ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Võ Văn Cảnh
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ THỐNG NHẤT
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU Ở VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ TẬP TRUNG HÓA CÁC ĐƠN VỊ TRUYỀN MÁU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
Võ Văn Cảnh
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ THỐNG NHẤT
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU Ở VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ TẬP TRUNG HÓA CÁC ĐƠN VỊ TRUYỀN MÁU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số: 60340412
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Trần Văn Hải
Hà Nội, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: những kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận
văn là hoàn toàn trung thực, của tôi, không vi phạm bất cứ điều gì trong luật
sở hữu trí tuệ và pháp luật Việt Nam. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
trƣớc pháp luật.
Tác giả Luận văn
i
Võ Văn Cảnh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành xong Luận văn thạc sỹ, tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám hiệu Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa
Khoa học quản lý, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
quốc gia Hà Nội; Ban Lãnh đạo Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian theo học và nghiên cứu và
hoàn thành luận văn thạc sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô đã hƣớng dẫn và cho tôi nhiều
kiến thức trong quá trình học cao học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Trần Văn Hải, ngƣời đã trực
tiếp hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và làm Luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các Anh, Chị, Em các Khoa, Phòng trong
toàn Viện đã cung cấp thông tin số liệu và giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu.
Nhân dịp này Tôi bày tỏ lòng biết ơn tới Ba, Mẹ các Anh, Chị, Em và
ngƣời thân trong gia đình Nội, Ngoại đã đông viên, chia sẻ mọi mặt trong
cuộc sống thƣờng ngày để tôi có động lực để tôi phân đấu vƣơn lên.
Xin cảm ơn các Anh, Em trong phòng Vật Tƣ - Thiết bị y tế đã tạo
điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ trong công việc để tôi hoàn thành trong quá trình
học tập và làm luận văn này./.
Hà Nội, 2020
ii
Võ Văn Cảnh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .............................................................................. 4
DANH MỤC CÁC HÌNH, HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ .................................... 5
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 6
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 8
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 14
4. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 14
5. Mẫu khảo sát ............................................................................................ 14
6. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................... 14
7. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................. 15
8. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 15
9. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 16
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU .................................................................... 17
1.1. Cơ sở lý luận về chính sách công nghệ thống nhất ............................... 17
1.1.1. Khái niệm chính sách ...................................................................... 17
1.1.2. Khái niệm công nghệ ...................................................................... 23
1.1.3. Khái niệm chính sách công nghệ .................................................... 24
1.1.4. Khái niệm chính sách công nghệ thống nhất .................................. 24
1.1.5. Tiêu chí của công nghệ thống nhất ................................................. 25
1.2. Cơ sở lý luận về hệ thống truyền máu ................................................... 26
1.2.1. Khái niệm truyền máu ..................................................................... 26
1
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện hoạt động truyền máu .................................. 28
1.2.3. An toàn truyền máu ......................................................................... 30
1.2.4. Cơ sở khoa học của tập trung hóa các đơn vị truyền máu ............. 35
1.3. Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu .............. 39
1.3.1. Chính sách của Nhà nước liên quan đến truyền máu ..................... 39
1.3.2. Tiêu chí của chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống
truyền máu................................................................................................. 40
Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................... 40
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU Ở VIỆT NAM ........................................ 41
2.1. Thực trạng tổ chức hệ thống truyền máu .............................................. 41
2.1.1. Tổ chức hệ thống truyền máu trên thế giới ..................................... 41
2.1.2. Tổ chức hệ thống truyền máu tại Việt Nam .................................... 42
2.1.3. Nhận xét về tổ chức hệ thống truyền máu tại Việt Nam ................. 45
2.2. Thực trạng chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu .............. 47
2.2.1. Công nghệ an toàn trong truyền máu ............................................. 47
2.2.2. Công nghệ đảm bảo chất lượng xét nghiệm huyết học truyền máu.... 47
2.2.3. Công nghệ chuẩn sản xuất chế phẩm máu ..................................... 51
2.2.4. Công nghệ sử dụng máu và chế phẩm máu .................................... 52
2.2.5. Công nghệ NAT đảm bảo chất lượng nguồn máu truyền
cho người bệnh .......................................................................................... 54
2.3. Nhận xét chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu ................. 56
2.3.1. Công nghệ truyền máu: ................................................................... 56
2.3.2. Vị trí của Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương trong
hệ thống truyền máu .................................................................................. 56
2.3.3. Hạn chế của chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu .... 59
2.3.4. Nguyên nhân hạn chế của chính sách công nghệ trong hệ thống
truyền máu................................................................................................. 60
2
Tiểu kết Chương 2 ....................................................................................... 60
CHƢƠNG 3. KHUNG CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ THỐNG NHẤT
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU TRÊN CƠ SỞ TẬP TRUNG
HÓA CÁC ĐƠN VỊ TRUYỀN MÁU ....................................................................... 61
3.1. Xu hƣớng tập trung hóa các đơn vị truyền máu .................................... 61
3.1.1. Hình thành ngân hàng máu ............................................................ 61
3.1.2. Tập trung hóa các đơn vị truyền máu ............................................. 62
3.1.3. Xu hướng tập trung hóa các đơn vị truyền máu ở Việt Nam .......... 65
3.2. Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu .............. 67
3.2.1. Mục đích của chính sách ................................................................ 67
3.2.2. Áp dụng tiêu chí công nghệ thống nhất trong hệ thống
truyền máu................................................................................................. 68
3.3. Chính sách tập trung hóa các đơn vị truyền máu .................................. 70
3.3.1. Áp dụng tiêu chí tập trung hóa trong hệ thống truyền máu ........... 70
3.3.2. Tập trung hóa công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu ... 71
3.3.3. Xây dựng “hạt nhân” của hệ thống truyền máu ............................ 72
3.4. Các giải pháp xây dựng chính sách công nghệ thống nhất trong hệ
thống truyền máu trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu .............. 75
3.4.1. Giải pháp kỹ thuật ........................................................................... 75
3.4.2. Giải pháp về nguồn lực ................................................................... 75
3.4.3. Giải pháp về tổ chức, chính sách .................................................... 76
3.4.4. Những điều kiện cần và đủ để thực hiện chính sách ...................... 77
Tiểu kết Chương 3 ....................................................................................... 78
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 79
3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 80
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chú giải Ký hiệu
An toàn truyền máu ATTM
Bệnh viện đa khoa BVĐK
Hepatitis B virus HBV Virus viêm gan B
Hồng cầu lắng HCL
Hepatitis C virus HCV virus viêm gan C
HHTMTW Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng
Human Immunodeficiency Virus
HIV Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
ngƣời, bệnh liệt kháng
HMTN Hiến máu tình nguyện
HSA Cơ quan Khoa học Y tế
HTĐL Huyết tƣơng đông lạnh
HTTĐL Huyết tƣơng tƣơi đông lạnh
KH&CN Khoa học và Công nghệ
JRCBC Trung tâm Máu Chữ thập đỏ Nhật Bản
Hiệp hội Y học Truyền máu và Liệu pháp tế JSTMCT bào Nhật Bản
KTC Khối tiểu cầu
MOH Bộ Y tế
TTTMKV Trung tâm truyền máu khu vực
4
World Health Organization WHO Tổ chức Y tế Thế giới
DANH MỤC CÁC HÌNH, HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Hình 1.1: Cấu trúc paradigma của chính sách ................................................ 22
Sơ đồ 1: Khung phân tích dự kiến ................................................................... 16
Sơ đồ 2.1: Hệ thống truyền máu quốc gia ....................................................... 44
5
Sơ đồ 2.2: Hệ thống ngân hàng máu quốc gia ................................................ 44
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dịch vụ truyền máu ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trong mạng
lƣới khám bệnh, chữa bệnh của ngành y tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung. Máu là loại thuốc đặc biệt cho cấp cứu và điều trị bệnh nhân. Trong các
ca cấp cứu, nhiều bệnh nhân bị mất máu nặng cần phải truyền máu kịp thời,
trong các trƣờng hợp này, việc truyền máu là hết sức quan trọng và cần thiết vì
lƣợng máu mất đi thƣờng rất lớn, bệnh nhân có thể trụy mạch, shock, nếu
không có lƣợng máu bù vào cơ thể bệnh nhân có thể tử vong rất nhanh.
