VIÊM MỦ MÀNG PHỔI
(Kỳ 3)
2. Điều trị bảo tồn:
Nội dung chính của điều trị bảo tồn bao gồm:
+ Kháng sinh: phải dùng kháng sinh liều cao, phối hợp kháng sinh và
dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ, kết hợp dùng kháng sinh tại chỗ và kháng
sinh toàn thân.
+ Chọc hút màng phổi:
- tác dụng tốt khi mủ màng phổi mới xuất hiện, dịch mủ còn
loãng và số lượng không lớn, khoang màng phổi không bị dày dính và đóng ngăn.
- Nên chọc chỗ gõ đục nhất nhưng không nên thấp quá vì thbị
tắc kim do mủ đặc đọng đáy khoang mủ. Sau khi hút hết mủ thể bơm rửa
khoang màng phổi bằng huyết thanh mặn, sau đó thể bơm kháng sinh vào
khoang màng phổi.
- Phi chọc hút mủ hàng ngày. Nếu sau 5-10 ngày không thấy kết
quả thì phải chuyển sang dẫn lưu màng phổi.
+ Dẫn lưu màng phổi:
- Ch định khi chọc hút không kết quả, mủ màng phổi đặc, số
lượng lớn...
- Thường dùng ống dẫn lưu đường kính to (trên 1 cm), thđặt
các khoang liên sườn từ V đến VII đường nách giữa hoặc đường ch sau. Trong
các trường hợp khe liên sườn hẹp thì thphải mổ cắt bỏ một đoạn xương sườn
khoảng 2-4 cm để qua đó đưa ống dẫn lưu vào khoang màng phổi.
- Sau đặt dẫn lưu cần cho hút dẫn lưu liên tục với áp lực âm tính 20-
40 cm nước. Qua ống dẫn lưu có thểm rửa và đưa kháng sinh vào khoang màng
phổi. Khi khoang màng phi hết mủ và phổi nra sát thành ngực thì rút ống, nếu
sau 5-7 ngày không đạt được kết quả như trên thì nên rút ống dẫn lưu đđặt
vào chkhác vì lúc này chân ống dẫn u đã bviêm hở,làm mất tác dụng hút
âm tính của ống dẫn lưu.
+ Nâng đỡ toàn trạng tích cực: ăn uống tốt, truyền dịch, truyền đạm,
truyền máu, các loại sinh tố...
+ Thể dục liệu pháp, đặc bit là tập thở để phục hồi khả năng đàn hi
của nhu mô phổi và làm phổi nở sát thành ngực.
3. Điều trị phẫu thuật:
Trong giai đoạn mãn tính, mmàng phổi tạo thành một khoang tàn
có thành rất dày không t xẹp lại được. Chỉ có phẫu thuật mới có thgiải quyết
được khoang tàn này. Các loại phẫu thuật chính hiện nay để điều trị mủ màng
phổi mãn tính là:
a). Phu thut trên phi:
+ Bóc vỏ phổi sớm:
- Thực chất bóc vỏ phổi sớm là ththuật mở lồng ngực đdễ dàng
lau hút sạch mủ, được chỉ định trong giai đoạn bán cấp hoặc thể thời gian
đầu của giai đoạn mãn tính, khi phương pháp dẫn lưu màng phổi không có kết quả
do mquá đặc và khoang màng phổi bị viêm dính tạo nên nhiu ngăn chứa mủ
không thông với nhau.
- Tiến hành mlồng ngực bắng một đường rạch ngắn, cắt một
đoạn xương sườn 6-8 cm. Dùng kìm dài kẹp gạc để lau sạch mủ, phá bỏ các
chdính vách ngăn trong khoang màng phổi, lấy bỏ hết lớp màng Fibrin đang
hình thành trên màng phổi. Qua ống nội kquản thể bóp mạnh bóng để phổi
nra sát thành ngực. Sau đó đặt ống dẫn lưu khoang màng phổi đóng lại lồng
ngực. Sau mổ tiến hành hút liên tục ống dẫn lưu như trong dẫn lưu màng phổi đã
nói trên.
+ Bóc vỏ phổi:
- Bóc vphổi phẫu thuật tưởng đđiều trị mủ màng phổi mãn
tính vừa giải quyết được khoang mủ,phục hồi được chức năng hấp đồng
thời giữ được hình thái bình thường của lồng ngực.m 1894,Delorme đã thực
hiện phẫu thuật này và mô tdưới danh tBóc vphổi,từ đó phẫu thuật này
được gọi là phẫu thuật Delorme mặc chính Fowler đã thực hiện phẫu thuật này
từ năm 1893.
- Điều kiện đảm bảo bóc vỏ phổi thành công là: Còn lp bóc tách
giữa vỏ của khoang mủ và tạng,nhu phổi còn đàn hồi tốt và phế quản phải
lưu thông tốt để sau mphổi nhanh chóng nra được.Chính vì vậy,bóc vphổi
chthực hiện được giai đoạn đầu của mủ màng phổi mãn tính.Nếu bị bệnh đã
lâu,quá trình xơ hoá phát triển làm cho giữa vỏ khoang mủ và tạng không còn
lớp bóc tách thì không thể chỉ định mổ bóc vỏ phổi được nữa.
- Tiến hành mở ngực đường sau bên. Mở khoang tàn dư, hút sạch mủ.
Dùng dao rạch một đường chữ thập trên vphổi, độ sâu đường rạch phải vừa vặn
đến lớp giữa vỏ phổi và tạng. Dùng kéo đu tù bông cầu bóc tách lấy bỏ vỏ
phổi khỏi lá tạng. Tiếp đó giải phóng phổi ra khỏi thành ngực, trung thất, cơ hoành
giải phóng cả các rãnh liên thuỳ, nhờ đó phổi sẽ nở ra sát thành ngực. Đặt ống
dẫn lưu màng phổi đóng lại thành ngực. Sau mổ phải hút liên tục qua ống dẫn
lưu để đảm bảo cho phổi nở ra và dính vào thành ngực.
b). Phu thuật trên thành ngực:
Bao gm các phẫu thuật tạo hình thành ngực (phẫu thuật Heller,phẫu
thuật Schede...). Các phẫu thuật này ch tác dụng m mất khoang cặn mà
không làm cho phổi nở ra được, không phục hồi được chức năng hô hấp. Ngoài ra
các phẫu thuật tạo hình thành ngực còn m cho lồng ngực bị biến dạng nặng nề.
Do đó thường chỉ định dùng các phẫu thuật này khi không còn kh năng mổ c
vỏ phổi.
+ Phẫu thuật Heller:
- Tiến hành cắt bỏ các đoạn xương sườn (để lại cốt mạc) trên thành
của khoang cặn.Thường cắt vượt quá cặn một khoang liên sườn phía trên
phía dưới,và khoảng 1 cm phía trước và phía sau.Tiếp đó rch dọc theo cốt mạc
các xương sườn đã bcắt bỏ,nhờ đó tạo nên các dải liên sườn mềm mại áp sát
được xuống đáy ổ cặn.
- Chđịnh dùng khi thành ngực trên thành của khoang cặn còn đ
mềm mại để các dải cơ thành ngực thể áp sát xuống đáy khoang cặn sau khi đã
cắt bỏ các đoạn xương sườn.
+ Phẫu thuật Schede: