intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam

Chia sẻ: ViNobinu2711 ViNobinu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

67
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vô ngôn trở thành một quy tắc mỹ học Trung Hoa và các nước thuộc khu vực văn hóa chữ Hán. Đề cao vô ngôn trong văn chương là quan niệm văn học xuyên suốt thời cổ điển Việt Nam. Vô ngôn không đơn thuần là không lời mà hàm chứa tất cả, tạo nên cảnh giới cao nhất của cái đẹp trong văn chương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam<br /> Non-verbal in Vietnamese classic literature conception<br /> <br /> ThS. Lê Đắc Tường<br /> Trường THPT Duy Tân, Kon Tum<br /> <br /> M.A. Le Dac Tuong<br /> The Duy Tan High School, Kon Tum<br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Vô ngôn trở thành một quy tắc mỹ học Trung Hoa và các nước thuộc khu vực văn hóa chữ Hán. Đề cao<br /> vô ngôn trong văn chương là quan niệm văn học xuyên suốt thời cổ điển Việt Nam. Vô ngôn không đơn<br /> thuần là không lời mà hàm chứa tất cả, tạo nên cảnh giới cao nhất của cái đẹp trong văn chương.<br /> Từ khóa: vô ngôn, Thiền Lão…<br /> Abstract<br /> Non-verbal becomes an aesthetic rule of China and sinology culture influenced countries. Non-verbal<br /> notion is highly recommended throughout Vietnamese classic literature. The notion doesn’t completely<br /> means that it is wordless, but it contains all of meanings which can make up the highest realm of beauty<br /> in literature.<br /> Keywords: non-verbal, Chan Lao…<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề tương đồng vi diệu của hai tư tưởng này.<br /> Quan niệm trong văn học cổ điển Việt Từ góc độ mỹ học, trong quá trình tịnh<br /> Nam tuy không phong phú và có những hành, hòa hợp Thiền Lão đã tạo ra những<br /> công trình đồ sộ như của Trung Quốc, Ấn phạm trù mỹ học độc đáo và có sức ảnh<br /> Độ và một số nước khác, nhưng trong suốt hưởng sâu rộng, tiêu biểu như: Tự nhiên,<br /> gần mười thế kỷ, ông cha ta đã rất có ý Hư tĩnh, Tiêu dao, Bình đạm, Vô ngôn.<br /> thức về văn học và đã có nhiều ý kiến cụ Trong giới hạn cho phép, bài viết chỉ<br /> thể, rất có giá trị về văn học. Văn học cổ nghiên cứu phạm trù mỹ học vô ngôn với<br /> điển Việt Nam nói chung và quan niệm văn ba nội dung cơ bản: Quan niệm vô ngôn<br /> học nói riêng, bên cạnh những yếu tố mang trong tư tưởng Thiền Lão; Vô ngôn trong<br /> bản sắc Việt, còn chịu ảnh hưởng từ các quan niệm văn học cổ Trung Quốc; Vô<br /> quan niệm mỹ học của Trung Hoa, trong ngôn trong quan niệm văn học cổ điển<br /> đó Nho giáo và Thiền Lão là tiêu biểu. Việt Nam.<br /> Thiền Lão là một khái niệm mà nội 2. Quan niệm vô ngôn trong tư tưởng<br /> hàm ẩn chứa cả tư tưởng Thiền tông và Thiền Lão<br /> Lão Trang xét trên bình diện những điểm Lão Trang và Thiền tông thống nhất<br /> <br /> 73<br /> quan niệm về ngôn ngữ. Cả hai đều coi được bằng lời nói, chỉ có thể dùng lời để<br /> trọng cái “ngoài” ngôn ngữ, cái “sau” ngôn khêu gợi, người học đạo phải tự mình tìm<br /> ngữ. Vì ngôn ngữ chỉ là phương tiện, ra chân lý. Bởi vậy, Lão Tử lại nói: “Đa<br /> không thể biểu đạt được hết và không thể ngôn sổ cùng, bất như thủ trung” (Nói<br /> đưa con người đến được với Đạo với chân nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết<br /> lý giác ngộ. Chính vì thế Thiền Lão coi được, thà là giữ lấy mực trung)[1, tr 58].<br /> trọng vô ngôn. Vô ngôn được hiểu là Đây là nét nghĩa tiếp theo của vô ngôn.<br /> không lời, không nói, không văn tự. Tuy “Bất ngôn chi giáo” còn được Lão Tử nói<br /> nhiên, vô ngôn không chỉ đơn giản như thế, cách khác: “Hy ngôn tự nhiên”. Ít nói để tự<br /> bởi trong đó hàm ẩn rất nhiều ý nghĩa tinh nhiên, nói mà như không nói, đó cũng là<br /> tế, uyên áo được rút ra từ quan niệm “Bất một nét nghĩa nữa của vô ngôn.<br /> ngôn chi giáo” của Lão Tử, “Đắc ý vong “Bất ngôn chi giáo” của Lão Tử với<br /> ngôn” của Trang Tử và quan niệm “Bất lập những nét nghĩa hàm chứa trong phạm trù<br /> văn tự” của Thiền tông. vô ngôn cũng đã được Trang Tử quan<br /> Lão Tử chủ trương vô vi, “Bất ngôn niệm. Thiên Đức phù sung trong Nam Hoa<br /> chi giáo” cũng là một trong những biểu kinh là thiên mà Trang Tử dùng để giải<br /> hiện của vô vi, trong Đạo Đức kinh, Lão nghĩa “Bất ngôn chi giáo” của Lão Tử.<br /> Tử hai lần đề cập đến câu này. Ở chương 2, Giống như Lão Tử, Trang Tử cho rằng,<br /> ông nói: “… Xử vô vi chi sự, hành bất không dùng lời để dạy mà dân tự hóa mới<br /> ngôn chi giáo” (Dùng vô vi mà xử sự, dùng là mục đích, mới thực sự là vô vi: “ Đức<br /> phương pháp không lời mà dạy dỗ) [1, tr sung ư nội, nhi nhơn hóa ư ngoại, tự nhiên<br /> 144], đến chương 43, ông lại nói: “Bất cảm hóa bất đãi giáo ngôn giả dã” (Đức<br /> ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập mà đầy đủ nơi trong, thì người ở ngoài<br /> chi” (Dạy bảo mà không cần đến lời nói, sự được hóa, tự nhiên được cảm hóa, không<br /> lợi ích của vô vi, trong thiên hạ ít ai theo cần phải dùng đến lời mà dạy). Ông cũng<br /> kịp)[1, tr 215]. Cả hai lần nói về “Bất ngôn cho rằng, Đạo không thể diễn tả bằng lời,<br /> chi giáo”, Lão Tử đều gắn với vô vi. Như chỉ có thể dĩ tâm truyền tâm, vì thế ông<br /> vậy phương pháp không dùng lời nói để nói: “Kẻ hỏi Đạo cũng như người đáp lại<br /> giáo hóa là cách đến được với vô vi, với tự đều là những kẻ không hiểu về Đạo”[2, tr<br /> nhiên, với đạo. Đạo không thể dùng lời để 271]. Đặc biệt, Trang Tử đã thống nhất với<br /> miêu tả “Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Lão Tử về “bất ngôn” khi ông chủ trương<br /> Danh khả danh, phi thường Danh”, vì thế “vong ngôn”. Ông cho rằng, ngôn ngữ chỉ<br /> chỉ có “Bất ngôn chi giáo” mới có thể hình là phương tiện để đạt được chân lý, khi đạt<br /> dung, tiếp cận được Đạo. Đó là một trong được chân lý rồi thì quên ngôn ngữ đi:<br /> những lý do mà Lão Tử chủ trương “Bất "Dùng đó là để bắt cá, được cá rồi thì nên<br /> ngôn chi giáo”. Cái học về Đạo là dĩ tâm quên đó đi. Dùng lưới để bắt thỏ, được thỏ<br /> truyền tâm vì vậy không thể dùng lời mà rồi thì nên quên lưới đi. Dùng lời là để<br /> chỉ có thể cảm thông. Cho nên Lão Tử bảo: diễn ý, hiểu được ý rồi thì nên quên lời<br /> “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (biết đi"[2, tr 229]. Bất ngôn của Lão Tử hay<br /> thì không nói, nói là không biết). Đây là vong ngôn của Trang Tử đều có những nét<br /> một trong những nét nghĩa của vô ngôn. nghĩa của vô ngôn như đã nói ở trên.<br /> Đạo học là tâm học, vì vậy không thể dạy Thiền tông được xem là sản phẩm của<br /> <br /> 74<br /> cuộc gặp gỡ diệu kỳ giữa Phật giáo Ấn Độ gợi trí tưởng tượng, sự khám phá nơi người<br /> và Lão Trang. Bởi vậy, Thiền tông mang đọc. Cho nên, ý nghĩa của văn chương, đặc<br /> tinh thần vô ngôn ở cả hai. biệt là trong thơ, không phải là cái biểu<br /> Tinh thần vô ngôn trong Phật giáo Ấn hiện trên bề mặt ngôn ngữ mà là ở khoảng<br /> Độ thể hiện ở hai điểm. Thứ nhất, khi đã không im lặng, ở chỗ không lời. Cái làm<br /> thành Phật và sau hơn 40 năm thuyết pháp, nên vẻ đẹp của tác phẩm văn chương<br /> trước khi nhập niết bàn, đức Phật Thích Ca không phải là nói ra đầy đủ, mà phải làm<br /> Mâu Ni đã dạy các đệ tử rằng: Ta chưa nói như thiếu sót, bỏ quên,...Một nghệ sĩ có tài<br /> lời nào. Phật còn dạy: “Nhất thiết tu-đa-la cần phải biết im lặng, bỏ lửng, tạo tính mơ<br /> giáo như tiêu nguyệt chỉ”. Hai lời dạy của hồ,... Có như vậy, từ chính khoảng trống<br /> đức Phật thể hiện rõ quan niệm vô ngôn im lặng đó, ý nghĩa của văn chương mới<br /> trong tư tưởng Phật giáo nguyên thủy. Thứ vươn đến cảnh giới vô hạn.<br /> hai, trong nhiều câu chuyện về Phật giáo, Trung Quốc là trung tâm của nghệ<br /> sự tích niêm hoa vi tiếu được nhiều người thuật phương Đông, từ ảnh hưởng của<br /> biết đến. Trong sự tích này, đức Phật Thiền Lão, quan niệm vô ngôn trong văn<br /> không nói một lời nào, chỉ đưa cành hoa học cổ nói chung và trong quan niệm văn<br /> lên trước đại chúng, nhưng đại trưởng lão học nói riêng rất được quan tâm.<br /> Ma ha Ca diếp mỉm cười. Đây là tiền thân Ngay từ thời Ngụy Tấn, thời kỳ được<br /> của phương pháp dĩ tâm truyền tâm mà sau xem là giai đoạn khởi phát và hình thành<br /> này Thiền tông đã kế thừa. Sự tích này nền lý luận, phê bình văn học cổ Trung<br /> cũng đã nói lên quan niệm vô ngôn trong Quốc, quan niệm vô ngôn đã được Lục Cơ<br /> Phật giáo. đề cập. Và từ đó quan niệm này dần trở<br /> Đến Thiền tông, với hai biểu hiện của thành tiêu chuẩn nghệ thuật cơ bản vào<br /> vô ngôn như đã nói của Phật giáo Ấn Độ thời Đường, Tống và kéo dài cho đến thời<br /> cùng với quan niệm vô ngôn của Lão nhà Thanh.<br /> Trang với “bất ngôn chi giáo” của Lão Tử Mở đầu Văn phú, Lục Cơ viết:“Hằng<br /> và “đắc ý vong ngôn” của Trang Tử đã hoạn ý bất xứng vật, văn bất đãi”(thường<br /> hình thành quan niệm “bất lập văn tự”. lo ý không xứng với vật, văn không theo<br /> Quan niệm này hàm chứa tất cả ý nghĩa vô kịp ý), ông lại nói: “Chí ư thao phủ phạt<br /> ngôn như đã trình bày ở trên. Từ đó vô kha, tuy thủ tắc bất viễn, nhược phù tùy<br /> ngôn trở thành quan niệm hết sức uyên áo thủ chi biến, lương nan dĩ từ đãi” (Đến<br /> của Đạo học phương Đông, sức ảnh hưởng như cầm rìu đẽo cán, dẫu mẫu mực chẳng<br /> của nó vô cùng to lớn không chỉ về mặt tư xa, nhưng mỗi tay mỗi khác, từ ngữ thì<br /> tưởng mà còn trong lĩnh vực nghệ thuật khó mà theo kịp để truyền đạt)[5, tr 41].