động văn hoá, hoạt động tôn giáo và trăm ngàn ràng buộc khác nó chia sẻ lo nghĩ của một người" [96, 17 - 18] để rồi tỉnh ngộ và luôn luôn lòng tự dặn lòng: "Phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết" [124, 327] là cả một quá trình không đơn giản và nhẹ nhàng chút nào. Khi soi rọi vào diện mạo tinh thần của mình, nhà vãn - Người kể chuyện không ngần ngại "lộn trái" bản thân bằng cách đem so sánh văn chương của mình với vãn chương của một bậc đàn anh trong văn giới: "Văn anh buồn, chữ nghĩa mệt mỏi, nhưng đã đọc thì không thể quên được, nó thấm vào da thịt mình đến tận bây giờ". "Văn tôi thì khác, người ra kẻ vào ồn ào, nói năng băm bổ, cho vào mặt nhau mà nói, mà lý sự làm cho người đọc không kịp thở, không kịp cãi, phải sau đó mới thấy còn nhiều chuyện phải bàn cãi" (Phía khuất mặt người). Sự giễu nhại, cười cợt vào "những mặt trái", những "cái chưa được, của mình là một cách nhận lỗi chân thành và khôn ngoan. Người nhận lỗi thì dễ nói ra, còn người nghe thì dễ dàng chấp nhận và thể tất. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể nói ra cái xấu, cái yếu của mình. Nói như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: phải là người "tự tin, thậm chí ngạo đời mới dám khoe cái hèn, cái kém của mình ra chứ" [200]. Quả thực, Nguyễn Khải rất tự tin trong nhìn nhận và đánh giá bản thân. Ở chỗ này, người ta thấy niềm kiêu hãnh của nhà văn trong ý thức về thiên chức cao quý của nghề văn: "Vì 189
- một niềm tin mà tôi trở thành người cầm bút, nay vứt bỏ nó, thay vào cái khác thì sẽ trở thành giám đốc, cố vấn, chuyên gia kinh tế chứ đâu còn là nhà văn (Anh hùng bĩ vận). Ở chỗ khác, người viết để cho một nhân vật khác chê trách mình, nhưng rồi cũng chính nhân vật ấy lại là người "chiêu tuyết" cho ông. Đây là một trong những ví dụ: "Anh pha trà, nói liền một mạch về vở kịch của tôi, anh mới được xem diễn ở Hải Phòng. Xem thì thích nhưng dài quá, lý lẽ nhiều quá, mệt. Họp hành cả tuần đã mệt, muốn coi một cái gì nhẹ nhõm để giải trí lại vấp phải một cuộc tranh luận chính trị nảy lửa trên sân khấu, càng mệt thêm. Văn của tôi, anh đọc cũng mệt, chẳng hấp dẫn tí nào, tình yêu mùi mẫn hầu như không có. "Nhìn bề ngoài anh không phải là người khô mà sao văn chương khắc khổ thế? Đọc mệt quá?". Tôi cũng cười: "Tôi viết còn mệt nữa là người đọc". "Tại sao anh không sửa?" "Thành tật rồi sửa sao được Anh lấy thuốc mời tôi, tự mình châm một điếu... "Trách đùa nhà văn một chút đừng giận nhé - Anh nói thêm - Mỗi người lúc này đang phải đứng trước bao nhiêu là chọn lựa, bảo không căng sao được, không mệt sao được" [96, 8]. Nhân vật Người kể chuyện trong tư cách người cầm bút ở sáng tác của Nguyễn Khải không chỉ chú trọng chiêm nghiệm những vấn đề về thời thế, về bản thân, về nghề nghiệp... mà còn luôn có ý thức chiêm nghiệm lại các nhân vật của mình trong sự vận động của tính cách và số phận trước những đổi thay của hoàn cảnh. Hai mươi bốn năm sau, "một khoảng thời gian đủ dài để gói gọn một cuộc chiến tranh, nhiều đời người, nhiều buồn 190