Thế nhƣng làm sao để có thể truyền máu một cách an toàn, kịp thời cứu
sống ngƣời bệnh, khi mà các điều kiện còn thiếu là một trăn trở của các y, bác
sĩ tuyến huyện.
Để có đủ máu cho nhu cầu cấp cứu và điều trị, cần tối thiểu số lƣợng
đơn vị máu bằng 2% dân số mỗi năm, ở các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt
Nam nhu cầu máu đến 5% thậm chí đến 7%. Nhu cầu máu cho cấp cứu, điều
trị bệnh là rất lớn và ngày càng tăng do chấn thƣơng, tai nạn giao thông, phụ
nữ băng huyết sau sinh, xuất huyết dạ dày, ung thƣ máu. Ngoài ra nhu cầu
máu ngày càng tăng do sự phát triển các kỹ thuật mổ tim, gan, thận, ghép
thận, ghép tế bào gốc tạo máu, ghép tạng… Nhu cầu máu còn cần thiết để dự
trữ cho an ninh quốc phòng và thảm họa…
Hệ thống Truyền máu ở Việt Nam hiện nay còn một số hạn chế nhƣ:
- Thống nhất quản lý hoạt động truyền máu:
Chƣa đƣa ra đƣợc yêu cầu về chất lƣợng của các trung tâm truyền máu;
Quản lý chƣa chặt chẽ về ngƣời hiến máu, máu và chế phẩm máu do có
một số đơn vị thuộc quân đội, công an... còn hoạt động độc lập.
- Tổ chức dịch vụ truyền máu:
Mạng lƣới truyền máu cả nƣớc hiện còn phân tán, đầu tƣ nhỏ lẻ dàn trải
6
công nghệ không đồng bộ, lạc hậu.
- Nguồn ngƣời hiến máu: Không đa dạng chủ yếu là học sinh, sinh viên.
- Mạng lƣới tiếp nhận, sàng lọc và cung cấp máu:
Các cơ sở truyền máu phần lớn vẫn trực thuộc bệnh viên, tiếp nhận theo
hƣớng tự cung tự cấp. Trang thiết bị sàng lọc chƣa hiện đại và thiếu đồng bộ.
kỹ thuật sàng lọc các bệnh truyền nhiễm vẫn còn có khoảng thời gian cửa sổ
kéo dài. Do đó, chất lƣợng đơn vị máu thấp và có thể dẫn đến không đảm bảo
an toàn truyền máu.
- Áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý:
Chƣa thống nhất áp dụng công nghệ thông tin trong hệ thống truyền
máu cả nƣớc dẫn đến không kiểm soát đƣợc ngƣời hiến máu, xét nghiệm an
toàn đơn vị máu, điều chế, bảo quản, cấp phát… Quản lý bệnh nhân, quản lý
an toàn miễn dịch hòa hợp truyền máu.
Có thể thấy hệ thống truyền máu ở Việt Nam hoạt động chƣa hiệu quả.
Nguyên nhân là do chƣa xây dựng đƣợc chính sách công nghệ thống nhất
trong hệ thống truyền máu trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu. Do
đó, việc nghiên cứu chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền
máu ở Việt Nam là rất quan trọng nhằm đảm bảo an toàn truyền máu và chất
lƣợng đơn vị máu trên toàn quốc.
Việc tập trung hóa các cơ sở truyền máu là yêu cầu hết sức cấp thiết
nhằm đảm bảo đủ máu và các chế phẩm máu an toàn để phục vụ ngƣời bệnh.
Tuy nhiên, để đảm bảo chất lƣợng máu và chế phẩm máu ở tất cả các trung
tâm Truyền máu trên cả nƣớc và tiết kiệm chi phí đào tạo, mua sắm thì cần có
một chính sách công nghệ thống nhất, đồng bộ. Điều này sẽ đảm bảo sự an
toàn bình đẳng cho ngƣời bệnh cần truyền máu trên cả nƣớc. Chính vì vậy, tôi
thực hiện đề tài “Xây dựng chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống
truyền máu ở Việt Nam trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu” làm
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý KH&CN nhằm giải quyết những vấn
7
đề nêu trên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Việc xây dựng chính sách có liên quan đến công nghệ truyền máu đã
đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trong nƣớc và ở nƣớc ngoài quan tâm. Trƣớc hết,
Luận văn xin phân tích các nghiên cứu đƣợc công bố ở nƣớc ngoài.
Shigeyoshi MAKINO, Shuichi KINO, Nelson Hirokazu TSUNO, Koki
TAKAHASHI (2012),“The Current State of Transfusion Medicine and Cell
Therapy” đã phân tích hệ thống truyền máu ở Nhật Bản đƣợc hỗ trợ bởi hệ
thống hiến máu. Sau quyết định của nội các nhằm thống nhất hệ thống hiến
máu cho Trung tâm Máu Chữ thập đỏ Nhật Bản (JRCBC) vào năm 1964, trải
qua quá trình hoàn thiện hệ thống quản lý truyền máu đã đƣợc củng cố, phân
công kỹ thuật viên y tế chịu trách nhiệm truyền máu, quản lý thống nhất dịch
vụ truyền máu, thành lập ủy ban truyền máu và cung cấp các xét nghiệm
truyền máu 24 giờ một ngày trong mỗi cơ sở. Từ năm 2006, các tổ chức đáp
ứng các yêu cầu này, thực hiện các biện pháp truyền máu an toàn và phù hợp
đã đƣợc trả một khoản phí quản lý truyền máu.
Hiệp hội Y học Truyền máu và Liệu pháp tế bào Nhật Bản (JSTMCT)
đã áp dụng cách tiếp cận nhóm để thực hiện truyền máu an toàn với mục đích,
thúc đẩy các hệ thống chứng nhận, bao gồm, bác sĩ đƣợc chứng nhận, kỹ thuật
viên y tế đƣợc chứng nhận trong y học truyền máu, y tá truyền máu đƣợc
chứng nhận JSTMCT bao gồm y tá truyền máu tự thân, y tá vận hành máy
tách thành phần máu và y tá truyền máu.
Tuy nhiên, trong các tổ chức nhỏ, việc thiết lập một hệ thống quản lý
truyền máu phù hợp là khó khăn, do đó, các ủy ban truyền máu chung đã
đƣợc thành lập ở mỗi quận, hoạt động không chỉ để thúc đẩy sử dụng và giảm
lãng phí máu, mà còn để chuẩn hóa thực hành truyền máu. Vào năm 2012, các
yêu cầu đối với quản lý truyền máu đã đƣợc sửa đổi, và đƣợc chia thành các
8
yêu cầu về cơ sở và các yêu cầu sử dụng phù hợp.
Shoichi Inaba (2005)“Safe management of blood products for
transfusion in Japan”, kết quả nghiên cứu đã chỉ ra sự an toàn của các sản
phẩm máu đƣợc sử dụng để truyền máu đã đƣợc cải thiện rất nhiều nhờ sự
phát triển của xét nghiệm viêm gan C vào cuối những năm 1980 và sau đó
đƣa kỹ thuật khuếch đại axit nucleic vào xét nghiệm sàng lọc.
Các sản phẩm máu hiện tại an toàn hơn gấp 1000 lần so với khoảng
năm 1990. Tuy nhiên, điều này vẫn chƣa phải là hoàn hảo, bởi vì không có
thay đổi về nguy cơ bệnh nhân mắc bệnh do truyền máu. Tỷ lệ sống sau 1
năm sau lần truyền máu đầu tiên là 75%. Nói cách khác, có tới 25% bệnh
nhân tử vong trong vòng 1 năm. Cái chết của bệnh nhân luôn là mối lo ngại
của bác sĩ tham gia. Ngoài ra, việc truyền máu không đúng cách, chẳng hạn
nhƣ sử dụng kết hợp các tế bào hồng cầu và huyết tƣơng tƣơi đông lạnh theo
tỷ lệ 1: 1, truyền huyết tƣơng tƣơi đông lạnh mà không cần xét nghiệm đông
máu trƣớc khi truyền máu và sử dụng máu toàn phần cho điều trị chảy máu,
do đó áp đặt rủi ro quá mức cho bệnh nhân.
