intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng chỉ số thành phố bền vững - Cách tiếp cận cho việc thực hiện phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

23
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Xây dựng chỉ số thành phố bền vững - Cách tiếp cận cho việc thực hiện phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam" cho thấy chiến lược phát triển đô thị gắn với các mô hình đô thị bền vững phù hợp với bối cảnh từng địa phương đang trở thành một xu hướng và việc sử dụng các bộ chỉ số làm thước đo đánh giá sự phát triển đồng thời định hướng cho mục tiêu phát triển của đô thị là rất cần thiết cho việc thực hiện phát triển các đô thị bền vững tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng chỉ số thành phố bền vững - Cách tiếp cận cho việc thực hiện phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam

  1. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG XÂY DỰNG CHỈ SỐ THÀNH PHỐ BỀN VỮNG CÁCH TIẾP CẬN CHO VIỆC THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Triệu Thanh Quang* Dương Thị Ngọc Oanh** Tóm tắt: Đô thị hóa là một trong những vấn đề nóng gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong những thập kỷ gần đây. Những vấn đề về quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, bất cập xã hội ở đô thị có nguyên nhân từ đô thị hóa đòi hỏi cần sớm có những giải pháp thiết thực phù hợp cho sự phát triển bền vững. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy áp dụng cách tiếp cận dựa trên các chỉ số là một phương thức thực hiện hiệu quả cho việc đẩy mạnh phát triển đô thị bền vững. Bài viết này tìm hiểu những nội dung của thành phố bền vững và kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng bộ chỉ số thành phố bền vững. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng đô thị hóa ở Việt Nam và kinh nghiệm thực tiễn tại các địa phương đã triển khai áp dụng các mô hình đô thị trong phát triển đô thị, bài viết đã cho thấy chiến lược phát triển đô thị gắn với các mô hình đô thị bền vững phù hợp với bối cảnh từng địa phương đang trở thành một xu hướng và việc sử dụng các bộ chỉ số làm thước đo đánh giá sự phát triển đồng thời định hướng cho mục tiêu phát triển của đô thị là rất cần thiết cho việc thực hiện phát triển các đô thị bền vững tại Việt Nam. Từ khóa: Chỉ số thành phố bền vững; Đô thị bền vững; Thành phố bền vững. 1. Đặt vấn đề Ngày nay, hơn một nửa dân số thế giới sống ở các khu vực đô thị, theo báo cáo của Liên hợp quốc, tỷ lệ này sẽ lên tới 68% vào năm 2050 (UNDESA, 2019). Đô thị hóa có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Nó vừa là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế. Phát triển đô thị bền vững được xem là một trong những yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Trong bối cảnh 95% sự tăng trường đô thị sẽ diễn ra ở các nước đang phát triển (UN-HABITAT, 2020), việc làm rõ những định hướng cho sự phát triển đô thị bảo đảm sự phát triển bền vững là hết sức cần thiết. * Triệu Thanh Quang, Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu phát triển bền vững Vùng, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ** Dương Thị Ngọc Oanh, Thạc sĩ, Khoa Quy hoạch, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. 300
  2. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT Là một quốc gia đang phát triển, trong những những năm qua, quá trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra một cách nhanh chóng. Đi cùng với quá trình này là một loạt các vấn đề mới nảy sinh và ngày càng tăng áp lực cho các nhà quản lý cần phải giải quyết như ô nhiễm môi trường, việc làm, di dân, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội,… thách thức sự phát triển bền vững ở các đô thị. Trong bối cảnh đó, nhiều giải pháp được đưa ra ở cả cấp độ quốc gia cũng địa phương như việc ban hành và thực hiện Luật Quy hoạch, các quy hoạch đô thị, chiến lược phát triển đô thị. Nhiều thành phố đưa các chiến lược và giải pháp để thực hiện phát triển đô thị bền vững. Mặc dù vậy, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, việc lồng ghép các tiêu chí bền vững vào phát triển đô thị chưa được thực hiện một cách hiệu quả. Trong khi đó, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy áp dụng cách tiếp cận dựa trên các chỉ số là một phương thức thực hiện hiệu quả cho việc đẩy mạnh phát triển đô thị bền vững. Nghiên cứu này trước hết tập trung làm rõ những nội dung của thành phố bền vững và kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng bộ chỉ số thành phố bền vững, đồng thời đánh giá sơ bộ về việc vận dụng cách tiếp cận bộ chỉ số ở Việt Nam trong phát triển đô thị bền vững. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất những hướng đi cho việc sử dụng bộ chỉ số như một phương thức quản lý đô thị ở Việt Nam trong thời gian tới. 2. Khái niệm thành phố bền vững và vai trò của nó trong phát triển đô thị 2.1. Khái niệm thành phố bền vững Phát triển bền vững vốn được xem là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai (WCED, 1987). Nội dung của phát triển bền vững được Liên hợp quốc đưa vào Chương trình Nghị sự 2030 với trọng tâm là 17 mục tiêu phát triển bền vững (17 SDGs). Trong đó, phát triển đô thị bền vững được xem là một trong 17 mục tiêu. Theo đó phát triển đô thị hướng tới việc xây dựng các thành phố dành cho tất cả mọi người, an toàn, có khả năng chống chịu và bền vững. Từ đó, thuật ngữ “thành phố bền vững” trở thành một thuật ngữ phổ biến trong các chính sách, các tài liệu học thuật liên quan đến phát triển đô thị. Mặc dù được sử dụng ngày càng phổ biến, tuy nhiên đến nay vẫn không có một định nghĩa thống nhất nào cho thành phố bền vững. Theo Schraven và cộng sự (2021), có đến 35 tên gọi khác nhau đã được sử dụng từ năm 1990-2019 để ám chỉ các đô thị có tính chất đô thị bền vững như: thành phố carbon thấp, thành phố sinh thái, thành phố xanh, thành phố thông minh. Sự khác biệt này xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu, đề án, dự án gắn với việc phát triển đô thị, thành phố bền vững. Thành phố bền vững được mô tả theo các trụ cột của phát triển bền vững. Thành phố bền vững được cho là sự phát triển hiện tại của thành phố không hạn chế sự phát triển của nó trong tương lai; là thành phố mà khả năng tái tạo của nó theo thời gian được xem xét dựa trên ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường (Castells, 2000); là thành phố được thiết kế, quy hoạch đáp ứng yêu cầu cân bằng giữa các khía cạnh môi trường, kinh tế, xã hội (Bibri, 2021); là thành phố có thể duy trì nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên đồng thời đạt được tiến bộ về kinh tế và xã hội trong khi 301
  3. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG vẫn bảo đảm an toàn trước các rủi ro môi trường hay là thành phố tối đa hóa các lợi ích kinh tế - xã hội được đo lường bằng các chỉ số kinh tế - xã hội dưới khả năng chịu đựng của môi trường (Abbas và cs, 2018). Thành phố bền vững cũng được mô tả dựa trên những kết quả mong đợi của người dân về một thành phố mà họ muốn sống. Theo đó, thành phố bền vững là thành phố cho phép tất cả người dân có thể đáp ứng được nhu cầu của họ mà không làm tổn hạn đến thế giới tự nhiên hoặc gây nguy hiểm cho điều kiện sống của những người khác ở hiện tại hoặc trong tương lai. Thành phố bền vững là thành phố đáng sống được đánh giá dựa trên các chỉ số về chất lượng cuộc sống (Burnett, 2007). Chương trình Nghị sự Đô thị mới của Liên hợp quốc (2020) nhấn mạnh bốn khía cạnh chính của đô thị bền vững: kinh tế, xã hội, môi trường và không gian. Đó là bốn thành tố bảo đảm sự bền vững của đô thị trong tương lai và được xem như bốn trụ cột mà các chương trình phát triển đô thị cần phải tính đến và cũng sẽ là nội dung được đánh giá về tính bền vững của đô thị. Chương trình nghị sự này cũng được xem như một công cụ thúc đẩy các mục tiêu phát triển bền vững, đặc biệt là SDG 11 (UN-HABITAT, 2020). Như vậy, có thể hiểu thành phố bền vững là thành phố mà trong quá trình phát triển của nó luôn duy trì được sự phát triển kinh tế, bảo đảm phân phối công bằng và hài hòa các lợi ích kinh tế - xã hội cho tất cả mọi công dân của thành phố đồng thời môi trường sinh thái được bảo đảm an toàn và có xu hướng ngày càng được cải thiện góp phần vào sự phát triển của các vùng lân cận. 2.2. Mối liên hệ giữa phát triển đô thị và phát triển bền vững Phát triển đô thị có mối liên hệ mật thiết với phát triển bền vững. Mối liên hệ này được thể hiện đầy đủ trên cả 3 trụ cột của phát triển bền vững. Thứ nhất, dưới khía cạnh kinh tế, đô thị hóa vừa là yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, vừa là kết quả biểu hiện của tăng trưởng, phát triển kinh tế. Đô thị hoá làm thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế ở đô thị dẫn đến cơ hội việc làm, cơ hội giáo dục tại các vùng đô thị đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Đô thị hóa dẫn tới việc gia tăng nhu cầu xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường của người dân ở đô thị; qua đó mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế trên thế giới cho thấy chủ yếu đến từ khu vực đô thị. Theo Grubler và Fisk (2013), có đến 80% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu được tạo ra từ các thành phố. Các đô thị là nơi cung cấp việc làm chính, là nơi năng lực sản xuất, năng suất lao động được phát huy để đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Mặc dù đô thị hóa thường đi liền với tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên cũng có những bằng chứng cho thấy, đô thị hoá mất cân bằng có thể là một cản trở cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Ví dụ như quá trình đô thị hoá ở khu vực châu Phi và Sahara được ghi nhận dù sự suy giảm kinh tế trong khu vực này là tương đối rõ ràng trong giai đoạn 1970-2000 (Grubler & Fisk, 2012). 302
  4. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT Quá trình phát triển đô thị còn phản ánh sự thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong các ngành nghề kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng bền vững được phản ánh trong cơ cấu lao động, việc làm của các đô thị. Chính vì vậy, phát triển đô thị theo hướng bền vững cũng sẽ là cơ sở và là kết quả đo lường tính bền vững của nền kinh tế. Thứ hai, dưới khía cạnh xã hội, đô thị hoá tạo động, lực tích cực cho tăng trường kinh tế, từ đó có thêm nguồn lực để xoá đói giảm nghèo và phát triển con người ở cả vùng đô thị và nông thôn. Ở chiều ngược lại, đô thị hoá làm thay đổi cấu trúc nhân khẩu và cấu trúc xã hội của cả khu vực thành thị và nông thôn. Chính vì vậy, phát triển bền vững phụ thuộc vào sự thành công trong việc quản lý và phát triển đô thị. Đô thị hóa khiến các quốc gia phải đối mặt với những thách thức như nhu cầu nhà ở, hạ tầng giao thông, việc làm, dịch vụ giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe cho người dân vùng đô thị và lực lượng dân di cư từ thành thị ra nông thôn. Đặc biệt, người nghèo ở đô thị cũng được cho là đối tượng dễ bị tổn thương nhất bởi các cú sốc kinh tế, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Ví dụ như, sự phát triển các đô thị ở châu Phi và Sahara cho thấy, tỷ lệ sinh và tử ở khu vực thành thị cao hơn ở khu vực nông thôn. Kết quả này được cho là do các bệnh truyền nhiễm dễ lây lan ở khu vực đô thị đông dân cư và điều kiện vệ sinh kém. Cư dân khu ổ chuột thành thị phải đối mặt với nguy cơ môi trường nhiều hơn, như tình trạng ô nhiễm, thiếu nguồn nước sạch và vệ sinh kém dẫn tới các rủi ro về sức khoẻ gia tăng. Điều này cũng được minh chứng ở tỷ lệ tử vong do Covid-19 đang gây ra ở khu vực thành thị các quốc gia đang phát triển (Friesen & Pelz, 2020). Chính vì vậy, việc giải quyết bất bình đẳng ở khu vực đô thị là chìa khóa bảo đảm sự phát triển các đô thị bền vững (Gaigbe-Togbe, 2015). Thứ ba, đô thị hóa tác động tới môi trường một cách trực tiếp và gián tiếp. Trước hết, quá trình đô thị hoá dẫn tới việc phát triển quỹ đất đô thị và thu hẹp đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Điều này ảnh hưởng đến môi trường sinh thái của chính đô thị và các vùng phụ cận của nó, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững. Thêm vào đó, môi trường cũng bị ảnh hưởng bởi xu hướng tiêu dùng đi liền với quá trình đô thị hoá. Do thu nhập cao hơn, người dân thành thị có xu hướng tiêu dùng bình quân đầu người nhiều hơn so với người dân nông thôn. Các thành phố ngày nay chiếm từ 71 đến 76% lượng khí thải CO2 và từ 67 đến 76% lượng sử dụng năng lượng toàn cầu (Seto và cs, 2014). Vì thế, đô thị hóa và phát triển bền vững có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do vậy, các chính sách phát triển bền vững cần hướng tới việc cải thiện đời sống của dân cư thành thị và nông thôn, đồng thời tăng cường mối liên kết giữa thành thị và nông thôn ở cả ba khía cạnh của sự phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường. 3. Chỉ số thành phố bền vững - công cụ thực hiện phát triển đô thị bền vững 3.1. Chỉ số thành phố bền vững Ngày nay, việc sử dụng chỉ số đo lường hiệu quả được áp dụng ngày một rộng rãi vào việc đo đạc, đánh giá việc thực hiện chính sách. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra lợi ích của việc sử dụng bộ chỉ số đối với sự phát triển của thành phố. Nó là công cụ quan trọng để đo lường và định 303
  5. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG lượng những cải thiện trong việc thực hiện cung cấp các dịch vụ công thông qua các quy hoạch, kế hoạch được xây dựng (Bertuglia và cs, 2012). Sử dụng bộ chỉ số có thể phản ánh các mục tiêu ưu tiên trong từng giai đoạn phát triển của đô thị (Mega & Pedersen, 1998). Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển các đô thị bền vững, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế cũng đã đưa ra các bộ chỉ số đánh giá tính bền vững của các thành phố. Tuy vậy, với những khác biệt trong cách tiếp cận, các quốc gia, tổ chức cũng đưa ra những bộ chỉ số khác nhau. Theo Ahvenniemi (2017), có 8 khung đánh giá đã được sử dụng là: 1. Bộ chỉ số phát triển bền vững cộng đồng được phát triển bởi Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO). Với trọng tâm đánh giá chỉ số về dịch vụ thành phố và chất lượng cuộc sống tại ISO 37120 (ISO, 2014, 2018). Bộ chỉ số này đánh giá thành phố dựa trên các khía cạnh: kinh tế, giáo dục, năng lượng, môi trường, giải trí, sự an toàn, nơi ở, chất thải rắn, viễn thông, đổi mới, tài chính, khả năng cấp cứu và cứu hoả, quản trị, sức khoẻ, giao thông, quy hoạch đô thị, nước thải, nước và vệ sinh môi trường (ISO, 2018). 2. Khung đánh giá dành cho các thành phố bền vững của châu âu (RFSC): Đây là một công cụ đánh giá trực tuyến dành cho các bên liên quan đến quản lý và phát triển đô thị hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Bộ công cụ này không dành riêng cho từng địa điểm và có thể điều chỉnh để phù hợp với các khu vực có các hoàn cảnh khác nhau. 3. Cộng đồng BREEAM (BREEAM Communities): Một phương pháp đánh giá môi trường được mở rộng để đánh giá tính bền vững với việc xem xét các tác động xã hội và kinh tế của sự phát triển. Cộng đồng BREEAM được áp dụng trong việc đánh giá các quy hoạch, quản trị địa phương. Trọng tâm trong đánh giá của BREEAM là: quản trị, kinh tế và xã hội, tài nguyên thiên nhiên và năng lượng, đất và sinh thái, giao thông và sự di chuyển, và sự sáng tạo. 4. LEED là một hướng dẫn cho phát triển khu vực (LEED ND) (LEED, 2016) được phát triển bởi Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên thiên nhiên (Hoa Kỳ). Đây là một chứng nhận xanh được áp dụng cho phát triển khu vực gồm một tập hợp các tiêu chuẩn có thể đo lường để xác định liệu sự phát triển có vượt mức chịu đựng của môi trường. 5. CASBEE là một hệ thống đánh giá toàn diện về hiệu quả môi trường xây dựng. Nó được thiết kế để vừa nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân vừa giảm thiểu việc sử dụng tài nguyên. Công cụ này được áp dụng trong việc đánh giá thành phố thông qua sử dụng phương pháp tiếp cận 3 trụ cột mấu chốt là kinh tế, xã hội và môi trường. 6. STATUS được phát triển bởi Đơn vị nghiên cứu cộng đồng và thông tin phát triển (CORDIS) của Ủy ban châu Âu. Đây là các công cụ và mục tiêu phát triển bền vững được áp dụng cho phát triển đô thị, một sáng kiến chung của các nhà nghiên cứu và thực hành địa phương để phát triển khu vực. Các công cụ liên quan cho phép thiết lập các mục tiêu hướng tới sự bền vững của đô thị. 304
  6. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT 7. SustainLane là một diễn đàn online của cộng đồng sống bền vững và lành mạnh đánh giá các thành phố bền vững. SustainLane xếp hạng thành phố bền vững ở Hoa Kỳ với trọng tâm hướng đến mô hình về chất lượng cuộc sống cho mọi người và sự phát triển kinh tế sẵn sàng đối mặt với một tương lai không chắc chắn (Lynch và cs, 2011). 8. Bộ chỉ số Đô thị của Chương trình định cư của Liên hợp quốc: Gồm 20 chỉ số chính, 8 mục đánh giá và 16 chỉ số mở rộng để đo lường việc thực hiện và xu hướng đạt được chương trình nghị sự về môi trường sống và các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc (UNHSP, 2004). Các quốc gia cũng thực hiện việc đánh giá với những bộ chỉ số khác nhau trong thực hành phát triển các thành phố bền vững. Tại Canada, các chỉ số thành phố bền vững được phát triển từ chương trình chỉ số thành phố toàn cầu (GCIP). Theo đó, có hai nhóm chỉ số chính được tiến hành xem xét là: (1) Dịch vụ mà thành phố cung cấp bao gồm giáo dục, nguồn tài chính, sự kiến tạo, dịch vụ xã hội, giao thông, chất thải, nước, năng lượng, việc ứng phó với các trường hợp khẩn cấp, dịch vụ y tế, chất thải rắn và quy hoạch đô thị; và (2) Chất lượng cuộc sống bao gồm sự tham gia của xã hội dân sự, kinh tế, sự giàu có, văn hóa, môi trường, bình đẳng xã hội, công nghệ và sự đổi mới (LGMB, 1994). Tại Mỹ, năm 2010, nhóm làm việc về phát triển đô thị bền vững với sự tham gia của nhiều bên liên quan từ các cơ quan chính phủ, khối tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận đã đưa ra khung đánh giá về phát triển đô thị bền vững. Theo đó, đô thị bền vững được đánh giá ở 3 khía cạnh: (1) Về an sinh xã hội bao gồm sức khỏe, sự an toàn, nhà ở, khu vực sinh sống, không gian công cộng, và tiếp cận các dịch vụ giao thông; (2) Các cơ hội kinh tế bao gồm sự đa dạng và tính cạnh tranh trong nền kinh tế, giao thông và cơ sở hạ tầng gắn liền với việc sử dụng đất, tăng trưởng gắn liền với tài sản, tiếp cận thị trường vốn, tín dụng, tiếp cận giáo dục, việc làm và đào tạo; và (3) Chất lượng môi trường bao gồm hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, quản lý rác thải và ô nhiễm, khả năng chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu; giao thông, ô nhiễm tiếng ồn và hiệu quả carbon, môi trường tự nhiên đa dạng và hệ sinh thái vận hành phù hợp (Lynch và cs, 2011). Có thể nói, mặc dù có sự khác nhau trong các tiêu chí đánh giá, hầu hết các bộ chỉ số được sử dụng đều xoay quanh các trụ cột chính của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường. Và sự khác biệt trong các chỉ số đánh giá ở các quốc gia phụ thuộc lớn vào điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế của các nước. Chính vì vậy, việc xem xét xây dựng bộ chỉ số đánh giá thành phố bền vững cần bảo đảm các tiêu chí cứng như các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường, bên cạnh đó cũng cần phải xem xét các chỉ số linh hoạt tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể của các quốc gia, các thành phố cần đánh giá. Trong khung đánh giá đo lường chỉ số thành phố bền vững do Mori & Christodoulou (2012), Mori & Yamashita (2015) đề xuất, thành phố bền vững cần được đánh giá theo ba trụ cột của phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, trong quá trình đánh giá cần phải bảo đảm ba yêu cầu của việc đánh giá là đánh giá tính bền vững tương đối và tuyệt đối và đánh giá những tác động không mong muốn. Đồng thời, việc thực 305
  7. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG hiện đánh giá cần xem xét hai chỉ số: chỉ số hạn chế và chỉ số tối đa. Nếu như chỉ số hạn chế liên quan đến khía cạnh môi trường và xã hội nhằm giới hạn những tác động tiêu cực tới môi trường và bảo đảm sự công bằng trong lợi ích kinh tế ở một chừng mực có thể chấp nhận được, thì chỉ số tối đa liên quan đến khía cạnh kinh tế và lợi ích xã hội. Theo đó phát triển bền vững là việc mang lại những lợi ích kinh thế mà không có bất cứ sự đe dọa nào tới các chỉ số hạn chế. 3.2. Ý nghĩa của việc sử dụng bộ chỉ số thành phố bền vững Với mục tiêu xây dựng các thành phố bền vững, bộ chỉ số thành phố bền vững thực hiện hai vai trò cơ bản: hướng dẫn thực hiện xây dựng thành phố bền vững và đánh giá quá trình phát triển đô thị. Trên thực tế, hầu hết các nghiên cứu liên quan đến phát triển đô thị bền vững đều tập trung nghiên cứu đánh giá các chỉ số đô thị bền vững ở khía cạnh khoa học hơn là tính thực hành của nó. Nghiên cứu của Ahvenniemi và cộng sự (2017) tập trung làm rõ sự giống và khác nhau giữa các bộ chỉ số thành phố thông minh và thành phố bền vững. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thành phố thông minh chú trọng nhiều đến các khía cạnh công nghệ hiện đại và hai trụ cột kinh thế và xã hội, trong khi đó thiếu hụt những đo đạc về môi trường - khía cạnh cần nhiều sự quan tâm trong khung đánh giá thành phố bền vững. Hay nghiên cứu của Schraven và cộng sự (2021) đối với các nghiên cứu từ năm 1990 đến năm 2019 về các cách gọi tên khác nhau đối với thành phố bền vững chỉ ra rằng, sự khác biệt giữa các chỉ số theo các tên gọi chủ yếu thể hiện các con đường khác nhau được lựa chọn cho sự phát triển đô thị bền vững chứ không có sự đánh đổi nào đối với mục tiêu SDG 11 về phát triển đô thị bền vững. Bên cạnh những nghiên cứu tiếp cận bộ chỉ số ở khía cạnh khoa học về sự đánh giá, cũng có những nghiên cứu xem xét bộ chỉ số thành phố bền vững như một hướng dẫn thực hành việc phát triển đô thị bền vững. Nghiên cứu của Huang và cộng sự (2009) chỉ ra rằng, việc sử dụng bộ chỉ số thành phố bền vững giúp cho việc phân tích vai trò phát triển đô thị đối với tính bền vững của Đài Loan. Cụ thể nghiên cứu chỉ ra rằng, môi trường tự nhiên ở đô thị là một trong những thành phần quan trọng nhất và kinh tế đô thị đóng một vai trò tích cực và quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Đài Loan. Theo Pravitasari và cộng sự (2018), việc xây dựng chỉ số đô thị bền vững có thể được xem là một cách tiếp cận để đánh giá việc thực hiện phát triển bền vững ở Indonesia. Cụ thể, nghiên cứu cho thấy sử dụng bộ chỉ số là một phương pháp hiệu quả để chỉ ra vị trí của các vấn đề đối với sự phát triển bền vững. Báo cáo kết luận, việc sử dụng bộ chỉ số có thể giúp cho việc bản đồ hóa các vấn đề của thành phố, từ đó giúp cho việc ban hành các quyết sách phù hợp đến giải quyết vấn đề và xây dựng thành phố bền vững. Việc đánh giá bộ chỉ số thành phố bền vững tại Trung Quốc cho thấy, mặc dù xem bộ chỉ số vừa là công cụ để hướng dẫn thực hành phát triển đô thị, vừa là công cụ để đánh giá việc thực hiện mục tiêu phát triển đô thị bền vững, nhưng hệ thống chỉ số vẫn gặp nhiều hạn chế trong việc hướng dẫn thực hành đô thị bền vững. Vấn đề mấu chốt của nó là không có bộ phận chính thức giám sát việc áp dụng các chỉ số này và cũng thiếu những phương pháp giám sát có hiệu quả (Shen & Zhou, 306
  8. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT 2014). Điều này đặt ra một thực tế, để bộ chỉ số có thể thực hiện được vai trò dẫn dắt quá trình phát triển bền vững ở đô thị cần có các nguyên tắc triển khai chặt chẽ và hiệu quả hơn. 4. Thực tiễn phát triển đô thị và những định hướng phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam 4.1. Thực tiễn quá trình đô thị hóa tại Việt Nam Quá trình đô thị hóa nhanh chóng được xem là một trong những điểm nhấn quan trọng trong quá trình phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Nếu như mức độ đô thị hóa năm 1931 chỉ ở mức 7,5%, đến năm 1989 là 22% thì đến năm 2019 đã đạt 39,2%. Trong vòng 10 năm qua, mức độ đô thị hóa tăng gần 10 điểm %, gần bằng 1/2 cho cả 78 năm trước đó. Năm 1999 chỉ có có 629 đô thị, đến năm 2019 con số này đã đạt 835 đô thị (T. L. Nguyễn, 2021). Năm 1986, dân số đô thị của Việt Nam chỉ là 11,8 triệu người, chiếm khoảng 19% tổng dân số cả nước (Phạm, 2017), đến năm 2019, dân số thành thị là 33,1 triệu người chiếm 34,4% tổng dân số cả nước (GSO, 2020). Bảng 1. Mức độ đô thị hóa và số lượng đô thị ở Việt Nam giai đoạn 1931-2019 Năm 1931 1979 1989 1999 2009 2019 % 7,5 19,2 22,0 23,7 29,3 39,2 Số đô thị 629 752 835 Nguồn: (T. L. Nguyễn, 2021) Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng đô thị ở Việt Nam cũng từng bước được cải thiện. Hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ phát triển, không gian xanh được mở rộng, khu thương mại, dịch vụ, giải trí phát triển, mở rộng. Cơ sở hạ tầng giao thông được đầu tư mới, nâng cấp. Đến nay, tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt khoảng 88%; tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch giảm còn khoảng 20%. Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải tại đô thị đạt khoảng 86%. Diện tích bình quân sàn nhà ở toàn quốc đạt 24,25 m2/người. Chất lượng các công trình xây dựng về cơ bản được bảo đảm, đáp ứng được nhu cầu của người dân đô thị (T. L. Nguyễn, 2021). Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng như ở nhiều nước đang phát triển khác, quá trình đô thị hóa trong thời gian qua cũng nảy sinh nhiều vấn đề thách thức sự phát triển ở đô thị cũng như thực hiện mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. Thứ nhất, đô thị hóa gây sức ép rất lớn lên hệ sinh thái. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở Việt Nam đã dẫn đến một số bất cập như tình trạng mở rộng đô thị có mật độ thấp, sử dụng đất đai chưa hiệu quả (T. L. Nguyễn, 2021). Quá trình đô thị hóa mở rộng sang khu vực nông thôn dẫn tới tình trạng mất đất trong sản xuất nông nghiệp và suy giảm hệ thống thảm thực vật và hệ thống ao hồ (Phạm, 2017). Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hệ sinh thái mà còn thách thức về an ninh lương thực và chất lượng cuộc sống cả vùng thành thị và nông thôn. Thứ hai, đô thị hóa ở Việt Nam đã và đang góp phần làm ô nhiễm và suy thoái môi trường nghiêm trọng ở đô thị và các khu vực lân cận. Việt Nam hiện đang đứng trong top 10 nước ô nhiễm 307