- vui và bao nhiêu là thay đổi trong các mối quan hệ" (Cái thời lãng mạn), nhà văn trở lại xã Đồng Tiến, nơi đã đi vào kỷ niệm của ông về "một thời viết và một thời còn rất trẻ". Cảm nhận của Nguyễn Khải về một sự "đổi đời", "như đã sang hẳn một kiếp khác" không chỉ bởi sự thay đổi của cảnh vật, mà quan trọng hơn là sự biến đổi của số phận "những con người nổi tiếng cả hay lẫn dở của một thời đã thuộc về quá khứ" (Mất toi một truyện ngắn). Những "dự đoán một cách lãng mạn" của nhà văn về số phận của họ trước kia, soi vào "bức tranh sống" của hiện thực hôm nay đã buộc nhà văn phải bừng tỉnh. Một sự bừng tỉnh đầy chua chát nhưng lại có ý nghĩa khai mở cho những nhận thức, những suy nghĩ đúng đắn hơn về con người và cuộc đời. Và giờ đây, sự chiêm nghiệm từ "cái thời lãng mạn" cơ hồ mới bộc lộ đầy đủ sức thuyết phục của nó: "Con người và đời sống tinh thần của con người thường làm cho chính nó cũng phải ngạc nhiên về sự phong phú, sự phức tạp và sự vận động hết sức kỳ lạ của nó". Và "cái giới hạn giả dối do mình suy tưởng đã nứt ra để lộ những khoảng vô cùng của một cái gì không giới hạn, không thể biết ngay một lúc được" [122, 428]. Những nhân vật tích cực, những "con người mới" mà Nguyễn Khải mê say ngày nào "vừa kết thúc mọi sự phiêu lưu vặt vãnh trong địa hạt văn chương thì cuộc phiêu lưu thật sự trong đời sống mới bắt đầu (Cái thời lãng mạn). Biền - "Ông chủ nhiệm gương mẫu trong Tầm nhìn xa, người có quyền mà không tham, sẵn sàng hy sinh mọi lợi ích cá nhân để mưu cầu lợi ích tập thể, sống nghèo đói và vất vả 191
- mà vẫn vui vì niềm vui được cống hiến. Giờ đây, bằng sự vận động nào, anh ta đã có một cuộc sống vật chất phong lưu đến thế ngay trong thời điểm cả nước đang vào kỳ "giáp hạt" - năm 1987. Nhà có tủ gương lớn, gỗ lát, có li chén gỗ lát, có giường nằm và sa lông đóng kiểu mới cũng bằng gỗ lát, nhìn vào trong nhà cứ vàng choé. Rồi rađiô cát sét, rồi ti vi màu của Nhật... Cái bước tiến "hơn hẳn của hôm nay so với hôm qua" là điều đáng mừng vui, nhưng sự đột biến trong hành trình tinh thần của nhân vật không khỏi khiến cho người đỡ đẻ của đứa con tinh thần này phải ngỡ ngàng và lúng túng. Sự thay đổi của Khang, Người trở về hậu phương sau khi được đào luyện trong môi trường quân ngũ, "mẫu người lý tưởng" của văn chương Nguyễn Khải và cũng là của văn chương cách mạng một thời, càng đẩy nhà văn đến đỉnh điểm của sự ngạc nhiên và cuối cùng là một sự bừng ngộ về số phận con người. Ai có ngờ, "nhà cách mạng muốn cải tạo, muốn thay đổi" tất cả chàng trai khoẻ đẹp luôn bừng bừng ý chí và khát vọng, con người đã từng có lúc "không nói gì đến cái ăn, cái mặc, đến vật chất, mà chỉ khắc khoải về tình yêu, về lý tưởng, về chỗ đứng của mình trong xã hội"... lại có lúc hiện diện trong hình hài một ông bố già "đầu hói, bụng vú nhăn nhúm", ngồi nói chuyện với khách nhưng vẫn không quên trách nhiệm của một ông chủ gia đình có tới sáu đứa con, nên "chốc chốc lại nhìn ra sân hò hét con cái". Và khát vọng dâng hiến thuở nào đã bị chôn vùi từ lâu. Giờ đây, ở anh chỉ còn duy nhất một "quyết tâm làm giàu". Thì ra, mỗi con người đều có số phận riêng, tuân theo 192
- những quy luật chung của sự vận động xã hội. Đó là điều hoàn toàn tự nhiên. Chỉ có những suy nghĩ cứng nhắc, buộc con người phải tuân theo lý trí đơn thuần là trái với quy luật. Nhận ra sự gò bó và khuôn mẫu trong cách nhìn và cách nghĩ một thời khi soi chiếu quá khứ vào hiện tại, nhà văn thực sự bàng hoàng: "Anh Khang của ngày hôm xưa đấy! Hôm xưa chúng tôi nói chuyện đạo, bữa nay gặp lại toàn nói chuyện đời, một đời người đến là trầm luân khổ ải, nhưng không thể chết được, vì cái gan góc