<br /> như âm nhạc, hội họa, đặc biệt là văn Hai câu mở đầu của Văn phú đề cập đến<br /> chương. vấn đề ngôn ngữ trong văn chương, đều nói<br /> 3. Vô ngôn trong quan niệm văn học về “ngôn bất tận ý”.<br /> cổ Trung Quốc Tương tự, Đào Uyên Minh, nhà thơ<br /> Nghệ thuật phương Đông nói chung nổi tiếng thời Đông Tấn cũng có quan niệm<br /> và văn chương nói riêng thường chú trọng về “ngôn bất tận ý”, ông nói “thử trung<br /> cái ở ngoài lời, vừa giàu tính liên tưởng, hữu chân ý, dục biện dĩ vong ngôn” (trong<br /> vừa hàm chứa nhiều tầng nghĩa vừa khơi lòng có chân ý muốn nói e không đủ<br /> <br /> 75<br /> lời)[Dương Minh, 8, tr 73]. người đọc hồn xiêu phách lạc, có thể nói<br /> Lưu Hiệp, Chung Vinh là hai nhà lý một chữ đáng giá ngàn vàng). Lời nhận xét<br /> luận có thể xem là đặt nền móng cho nền lý này có hai ý, một là ý bi thiết xa xăm là nói<br /> luận, phê bình văn học cổ Trung Quốc đến ý ở ngoài lời. Hai là một chữ đáng giá<br /> cũng đề cao quan niệm vô ngôn. ngàn vàng, chữ (tự), ở đây không phải là<br /> Với Lưu Hiệp đó là quan niệm “ý tại mặt chữ mà là giá trị ý nghĩa của chữ đó.<br /> ngôn ngoại” trong thiên Ẩn tú và Thể tính. Điều đó có nghĩa là Chung Vinh đề cao cái<br /> Theo Lưu Hiệp, tinh hoa của văn chương là giá trị bên kia của ngôn từ, đề cao “ý tại<br /> ở ẩn và tú. Ông quan niệm: “Ẩn dã giả, ngôn ngoại”.<br /> văn ngoại chi trọng chi giả dã; tú dã giả, Đến đời Đường, vô ngôn là một trong<br /> thiên trung chi độc bạt giả dã” (Ẩn là cái những đặc trưng của ngôn ngữ thơ Đường,<br /> nghĩa ngoài văn, tú là cái nổi bật trong toàn thể hiện ở phương thức “gợi, không tả”, ở<br /> bài. Ẩn khéo ở chỗ có nhiều hàm nghĩa, tú “khoảng lặng, mờ” “ngôn hữu hạn, ý vô<br /> hay ở chỗ đẹp hơn bình thường)[4, tr 446]. cùng”,... Một số thi nhân thời Đường như<br /> Như vậy ẩn, tức là ý tại ngôn ngoại, là tinh Tư Không Đồ, Thích Hiệu Nhiên,... đã bày<br /> túy của văn chương, tạo nên dư vị vô cùng tỏ quan niệm trực tiếp về vấn đề này. Đó<br /> trong văn chương. Cũng từ đó, tạo ra cũng là cách nói “tượng ở ngoài tượng,<br /> phong cách “viễn áo”, một trong tám loại cảnh ở ngoài cảnh” của Tư Không Đồ khi<br /> phong cách văn chương theo quan niệm bàn về tính hàm súc của thi ca: “Cảnh của<br /> của Lưu Hiệp. Theo ông, phong cách viễn nhà thơ tuyệt vời như cảnh mặt trời Lam<br /> áo thể hiện ở sự ẩn ý, thâm sâu ngoài ngôn Điền chiếu soi ấm áp, như ngọc tốt nhả<br /> ngữ và phong cách này học theo lối huyền khói mơ màng, có thể nhìn thấy nhưng<br /> học của Đạo gia: “viễn áo là sâu xa, ý ẩn không thể đặt nó ngay ở trước mắt được”.<br /> không lộ rõ, văn thái mẫu mực, học theo Đồng thời ông cũng cho làm văn phải “vận<br /> lối huyền diệu của Đạo gia”[4, tr 337]. ngoại chi chi” (phải đạt đến chỗ tuyệt diệu<br /> Chung Vinh, trong Thi phẩm, cũng đã ở ngoài vần), “vị ngoại chi chỉ” (ý vị ở<br /> bàn đến vô ngôn ở góc độ “ý tại ngôn ngoài vị)[10, tr 192-194]. Thích Hiệu<br /> ngoại”. Khi bàn về thơ tứ ngôn, ông nói: “ Nhiên khi luận thơ cũng có quan niệm “ý<br /> Phù tứ ngôn, văn ước ý quảng” (Phàm thể tạo ngôn ngoại”. Ông quan niệm: “Tác<br /> thơ tứ ngôn lời ít ý nhiều)[12, tr 50]. Luận dụng của thơ là xuất ý phải hiểm, đặt câu<br /> về thơ, ông cho rằng thơ gồm có ba nghĩa phải khó, tuy phát từ lòng ta nhưng biểu<br /> là hứng, tỷ, phú. Trong đó ông cho rằng hiện như thần. Đến như những câu thơ có<br /> hứng là “ngôn bất tận ý”: “Văn dĩ tận nhi ý cốt cách cao vời vợi tranh quyền Tạo hóa<br /> hữu dư, hứng dã”(Lời tuy hết mà ý vô thì chỉ có thể cảm được ý sâu xa chứ không<br /> cùng)[12, tr 52]. Bình phẩm về cổ thi, thể nói rõ hình trạng, riêng người viết ra<br /> Chung Vinh cho rằng: “Kỳ thể nguyên xuất nó mới biết mà thôi.” Ông lại cho rằng<br /> ư Quốc phong. Lục Cơ sở nghĩ thạo tứ thủ, “thơ của Khang Lạc đạt đến cực điểm,<br /> văn ôn dĩ lệ, ý bi nhi viễn, kinh tâm động phải chăng được đạo của Không vương trợ<br /> phách, khả vị cô hồ nhát tự thiên kim” (Cổ giúp”. Từ đó ông đưa ra quan niệm: “Hai<br /> thi khởi nguồn từ Quốc phong trong Kinh lời trên đều là ý tại ngôn ngoại, nếu gặp<br /> thi. 14 bài do Lục Cơ mô phỏng, lời ôn hòa được bậc cao thủ như ông Khang Lạc lãm<br /> đẹp đẽ, ý bi thiết xa xăm, đọc lên khiến sát thì chỉ cần nhận biết bản ý bên trong,<br /> <br /> 76<br /> không cố chấp câu chữ bên ngoài, vì đã phong cách: “tự nhiên, siêu diệu, hàm súc<br /> đạt đến cực điểm của đạo”[Cố Dịch Sinh, tuyển vĩnh” (tự nhiên, siêu việt, kỳ diệu,<br /> 8, tr 161]. hàm súc, ý vị sâu xa)[5, tr 132].