Truyền máu an toàn có thể đạt đƣợc khi bác sĩ chỉ đạo truyền máu đúng
cách và y tá thực hiện chính xác. Cần chú ý nghiêm túc đến vai trò quan trọng
của các ủy ban trị liệu truyền máu trong việc thực hiện một hệ thống truyền
máu an toàn.
Koh B C M, Chong L L, Goh L G, Iau P, Kuperan P, Lee L H, Lim L
C, Ng H J, Sia A, Tan H H, Tan L K, Tay K H, Teo L T D, Ting W C, Yong
T T (2011) “Ministry of health clinical practice guidelines: clinical bloob
transfusion”. Cơ quan Khoa học Y tế (HSA) và Bộ Y tế (MOH) công bố
hƣớng dẫn thực hành lâm sàng về Truyền máu lâm sàng để cung cấp cho bác
sĩ và bệnh nhân ở Singapore hƣớng dẫn dựa trên bằng chứng để truyền máu.
Bài viết đã giới thiệu với các khuyến nghị từ hƣớng dẫn thực hành lâm sàng
9
HSA-MOH về truyền máu lâm sàng.
Các nghiên cứu đƣợc công bố ở trong nƣớc, bao gồm:
Đinh Thị Bích Hoài và cộng sự (2017), “Nghiên cứu tình hình sử
dụng các chế phẩm máu tại bệnh viện đa khoa huyện Đan Phượng giai đoạn
2012- 2015”, nghiên cứu này đã phân các số liệu trong giai đoạn từ
01/01/2012 - 31/12/2015, với mẫu khảo sát là tất cả các bệnh nhân điều trị
nội trú tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa Đan Phƣợng và đã đƣa ra
một số kết luận nhƣ sau:
- Tình hình sử dụng máu và chế phẩm máu tại Bệnh viện Đa khoa Đan
Phƣợng giai đoạn 2012- 2015 ngày càng tăng lên. Năm 2012, sử dụng 174
đơn vị chế phẩm máu, năm 2013 là 262 đơn vị, 2014 là 285 đơn vị và năm
2015 là 394 đơn vị (số đơn vị máu đƣợc truyền năm 2015 tăng gấp đôi so với
năm 2012).
- Chế phẩm KHC đƣợc sử dụng nhiều nhất (chiếm 66.6%) so với các chế
phẩm KTC, HTĐL, HTTĐL. Chế phẩm HTĐL đƣợc chỉ định truyền giảm dần
(61 đơn vị năm 2012, giảm còn 25 đơn vị năm 2015), chế phẩm HTTĐL đƣợc
chỉ định truyền tăng dần (1 đơn vị năm 2012, tăng lên 100 đơn vị năm 2015).
- Khoa Hồi sức cấp cứu và Khoa Sản có chỉ định truyền máu nhiều nhất.
- Khả năng đáp ứng máu và chế phẩm máu của Viện HHTMTW đối
với bệnh viện Đan Phƣợng ở mức cao (97.7%).
Hà Lâm Chi và cộng sự (2017), “Nghiên cứu thực trạng sử dụng máu,
chế phẩm máu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị trong 5 năm (2013-
2017)”. Đề tài cấp cơ sở. Nghiên cứu hồi cứu các số liệu trong hệ thống sổ
sách cấp phát máu tại Khoa Huyết học - Truyền máu Bệnh viện đa khoa
(BVĐK) tỉnh Quảng Trị trong 5 năm từ năm 2013 đến 2017. Mục đích nghiên
cứu nhằm tìm hiểu tình hình sử dụng máu tại các Khoa lâm sàng của BVĐK
tỉnh Quảng Trị để góp phần xây dựng kế hoạch cung cấp máu và chế phẩm
máu an toàn, kịp thời và hiệu quả. Kết quả cho thấy số lƣợng máu và chế phẩm
10
máu sử dụng trong 5 năm rất lớn (29.981 đơn vị). Số lƣợng máu tăng nhanh
hàng năm, từ 4.272 đơn vị máu năm 2013 tăng lên 7.058 đơn vị năm 2017.
Lƣợng máu sử dụng thấp nhất vào tháng 3 và tháng 10, tăng nhiều vào những
tháng cuối năm. Lƣợng máu sử dụng nhiều nhất là nhóm O (15.261 đơn vị
chiếm 50,9%) thấp nhất là nhóm AB (1.386 đơn vị chiếm 4,7%). Bệnh nhân
nội khoa (37,2%) Hồi sức cấp cứu, điều trị tích cực, chống độc (33,2%) sử
dụng máu nhiều hơn hệ ngoại khoa (Ngoại chấn thƣơng - Bỏng + Ngoại tổng
hợp + Chuyên khoa khác) 11,2%. Chế phẩm Hồng cầu khối sử dụng nhiều nhất
(15.023 đơn vị chiếm 50,1%) Huyết tƣơng tƣơi đông lạnh (13.869 đơn vị
chiếm 46,2%). Máu toàn phần sử dụng rất ít (465 đơn vị chiếm 1,55%) do
nguyên tắc của truyền máu hiện đại là “Cần gì truyền nấy, không cần không
truyền” việc sử dụng máu từng phần đƣợc quan tâm đầy đủ. Tóm lại nhu cầu
máu và chế phẩm máu cho điều trị tăng dần hàng năm do triển khai nhiều kỹ
thuật mới, số lƣợng bệnh nhân tăng dần. Số lƣợng máu sử dụng tại BVĐK tỉnh
Quảng Trị ngày càng tăng nói lên khả năng cung cấp máu cho điều trị của
Khoa Huyết Học - Truyền máu tại BVĐK tỉnh Quảng Trị ngày càng tốt.
Nguyễn Quang Tùng - Trần Văn Sáu (2017), “Nghiên cứu tình hình sử
dụng và tai biến truyền máu , chế phẩm máu tại bệnh viện 19 - 8 giai đoạn
2016 - 2017”. Việc sử dụng máu và các chế phẩm máu trong lâm sàng đã cứu
sống đƣợc nhiều ngƣời bệnh, không chỉ trong các chuyên ngành ngoại khoa
mà còn hỗ trợ rất lớn trong điều trị nội khoa nhƣ: hỗ trợ trong hóa trị liệu đối
với bệnh nhân ung thƣ, trong thận nhân tạo, các bệnh lý máu lành tính, ác
tính... Tuy vậy truyền máu cũng có thể gây ra tai biến nguy hiểm đến tính
mạng nhƣ khi truyền nhầm nhóm máu, các phản ứng truyền máu, lây truyền
các bệnh nhiễm trùng: HIV, HBV, HCV, giang mai, sốt rét... Trong những
năm qua, tại Việt Nam công tác truyền máu tại bệnh viện từng bƣớc đƣợc
quan tâm và đạt đƣợc nhiều hiệu quả nhất định, đặc biệt sau hơn 10 năm thực
hiện Chƣơng trình An toàn Truyền máu do Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt
11
(2001) và mới đây nhất là Thông tƣ số 26/2013/TT-BYT đã đƣợc Bộ Y tế ban
hành ngày 16/9/2013 hƣớng dẫn về hoạt động Truyền máu, đã tạo điều kiện
cho ngành truyền máu ở Việt Nam phát triển ngày càng bền vững. Hiện nay,
chuyên ngành Huyết học - Truyền máu chƣa có nhiều nghiên cứu đánh giá
nhu cầu sử dụng các chế phẩm máu và điều tra về các tai biến truyền máu tại
bệnh viện. Bệnh viện 19-8 là bệnh viện tuyến cuối của ngành Công an với
quy mô 600 giƣờng bệnh, hàng năm điều trị gần 30.000 lƣợt bệnh nhân là cán
bộ, chiến sỹ công an, bảo hiểm y tế và bệnh nhân tự nguyện trên địa bàn.
Bệnh viện có nhiều chuyên ngành phát triển và đã thực hiện đƣợc nhiều kỹ
thuật khó nhƣ: ghép thận, mổ tim hở, can thiệp mạch... Nhƣ vậy, nhu cầu sử
dụng máu và các chế phẩm máu cho cấp cứu, điều trị là khá lớn.
