Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
VẾT THƯƠNG HỐC MẮT SỌ NÃO DO DỊ VẬT GỖ XUYÊN THỦNG BÁO CÁO CA<br />
Huỳnh Lê Phương*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng (VTHSDVGXT) là bệnh cảnh hiếm gặp.<br />
Chúng tôi báo cáo một trường hợp điển hình, qua đó trình bày hệ thống về bệnh cảnh, chẩn đoán và xử trí của<br />
loại vết thương này.<br />
Báo cáo ca: Một VTHSDVGXT hiếm gặp được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Một bệnh<br />
nhân nam 32 tuổi, bi đánh vào vùng mặt bằng một khúc cây tre. Bệnh nhân được chuyển tới chúng tôi trể gần 2<br />
tuần sau chấn thương với chẩn đoán dị vật hốc mắt xuyên nội sọ. Quá trình chẩn đoán, điều trị cũng như xử trí<br />
biến chứng được báo cáo.<br />
Bàn luận: Dị vật gỗ của ca báo cáo được lấy thành công. Những nét đặc thù của VTHSDVGXT được bàn<br />
luận và tổng quan.<br />
Kết luận: VTHSDVGXT ít gặp và là thương tổn chấn thương dễ bỏ xót. Chẩn đoán và nhận dạng sớm<br />
thương tổn dị vật là điều cần thiết để tránh nhiễm trùng. Điều trị có những nét đặc thù cần phải đánh giá toàn<br />
diện trước mổ bằng phương tiện chẩn đoán hình ảnh.<br />
Từ khóa: Vết thương hốc mắt – sọ não do dị vật gỗ xuyên thủng; Dị vật gỗ hốc mắt; CT scan; MRI.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
TRANSORBITO-CRANIAL PENETRATING INJURY BY WOODEN FOREIGN BODY<br />
-CASE REPORT Huynh-Le Phuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 289 - 294<br />
Objective: A transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body (TOCPIWFB) case is<br />
rarely. We report a single typically case and discuss and describe clinical diagnosis and treatment of TOCPIWFB<br />
in a systematic clinical way.<br />
Clinical presentation: To present single typical case of transorbito-cranial penetrating injury by wooden<br />
organic foreign body diagnosed and successfully operated at Cho ray hospital in 2012. A 32-year-old was kicked in<br />
the face by a branch of the bamboo. The patient was transfer to our hospital with belated diagnosis. The course of<br />
diagnosis and surgical treatment had been reported.<br />
Discussion: Some specific points of a transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body<br />
case have been discussed and considered.<br />
Conclusion: A transorbito-cranial penetrating injury by wooden organic foreign body is common follow an<br />
orbital injury. However, intraorbital wooden or vegetable foreign bodies are less common, are often not recognized<br />
and identification of wooden intraorbito-cranial foreign bodies is crucial for avoiding orbital infection. CT and<br />
MRI helped to identificated it to have a pre-operative evaluation.<br />
Key words: Transorbito-cranial penetrating injury; orbital wooden organic foreign body; CT scan; MRI.<br />
<br />
* Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy<br />