  9. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG không khí ở châu Á; bụi mịn và chất lượng không khí luôn ở mức báo động tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn (T. H. Nguyễn, 2019). Trong khi đó, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa hoàn chỉnh và không đồng bộ, chưa thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu. Hệ thống cây xanh, công viên cũng như các hạ tầng kỹ thuật khác không đáp ứng yêu cầu của người dân đô thị (T. L. Nguyễn, 2021). Thứ ba, đô thị hóa đang làm nảy sinh các vấn đề xã hội của đô thị ở Việt Nam. Dân số đô thị tăng nhanh do di cư khó kiểm soát, trong khi kết cấu hạ tầng không đủ đáp ứng đã làm nảy sinh các vấn đề xã hội tại các đô thị lớn như nhà ở, nước sinh hoạt, tệ nạn xã hội. Nhiều khu nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch, nhà tạm xuất hiện, nhất là ở các đô thị lớn, như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ. Khoảng cách về mức sống giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn ngày càng chênh lệch; tệ nạn xã hội khu vực đô thị ngày càng phức tạp (T. L. Nguyễn, 2021). Thứ tư, trong công tác quản lý quá trình phát triển đô thị còn một số vấn đề tồn tại như: chính sách và hệ thống cơ sở pháp lý còn chồng chéo dẫn tới việc phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương chưa thực sự hiệu quả; công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch còn thiếu đồng bộ; các mô hình phát triển đô thị chưa rõ ràng; việc lồng ghép các tiêu chí bền vững vào phát triển đô thị thực hiện chưa được hiệu quả; việc phân loại đô thị còn có yếu tố bất hợp lý dẫn đến kích thích các địa phương chạy theo thành tích, mở rộng quy mô các đô thị và đầu tư quá mức, không quan tâm đến các chỉ tiêu thực chất (T. L. Nguyễn, 2021). 4.2. Thực tiễn triển khai áp dụng các mô hình đô thị trong phát triển đô thị ở Việt Nam Trong thời gian qua, một số đô thị tại Việt Nam cũng đã có những hướng đi trong việc tìm kiếm các mô hình phát triển thích hợp cho địa phường, đồng thời hướng tới các yêu cầu về phát triển đô thị bền vững như đô thị thông minh, đô thị sinh thái, đô thị xanh, đô thị nén,… và chỉ số cho các mô hình tương ứng cũng đã được các đô thị sử dụng như một công cụ đánh giá và định hướng cho sự phát triển của mình. Điển hình cho việc triển khai các mô hình đó là thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng và thành phố Hội An. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017, Đề án “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025” bắt đầu được triển khai. Theo đó, mục tiêu của Đề án là đến năm 2025, thành phố sẽ phát triển kinh tế tương đối cao, bền vững, trên nền tảng khai thác tốt nhất các nguồn lực, với người dân là trung tâm của đô thị. Mục tiêu tổng quát đến năm 2020 của thành phố là: (1) Bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, hướng đến kinh tế tri thức, kinh tế số; (2) Quản trị đô thị hiệu quả trên cơ sở dự báo; (3) Nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc; và (4) Tăng cường sự tham gia quản lý của người dân (Quyết định 6179/QĐ-UBND năm 2017 về phê duyệt Đề án xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2025, 2017). Theo báo của của UBND Thành phố Hồ Chí Minh, sau hai năm thực hiện, giai đoạn I của Đề án đã thu được những kết quả ban đầu như: thành lập được quy chế khai thác kho dữ liệu dùng chung và dữ liệu mẫu; trung tâm điều hành được hoàn thành; các trung tâm dự báo và mô phỏng 308
  10. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT phát triển kinh tế - xã hội bước đầu phát huy có hiệu quả trong công tác dự báo chỉ tiêu tăng trưởng và các kịch bản tăng trưởng; thí điểm thành công hai mô hình thí điểm đô thị thông minh tại Quận 1 và Quận 12. Với những kết quả đó, thành phố tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động trong giai đoạn sau theo hướng triển khai đại trà các lĩnh vực, khu vực khác của thành phố (Lê, 2020). Tại thành phố Đà Nẵng, năm 2008, Đà Nẵng chính thức triển khai Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường” thực hiện đến năm 2020 theo Quyết định số 41/2008/QĐ-UBND ngày 21/08/2008 nhằm mục tiêu xây dựng Đà Nẵng trở thành “thành phố môi trường”, với 10 chỉ tiêu cho 3 tiêu chí: (1) Chất lượng môi trường không khí gồm chỉ số ô nhiễm không khí, độ ồn tại khu dân cư và đường phố, tỷ lệ các nhà máy kiểm soát ô nhiễm không khí, diện tích không gian xanh đô thị bình quân trên người; (2) Chất lượng môi trường nước gồm tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch bình quân, tỷ lệ chất lượng nước đạt yêu cầu tại các khu vực sông, ven biển, hồ và nước ngầm, tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý, tỷ lệ nước thải công nghiệp đạt yêu cầu xả thải và (3) Chất lượng môi trường đất gồm tỷ lệ gom chất thải rắn sinh hoạt, tỷ lệ tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp (Quyết định số 41/2008/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng ban hành Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường”, 2008). Sau 12 năm thực hiện, theo đánh giá, Đà Nẵng đã đạt được kết quả tích cực với việc hoàn thành 7/10 chỉ tiêu đặt ra. Quan trọng hơn đó là việc ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường tại Đà Nẵng ngày càng được quan tâm, thu hút được sự tham gia đông đảo của người dân, các doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn. Thành phố Đà Nẵng được các bộ, ngành, các tổ chức trong và ngoài nước ghi nhận, đánh giá cao và đạt nhiều giải thưởng, chứng nhận trong nước và quốc tế về phát triển, quản lý đô thị, ứng dụng công nghệ thông tin, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Một số giải thưởng danh giá gồm: một trong 11 thành phố bền vững về môi trường của ASEAN (năm 2011); là đô thị có không khí sạch và có hàm lượng cacbon phát thải thấp của châu Á (năm 2012); là thành phố phong cảnh châu Á (năm 2013); là đô thị xuất sắc trong phong trào xây dựng đô thị xanh sạch đẹp, thành phố xuất sắc trong chuyển đổi (năm 2015); là Thành phố Xanh quốc gia của Việt Nam (năm 2018) (Quyết định 1099/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng Ban hành Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường” giai đoạn 2021-2030, 2021). Tương tự như Đà Nẵng, thành phố Hội An cũng bắt đầu thực hiện mục tiêu xây dựng thành phố Hội An - thành phố sinh thái vào năm 2009. Theo đó, một số chỉ tiêu phân đấu cho thành phố sinh thái Hội An vào năm 2030 là: (1) Diện tích đất giao thông đạt hơn 22 m2/người; (2) Cây xanh công cộng hơn 21 m2/người; (3) Nước sạch cho người dân đạt 100%; (4) chất lượng không khí, tiếng ồn, tỉ lệ nước thải sinh hoạt đạt 90 - 100% theo TCVN; (5) Tỉ lệ gia đình không xả rác thải, thu gom chất thải rắn đạt 100%. Ngoài ra, trên 30 tiêu chí khác quan trọng với đời sống dân sinh và văn hóa của thành phố cũng đạt 85 - 100% (Xây dựng Hội An thành đô thị sinh thái, 2009). Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong phương hướng phát triển Hội An đến năm 2030 với các nhóm tiêu chí cơ bản: (1) Đảm bảo môi trường tự nhiên: “Thoáng - Xanh - Sạch - Đẹp” 309
  11. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG với 19 tiêu chí; (2) Đảm bảo môi trường xã hội: “Thuận tiện - An toàn - Văn minh - Thân thiện và có bản sắc địa phương” với 12 tiêu chí; và (3) Đảm bảo sự bền vững với 11 tiêu chí. Tóm lại, cùng với chiến lược phát triển đô thị gắn với các tiêu chí phân loại đô thị, trong những năm gần đây, chiến lược phát triển đô thị gắn với các mô hình đô thị bền vững phù hợp với bối cảnh địa phương khác nhau tại Việt Nam đang là một xu hướng được quan tâm nhiều nhất. Sự lựa chọn hướng phát triển này có thể xem như là vừa đáp ứng xu hướng phát triển chung trên thế giới gắn với các giá trị căn bản của phát triển bền vững đồng thời phát huy được ưu điểm, đặc thù của từng địa phương, vùng, miền nhằm xây dựng các đô thị có bản sắc đáp ứng ngày một cao hơn yêu cầu của sự phát triển đô thị hướng tới mục tiêu xây dựng các thành phố dành cho tất cả mọi người, an toàn, có khả năng chống chịu và bền vững. 5. Kết luận Thực tế hơn một nửa dân số thế giới sống ở khu vực thành thị và đô thị hóa là một trong trong những xu thế ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, việc làm rõ những định hướng cho sự phát triển đô thị bảo đảm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững là hết sức cần thiết. Những lý thuyết và bài học quốc tế về phát triển đô thị cho thấy, việc sử dụng các bộ chỉ số làm thước đo đánh giá sự phát triển đồng thời định hướng cho mục tiêu phát triển nên được áp dụng nhằm hướng tới phát triển các đô thị bền vững. Việc tồn tại nhiều bộ chỉ số khác nhau cho định hướng và đánh giá sự phát triển của đô thị phản ánh thực tế việc xây dựng các mục tiêu phát triển đô thị cần được đặt trong bối cảnh, đặc thù của các đô thị, mong muốn của người dân cũng như chính quyền. Tuy vậy, những giá trị cốt lõi của phát triển bền vững ở các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường phải được bảo đảm trong việc đánh giá. Đặc biệt, trong khi khía cạnh kinh tế, xã hội cần được xem xét một cách tương đối và có những tiêu chuẩn khác nhau giữa các khu vực, các vùng khác nhau, việc đánh giá khía cạnh môi trường cần được bảo đảm theo những tiêu chuẩn thống nhất phù hợp nhất cho từng giai đoạn. Đối với Việt Nam, đô thị hóa đã và đang đáp ứng nhu cầu phát triển ngày một cao của người dân cũng như nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặc dù vậy, đô thị hóa cũng đặt ra những vấn đề, thách thức cần phải được giải quyết. Những đe dọa về nguồn tài nguyên ngày một khan hiếm, suy thoái, ô nhiễm môi trường ngày một trầm trọng, những vấn đề xã hội ở đô thị đang ngày càng trở thành những bức xúc xã hội, đã đặt ra những yêu cầu mới cho phát triển đô thị. Những hạn chế trong cách tiếp cận truyền thống về phát triển đô thị gắn với liền với những tiêu chí phân loại đô thị không phản ánh hết được bản chất và mong muốn về phát triển thực chất và bền vững. Vì vậy, những thử nghiệm ban đầu ở một số địa phương trong việc sử dụng các mô hình khác nhau của đô thị bền vững với các bộ chỉ số thành phố bền vững là những gợi mở cho việc hình thành và phát triển các bộ chỉ số, bộ công cụ đánh giá và định hướng phát triển đô thị bền vững. Để c có những gợi ý, đề xuất chính sách hiệu quả hơn cho việc sử dụng cách tiếp cận bộ chỉ số cho việc thực hiện phát triển đô thị, rất cần có những nghiên cứu chuyên sâu, đa chiều, liên ngành để làm rõ hơn những vấn đề cơ bản, cốt yếu trong cách tiếp cận này, từ đó có thể vận dụng thành công trong việc thực hiện phát triển các đô thị bền vững tại Việt Nam. 310
  12. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT Tài liệu tham khảo 1. Abbas, H., Shaheen, S., Elhoseny, M., Singh, A. K., & Alkhambashi, M. (2018). Systems thinking for developing sustainable complex smart cities based on self-regulated agent systems and fog computing. Sustainable Computing: Informatics and Systems, 19, 204-213. https://doi.org/10.1016/j.suscom.2018.05.005. 2. Ahvenniemi, H., Huovila, A., Pinto-Seppä, I., & Airaksinen, M. (2017). What are the differences between sustainable and smart cities? Cities, 60, 234-245. https://doi.org/10.1016/j.cities.2016.09.009 3. Bertuglia, C. S., Clarke, G. P., & Wilson, A. G. (2012). Modelling the city: Performance, policy and planning. Routledge. 