Ngày 25/11/2010, Trung tâm Huyết học - Truyền máu Bệnh viện 19-8 đƣợc
thành lập, từ đó công tác truyền máu ở Bệnh viện đã có những thay đổi đáng
kể: tỷ lệ máu tiếp nhận đƣợc từ nguồn ngƣời hiến máu tình nguyện đã đạt
đƣợc 100% (năm 2013). Nguồn ngƣời hiến máu chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ,
học sinh, sinh viên trong lực lƣợng Công an nhân dân. Vì vậy, Trung tâm
Huyết học - Truyền máu đã chủ động đƣợc nguồn máu an toàn, chất lƣợng
cao phục vụ cho cấp cứu, điều trị ngƣời bệnh, việc sản xuất các chế phẩm
máu có bƣớc phát triển, công tác truyền máu lâm sàng từng bƣớc đƣợc củng
cố và đạt hiệu quả cao.
Lê Hoàng Oanh và cộng sự (2014) “Tình hình sử dụng máu và chế
phẩm máu tại bệnh viện Chợ Rẫy 6 tháng đầu năm 2012 (1/2012 - 6/2012)”,
Nghiên cứu Y học, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 *
2014. Hàng ngày, nhu cầu máu và chế phẩm máu tại bệnh viện Chợ Rẫy rất
cao khoảng 200 đơn vị. Mục tiêu xác định các khoa có nhu cầu sử dụng máu
cao, tỷ lệ sử dụng, hiệu suất sử dụng máu và chế phẩm máu. Với phƣơng pháp
hồi cứu, chúng tôi tiến hành khảo sát tình hình sử dụng máu và chế phẩm máu
của tất cả khoa, phòng tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1/2012 đến tháng
12
6/2012. Kết quả và kết luận: Có 4 khoa sử dụng máu nhiều > 500 đơn vị
máu/tháng là Huyết học, Phòng mổ, Cấp cứu và Phẫu thuật tim. Tỷ lệ sử dụng
máu toàn phần 0,14%. Tỷ lệ sử dụng chế phẩm máu: hồng cầu lắng (HCL)
58,7%, huyết tƣơng 19,6%, khối tiểu cầu 14,2%, khối bạch cầu 0,06%, tủa
lạnh 7,3%. Hiệu suất sử dụng HCL 55,3%, huyết tƣơng 20,7%.
Ngô Văn Truyền (2012), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, lipid máu và
hiệu quả kiểm soát đường máu và lipid máu bằng Metformin trên bệnh nhân
đái tháo đường type 2 mới chẩn đoán.”. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Trƣờng Đại học Y Cần Thơ. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và lipid
máu của bệnh nhân đái tháo đƣờng type 2 mới chẩn đoán; Khảo sát hiệu quả
kiểm soát đƣờng máu và lipid máu của Metformin đơn độc và phối hợp với các
thuốc hạ đƣờng máu khác. Nội dung chủ yếu: - Nghiên cứu tiền cứu. - Đối
tƣợng: các bệnh nhân đến khám tại các phòng khám có đủ tiêu chuẩn. - Nội
dung: Hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng, xét nghiệm lipid máu, đƣờng máu,
HbA1C - Nhóm bệnh: khởi đầu điều trị bằng tiết chế, luyện tập và Metformin -
Nhóm chứng: Tiết chế, luyện tập và thuốc hạ đƣờng máu nhóm khác. - Đánh
giá lại lâm sàng, đƣờng máu, HbA1C, lipid máu sau mỗi 3, 6 tháng.
Trịnh Kiến Trung (2012), “Nghiên cứu nồng độ acid uric máu ở người
dân ≥ 40 tuổi tại quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ năm 2012”. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng Đại học Y Cần Thơ. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ
tăng acid uric máu ở ngƣời dân ≥ 40 tuổi tại quận Ninh Kiều thành phố Cần
Thơ năm 2012; Xác định các đặc điểm dịch tể học ở ngƣời dân ≥ 40 có tăng
acid uric máu tại quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ năm 2012. Nội dung
chủ yếu: Lấy danh sách ngƣời dân ≥ 40 tuổi ở quận Ninh Kiều thành phố Cần
Thơ. Hỏi và khám ngƣời dân theo bộ câu hỏi; lấy máu xét nghiệm acid uric.
Qua các nghiên cứu đƣợc công bố cho thấy các nhà nghiên cứu mới chỉ
phân tích công nghệ truyền máu nói chung, chƣa có nghiên cứu nào đề cập
đến việc xây dựng chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền
13
máu ở Việt Nam trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu, đây là
“khoảng trống trong nghiên cứu” để tác giả tiến hành nghiên cứu của mình
không trùng lặp với các nghiên cứu trƣớc đây.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích thực trạng từ đó đề xuất việc xây dựng chính sách công nghệ
thống nhất trong hệ thống truyền máu ở Việt Nam trên cơ sở tập trung hóa các
đơn vị truyền máu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về chính sách công nghệ, thống nhất trong hệ
thống truyền máu;
- Khảo sát thực trạng chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu
Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất khung chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền
máu ở Việt Nam trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: các cơ sở truyền máu, huyết học tại Hà Nội, Huế,
Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ.
Phạm vi thời gian: từ 2014-2018.
5. Mẫu khảo sát
Luận văn khảo sát tại các đơn vị sau:
- Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng
- Trung tâm Huyết học - Truyền máu Hải Phòng
- Trung tâm truyền máu khu vực Huế
- Bệnh viện Truyền máu - Huyết học thành phố Hồ Chí Minh
- Bệnh viện Huyết học - Truyền máu Cần Thơ
6. Câu hỏi nghiên cứu
Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu ở Việt Nam
14
trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu bao gồm những nội dung gì?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Nội dung chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu ở
Việt Nam trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu bao gồm:
- Tiêu chí của công nghệ thống nhất: An toàn, chính xác, phù hợp, phạm vi
rộng và hiệu quả;
- Tập trung hóa các đơn vị truyền máu với “hạt nhân” là Viện Huyết học -
Truyền máu.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Thu thập số liệu
a. Số liệu thứ cấp
- Phƣơng pháp tổng hợp và phân tích số liệu đƣợc cung cấp và do cơ
quan quản lý cung cấp (phƣơng pháp sử dụng số liệu thứ cấp); các nguồn tài
liệu tìm kiếm đƣợc (sách báo, truyền hình, internet…).
b. Số liệu sơ cấp
Phƣơng pháp phỏng vấn chuyên gia, thảo luận với một số nhà quản lý
để thu đƣợc những thông tin chính xác và trọng tâm.
8.2. Phương pháp phân tích số liệu
- Số liệu sau khi đƣợc thu thập sẽ phân tích dựa trên một số phƣơng
pháp:
+ Phƣơng pháp thông kê mô tả: Sau khi đã thu thập đầy đủ các số liệu,
học viên sẽ tiến hành phân loại, cho lọc lại các số liệu, chỉ tiêu phù hợp với
mục tiêu nghiên cứu.
+ Phƣơng pháp so sánh: So sánh theo thời gian của từng chỉ tiêu, so
sánh với các cơ quan, tổ chức, lĩnh vực khác.
+ Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: tổng hợp, phân tích và đánh giá để
tìm ra đƣợc thực trạng cũng nhƣ những hạn chế và từ đó tìm ra giải pháp.
8.3. Phương pháp xử lý số liệu
15
Sử dụng Excel, Word để tính toán, vẽ bảng, biểu đồ, tính toán tỷ lệ.
Tìm hiểu cơ sở lý thuyết về chính sách công nghệ, thống nhất, đồng bộ
Tìm hiểu về hệ thống truyền máu Việt Nam hiện nay
Phân tích thực trạng chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu Việt Nam hiện nay
Chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân
Đề xuất khung chính sách công nghệ thống nhất
Sơ đồ 1: Khung phân tích dự kiến
(Nguồn: Tác giả đề xuất)
8.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn các chuyên gia là những nhà quản lý để tìm hiểu và đánh giá
chính xác nhất thực trạng hiện nay trong hệ thống truyền máu của Việt Nam.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục các từ viết
tắt, danh mục bảng biểu, nội dung của luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách công nghệ trong hệ thống
truyền máu
Chương 2. Thực trạng chính sách công nghệ trong hệ thống truyền
máu Việt Nam
Chương 3. Khung chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống
16
truyền máu trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU
1.1. Cơ sở lý luận về chính sách công nghệ thống nhất
1.1.1. Khái niệm chính sách
Đã có nhiều nhà nghiên cứu ở nƣớc ngoài phân tích khái niệm chính
sách, có thể dẫn chứng nhƣ sau:
Theo J. H. Fichter (1971)“Chính sách là một phần của văn hóa, một
đoạn đã được khuôn mẫu hóa trong nếp sống của một dân tộc”, “... chính
sách được xem như những khuôn mẫu tác phong công khai và tiềm ẩn tự biến
thành những vai trò xã hội do những con người đảm nhiệm và nhiều loại
tương quan khác nữa giữa những con người với nhau, đứng đầu những tương
quan đó là những diễn tiến xã hội”.