<br /> Đến đời Tống, vô ngôn đã trở thành Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ<br /> tiêu chuẩn nghệ thuật cơ bản. Trong Trung Quốc từ thời Ngụy Tấn đến thời<br /> Thương Lang thi thoại, Nghiêm Vũ có nói Thanh không chỉ là yếu tố thẩm mỹ mà<br /> “ngôn hữu tận nhi ý vô cùng” khi ca ngợi theo thời gian, vô ngôn đã trở thành lý<br /> các thi nhân thời thịnh Đường: “Các thi tưởng thẩm mỹ, phong cách nghệ thuật và<br /> nhân thời thịnh Đường riêng ở chỗ hứng trở thành nét truyền thống trong văn học cổ<br /> thú, như linh dương móc sừng lên cây, Trung Quốc. Về mặt mỹ học, vô ngôn ở<br /> không thấy dấu vết. Cho nên thơ ấy đạt đến Trung Quốc có ảnh hưởng đến “yosei” (dư<br /> chỗ kỳ diệu, thấu triệt lung linh không thế tình) của Nhật Bản. Yosei xuất hiện ở Nhật<br /> dò được. Như âm thanh không trung, sắc Bản từ thế kỷ XI và trở thành khái niệm<br /> màu hình tướng, vầng trăng đáy nước, quan trọng, cơ bản nhất của nền mỹ thuật<br /> bóng dáng trong gương, lời đã hết mà ý vô và văn học Nhật Bản. Theo tiếng Hán thì<br /> cùng”[5, tr 112]. khái niệm này có nghĩa là “cái tình ý còn<br /> Trong Lục nhất thi thoại của Âu dư ba” hay là “hàm ý”. Dư tình còn được<br /> Dương Tu có dẫn lời của Mai Nghiêu hiểu như là “ý ở ngoài lời”. Như vậy vô<br /> Thần: “Hàm bất tận chi ý, kiến ư ngôn ngôn của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến dư<br /> ngoại, nhiên hậu chí hỉ” (hàm chứa ý nghĩ tình của Nhật Bản. Cả hai cơ bản có cùng<br /> sâu xa, bộc lộ ra ngoài lời nói đạt đến sự một ý nghĩa và đều có sự ảnh hưởng lan<br /> mong muốn)[6, tr 591]. Dù là dẫn lời, tỏa rộng lớn.<br /> nhưng qua đó cho thấy Âu Dương Tu rất 4. Vô ngôn trong quan niệm văn học<br /> coi trọng “ý tại ngôn ngoại” trong văn cổ điển Việt Nam<br /> chương. Chính ông đã ca ngợi thơ Mai Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ<br /> Nghiêu Thần là ý tứ sâu rộng, tinh tế, thâm điển Việt Nam biểu hiện khá đa dạng và<br /> sâu khi ông luận thơ của Mai Nghiêu Thần, xuyên suốt. Vì vậy, để có cái nhìn tương<br /> Tô Tuấn Khâm: “Thánh Du, Tử Mĩ nổi đối toàn diện, chúng tôi tìm hiểu quan niệm<br /> danh ở thơ, mà hai nhà thơ này khác nhau vô ngôn trong văn học cổ điển trên hai thời<br /> về thể, Tử Mĩ bút lực mạnh mẽ, tung hoành kỳ. Thời kỳ văn học thời Lý, Trần gắn với<br /> ngang dọc lạ kỳ, Thánh Du ý tứ sâu rộng, kiểu tác giả Thiền sư, quý tộc. Thời kỳ văn<br /> tinh tế, lấy thâm sâu nhàn đàm làm ý. Mỗi học từ Hậu Lê đến Nguyễn, gắn với kiểu<br /> người đều có cái hay riêng chỉ có thể luận tác giả nhà văn-nhà nho.<br /> bàn những điểm hay, không thể phẩm bình 4.1. Quan niệm vô ngôn trong kiểu<br /> hơn kém”[Cố Dịch Sinh, 8, tr 186]. tác giả Thiền sư, quý tộc thời Lý, Trần<br /> Đến đời Thanh có thuyết Thần vận Kiểu tác giả Thiền sư, quý tộc ở đây chỉ<br /> của Vương Sỹ Chân cũng bày tỏ quan niệm giới hạn ở một số tác giả mà trong thơ văn<br /> “ý tại ngôn ngoại” trong văn chương. Kế của họ có đề cập đến quan niệm vô ngôn.<br /> thừa quan niệm thần vận của các tác giả Quan niệm “vô” trong Thiền tông hết<br /> trước với đặc trưng là “Hàm súc thâm viễn, sức uyên áo, nhiều sắc thái như vô tâm, vô<br /> ý dư ngôn ngoại”, Vương Sĩ Chân xây niệm, vô ngã, vô tướng, vô pháp, vô lự, vô<br /> dựng thuyết Thần vận với yêu cầu về sự,… Vô ngôn cũng là một đặc sản của<br /> <br /> 77<br /> Thiền tông. Thiền tông không dùng lời nói Không cầu niệm cũng không cầu thiền.)<br /> làm phương tiện để dạy dỗ, truyền đạo, Chính quan niệm vô ngôn, nên dĩ tâm<br /> Thiền tông dĩ tâm truyền tâm, vì vậy vô truyền tâm là phương thức duy nhất để<br /> ngôn là quan niệm cốt tử của các Thiền sư. Thiền tồn tại và lan tỏa. Đã lấy tâm truyền<br /> Ni sư Diệu Nhân và Tuệ Trung tâm rồi thì ngôn ngữ không còn ý nghĩa gì,<br /> Thượng sĩ đồng quan niệm khi cho rằng, nếu có lấy ngôn ngữ để truyền tâm cũng<br /> dùng lời nói làm phương tiện để cầu Thiền, chỉ dành cho những hạng người si độn<br /> niệm Phật là mê lầm. Vô ngôn mới thật sự trong vườn Thiền. Tịnh Giới Thiền sư đã<br /> quan trọng để đạt được cảnh giới cao nhất, cười vào việc làm đó:<br /> mới giác ngộ, đạt đạo. Ni sư Diệu Nhân, Thu lai lương khí sảng hung khâm,<br /> trước khi viên tịch đã thấu được lẽ sinh, Bát đấu tài cao đối nguyệt ngâm.<br /> lão, bệnh, tử của đời người. Dù là người Kham tiếu thiền gia si độn khách,<br /> đứng đầu dòng Thiền Nam phương, quan Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm.<br /> niệm về Phật và Thiền của Ni sư mang tính (Thị tịch)<br /> phá chấp, chỉ có vô ngôn mới có được giải Dịch thơ:<br /> thoát, mới là Thiền, là Phật: Ngực áo thu về khí lạnh xâm,<br /> Mê chi cầu Phật, Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm.<br /> Hoặc chi cầu Thiền. Cười bấy khách thiền ai dại dột,<br /> Thiền Phật bất cầu, Sao đem lời lẽ để truyền tâm.