4. Bibri, S. E. (2021). Data-driven smart sustainable cities of the future: An evidence synthesis approach to a comprehensive state-of-the-art literature review. Sustainable Futures, 3, 100047. https://doi.org/10.1016/j.sftr.2021.100047 5. Burnett, J. (2007). City buildings—Eco-labels and shades of green! Landscape and Urban Planning, 83(1), 29-38. https://doi.org/10.1016/j.landurbplan.2007.09.003 6. Castells, M. (2000). Urban sustainability in the information age. City, 4(1), 118-122. https://doi.org/10.1080/713656995 7. Friesen, J., & Pelz, P. F. (2020). COVID-19 and Slums: A Pandemic Highlights Gaps in Knowledge About Urban Poverty. JMIR Public Health and Surveillance, 6(3), e19578. 8. Gaigbe-Togbe, V. (2015). The impact of socio-economic inequalities on early childhood survival: Results from the demographic and health surveys. United Nations, Population Division, Technical Paper, 1, 30. 9. Grubler, A., & Fisk, D. (2012). Energizing sustainable cities: Assessing urban energy. Routledge. 10. GSO. (2020). Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/11/ket-qua-toan-bo-tong-dieu-tra-dan- so-va-nha-o-nam-2019/ 11. Huang, S.-L., Yeh, C.-T., Budd, W. W., & Chen, L.-L. (2009). A Sensitivity Model (SM) approach to analyze urban development in Taiwan based on sustainability indicators. Environmental impact assessment review, 29(2), 116-125. 12. Lê, T. (2020). Đề án Đô thị thông minh của TPHCM đang được triển khai ra sao? Cổng Thông tin điện tử thành phồ Hồ Chí Minh. https://tphcm.chinhphu.vn/de-an-do-thi-thong-minh- cua-tphcm-dang-duoc-trien-khai-ra-sao 13. LGMB. (1994). A framework for local sustainability: A response by UK Local Government to the UK Government’s first strategy for sustainable development. Luton : Local Government Management Board. 311
  13. QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG 14. Lynch, A. J., Andreason, S., Eisenman, T., Robinson, J., Steif, K., & Birch, E. L. (2011). Sustainable urban development indicators. 15. Mega, V., & Pedersen, J. (1998). Urban Sustainability Indicators; European Foundation for the Improvement of Living and Working Conditions: Dublin, Ireland, 1998. ISBN 92-828- 4669-5. 16. Mori, K., & Christodoulou, A. (2012). Review of sustainability indices and indicators: Towards a new City Sustainability Index (CSI). Environmental Impact Assessment Review, 32(1), 94-106. https://doi.org/10.1016/j.eiar.2011.06.001 17. Mori, K., & Yamashita, T. (2015). Methodological framework of sustainability assessment in City Sustainability Index (CSI): A concept of constraint and maximisation indicators. Habitat International, 45, 10-14. https://doi.org/10.1016/j.habitatint.2014.06.013 18. Nguyễn, T. H. (2019). Ô nhiễm không khí đô thị-Thực trạng và giải pháp. Tổng Cục Thống Kê, Con Số và Sự Kiện. http://consosukien.vn/o-nhiem-khong-khi-do-thi-thuc-trang-va- giai-phap.htm 19. Nguyễn, T. L. (2021). Nhận diện vấn đề đô thị và quản lý phát triển đô thị khi đất nước dần trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tạp Chí Cộng Sản. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/- /asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/nhan-dien-van-de-do-thi-va-quan-ly-phat-trien-do-thi- khi-dat-nuoc-dan-tro-thanh-nuoc-cong-nghiep-theo-huong-hien-dai 20. Phạm, Đ. N. (2017). Phát triển kiến trúc bền vững, kiến trúc xanh ở Việt Nam. Nxb. Trí Thức. 21. Pravitasari, A. E., Rustiadi, E., Mulya, S. P., & Fuadina, L. N. (2018). Developing regional sustainability index as a new approach for evaluating sustainability performance in Indonesia. Environ. Ecol. Res, 6, 157-168. 22. Quyết định 1099/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng Ban hành Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố Môi trường” giai đoạn 2021-2030. (2021). https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Xay-dung-Do-thi/Quyet-dinh-1099-QD-UBND-2021-De-an- Xay-dung-thanh-pho-moi-truong-Da-Nang-2021-2030-477239.aspx 23. Quyết định 6179/QĐ-UBND năm 2017 về phê duyệt Đề án xây dựng thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn đến năm 2025. (2017). https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Xay-dung-Do-thi/Quyet-dinh-6179-QD-UBND-2017-Xay- dung-thanh-pho-tro-thanh-do-thi-thong-minh-Ho-Chi-Minh-374526.aspx 24. Quyết định số 41/2008/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ban hành Đề án “Xây dựng Đà Nẵng-Thành phố Môi trường”, (2008). https://thuvienphapluat.vn/van- ban/Bo-may-hanh-chinh/Quyet-dinh-so-41-2008-QD-UBND-de-an-xay-dung-Da-Nang-thanh- pho-moi-truong-194143.aspx 312
  14. RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT 25. Schraven, D. (2021). Past, present, future: Engage with sustainable urban development through 35 city labels in the scientific literature 1990-2019. Journal of Cleaner Production, 292 (2021). https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2021.125924 26. Seto, K. C., Dhakal, S., Bigio, A., Blanco, H., Delgado, G. C., Dewar, D., Huang, L., Inaba, A., Kansal, A., & Lwasa, S. (2014). Human settlements, infrastructure and spatial planning. 27. Shen, L., & Zhou, J. (2014). Examining the effectiveness of indicators for guiding sustainable urbanization in China. Habitat International, 44, 111-120. 28. UNDESA. (2019). World Urbanization Prospects: The 2018 Revision ((ST/ESA/SER.A/420).). 29. UN-HABITAT. (2020). The New Urban Agenda. 30. WCED. (1987). Report of the World Commission on Environment and Development: Our Common Future. Accessed Feb, 10, 1-300. 31. Xây dựng Hội An thành đô thị sinh thái (2009). Cổng Thông tin điện tử Bộ Xây dựng. https://moc.gov.vn/tl/tin-tuc/29773/xay-dung-hoi-an-thanh-do-thi-sinh-thai.aspx. 313
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2