Theo Wolf R. (2013), chính sách từ tiếp cận chính sách công, ví dụ
trong tác phẩm Định nghĩa về phân tích chính sách đã nêu: “Chính sách công
được hiểu là nguyên tắc hướng dẫn hành động của nhánh hành pháp
(administrative executive branches) trong tổ chức nhà nước để giải quyết các
vấn đề một cách phù hợp với các thiết chế pháp luật”. Cách hiểu này về chính
sách công đã coi chính sách công phải gắn với hoạt động của nhà nƣớc, mà cụ
thể gắn với hoạt động của nhánh hành pháp trong tổ chức nhà nƣớc. Nhƣ đã
biết, tổ chức nhà nƣớc hiện đại chia thành ba nhánh lập pháp, hành pháp và tƣ
pháp, bởi vậy có thể nhận định quan điểm của Wolf Robert về chính sách
công không bao gồm các văn bản pháp luật (là sản phẩm của nhánh lập pháp,
ví dụ luật của Quốc hội), hay nói cách khác Wolf Robert quan niệm chính
sách công là những văn bản của Chính phủ nhằm cụ thể hóa chính sách của
Quốc hội.
Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận chính sách
17
khác nhau.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đƣa ra định nghĩa: “Chính sách là những
chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện
trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,
nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [Từ điển bách khoa Việt Nam,
Tập 1, trang 702].
Cách tiếp cận chính sách gắn với chủ thể ban hành chính sách là chính
phủ hoặc một đảng phái, chính sách gắn với pháp luật, ví dụ:
- “Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một
mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế
mà đề ra. Hoặc Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng
phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội. Nguyễn Thị Nhƣ
Mai (2012)
Trong các loại chính sách chung lại có các chính sách đối với từng lĩnh
vực, ví dụ: Trong chính sách kinh tế có các chính sách mậu dịch tự do, chính
sách bảo hộ thuế quan, chính sách tài chính. Trong chính sách tiền tệ có chính
sách thị trƣờng tự do, trong chính sách xã hội có chính sách dân tộc, chính
sách tôn giáo, chính sách quản lý tài nguyên quốc gia... Tóm lại, có nhiều loại
chính sách khác nhau, có chính sách chung, chính sách cụ thể tùy thuộc vào
nội dung và lĩnh vực kinh tế - xã hội. Chính sách đƣợc thực thi khi đƣợc thể
chế hóa bằng pháp luật.
Từ các cách tiếp cận trên đây, theo Vũ Cao Đàm (2011) khi nói đến
một chính sách, là nói đến những yếu tố sau đây:
- Chính sách là tập hợp những biện pháp mà chủ thể quyền lực hoặc
chủ thể quản lý đƣa ra, đƣợc thể chế hóa thành những quy định có giá trị
pháp lý, nhằm thực hiện chiến lƣợc phát triển của hệ thống theo mục đích mà
18
chủ thể quyền lực mong đợi;
- Chính sách bao giờ cũng tạo ra một sự phân biệt đối xử của chủ thể
quyền lực hoặc chủ thể quản lý đối với các nhóm xã hội khác nhau. Trong sự
phân biệt đối xử đó, chủ thể quyền lực có sự ƣu đãi đối với một (hoặc một số)
nhóm xã hội nào đó;
- Các biện pháp ƣu đãi phải có tác dụng kích thích động cơ hoạt động
của nhóm đƣợc ƣu đãi, là nhóm có vai trò then chốt trong việc thực hiện các
mục tiêu phát triển hệ thống, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển của hệ thống
theo chiến lƣợc mà nhóm chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đƣa ra;
- Chính sách luôn tạo ra một bất bình đẳng xã hội, rất có thể, đồng thời
khắc phục một bất bình đẳng xã hội đang tồn tại, rất có thể khoét sâu thêm
những bất bình đẳng vốn có, nhƣng cuối cùng phải nhằm mục đích tối
thƣợng, là thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của mục tiêu phát triển toàn hệ
thống (hệ thống xã hội);
- Toàn bộ những biện pháp đó phải đạt đến một kết quả là tạo ra một
đòn ứng phó với một tình huống của cuộc chơi, có khi là rất bất lợi cho chủ
thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý.
Nhƣ vậy, nói về một quyết định chính sách, ngƣời quản lý có thể hiểu
theo những khía cạnh nhƣ sau:
- Chính sách là một tập hợp biện pháp. Đó có thể là một biện pháp kích
thích kinh tế, biện pháp động viên tinh thần, một biện pháp mệnh lệnh hành
chính hoặc một biện pháp ƣu đãi đối với các cá nhân hoặc các nhóm xã hội;
- Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa dƣới dạng các
đạo luật, pháp lệnh, sắc lệnh; các văn bản dƣới luật, nhƣ nghị định của chính
phủ; thông tƣ hƣớng dẫn của các bộ, hoặc các văn bản quy định nội bộ của
các tổ chức (doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức xã hội,...);
- Chính sách tác động khác nhau vào động cơ hoạt động của các cá
nhân và nhóm xã hội khác nhau. Tùy thuộc vai trò khác nhau trong việc thực
19
hiện mục tiêu chính sách.
- Chính sách phải hƣớng động cơ của các cá nhân và nhóm xã hội nói
trên vào một mục tiêu cụ thể của hệ thống xã hội. Chẳng hạn, mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp, mục tiêu đào tạo của nhà trƣờng, mục tiêu phát triển
của một địa phƣơng, mục tiêu quản lý tài nguyên quốc gia,...
Trong quá trình chuẩn bị một quyết định chính sách, ngƣời quản lý cần
xác định rõ các đặc điểm sau:
- Cho ra đời một chính sách chính là việc đƣa ra một giải pháp ứng phó
trong một cuộc chơi. Giải pháp đó phải lựa chọn sao cho chủ thể quản lý luôn
thắng trong cuộc chơi, nhƣng với chú ý rằng luôn thắng trong điều kiện mà
đối tác cảm thấy đƣợc chia sẻ lợi ích thỏa đáng (cân bằng Nash), không dồn
đối tác vào đƣờng cùng để đón lấy những mối họa tiềm ẩn trong các vòng
chơi tiếp sau;
- Một chính sách đƣa ra nhằm khắc phục một yếu tố bất đồng bộ
nào đó trong hệ thống, nhƣng đến lƣợt mình, chính sách lại làm xuất hiện
những yếu tố bất đồng bộ mới. Nhƣ vậy, quá trình làm chính sách thực
chất là tạo ra những bƣớc phát triển của hệ thống, từ những bất đồng bộ
này dẫn tới những bất đồng bộ khác. Trong quá trình phát triển hệ thống,
không bao giờ ảo tƣởng sự đồng bộ ổn định tuyệt đối, có nghĩa là không
còn phát triển;
Khi nói sử dụng tiếp cận tổng hợp để xem xét một chính sách, không
nhất thiết phải xem xét đủ mọi hƣớng tiếp cận nhƣ trên, mà chỉ có thể một vài
cách tiếp cận trong đó.
Vũ Cao Đàm (2011) định nghĩa: “Chính sách là một tập hợp biện pháp
đƣợc thể chế hóa, mà chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đƣa ra, trong đó
tạo sự ƣu đãi đối với một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ
hoạt động của họ, định hƣớng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu
20
ƣu tiên đó trong chiến lƣợc phát triển của một hệ thống xã hội”.
Tổng hợp từ những phân tích ở trên, trong Luận văn này thuật ngữ
chính sách được hiểu là tập hợp các biện pháp được chủ thể quản lý đưa ra,
nhằm khắc phục tình trạng bất cập hiện tại để đạt mục tiêu của tổ chức.