<br /> Đỗ khẩu vô nghiên (ngôn) (Lê Mạnh Thát dịch)<br /> (Thị tịch kệ) Vô ngôn không chỉ là không nói, đối<br /> Dịch thơ: với các Thiền sư, vô ngôn còn thể hiện ở<br /> Vì lầm cầu Phật… thế thôi nói, nhưng nói theo kiểu của Thiền sư. Đó<br /> Cầu Thiền bởi trót mê lời u mê có thể là tiếng “đốt” trong Phàm thánh bất<br /> Cầu Thiền cầu Phật mà chi dị và Trữ từ tự cảnh văn, tiếng “hát” trong<br /> Ngồi im chả nói năng gì là hơn Phật tâm ca, tiếng “ha ha” trong Tâm<br /> (Nguyễn Duy dịch) vương của Tuệ Trung Thượng sĩ, đó có thể<br /> Cũng với tinh thần phá chấp đó, trong là “nhất thanh” trong Ngôn hoài của Không<br /> bài thơ Ngẫu tác (I), Tuệ Trung Thượng sĩ Lộ Thiền sư. Những âm thanh đó, có âm<br /> đã gắn vô ngôn với sự an nhiên, tự tại, tiêu nhưng không có lời, âm thanh đó thay cho<br /> dao của một con người đã thoát tục, ngộ vạn lời nói vì âm thanh đó là tột đỉnh của<br /> đạo. Với Tuệ Trung, đã vô ngôn ( ngộ đạo) vô ngôn, âm thanh của sự giác ngộ:<br /> rồi thì không cần quan tâm bất kỳ thứ gì, Hữu thời trực thượng Cô Phong Đính,<br /> kể cả Thiền, Phật: Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.<br /> Ðường trung đoan tọa tịch vô nghiên, (Ngôn hoài- Không Lộ Thiền sư)<br /> Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên. Đó cũng là âm thanh của Lý Cao, một<br /> Tự thị quyện thời tâm tự tức, thi nhân, triết gia thời Đường trong bài<br /> Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền. Tặng Dược Sơn (2):<br /> (Ngồi ngay giữa nhà lặng yên không nói, Hữu thời trực thướng cô phong đảnh,<br /> Nhàn nhã ngắm một làn khói bay lên trên Nguyệt hạ phi vân khiếu nhất thinh.<br /> núi Côn Luân. Tinh thần vô ngôn và triết lý Thiền<br /> Khi nào tự thấy mệt mỏi thì tâm tự nghỉ ngơi, của hai thi nhân, Thiền sư gặp nhau. Ở đó<br /> <br /> 78<br /> cả hai đều “nhất thanh” nhưng dụng của nó Cộng ỷ lan can khán thuý vi.<br /> thì vô cùng. Có thể đó là sự giác ngộ tính Dịch thơ:<br /> Phật, là triết lý Thiền cũng có thể là tinh Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày<br /> thần tự tại trong cõi đời tạm bợ,… Thềm hoa chiều rợp, bóng mây bay.<br /> Vô ngôn không chỉ là không nói, là dĩ Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế<br /> tâm truyền tâm, mà còn là ý nghĩa ẩn sau Cùng tựa lan can ngắm núi mây''<br /> ngôn ngữ, là những khoảng lặng, khoảng (Huệ Chi dịch)<br /> mờ có sức gợi mở to lớn. Vì vậy, các Thiền Vô ngôn trong quan niệm của các<br /> thi xem ngôn ngữ có tính chất hữu hạn, chỉ Thiền sư vừa là vô ngôn trong triết lý<br /> có vô ngôn mới thể hiện được sự vô hạn, ý Thiền và cũng là vô ngôn trong thơ Thiền.<br /> nghĩa kỳ diệu của đạo Thiền. Hình ảnh Vô ngôn nhưng mở ra cảnh giới tinh thần<br /> “nhất chi mai” trong bài thơ Cáo tật thị vô hạn không chỉ riêng ở các Thiền sư mà<br /> chúng của Mãn Giác Thiền sư là minh còn cho những người cảm thụ thơ Thiền.<br /> chứng cho điều này. Bài thơ là sự giác ngộ Không chỉ ở các Thiền sư, quan<br /> thấu triệt về quy luật vô thường của tạo niệm vô ngôn còn được các quý tộc thể<br /> hóa, trong đó có sự vô thường của thiên hiện trong sáng tác của mình, Trần Quang<br /> nhiên và con người. Chỉ duy nhất cái còn Triều là quý tộc thời Trần, quan niệm vô<br /> lại, thường hằng, đó là chân tánh, Phật tính. ngôn của ông có nét giống với các Thiền<br /> “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”, bí ẩn như sư. Bài Đề gia lâm tự của Trần Quang<br /> một câu thần chú, là hình tượng vô ngôn có Triều thể hiện rõ quan niệm vô ngôn. Cảnh<br /> tác dụng gợi để người đọc thể ngộ ra tính sắc trong bài thơ rất mộc mạc, con người<br /> Thiền. Đó có thể là hình ảnh của sự bất trong thơ là con người vô ngôn với tâm<br /> diệt, thường hằng của tính Phật trong mỗi thiền bình lặng. Thiền gia gọi đó là cảnh<br /> con người, là niềm lạc quan vô biên mà giới vô ngôn, chỉ có thể hiểu bằng trực cảm<br /> tĩnh tại, là diệu dụng, tính thường chiếu của lấy tâm truyền tâm. Cái tâm Thiền bình<br /> Tâm,…Vô ngôn nhưng lại mở ra nhiều ý đạm và cảnh thiên nhiên cùng giao hòa<br /> nghĩa, gợi cho người đọc những cảm nhận, trong không gian tĩnh tại, chỉ có mùi hoa<br /> liên tưởng vô cùng phong phú, tùy theo sự thông tỏa ngát nói thay lý lẽ vi diệu:<br /> giác ngộ của từng người. Tâm hôi oa giác mộng,<br /> Bài thơ Xuân cảnh của Trần Nhân Bộ lý đáo thiền đường.<br /> Tông cũng là một minh chứng tuyệt vời Xuân vãn hoa dung bạc,<br /> của nghệ thuật không lời. Trong cảnh mùa Lâm u thiền vận trường.<br /> xuân đến, cảnh vật thiên nhiên như phô Vũ thu thiên nhất bích,<br /> diễn tất cả vẻ đẹp và sức sống của mình. Trì tịnh nguyệt phân lương.<br /> Con người trong buổi vào xuân ấy như hòa Khách khứ tăng vô ngữ,<br /> cùng sắc xuân. Chủ và khách tuy không hỏi Tùng hoa mãn địa hương.