Tác giả liên lạc: TS BS Huỳnh Lê Phương, ĐT: 0909225188<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br />
<br />
Email: phuongsb5@yahoo.com<br />
<br />
289<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Chấn thương đâm thủng vào hốc mắt<br />
thường gây bởi dị vật cứng. Đây là loại chấn<br />
thương đặc biệt của hốc mắt thường ít gặp<br />
chiếm tỉ lệ khoãng 1 trên 6 trong các chấn<br />
thương hốc mắt nói chung. Trong những trường<br />
hợp dị vật hốc mắt, thường gặp vẫn là các chất<br />
kim loại, gạch đá, thủy tinh, nhựa cứng v.v... Dị<br />
vật là chất hữu cơ như gỗ, đặc biệt cây cối thực<br />
vật tương đối hiếm gặp, chiếm khoảng 6% các<br />
trường hợp dị vật hốc mắt(1,3,4,6).<br />
Đặc biệt, vết thương sọ não do dị vật gỗ thực<br />
vật hốc mắt xuyên thủng nội sọ rất hiếm gặp và<br />
thường tiềm tàng nguy cơ cho người bệnh.<br />
Mảnh gỗ và những mảnh vở có thể gây chấn<br />
thương các thành phần trong hốc mắt cũng như<br />
có thể bị đẩy lệch di chuyển về đỉnh hốc mắt nơi<br />
có khe ổ mắt trên và ống thần kinh thị, để xuyên<br />
thủng vào nội sọ gây thương tổn các cấu trúc<br />
thần kinh và mạch máu nội sọ. Những trường<br />
hợp vết thương hốc mắt sọ não do dị vật gỗ<br />
xuyên thủng (VTHMSNDVXT) gây vết thương<br />
sọ não đều ẩn chứa nguy cơ rò dịch não tủy,<br />
nhiễm trùng hay áp xe nội sọ(4,8,9).<br />
Trong y văn thế giới các báo cáo về<br />
VTHMSNDVXT rãi rác, không nhiều(1,3,4,7,9) Tại<br />
Việt Nam, chưa một báo cáo nào về loại vết<br />
thương sọ não này. Trong báo cáo này, chúng<br />
tôi trình bày một trường hợp điển hình<br />
VTHMSNDVXT. Đặc điểm diễn tiến bệnh, quá<br />
trình chẩn đoán và điều trị được phân tích. Qua<br />
đó, tổng quan và những nét cần chú ý trong<br />
điều trị của bệnh cảnh này được nêu ra.<br />
<br />
BÁO CÁO CA<br />
Bệnh nhân nam A.N., 32 tuổi, chuyển đến<br />
bệnh viện Chợ Rẫy từ bệnh viện tuyến tỉnh với<br />
lý do: Rò dịch vết thương vùng hốc mắt trái có<br />
dị vật. Mười ngày trước chuyển tới bệnh viện<br />
<br />
290<br />
<br />
Chợ Rẫy, bệnh nhân bị người khác đánh bằng<br />
cây tre vào vùng mặt. Sau chấn thương, bệnh<br />
nhân nhập bệnh viện huyện sơ cứu và chuyển<br />
đến bệnh viện tỉnh. Bệnh nhân được điều trị<br />
như vết thương vùng mắt với những săn sóc tại<br />
chổ. Tuy nhiên, bệnh nhân đau đầu và hiện<br />
tượng rò dịch ngay vết thương mắt kéo dài.<br />
Bệnh nhân được chẩn đoán dị vật hốc mắt sau<br />
chấn thương mắt bằng CT scan và chuyển cấp<br />
cứu bệnh viên Chợ rẫy. Lâm sàng: Vết thương<br />
khoảng 1cm góc trên trong hốc mắt bên trái<br />
mọng đỏ viêm đang rò dịch. Bệnh nhân thể hiện<br />
hội chứng đỉnh hốc mắt: Mắt trái lồi nhẹ, sụp mi<br />
kèm giới hạn vận nhãn và thị lực mắt trái mất<br />
hoàn toàn. Trên CT scan cho thấy hình ảnh dị<br />