Triết lý của chính sách
Trong tác phẩm Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, Kuhn đã
đƣa ra thuật ngữ “paradigm”, theo đó khoa học thuần túy là sản phẩm của tƣ
duy. Kuhn nêu hai vấn đề liên quan đến paradigm. Thứ nhất, paradigm là
các tri thức nền tảng mang tính lý thuyết và đƣợc chấp nhận rộng rãi trong
các nhà khoa học hàng đầu ở một lĩnh vực khoa học nhất định. Các tri thức
nền tảng mang tính lý thuyết trên đƣợc nêu ra trong các sách giáo khoa của
lĩnh vực đó. Thứ hai, paradigm là các tình huống chuẩn và các cách giải
quyết vấn đề.
Khủng hoảng có thể dẫn đến sự xuất hiện của một paradigm mới. Nếu
paradigm mới này đƣợc chấp nhận thì đó là một sự chuyển đổi paradigm
(paradigm shift). Kuhn gọi đây là những cuộc cách mạng khoa học. Các đột
phá trong KH&CN bắt nguồn từ những chuyển đổi paradigm cơ bản, những
biến đổi mang tính cách mạng của khoa học.
Trong tác phẩm Khoa học chính sách, Vũ Cao Đàm đã nêu sự tƣơng
thích về khung mẫu giữa chính sách và xã hội và nhận định khung mẫu chính
sách luôn tƣơng thích với khung mẫu xã hội và biến đổi toàn bộ paradigma, là
giai đoạn cuối cùng cao nhất, triệt để nhất của biến đổi xã hội. Đó là sự biến
đổi sâu sắc, bao gồm, từ gốc là triết lý phát triển xã hội, đến hệ quan điểm
phát triển xã hội, hệ chuẩn mực phát triển xã hội và cuối cùng là những hệ
khái niệm đƣợc sử dụng trong xã hội. Vũ Cao Đàm (2011)
Vũ Cao Đàm đã khái quát cấu trúc paradigma của chính sách qua hình
21
sau đây:
Hình 1.1: Cấu trúc paradigma của chính sách
Trong luận văn này, paradigm đƣợc gọi là khung mẫu. Thực tiễn cho
Nguồn: Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình Khoa học chính sách
thấy hệ thống truyền máu đƣợc tổ chức theo hình thức phân tán đã bộc lộ
những khiếm khuyết nhƣ đã phân tích, vì vậy cần thiết phải dẫn đến sự xuất
hiện của một paradigm mới. Nếu paradigm mới này đƣợc chấp nhận thì đó là
một sự chuyển đổi paradigm (paradigm shift).
Triết lý/khung mẫu của chính sách đƣợc tiếp cận theo quan niệm
của Kuhn:
- Là các tình huống chuẩn: công nghệ thống nhất, tập trung hệ thống
truyền máu;
- Cách giải quyết:
+ Tiêu chí của công nghệ thống nhất;
+ Mô hình tập trung hệ thống truyền máu.
Triết lý của chính sách đƣợc xây dựng trên cơ sở thực tiễn: truyền máu
luôn đƣợc coi là một trong những chiến lƣợc ƣu tiên hàng đầu do dịch
22
HIV/AIDS ngày càng lan rộng trong cộng đồng và tỷ lệ nhiễm HIV từ 5-10%
trên toàn thế giới thông qua truyền máu và các chế phẩm máu. Việc lây nhiễm
này có thể đƣợc loại trừ nếu biết phối hợp và thực hiện tốt chƣơng trình
Truyền máu quốc gia, bao gồm các điểm sau:
- Thiết lập dịch vụ truyền máu tập trung;
- Chỉ tiếp nhận máu từ những ngƣời hiến máu tình nguyện không lấy tiền;
- Sàng lọc tất cả các đơn vị máu;
- Giảm thiểu các trƣờng hợp không cần truyền máu, sử dụng máu hợp
lý, hiệu quả và sử dụng các chất thay thế khi có thể.
1.1.2. Khái niệm công nghệ
Công nghệ (tiếng Anh: technology) là sự thay đổi, việc sử dụng,
và kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ
thống, và phƣơng pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải
pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể. Công
nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp những công cụ nhƣ vậy, bao gồm máy
móc, những sự sắp xếp, hay những quy trình. Công nghệ ảnh hƣởng đáng kể
lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con ngƣời cũng nhƣ của những động
vật khác vào môi trƣờng tự nhiêncủa mình. Thuật ngữ có thể đƣợc dùng theo
nghĩa chung hay cho những lĩnh vực cụ thể, ví dụ nhƣ "công nghệ xây dựng",
"công nghệ thông tin".
Công nghệ (có nguồn gốc từ technologia, hay τεχνολογια, trong tiếng
Hy Lạp; techno có nghĩa là thủ công và logia có nghĩa là "châm ngôn") là
một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và mƣu mẹo của con ngƣời. Tùy
vào từng ngữ cảnh mà thuật ngữ công nghệ có thể đƣợc hiểu:
- Công cụ hoặc máy móc giúp con ngƣời giải quyết các vấn đề;
- Các kỹ thuật bao gồm các phƣơng pháp, vật liệu, công cụ và các tiến
trình để giải quyết một vấn đề;
- Các sản phẩm đƣợc tạo ra phải hàng loạt và giống nhau.
23
- Sản phẩm có chất lƣợng cao và giá thành hạ.
1.1.3. Khái niệm chính sách công nghệ
Chính sách công nghệ (Technology Policy) đã đƣợc nhiều nhà khoa học
nghiên cứu. Trong số đó có nghiên cứu trực tiếp đề cập đến thuật ngữ chính
sách công nghệ và cũng có nghiên cứu không trực tiếp đề cập đến thuật ngữ
này, nhƣng lại đƣợc coi là khai sáng ra thuật ngữ này.
Theo các khái niệm trên, chính sách công nghệ thống nhất là việc các cơ
quan quản lý nhà nƣớc ban hành, áp dụng các chính sách nhất quán về công
nghệ và các công nghệ áp dụng trong từng lĩnh vực khác nhau nhằm mục đích
thay thế sức lao động của con ngƣời, tăng năng suất lao động, đồng nhất hóa
các sản phẩm và dịch vụ, cải tiến chất lƣợng, từ đó tăng giá trị sản phẩm.
Chính sách công nghệ có thể đƣợc tiếp cận với nhiều cách khác nhau.
Theo Lewis M. Branscomb (1995), chính sách công nghệ là một thuật ngữ
liên quan đến “các phƣơng tiện công cộng để ƣơm tạo những tiềm năng và
tối ƣu hóa các việc ứng dụng những tiềm năng này để phục vụ các mục tiêu
vì lợi ích quốc gia. Branscomb định nghĩa công nghệ trong bối cảnh này là
sự kết hợp của năng lực, cơ sở, kỹ năng, kiến thức và tổ chức cần thiết để
thành công tạo ra sản phẩm bao gồm hàng hóa và dịch vụ. Các học giả khác
phân biệt giữa chính sách công nghệ và chính sách khoa học, cho sự khác
nhau thể hiện, chính sách công nghệ liên quan đến sự hỗ trợ, tăng cƣờng và
phát triển công nghệ, trong khi đo chính sách khoa học tập trung vào sự phát
triển của khoa học và đào tạo nhân lực khoa học. Quan niệm khác thì cho
rằng chính sách công nghệ là một dạng chính sách công nghiệp tích cực
(active industrial policy).
1.1.4. Khái niệm chính sách công nghệ thống nhất
Các chính sách hiện nay về công nghệ trong lĩnh vực truyền máu chƣa
thực thi đƣợc, còn gặp khó khăn, bất cập do chƣa tập trung. Vì thế cần tập
trung hóa các hoạt động này để chính sách công nghệ có thể vận hành hiệu
24
quả hơn. Đây chính là chính sách công nghệ thống nhất.