<br /> chuyện, vô ngôn nhưng thật ra là ngầm (Lòng nguội lạnh với giấc mơ sừng con sên<br /> hiểu, là nói rất nhiều, bởi tâm cảnh và thiên Dạo bước đến cửa thiền<br /> nhiên đã hòa làm một: Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh<br /> Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì, Rừng sâu, tiếng ve ngân dài<br /> Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi. Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu<br /> Khách lai bất vấn nhân gian sự, Ao trong, trăng mát dịu toả xuống<br /> <br /> 79<br /> Khách ra về, sư chẳng nói Dịch thơ:<br /> Mặt đất thơm ngáy mùi hoa thông.) Cảnh này thật hữu ý,<br /> Bài thơ chỉ có tiếng ve, không gian cô Muốn nói bổng quên lời.<br /> tịch, không có một lời nào. Cả nhà thơ và (Tế Hanh dịch)<br /> Thiền sư đều vô ngôn, chỉ có nồng nàn mùi Lê Thiếu Dĩnh cũng là một nhà nho<br /> hoa đã nói lên tất cả. Nhà thơ thời thịnh thời Lê, thơ ông còn lại chỉ vài bài, trong<br /> Đường Cơ Vô Tiềm, trong bài thơ Ngộ đó có bài thơ Lễ Đễ sơn tự thể hiện tinh<br /> Dung Thượng Nhân lan nhã, một lần đến thần vô ngôn:<br /> thăm một Thiền sư, trong không gian cũng Sơn thâm thanh giản tịch,<br /> tĩnh lặng, u tịch, cả hai cũng không nói, chỉ Tự cổ bạch vân nhàn.<br /> có tiếng chuông chùa đã nói lên tất cả: Khách chí tăng vô ngữ,<br /> Sơn đầu thiền thất quải tăng y, Tùng phong tự khải quan.<br /> Song ngoại vô nhân khê điểu phi. (Núi thắm khe trong cảnh lặng lẽ,<br /> Hoàng hôn bán tại hạ sơn lộ, Chùa cô đám mây trắng lững lơ.<br /> Khước thính chung thanh liên thúy vi. Khách đến sư không nói,<br /> Các Thiền sư, quý tộc thời Lý Trần đã Gió tùng tự mở cửa ra.)<br /> thể hiện quan niệm vô ngôn ngay chính Bài thơ thể hiện vô ngôn của Thiền sư<br /> trong tác phẩm. Từ quan niệm vô ngôn của và cũng là vô ngôn của chính tác giả. Cả<br /> Thiền tông, các Thiền sư, quý tộc đã thể hai đều vô ngôn, khung cảnh cũng lặng lẽ,<br /> hiện quan niệm vô ngôn trong thơ. Đó u tịch, nhưng sau đó “Tùng phong tự khải<br /> chính là những khoảng lặng, khoảng trống quan” đã nói lên nhiều điều. Sau này Phan<br /> nhiệm màu, là không nói nhưng lại nói rất Huy Chú đã nhận xét về Lê Thiếu Dĩnh<br /> nhiều, là vô ngôn những ý lại vô cùng. qua bài thơ này là: “chuộng giản dị, cổ<br /> 4.2. Quan niệm vô ngôn trong kiểu kính” và “lời và ý sâu xa, rất có ý thú ở<br /> nhà văn- nho sĩ từ Hậu Lê đến thời Nguyễn ngoài” [3, tr 123]. Nhận xét của Phan Huy<br /> Sau thời Lý Trần, tuy Nho giáo chiếm Chú về Lê Thiếu Dĩnh cũng là cách mà<br /> thế thượng phong, nhưng trong tư tưởng và một số tác giả cổ điển Việt Nam trước và<br /> quan niệm văn chương, vị thế của Thiền sau ông thể hiện khi bày tỏ quan niệm của<br /> Lão vẫn được duy trì và tầm ảnh hưởng mình về vô ngôn qua các bài bạt, bài tựa,<br /> vẫn lan tỏa cho đến cuối thế kỷ XIX. lời bình trực tiếp.<br /> Nguyễn Trãi vốn là nhà Nho, tuy nhiên Quan niệm vô ngôn qua những lời<br /> trong tư tưởng của ông có cả Thiền Lão. phát biểu trực tiếp là khá phong phú và<br /> Những năm ẩn mình ở Côn Sơn, ông đã tương đối thống nhất. Tựu trung lại, quan<br /> thực sự sống cùng thiên nhiên với tâm thế niệm vô ngôn được biểu hiện qua “ý tại<br /> ung dung tự tại nhất. Thơ ông có nhiều bài ngôn ngoại”, “ngôn bất tận ý”, tính hàm<br /> thanh tao, thoát tục, lấp lánh vẻ đẹp của súc, tính dư vị trong văn chương. Sau đây<br /> Thiền. Có lúc, ông cũng thấy ngôn ngữ là khái quát về các lời phát biểu trực tiếp<br /> cũng không đủ sức để diễn tả những ý nói lên quan niệm vô ngôn theo mốc thời<br /> nghĩa mà thi nhân cần chuyển tải: gian từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX.<br /> Cá trung chân hữu ý, Trong những lời bàn trực tiếp về vô<br /> Dục ngữ hốt hoàng vương. ngôn trong văn chương, có lẽ Hoàng Đức<br /> (Du sơn tự) Lương (Thế kỷ XV) là người đầu tiên. Đến<br /> <br /> 80<br /> thời ông, văn chương Đại Việt bị thất lạc, bên ngoài mà nổi lên cái thần, nói một câu<br /> mất mát quá nhiều. Theo ông, có bốn lý do có thể tỏ được trăm ý, xem kỹ lưỡng có thể<br /> khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời, được muôn cảnh. Nghệ thuật thơ văn đến<br /> trong đó lý do đầu tiên thuộc về bản chất thế thật là thần diệu!” (Bài tựa tập thơ<br /> của văn chương. Ông nói: “Đến như thơ Tàng Chuyết tập)[11, tr 71].<br /> văn, thì lại sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị Ngô Thì Nhậm trong bài tựa Hoàng<br /> ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt Công thi tập cũng chú trọng đến vô ngôn và<br /> thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm cái thần của thơ. Thơ hay là phải “ngụ ý sâu<br /> được”[9, tr 28]. Mặc dù đây là lý do mà xa ngoài cảnh vật” và “có cái thần rộng đến<br /> Hoàng Đức Lương cho rằng nó khiến văn ngàn xưa”, ông nói: “Ông bạn già của ta là<br /> chương khó bảo tồn, dễ bị mất mát, nhưng Hoàng Công, theo nếp thi thư nổi tiếng ở<br /> qua đó, chúng ta thấy rằng, ông coi trọng trong kinh, ngoài nước. Từ khi ta được vào<br /> vô ngôn trong văn chương. Vô ngôn ở đây chầu trong điện, cùng làm việc với ông,<br /> gắn với tính dư vị trong văn chương. từng thấy những bài vịnh sử và ngâm vịnh<br /> Tương tự, Nguyễn Dữ quan niệm, ý của ông đều là những bài có cái thần rộng<br /> nghĩa của văn chương nằm ngoài câu chữ. đến ngàn xưa, ngụ ý sâu xa ngoài cảnh vật,<br /> Trong Cuộc nói chuyên ở Kim Hoa, thật đã ngang hàng với họ Khuất họ Tống<br /> Nguyễn Dữ có nói “Thơ của người đời sánh vai với họ Thẩm, họ Tạ” (Bài tựa<br /> xưa, lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm Hoàng Công thi tập)[11, tr 146].<br /> khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy Lê Quý Đôn có nhiều ý kiến bàn về<br /> gần nhưng nghĩa thì xa”[9, tr 42]. văn học, mà cho đến ngày nay vẫn còn<br /> Nguyễn Cư Trinh cũng rất dề cao vô nguyên giá trị, trong đó có ý kiến về vô<br /> ngôn trong sáng tác. Ông cho rằng “lòng ngôn. Trong sách Vân đài loại ngữ, Lê<br /> người là thứ khó lường”, vì vậy khi phát ra Qúy Đôn tâm đắc khi dẫn lời Tô Đông<br /> thành thơ “đến nỗi một chữ mà nghĩ ba Pha: “Ý dứt mà lời hết là lời nói hay trong<br /> năm mới được, giảng ngàn năm chưa thiên hạ. Nhưng lời dứt mà ý không hết thì<br /> xong”. Ông quan niệm văn chương phải lại càng hay hơn nữa”[11, tr 98].<br /> giản dị, ý nghĩa phải hàm súc: “Tóm lại, Mọi vật đều ẩn chứa điều kỳ diệu và<br /> người làm thơ không ngoài lấy trung hậu có tính tương đối “trong cái thối nát, xuất<br /> làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải hiện cái thần kỳ”, và “trong cái thô thiển<br /> giản dị”[11, tr 63]. chứa đựng cái tinh vi”,... cho nên ngay cả<br /> Lê Hữu Kiều quan niệm trong sáng tác văn chương cũng không đủ sức khám phá<br /> cần miêu tả được cái thần của từng sự vật, hết sự vật. Và chỗ tuyệt diệu của văn<br /> có như vậy thì thơ mới chân thật, mới giàu chương cũng có chỗ đâu phải dùng lời mà<br /> ý nghĩa. Còn nếu chỉ hời hợt bề ngoài thì biểu đạt được. Đó là quan niệm của Ngô<br /> chỉ là theo đuổi cái hư ảo, mà xem như Thì Vị: “Tôi đọc đi đọc lại thơ ông và<br /> chưa đạt đến điều thơ cần đạt tới. Chính vì tham cứu bài tựa của Nguyễn hầu, giống<br /> thâu tóm được cái thần của sự vật, nên chỉ như người vẽ nó thì lại càng nắm bắt hết<br /> một câu thơ có thể thấy được muôn hình được cái hình dung của nó. Kinh Dịch<br /> cảnh. Đó chính là quan niệm nghệ thuật nói nói:“Thư không thể nói hết lời, lời không<br /> ít nhưng lại gợi nhiều. Ông ca ngợi thơ cận thể nói hết ý, tôi quên mình quê vụng, hết<br /> thể nhà Đường như sau: “Mô tả đường nét thảy trình bày lời lẽ của mình để viết lời<br /> <br /> 81<br /> bạt này” (Bài bạt Cấn Trai thi tập)[ 7, tr muôn dặm; tấm thêu của Mỵ Nương, trên<br /> 111]. một mảnh lụa mà thêu đủ chữ của bảy<br /> Lê Hữu Trác quan niệm, đối với thơ quyển sách. Chín lời nói của Du Cát, lời ít<br /> điều quan trọng là ở ý, làm thơ phải chú mà ý xa; ba tiếng trả lời của Nguyễn<br /> trọng ở những khoảng lặng, khoảng trống, Chiêm, nói đơn giản mà lí lẽ đầy đủ”[11, tr<br /> vô ngôn để gợi mở và làm cho người đọc 258]. Bốn điều khó mà Miên Thẩm nêu ra<br /> phải suy nghĩ mới hiểu được thì thơ mới đều hàm nghĩa ngôn bất tận ý, ý tại ngôn<br /> hay: “Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa, thơ mới ngoại.<br /> hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải Nguyễn Mại cũng đề cao tính cô đọng,<br /> nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá súc tích, lời gần mà ý xa trong sáng tác văn<br /> trị.”[11, tr 101]. chương. Đồng thời ông cũng cho rằng thi<br /> Nhữ Bá Sĩ khi bàn về thiên Thục liệu sáng tác văn chương đó chính là hiện<br /> khách giải trào của một người bạn vong thực. Việc sáng tác thơ vốn xuất phát từ<br /> niên, ông nói có ba điều đáng lấy và bảy cảm hứng chân thực trước sự vật hiện<br /> điều đáng bàn. Điều đáng bàn thứ sáu, tượng ngoài thực tế. Cho nên, ông cũng đề<br /> tương tự quan niệm của Nguyễn Cư Trinh cao loại ca dao thế tục, vốn trước kia<br /> là chú trọng hàm súc của ngôn từ:“Cái ý không được đề cao và ngay cả những vật<br /> của văn quý ở chất mà càng quý ở hàm chi ly nhất như cây cỏ, chim sâu cũng là<br /> súc”. Ông xem trọng ý nghĩa ngoài lời và văn chương cả. Tự nhiên chính là nguốn thi<br /> xem đó mới là cái đích của thơ ca: “dù một liệu dồi dào, và ẩn chứa ý nghĩa vô hạn:<br /> lời mà bao quát trăm nghìn dặm cũng “Phong đó chăng? Sử đó chăng? Kể ra<br /> không ngại là thừa”, tất cả cũng chỉ cố loại ca dao của thế tục, xem qua chỉ là loại<br /> “cho tinh thần ý thái của phong vật núi thơ kém không đủ để lên đàn đại nhã, mà<br /> sông nơi muôn dặm, nhãy múa trên tờ nghiền ngẫm cho sâu thì gió, mây, sương,<br /> giấy”[11, tr 219]. móc đều là văn chương, cây cỏ chim sâu<br /> Đặng Huy Trứ khi viết lời tựa tập thơ lời gần mà ý xa, hầu như có cái thể tài phát<br /> của Trương Băng Nhiên, ông đã ca ngợi tài huy phong, nhã” (Bài tựa Phong dao là<br /> thơ của Trương Băng Nhiên với những lời quốc sử)[11, tr 278].