của người ta cũng không cùng. Có điều, được cái gan góc thì mất cái mộng mơ, được cái trải đời lại hoá ra lý lợm. Khôn lên tức là ít tin đi vẫn là mất. Mất to" [124, 195]. Và "phải đến lúc đó anh mới thấy rõ cái ranh giới phân chia giữa tuổi trẻ với tuổi già, giữa cái thời sống cho mình, cho xã hội với bao nhiêu là mơ mộng giả thật với cái thời chỉ còn biết sống cho con cái, một lũ con, ngoài ra không còn hy vọng nào khác, niềm vui nào khác" [124, 194]. Chẳng phải dễ dàng khi phủ nhận những "nhân vật tích cực" "những đứa con tinh thần" đã một thời rất được yêu dấu và sùng chuộng. Nhưng, Nguyễn Khải đã đủ bản lĩnh và đủ tỉnh táo để nhận chân sự thật. Có điều, sự thật giờ đây được ông xét đoán trong một cái nhìn có phần cực đoan và nghiệt ngã: "Chính tôi là kẻ sinh ra họ mà cũng còn cảm thấy xa lạ. Hình như họ sạch sẽ quá, thơm tho quá, như từ khoảng không bước ra chứ không phải từ bùn đất của Việt Nam sinh ra. Họ không có chỗ đứng cụ thể, không có điểm tựa cụ thể, nội lực tự sinh chứ không qua bất kỳ sự gạn lọc nào từ các nguồn nuôi dưỡng. Nó không thuộc cõi người nên không thể bay lên cõi văn chương" [145, 42]. 193
- Với nhân vật Tuy Kiền (Tầm nhìn xa), cái nhìn nông nổi và ấu trĩ ngày xưa khiến những đánh giá và chiêm nghiệm của Nguyễn Khải về bản chất tư hữu của người nông dân có phần phiến diện. Giờ đây, sự lớn lên trong nhận thức bởi những từng trải trường đời tạo cho nhà văn một cái nhìn toàn diện hơn, đúng đắn hơn về con người. Sự thú nhận: "Có những trang viết thời này là đúng, thời khác chưa hẳn đã đúng, khen nhau trên đài, trên báo là hay là tốt, đêm nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi xa gần lại thấy chưa phải đã tốt đã hay" [124, 196]. Và lời tự nhủ lòng: "Viết sao thì viết, cho thuận lòng mình, cho thuận lòng người, lúc gác bút nghĩ lại một đời viết không đến nỗi phải xấu hổ..." [124, 196] là những sám hối nhọc nhằn của một người viết vừa tự trọng, vừa yêu thương, tôn trọng con người. Số phận của chủ tịch xã An trong tiểu thuyết Chủ tịch huyện, 36 năm sau được Nguyễn Khải chiêm nghiệm lại trong truyện ngắn Mất toi một cuốn sách. Giữa "hồi một và hồi hai" của số phận một nhân vật là một chặng đường dài tìm kiếm, chiêm nghiệm để rồi phản tỉnh của tác giả. Ở "hồi một" bằng nhận xét cảm tính, nhà văn có lúc ngỡ như "đã tìm được một nguyên mẫu rất hoàn hảo cho người anh hùng của thời đại mới". Nhưng sự phân tích của lý trí tỉnh táo và nhất là "cái mẫn cảm của một nhà văn" lại khiến Nguyễn Khải không khỏi có lúc còn cảm thấy "ngờ ngợ" về bản chất nhân vật của mình. Với con mắt tinh tường, nhà văn đã phát hiện ở An dường như "có dáng dấp một nhân vật đã thuộc vai, tự mình thưởng thức giọng nói và điệu bộ của 194
- chính mình một cách khoan khoái". Một câu hỏi ngờ vực chợt loé lên trong chiêm nghiệm của người viết: "Một người có chí hướng cao xa tội gì lại hạ mình làm những việc vẩn vơ ấy nhỉ?" Có phải chính những phân vân, ngờ ngợ ấy mà ngòi bút Nguyễn Khải trong Chủ tịch huyện chợt có lúc ngập ngừng, do dự. Nhà nghiên cứu Phong Lê nhận xét: "Ở Chủ tịch huyện, bên cạnh những phát hiện sắc sảo lại có một cái gì bối rối, thậm chí phảng phất chút ít bi quan. Về lý trí, có lúc người viết muốn nhanh chóng đi tới một kết luận, hoặc một hướng giải quyết cho các mâu thuẫn, nhưng bản thân câu chuyện lại gợi cho người ta thấy