1.1.5. Tiêu chí của công nghệ thống nhất
Công nghệ thống nhất (unified technologies) thƣờng đƣợc sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, Joe Schurman (2011) trong tác phẩm
Microsoft Voice and Unified Communications đã cho rằng tính thống nhất của
công nghệ đƣợc thể hiện trên các khía cạnh về cấu trúc của công nghệ, về
thống nhất trong hệ khái niệm, ví dụ hệ khái niệm thời gian, hệ đo lƣờng, hệ
đối tƣợng, hệ tiêu chí…
Trong lĩnh vực công nghệ, do thời điểm ra đời của từng công nghệ khác
nhau, do các tác giả khác nhau sáng tạo nên, có thể do nguồn thông tin
KH&CN bị hạn chế và hơn nữa có thể xuất hiện “sự không công nhận lẫn
nhau” giữa các tác giả của các công nghệ khác nhau. Hiện tƣợng trên dẫn đến
sự không thống nhất giữa các công nghệ. Sự không thống nhất giữa các công
nghệ dẫn đến việc khó quản lý chúng, gây lãng phí các nguồn lực, nhƣ nguồn
nhân lực, tài chính, thời gian, vật lực…
Sự không thống nhất giữa các công nghệ còn đƣợc thể hiện trong lĩnh
vực quản lý công nghệ, đó là mỗi phần tử trong hệ thống lại sử dụng những
công nghệ khác nhau, để có thể quản lý đƣợc hệ thống thì chủ thể quản lý
phải sử dụng tất cả các công nghệ mà các phần tử trong hệ thống đang sử
dụng, đây là điểm có thể chấp nhận nhƣng gây lãng phí rất nhiều nguồn lực.
Trong Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, khi nêu tính khách
quan, giá trị phán xét và lý thuyết lựa chọn để đánh giá một chính sách công
nghệ, Kuhn nêu 5 tiêu chí nhƣ sau:
1. Chính xác (Accurate): theo kinh nghiệm đầy đủ với thử nghiệm và
quan sát;
2. Phù hợp (Consistent): nội dung phù hợp và phù hợp với các lý
thuyết khác;
3. Phạm vi rộng (Broad Scope);
25
4. Đơn giản (Simple);
5. Hiệu quả (Fruitful): một lý thuyết cần phải khám phá những hiện
tƣợng mới hoặc mối quan hệ mới giữa các hiện tƣợng đó (a theory should
disclose new phenomena or new relationships among phenomena).
1.2. Cơ sở lý luận về hệ thống truyền máu
1.2.1. Khái niệm truyền máu
Truyền máu là quá trình nhận máu hoặc các sản phẩm máu vào hệ tuần
hoàn theo đƣờng tĩnh mạch. Truyền máu đƣợc sử dụng cho các điều kiện y tế
khác nhau để bổ sung các thành phần bị mất của máu. Truyền máu ban đầu sử
dụng máu toàn phần. Nhƣng ngày nay, y học hiện đại thƣờng chỉ truyền các
thành phần của máu, chẳng hạn nhƣ khối hồng cầu, bạch cầu, huyết tƣơng,
các thành phần chống đông, và tiểu cầu.
Trong truyền máu do nồng độ máu trong cơ thể thấp, hoặc vì cơ thể
không đủ hoặc vì bị mất máu trong quá trình phẫu thuật, chấn thƣơng hoặc
bệnh. Việc truyền máu cũng có thể đƣợc thực hiện để bổ sung các thành phần
khác nhau của máu. Trong truyền máu thông thƣờng, máu toàn phần hoặc các
chế phẩm máu đƣợc truyền qua một đƣờng truyền tĩnh mạch và kim đƣợc đặt
trong một trong những tĩnh mạch ở cánh tay. Việc truyền máu thƣờng mất 1-2
giờ, trong trƣờng hợp khẩn cấp, có thể đƣợc thực hiện nhanh hơn.
Có nhiều lý do để bệnh nhân đƣợc thực hiện truyền máu, bao gồm phẫu
thuật, thƣơng tích và bệnh tật. Ung thƣ có thể làm giảm sản xuất của các tế bào
hồng cầu, các tế bào bạch cầu và tiểu cầu của cơ thể bằng cách tác động đến
các cơ quan có ảnh hƣởng đến máu, chẳng hạn nhƣ thận, tủy xƣơng và lách.
Thuốc đƣợc sử dụng trong hóa trị liệu cũng có thể làm giảm các thành phần của
máu. Truyền máu có thể đƣợc sử dụng để cải thiện các hiệu ứng nhƣ vậy.
Một số bệnh gây giảm số lƣợng tiểu cầu hoặc rối loạn các yếu tố đông
máu. Vì vậy, cần truyền tiểu cầu hoặc yếu tố đông máu huyết tƣơng để bù
đắp. Bệnh nhân nhiễm trùng, suy gan hoặc các vết bỏng nặng có thể cần
26
truyền huyết tƣơng, một phần chất lỏng của máu. Những ngƣời có bệnh về
máu, và những ngƣời cấy ghép tế bào gốc có thể đƣợc truyền của các tế bào
hồng cầu và tiểu cầu. Truyền albumin, một protein máu, có thể đƣợc đƣa ra để
giúp điều trị một số vấn đề về gan nghiêm trọng.
Truyền máu thƣờng không có biến chứng. Tuy nhiên, có một số rủi ro.
Một số phản ứng truyền máu xảy ra trong quá trình truyền.
Phản ứng dị ứng và nổi mề đay: Mặc dù đƣợc cung cấp máu phù hợp
với nhóm máu, vẫn có thể có một phản ứng dị ứng với các phần của máu
đƣợc truyền. Các dấu hiệu và triệu chứng này nhƣ phát ban và ngứa. Những
loại phản ứng truyền máu thƣờng đƣợc điều trị với thuốc kháng histamine và
hiếm khi nghiêm trọng. Hiếm khi, một phản ứng dị ứng bao gồm khó thở,
huyết áp thấp, ớn lạnh, lo lắng, nhịp tim nhanh và buồn nôn.
Sốt: Đây là phản ứng phổ biến, nhƣng thƣờng nó không phải là nghiêm
trọng. Khi một cơn sốt phát triển nhanh chóng trong quá trình truyền hoặc
ngay sau khi truyền, nếu phát triển trong truyền bác sĩ có thể ngăn chặn sự
truyền để đánh giá thêm trƣớc khi quyết định có tiếp tục hay không. Sốt có
thể là phản ứng bình thƣờng của cơ thể với các tế bào bạch cầu sau khi truyền
máu, và nó có thể đƣợc đi kèm với ớn lạnh.
Sắt quá tải: Truyền máu nhiều có thể dẫn đến quá nhiều chất sắt trong
máu. Điều này có thể làm hỏng các bộ phận của cơ thể, bao gồm cả gan và
tim. Những ngƣời có tình trạng quá tải sắt có thể đƣợc điều trị bằng việc sử
dụng thuốc để loại bỏ sắt dƣ thừa.
Phản ứng miễn dịch tán huyết cấp tính: Đây là một phản ứng truyền
máu rất hiếm nhƣng nghiêm trọng trong cơ thể tấn công các tế bào hồng cầu
đƣợc truyền. Để đáp ứng miễn dịch, các tế bào hồng cầu sẽ tiết một chất vào
máu có gây hại cho thận. Điều này thƣờng xảy ra trong hoặc ngay sau khi
truyền máu. Các triệu chứng bao gồm sốt, buồn nôn, ớn lạnh, lƣng hoặc ngực
đau, và nƣớc tiểu đậm màu. Phản ứng tán huyết cấp tính miễn dịch là phổ
27
biến nhất trong những ngƣời đã có truyền nhiều.
Phản ứng tan máu muộn: Điều này tƣơng tự nhƣ phản ứng tán huyết
miễn dịch cấp tính, nhƣng nó xảy ra chậm hơn rất nhiều. Cơ thể tấn công các
tế bào máu đỏ, nhƣng với tốc độ nhƣ vậy chậm mà nó có thể mất một thời
gian - thƣờng là 1-4 tuần để nhận thấy một sự giảm ở mức độ tế bào hồng cầu
trong máu. Phản ứng này có nhiều khả năng xảy ra nếu đã có trƣớc khi truyền.
Máu sẽ đƣợc kiểm tra trƣớc khi truyền máu để xác định xem nhóm
máu là A, B, AB, O và là Rh dƣơng hoặc Rh âm tính. Bác sĩ có thể kê toa
thuốc để giảm các phản ứng dị ứng. Thông thƣờng, không cần phải thay đổi
mức độ hoạt động hoặc chế độ ăn uống trƣớc khi truyền. Truyền máu thƣờng
đƣợc thực hiện tại một bệnh viện, phòng khám. Có thể cần thêm xét nghiệm
sàng lọc vi rút, vi khuẩn, nhóm máu hiếm để kiểm tra, đảm bảo an toàn
truyền máu.