vật tăng đậm độ được bao quanh bởi mô viêm<br />
nằm dọc cạnh trên hốc mắt kéo dài từ trước ra<br />
sau đến tận khe ổ mắt trên và vào nội sọ (hình<br />
1). Một hội chẩn liên khoa Mắt và Ngoại thần<br />
kinh cấp cứu được tiến hành. Bệnh nhân được<br />
rút dị vật trực tiếp từ ngoài hốc mắt tại phòng<br />
mổ. Dị vật là mảnh vỏ tre dài khoảng gần 10 cm.<br />
Tuy nhiên, sau 10 ngày điều trị với kháng sinh<br />
bệnh nhân được chụp MRI kiểm tra, phát hiện<br />
dị vật còn tồn lưu. Đầu ngoài dị vật nằm gần<br />
đỉnh trong hốc mắt xuyên khe ổ mắt trên kéo<br />
dài vào nội sọ trong mô não kèm ổ áp xe bao<br />
bọc dọc theo dị vật vùng thái dương. Khảo sát<br />
bằng hình ảnh CT và MRI, chẩn đoán dị vật<br />
không gây tổn thương xoang hang, các mạch<br />
máu lớn nội sọ. Thêm nữa, vì ổ áp xe bao bọc<br />
quanh dị vật vùng thái dương, một đường mổ<br />
trực tiếp từ đỉnh hốc mắt cho lần mổ thứ hai lấy<br />
dị vật và tháo lưu mủ theo ngã hốc mắt sau khi<br />
múc nhãn cầu. Bệnh nhân được điều trị kháng<br />
sinh như phác đồ áp xe não liên tiếp 3 tuần. Một<br />
MRI được chụp kiểm tra sau đó cho thây dị vật<br />
đã được lấy hết và ổ áp xe đã sạch.<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
C<br />
<br />
Hình 1: Hình ảnh CT scan của bệnh nhân lúc nhập viện cho thấy hình ảnh tăng đậm độ dạng thanh gỗ kéo dài từ<br />
hốc mắt qua vùng khe ổ mắt trên (hình A) bên ngoài xoang hang ra sau trên gờ xương đá (hình B và C).<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
C<br />
<br />
D<br />
<br />
Hình 2: Hình ảnh MRI. Hình ảnh ổ áp xe vùng thái dương (hình A và B) cạnh xoang hang theo đường đi của dị<br />
vật, sau khi phẫu thuật rút dị vật lần đầu. Hình B và C, ghi nhận ổ áp xe đã được điều trị thành công ba tuần sau<br />
khi phẫu thuật lấy dị vật lần hai.<br />
như không tiên lượng mẫu dị vật gỗ (mảnh võ<br />
BÀN LUẬN<br />
cây tre) có thể tách nhiều mảnh.<br />
<br />
Nhận xét ca<br />
<br />
Ca báo cáo đã thành công trong việc lấy dị<br />
vật. Tuy nhiên vài nhận xét về bệnh cảnh diễn<br />
tiến và xử trí còn hạn chế thường gặp trong<br />
VTHMSNDVXT như sau:<br />
- Điều trị tuyến đầu đã bỏ qua chẩn đoán về<br />
VTHMSNDVXT. Điều này dẫn tới một nguy cơ<br />
nhiễm trùng nội sọ tiềm tàng.<br />
- Lần phẫu thuật cấp cứu, một thám sát<br />
không đầy đủ về hố mổ để lấy hết dị vật, cũng<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br />
<br />
- Sau phẫu thuật (lần đầu) lấy dị vật, kiểm<br />
tra ngay bằng hình ảnh (CT, MRI) là cần thiết.<br />
<br />
Nhận xét - tổng quan<br />
Yếu tố giải phẫu<br />
Hình dáng hốc mắt với các thành xương bao<br />
quanh có hình tháp bốn cạnh có đỉnh phía<br />
trong, điều này hướng dị vật có khuynh hướng<br />
đi chệch về phía những vị trí giải phẫu đặc biệt.<br />
Trần hốc mắt là thành xương mỏng của phần<br />
xương trán so với các thành còn lại, Dị vật<br />