<br /> lẽ hết sức bay bổng, từ đó chúng ta cũng Để kết thúc những lời phát biểu trực<br /> thấy được quan niệm coi trọng ý hơn lời và tiếp về vô ngôn, có lẽ quan niệm của Vũ<br /> ý tại ngôn ngoại của Đặng Huy Trứ: “Tôi Duy Thanh sẽ phần nào khái quát được<br /> mở ra đọc, thấy ý tứ trung hậu tràn trề quan niệm vô ngôn trong văn chương.<br /> ngoài lời lẽ…Ý thơ viên mãn mà rộng rãi, Trong Bồng Châu thi văn tập, ông quan<br /> khí thơ hùng hồn mà thẳng ngay, lời thơ niệm: “…Cái nguyên cớ của văn chương<br /> gọn mà đẹp, vị thơ đậm mà tươi,…” mặc ai muốn hiểu; chỉ nghe tới cái vô<br /> [11, tr 279]. thanh sẽ ngộ được cái hữu thanh”<br /> Nguyễn Miên Thẩm, trong bài tựa Tập [7, tr 76].<br /> tiểu nhạc phủ vịnh sử ghi lại những bài thơ Như vậy, quan niệm vô ngôn đối với<br /> đề ở bình phong của nhà vua, cho rằng: các Thiền sư, quý tộc thời Lý, Trần, tuy thể<br /> “năm điều tuyệt diệu, có mấy điều khó như hiện gián tiếp qua tác phẩm, nhưng lại trực<br /> sau: Ví như bức họa của Tiêu Bôn chỉ rộng tiếp nói về quan niệm vô ngôn trong triết lý<br /> bằng một thước mà thu cả phong cảnh Thiền tông và trong thơ. Vô ngôn là Thiền<br /> <br /> 82<br /> là phương thức giao tiếp, truyền tin “dĩ tâm TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> truyền tâm” trong Thiền. Vô ngôn trong 1. Nguyễn Duy Cần (2013), Lão Tử Đạo Đức<br /> thơ cũng mang tính Thiền, và đó còn là sự kinh, Nxb Trẻ, TP.HCM.<br /> hữu hạn của ngôn ngữ, là những khoảng 2. Nguyễn Duy Cần (2013), Trang Tử Nam<br /> trống đầy gợi mở, là không nói nhưng lại Hoa kinh, Nxb Trẻ, TP.HCM.<br /> 3. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến<br /> nói lên nhiều điều. Khi các tác giả nhà văn-<br /> chương loại chí, tập 3, Nxb Khoa học xã<br /> nhà nho phát biểu trực tiếp về quan niệm hội, Hà Nội.<br /> ngôn ngữ trong văn chương, vô ngôn lại 4. Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo (2007),<br /> được gián tiếp thể hiện qua “ý tại ngôn Lưu Hiệp Văn tâm điêu long, Nxb Văn học,<br /> ngoại”, “ngôn bất tận ý”, tính hàm súc và Hà Nội.<br /> dư vị. 5. Lê Giang (2006), Tư tưởng lý luận văn học<br /> 5. Kết luận văn học cổ Trung Quốc, chuyên luận dùng<br /> cho cao học, Nxb ĐHQG TPHCM.<br /> Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ<br /> 6. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (2000),<br /> điển Việt Nam có nội hàm phong phú, sâu Trung Quốc văn học sử, tập 2, Nxb Phụ Nữ,<br /> sắc và trở thành hạt nhân của khuynh Hà Nội.<br /> hướng Thiền Lão - một trong những 7. Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn<br /> khuynh hướng cơ bản của văn học cổ điển chương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> Việt Nam. Vô ngôn đã tạo cho thế giới 8. Khoa Văn học và Báo chí (2006), Một số<br /> ngôn ngữ văn chương trở lên bí ẩn, đầy vấn đề về lý luận, phê bình văn học cổ<br /> Trung Quốc, Báo cáo Hội nghị khoa học,<br /> màu sắc, nhiều tầng nghĩa, làm cho văn<br /> Nxb Trường ĐHKHXH & NV TP.HCM.<br /> chương trở nên thần diệu. Vô ngôn trong 9. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981),<br /> quan niệm văn học cổ điển Việt Nam Từ trong di sản..., Nxb Tác phẩm mới,<br /> không đơn thuần là một yếu tố thẩm mỹ, Hà Nội.<br /> mà đã được nâng lên thành lý tưởng thẩm 10. Khâu Chấn Thanh (1995), Lý luận văn học,<br /> mỹ, phong cách nghệ thuật. Từ đó, vô ngôn nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo<br /> trở thành một nét truyền thống độc đáo, để dục, Hà Nội.<br /> 11. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ<br /> lại dấu ấn sâu đậm trong văn học cổ điển<br /> Thanh, Trần Nho Thìn (2007) Mười thế kỷ<br /> Việt Nam. Có thể nói rằng chính vô ngôn bàn về văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> đã góp phần quan trọng tạo nên tính uyên 12. Chung Vinh (2008), Thi Phẩm tập bình,<br /> thâm, giá trị trường tồn cho văn học cổ Nguyễn Đình Phức, Lê Quang Trường tuyển<br /> điển Việt Nam. dịch, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 26/3/2015 Biên tập xong: 15/8/2015 Duyệt đăng: 20/8/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 83<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1