dường như trên đời này chỗ nào cũng có vấn đề, trong cái mới nào cũng đều có bóng đen cả" [173]. Và "hồi hai" là sự trả lời thật đầy đủ cho những băn khoăn ngờ vực chưa thể giải đáp ngay ở cái thời điểm cách đây gần bốn chục năm. Ngày ấy, Nguyễn Khải đã được gọi là "bạo" khi qua miệng một nhân vật khác, ông đưa ra những nhận xét sắc sảo về An: "Một cán bộ xã làm việc rất giỏi, rất tháo vát nhưng hay khuynh loát tập thể. Ý kiến táo bạo nhưng đôi lúc chủ quan. Lý lẽ sắc bén nhưng nhiều khi nguỵ biện. Rất ưa anh em tâng bốc nhưng lại không biết giữ gìn uy tín của người khác" [87, 122]. So với sự cảm nhận chủ quan của tác giả ngày ấy, thì sự vận động của nhân vật hôm nay còn phức tạp và phong phú hơn nhiều "Sau này, hắn là một con người hoàn toàn khác, tàn nhẫn, gian giảo như một con quỷ". Dẫu đã có lúc nhà văn đặt dấu hỏi nghi vấn về tính cách nhân vật, nhưng hiện thực ngày hôm nay với ông vẫn hoàn toàn bất ngờ, khiến ông như 195
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên đề văn học Việt Nam hiện đại II: Văn học Việt Nam sau 1975 và các tác phẩm mới được đưa vào chương trình phổ thông
76 p | 529 | 71
-
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ đầu thế kỉ XX đến 1945): Phần 1 (Tập 1)
74 p | 292 | 67
-
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ sau cách mạng tháng Tám 1945): Phần 2 (Tập 2)
78 p | 114 | 49
-
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ sau cách mạng tháng Tám 1945): Phần 1 (Tập 2)
79 p | 74 | 46
-
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ đầu thế kỉ XX đến 1945): Phần 2 (Tập 1)
94 p | 63 | 34
-
Phong Lê và một số vấn đề lịch sử văn học Việt Nam hiện đại-2
6 p | 214 | 25
-
Phong Lê và một số vấn đề lịch sử văn học Việt Nam hiện đại -1
7 p | 228 | 23
-
Bài giảng Văn học Việt Nam hiện đại 3 (từ sau 1975) - ĐH Phạm Văn Đồng
66 p | 123 | 13
-
Lưu Quang Vũ trong nền văn học Việt Nam hiện đại
11 p | 82 | 12
-
Đề thi kết thúc môn học học kì 2 môn Văn học Việt Nam hiện đại 1 năm 2021-2022 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
2 p | 33 | 4
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 1 môn Văn học Việt Nam hiện đại 2 năm 2019-2020 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 12 | 4
-
Đề thi kết thúc môn học học kì 2 môn Văn học Việt Nam hiện đại 3 năm 2021-2022 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
2 p | 16 | 3
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Văn học Việt Nam hiện đại 3 năm 2019-2020 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 8 | 3
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 1 môn Văn học Việt Nam hiện đại 1 năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
4 p | 18 | 2
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Văn học Việt Nam hiện đại 3 năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 18 | 2
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Văn học Việt Nam hiện đại 2 năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 15 | 2
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Văn học Việt Nam hiện đại 1 năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
2 p | 25 | 2
-
Phóng sự thời kỳ đổi mới ( 1986-1996 ) cuộc bùng phát lần thứ hai trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại
6 p | 69 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn