
Một hệ thống chính trị đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nhưng hoạt động kinh tế thị
trường với chính sách hợp lí, mềm dẻo, mở cửa để hội nhập, các hoạt động đối ngoại mở
rộng, đa phương, song phương từng bước tham gia vào các diễn đàn kinh tế lớn, mở rộng
quan hệ ngoại giao, từ đó thiết lập các mối quan hệ hàng hoá thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định mà trước hết là chúng ta đã
đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng được
môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao
vị thế đất nước trên chính trường và thương trường thế giới.
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu.
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế rõ rệt, một
nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần được hình thành và tiến
từng bước tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và toàn diện, năm
sau cao hơn năm trước.
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tăng GDP 4,8% 6,8% 6,8% 7,0% 7,2% 7,7%
Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. Như vậy là vào năm 2004, Việt Nam đã
đạt mức tăng trưởng cao của khu vực, tăng khá cao với thời gian trước đó và cũng là mức
cao nhất so với 6 năm trước đó. Đặc biệt là so với năm 1990 về giá trị GDP lớn gấp trên
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

2,74 lần, về công nghiệp gấp gần 6,5 lần, về xuất khẩu gấp gần 10,8 lần. Thu nhập bình
quân đầu người cũng nhờ thế mà tăng lên đáng kể, nếu năm……. là 100USD/năm thì đến
năm 2004 đã đạt 400USD/người/năm. Kết quả nói trên có được là do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân quan trọng là do việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại.
Trong những năm qua cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng của khu
vực nông lâm nghiệp – thuỷ sản đã giảm từ 38,74% năm xuống còn 21,76% năm 2004, tức
là giảm trên 1,1% /năm. Trong khi đó tỉ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng đã tăng
nhanh từ 22,67% năm 1990 lên 40,09% năm 2004, tức là tăng gần 1,2%/ năm. Tỉ trọng
dịch vụ đạt đỉnh cao nhất vào năm 1999(44,06%) nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ
còn 38%, năm 2004 đã tăng lên 38,15% - đã có dấu hiệu chặn được sút giảm tỉ trọng dịch
vụ trong GDP.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào
môi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được tư duy làm ăn mới, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và
chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh và phát triển, và thực tế sức cạnh tranh
của họ cũng được nâng lên đáng kể. Một tư duy mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản
xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ các doanh nghiệp năng động sáng tạo có kiến
thức quản lý đang hình thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, góp
phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên
tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Cùng với đó
thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp
nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của đông
đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, xây
dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội cho các vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số đã được
quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế. Cụ thể: mỗi năm có hơn
1,2 triệu lao động mới có việc làm. Tỉ lệ hộ nghèo từ trên 30% giảm xuống còn 10%. Người
có công với cách mạng, với đất nước được quan tâm, chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên
hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi thọ bình quân từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi. Đặc biệt
là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo chúng ta đã đạt được thành tựu to lớn. Nếu thời Pháp
thuộc tỉ lệ dân số đi học mới chỉ đạt 2%, tiểu học là 0,4%, số người học đại học không quá
1000 người, 95% dân số mù chữ. Thì gần 50 năm sau, năm 1999, chúng ta có 16.508.452
học sinh, số sinh viên là 401.666 người. Đặc biệt là năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành giáo
dục phổ cập bậc tiểu học. Có được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân. Trong đó một
trong những nguyên nhân có vai trò quyết định đó là việc tăng ngân sách trong lĩnh vực giáo
dục trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ. Năm 1997, tỉ lệ ngân sách chi cho giáo dục chiếm
11,6% tống số chi ngân sách, năm 1998 là 11,86%, năm 1999 là 12,4%. Nhờ thế năng lực
nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Các hoạt động
văn hoá thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng, góp phần tích cực động viên
toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

sống. Phong trào thể dục, thể thao rèn luyện sức khỏe phát triển, thành tích thi đấu thể thao
trong nước và quốc tế được nâng lên.
Việc xây dựng luật pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) tiếp tục được
chăm lo, dân chủ xã hội được mở rộng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng,
hệ thống chính trị được củng cố. Nhiều Nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương,
giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách
một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính
sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được
thực hiện, lòng tin của nhân dân được củng cố.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ
động và đạt nhiều kết quả tốt. Nước ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt
với các nước XHCN, các nước láng giềng, và các nước bạn truyền thống… Nhà nước đã thi
hành một loạt các biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tháng 12 – 1987, nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Năm 1989, Việt
Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ ngoại giao với Quỹ tiền tệ quốc tế và
Ngân hàng Thế giới, và đến tháng 10 – 1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ
chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này. Tháng 7 – 1995, Việt Nam chính thức gia nhập
ASEAN và từ ngày 1 – 1 – 1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN, tức là AFTA. Cũng tháng 7 – 1995, Việt Nam đã kí kết hiệp định khung
về hợp tác kinh tế, khoa học, kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với Cộng đồng Châu Âu,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Tháng 3 – 1996, Việt Nam tham gia với tư cách
thành viên sáng lập ASEM. Tháng 11 – 1998, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của APEC. Tháng 7 – 2000, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được ký kết.
Trước đó, từ cuối năm 1994, Nhà nước đã gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ chức này. Ngoài
ra, Việt Nam còn sẵn sàng mở rộng các cảng, cảnh quốc tế. Chính vì vậy, hiện nay nước ta
đã có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh
thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, uy tín, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được mở rộng.
Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các
lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, nhất là trên
các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo được phát huy. Tổ chức quân đội và công an
được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh
tế và công tác đối ngoại có tiến bộ. Vì vậy đã tạo môi trường thuận lợi, an toàn cho các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Như vậy, chúng ta đã kết hợp khá tốt nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp
góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn và nhờ đó giúp chúng ta tiếp tục giữ vững,
củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, bản sắc văn hoá dân
tộc. Thực hiện hội nhập thời gian qua cho thấy : Đảng ta và Nhà nước ta có đủ bản lĩnh khắc
phục khó khăn, vượt qua thách thức, khai thác các lợi thế trên thị trường thế giới, bảo đảm
sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