<br />
291<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
thường làm vở xương trần hốc mắt gây chấn<br />
thương thùy trán. Ở vị trí giải phẫu đặc biệt<br />
vùng đỉnh, dị vật dễ qua khe ổ mắt trên và ống<br />
thần kinh thị để vào nội sọ. Vì khe ổ mắt trên<br />
trải dài ở góc thành ngoài và sàn hốc mắt kéo<br />
dài tới đỉnh, nên dị vật dễ vào nội sọ qua khe ổ<br />
mắt trên hơn ống thần kinh thị (4), (8). Sau khi<br />
vào nội sọ, do hướng của cấu trúc xương, dị vật<br />
có khuynh hướng đi ngoài xoang hang, bên<br />
dưới thùy trán, bên trong thuỳ thái dương, trên<br />
gờ xương đá và đi ngoài thân não. Tuy nhiên,<br />
do kích thước hình dáng dị vật, hướng chấn<br />
thương từ ngoài hốc mắt, dị vật có thể làm rách<br />
xoang hang, tổn thương thân não gây nên nguy<br />
hiểm nặng nề(5,6,7).<br />
<br />
Bệnh cảnh lâm sàng VTHMSNDVXT<br />
Thăm khám lâm sàng cần tỉ mỉ và toàn diện<br />
với sự phối hợp chuyên khoa Ngoại thần kinh<br />
và Mắt là bước quan trọng trong việc chẩn đoán<br />
và có hướng điều trị thích đáng.<br />
VTHMSNDVXT dễ bỏ sót trong lần chẩn đoán<br />
ban đầu. VTHMSNDVXT có thể không có triệu<br />
chứng thần kinh giai đoạn sớm. Bệnh cảnh có<br />
thể xảy ra do một chấn thương riêng biệt tại hốc<br />
mắt hoặc đi cùng với một chấn thương đầu mặt<br />
hoặc một đa chấn thương toàn thân. Nếu những<br />
trường hợp VTHMSNDVXT chỉ để lại trên vùng<br />
hốc mắt một hoặc vài vết thương da cạnh quanh<br />
hốc mắt, ngay cả một bệnh nhân không hôn mê<br />
nhưng đang trong tình trạng say rượu, hoặc<br />
nhất là ở trẻ em, bệnh cảnh chấn thương khó<br />
được khai thác đầy đủ. Cũng có khi,<br />
VTHMSNDVXT đã được cơ sở y tế cấp cứu ban<br />
đầu sơ cứu, vội vã hay vô tình lấy<br />
VTHMSNDVXT phần thấy được, và không nghi<br />
ngờ phần dị vật bị giữ lại sâu trong hốc mắt.<br />
Triệu chứng lâm sàng của VTHMSNDVXT<br />
có thể đa dạng và đôi lúc dễ làm sai lệch trong<br />
hướng chẩn đoán. Dấu chứng hằng định là có<br />
một hay nhiều vết thương trên da quanh hốc<br />
mắt. Vết thương da có thể nhiều vị trí, rách phức<br />
tạp và cũng có thể sắc gọn và nhỏ dễ làm nhầm<br />
lẫn vết xướt da. Tùy thời điểm nhập viện sau<br />
chấn thương, có thể vết thương da hoặc đã tạm<br />
<br />
292<br />
<br />
lành, có thể vết thương da đang rỉ máu không<br />
cầm hoặc chảy từng hồi do đã có một nhánh<br />
mạch máu bị rách trong hốc mắt. Quanh hốc<br />
mắt có thể bị mọng đỏ nhiễm trùng và hiện điện<br />
sự rò rỉ mũ qua vết thương kéo dài.<br />
Ba triệu chứng cơ bản của thương tổn sau<br />
nhãn cầu là lồi mắt, giới hạn vận nhãn và suy<br />
giảm thị lực có thể xuất hiện giai đoạn cấp, bán<br />
cấp hay muộn tuy thuộc vào hướng vào, kích<br />
thước vị trí số lượng của dị vật, những tổn<br />
thương mạch máu thần kinh sau nhãn cầu do dị<br />
vật gây ra.<br />
Triệu chứng thần kinh khu trú xuất hiện khi<br />
dị vật gây xuất huyết nội sọ do rách xoang<br />
hang, tổn thương động mạch nội sọ hoặc và tổn<br />
thương thân não.<br />
<br />
Hình ảnh học chẩn đoán<br />
X-quang sọ với nhiều tư thế không giúp ích<br />
nhiều chẩn đoán phát hiện VTHMSNDVXT.<br />
Siêu âm mắt kết hợp thể A và B tiêu chuẩn cũng<br />
là phương tiện có thể tận dụng. Tuy nhiên, việc<br />
siêu âm hốc mắt tìm VTHMSNDVXT cần người<br />
thực hiện có kinh nghiệm và phương tiện đủ<br />
phần mềm yêu cầu mà điều này ở vài cơ sở<br />
tuyến trước không thể đáp ứng. Hơn nữa, siêu<br />
âm không thể đánh giá toàn diện hốc mắt cũng<br />
như không thể nhận biết VTHMSNDVXT nếu<br />
xung quanh dị vật có khí(5).<br />
CT scan là phương tiện lựa chọn hữu ích cho<br />
việc nhận dạng VTHMSNDVXT. CT scan có thể<br />
cho biết vị trí của dị vật gỗ (DVG) cũng như cho<br />
biết các vấn đề kèm theo như tình trạng gãy vỡ<br />
xương hốc mắt, áp xe, tình trạng mô hạt viêm<br />
quanh dị vật(2,5). Tuy nhiên, chỉ định và đánh giá<br />
tìm kiếm một DVG trên CT scan là thử thách<br />
khó khăn cần lưu ý các điểm sau: Sự nhận dạng<br />
được DVG trên CT scan lệ thuộc giai đọan sớm,<br />
bán cấp hay muộn sau chấn thương; phụ thuộc<br />
chất liệu gỗ, loại cây của dị vật và độ ngậm<br />
nước của chất liệu dị vật đó; phụ thuộc vị trí của<br />
dị vật gần cạnh vùng xoang khí; độ lan rộng mô<br />
phản ứng viêm quanh dị vật do thời gian và<br />
quan trọng nhất là độ nghi ngờ chẩn đoán có<br />
DVGHM của người thầy thuốc(2,5,6).<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Trong giai đoạn cấp, DVG có đậm độ trên<br />
CT scan thấp hơn mô mở hốc mắt nên có thể<br />
giống tụ khí trong hốc mắt. Tuy nhiên, những<br />
đường viền có đậm độ thấp thường là DVG<br />
hơn bọt khí đồng nhất. Một chỉ số cửa sổ trên<br />
CT thích hợp (chỉ số CT của gỗ từ -500 đến 200HU; đối với khí vào khoảng -1000HU) và<br />
góc chụp khác nhau có thể phân biệt DVG với<br />
bọt khí(2,5,8). Trong giai đoạn bán cấp, phản<br />
ứng viêm xung quanh dị vật có thể nhìn thấy<br />
trên CT scan có cản quang. Tuy nhiên ở giai<br />
đọan muộn, dị vật gỗ có thể trở nên có đậm<br />
độ bằng hoặc cao hơn cơ hốc mắt. Một báo<br />
cáo đã cho rằng, dị vật gỗ đã thay đổi độ<br />
ngậm nước hoặc đang hình thành sự can xi<br />
hóa trong môi trường viêm(1). Với sự phát<br />
triển công nghệ vi tính, gần hai thập niên qua<br />
thế hệ CT scan đa lát cắt tái tạo 3D đã có thể<br />
giúp phát hiện, khảo sát vị trí DVG hữu hiệu<br />
hơn(1).<br />
<br />
Chẩn đoán<br />
VTHMSNDVXT phải được nghi ngờ đặt ra<br />
trong chẩn đoán một khi có một bệnh cảnh<br />
chấn thương hốc mắt, có vết thương rõ hay<br />
chỉ là vết thương nhỏ vùng hốc mắt hoặc có<br />
kèm theo sự nhiễm trùng kéo dài qua vết<br />
thương; ba triệu chứng sớm thường gặp: lồi<br />
mắt, giới hạn vận nhãn hay giảm thị lực sau<br />
một chấn thương mắt. Hình ảnh chẩn đoán<br />
xác định nếu trên CT scan cho thấy có những<br />
khối hình thể bất thường có đậm độ tương<br />
đương chất khí hoặc tăng đậm độ so với mô<br />
trong hốc mắt tùy thời gian sau chấn thương.<br />
Trên MRI thường giúp phân biệt loại trừ khối<br />
cho hình dáng bất thường trên CT scan đó<br />
không phải là những cấu trúc giải phẫu trong<br />
hốc mắt. Một bệnh cảnh không có dấu hiệu<br />
hay triệu chứng thần kinh khu trú không có<br />
nghĩa có thể loại trừ nguy cơ tiềm ẩn biến<br />
chứng nội sọ(1,3,9).<br />
<br />
Một khi một VTHMSNDVXT nghi ngờ<br />
trong chẩn đoán với CT scan, chỉ định MRI<br />
nên xem xét để hổ trợ xác định cũng như<br />
đánh giá thương tổn cấu trúc não kế cận có<br />
thể kèm theo. Hình ảnh DVG trên MRI đều<br />
cho tín hiệu thấp hoặc ít khi bằng với mô mỡ<br />
hốc mắt trên các loại xung cũng như có cản<br />
từ. Xung T1 sẽ dễ có hình ảnh rõ hơn trong<br />
phân biệt giữa mô mỡ và gỗ. Một sự kết hợp<br />
về đường ranh của khí tạo bởi hình dáng khác<br />
thường của dị vật và hình ảnh viêm của<br />
đường hầm nối lổ vào của vết thương ngoài<br />
da với dị vật cho chúng ta hướng đến chẩn<br />
đoán DVG(1,3).<br />
<br />
Xử trí<br />
Như bất cứ trường hợp chấn thương, với<br />
những nguyên lý hàng đầu trong cấp cứu,<br />
người thầy thuốc phải đảm bảo dấu hiệu sinh<br />
tồn và xử trí những cấp cứu đe dọa sinh mạng<br />
kịp thời. Việc đáng giá dị vật chỉ thực hiện khi<br />
tổng trạng người bệnh ổn định(9).<br />
<br />
Chỉ định khảo sát mạch máu não bằng<br />
những phương thức như CT mạch máu có tiêm<br />
thuốc (CT angiography), cộng hưởng từ mạch<br />
máu (MRA) hay chụp mạch máu não kỹ thuật<br />
số xóa nền (DSA) được đặt ra một khi qua hình<br />
ảnh chẩn đoán từ CT scan và MRI cho thấy có<br />
xuất huyết nội sọ đáng kể hay / và hướng xuyên<br />
thủng của DVG có khả năng cao làm tổn thương<br />
xoang hang, động mạch nội sọ(4,9).<br />
<br />
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br />
<br />
Nếu một phần DVG có thể nhìn thấy từ<br />
ngoài qua hốc mắt, việc chỉ định rút DVG phải<br />
trì hoãn cho đến khi thăm khám đầy đủ và toàn<br />
diện cũng như đã có sự đánh giá chi tiết qua<br />
việc thực hiện các chẩn đoán hình ảnh trong<br />
điều kiện có thể có. Thêm nữa, việc rút DVG ở<br />
những cơ sở sơ cứu tuyến trước hay những nơi<br />
điều kiện phòng mổ chưa chuẩn bị, đôi khi có<br />
thể dẫn tới nguy cơ xuất huyết không thể kiểm<br />
soát.<br />
Kháng sinh phổ rộng và steroid, dù vẫn<br />
còn bàn cãi, nên được dùng trước khi có kết<br />
quả kháng sinh đồ từ việc cấy dịch / mũ qua<br />
vết thương(4,6).<br />
Thành công trong điều trị DVG trong<br />
VTHMSNDVXT là việc đánh giá toàn diện và<br />
kế hoạch phẫu thuật lấy dị vật. Nguyên tắc cơ<br />
<br />
293<br />
<br />