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện hoạt động truyền máu
Nguyên tắc thực hiện hoạt động truyền máu đƣợc quy định tại Điều 3
Thông tƣ 26/2013/TT- BYT hƣớng dẫn hoạt động truyền máu nhƣ sau:
Vì mục đích nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận. Bảo đảm tự
nguyện đối với ngƣời hiến máu; không ép buộc ngƣời khác hiến máu, thành
phần máu. Chỉ sử dụng máu và các chế phẩm máu phục vụ chữa bệnh, đào
tạo, nghiên cứu khoa học. Giữ bí mật các thông tin có liên quan đến ngƣời
hiến máu, ngƣời nhận máu và chế phẩm máu. Bảo đảm an toàn cho ngƣời
hiến máu, ngƣời bệnh đƣợc truyền máu, chế phẩm máu và nhân viên y tế có
liên quan. Thực hiện truyền máu hợp lý đối với ngƣời bệnh.
Nguyên tắc truyền máu cơ bản phải dựa trên những đặc trƣng riêng của
mỗi nhóm máu. Máu của con ngƣời gồm nhiều nhóm sau, mỗi một nhóm sẽ
có đặc tính riêng cũng nhƣ, có những kháng thể sẽ chống lại những nhóm kia,
vì thế nếu truyền máu khác nhóm vào, kháng thể ngƣời nhận có thể phá hủy
28
máu, gây ra nhiều tác hại cho cơ thể.
Sau đây là đặc tính của từng nhóm máu mà để đảm bảo an toàn trong
truyền máu, các nguyên tắc truyền máu cơ bản phải dựa trên các đặc tính này:
- Nhóm máu A: đặc trƣng bởi sự hiện diện cho nhóm máu A là kháng
nguyên A trên các tế bào hồng cầu và kháng thể B có trong huyết tƣơng
(nhóm A chiếm khoảng 21%). Những ngƣời mang nhóm máu A có thể hiến
máu cho những ngƣời có cùng nhóm máu hoặc mang nhóm máu AB. Những
ngƣời nhóm máu A có thể nhận máu từ những ngƣời có nhóm máu O.
- Nhóm máu B: có thể hiến máu cho những ngƣời khác có cùng nhóm
máu B hoặc những ngƣời mang nhóm máu AB (chiếm tỷ lệ 29%). Những
ngƣời mang nhóm máu B có thể nhận máu từ những ngƣời mang nhóm máu O.
- Nhóm máu AB: có thể nhận máu từ bất cứ nhóm máu nào (chiếm tỷ lệ
5%). Tuy nhiên, những ngƣời mang nhóm máu AB cũng chỉ có thể hiến cho
những ngƣời có cùng nhóm máu AB. Nhóm máu này không phổ biến.
- Nhóm máu O: đây là nhóm máu phổ biến nhất (chiếm khoảng 45%).
Những ngƣời mang nhóm máu O chỉ nhận máu từ những ngƣời có cùng nhóm
máu O và có thể hiến máu cho tất cả những nhóm máu khác bởi nhóm máu O
không có kháng nguyên A và kháng nguyên B trên tế bào hồng cầu, nhƣng
trong huyết tƣơng lại có cả kháng thể A và kháng thể B
- Nhóm máu Rh (D): yếu tố Rh là một loại protein đặc biệt trên các tế
bào máu. Hầu hết mọi ngƣời đều có kháng nguyên D trên hồng cầu và thƣờng
gọi là Rh+ (Rh D dƣơng). Những ngƣời không có kháng nguyên D trên hồng
cầu đƣợc gọi là Rh- (Rh D âm). Cần phải thực hiện xét nghiệm kháng nguyên
Rh D đối với những ngƣời phụ nữ mang thai nhằm mục đích sàng lọc và phát
hiện sự tƣơng thích trong cơ thể của mẹ và bé.
Trong trƣờng hợp ngƣời hiến máu hoặc bệnh nhân có nhóm máu khó
xác định thì bác sĩ sẽ lấy mẫu máu và thực hiện xét nghiệm chuyên khoa để
xác định nhóm máu chính xác. Nhận nhầm nhóm máu có thể gây nên phản
ứng truyền máu tán huyết cấp sau 24h đƣợc truyền máu. Những phản ứng
29
đồng loạt xảy ra có thể gây sốc và khiến ngƣời nhận tử vong.
1.2.3. An toàn truyền máu
Theo thông tƣ số 26/2013/TT-BYT Thông tƣ này hƣớng dẫn hoạt động
chuyên môn, kỹ thuật truyền máu, bao gồm: tuyển chọn ngƣời hiến máu, lấy
máu, xét nghiệm, điều chế, bảo quản, vận chuyển, quản lý, sử dụng máu và
chế phẩm máu trong điều trị; giám sát nguy cơ trong truyền máu; Hội đồng
truyền máu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; lƣu giữ hồ sơ và chế độ báo cáo.
Vấn đề này cần đƣợc quan tâm để bảo đảm an toàn cho ngƣời cho máu, an
toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu và an toàn cho ngƣời nhận máu.
Các điều cơ bản về an toàn truyền máu
Trong thực hành y khoa, máu rất quan trọng và cần thiết cho việc điều
trị nội khoa, cấp cứu ngoại khoa và sản khoa; đồng thời nó cũng rất cần để
triển khai nhiều kỹ thuật cao nhƣ ghép tạng, mổ tim... Nhờ có máu mà nhiều
bệnh nhân đã đƣợc cứu sống. Tuy nhiên, việc truyền máu có thể gây ra những
tai biến nghiêm trọng nếu không bảo đảm, tuân thủ các nguyên tắc về an toàn
truyền máu.
An toàn truyền máu ngày nay phải đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là an toàn
cho ngƣời cho máu, an toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu và an
toàn cho ngƣời nhận máu.
- An toàn cho ngƣời cho máu trƣớc đây chƣa đƣợc quan tâm đúng mức,
vì vậy việc bảo vệ sức khỏe cho ngƣời hiến máu phải bảo đảm các yêu cầu
cần thiết, phù hợp với thông điệp của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) phát
động là “an toàn truyền máu bắt đầu từ tôi”. Nhƣ vậy, ngƣời cho máu hay còn
gọi là ngƣời hiến máu phải đƣợc các nhân viên y tế tƣ vấn trƣớc để tự sàng
lọc, tự đánh giá tiền sử về tình trạng sức khỏe của mình và đối chiếu với các
tiêu chuẩn hiến máu. Trên cơ sở đó, ngƣời hiến máu tự xác định, lựa chọn
xem bản thân mình có đủ điều kiện và khả năng hiến máu hay không. Ngƣời
30
hiến máu cũng phải đƣợc khám sức khỏe, xét nghiệm huyết cầu tố, số lƣợng
tiểu cầu, proteine máu... trƣớc khi hiến máu và các thành phần khác của máu.
Ngƣời hiến máu chỉ đƣợc hiến máu khi có sự đồng ý của bác sĩ, đồng thời
phải đƣợc chăm sóc, tƣ vấn sức khỏe khi tham gia hiến máu, hiểu biết các
bệnh lây truyền qua đƣờng máu tự bảo vệ sức khỏe và có thể trở thành ngƣời
hiến máu nhắc lại lần sau bảo đảm an toàn.
- An toàn cho nhân viên làm công tác truyền máu cũng là một việc
đáng đƣợc quan tâm do trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhân viên làm
công tác truyền máu nhƣ lấy máu xét nghiệm, tiếp nhận máu, sàng lọc túi
máu, sản xuất các chế phẩm máu, phân phối máu... sẽ có nguy cơ bị nhiễm
mầm bệnh từ nguồn máu của ngƣời hiến máu vì theo thống kê trên toàn quốc
ghi nhận tỷ lệ ngƣời bị nhiễm viêm gan B chiếm khoảng từ 13% đến 15%,
viêm gan C chiếm khoảng từ 3% đến 5%, nhiễm HIV chiếm khoảng 1%... Vì
vậy khi tiến hành các kỹ thuật chuyên môn, cần có các biện pháp phòng hộ
lao động tốt để bảo đảm an toàn cho ngƣời làm công tác truyền máu.
- An toàn cho ngƣời nhận máu trƣớc tiên là phải an toàn về số lƣợng,
bảo đảm đủ mọi nhu cầu về máu khi ngƣời bệnh cần. Ở nƣớc ta, số lƣợng
máu đáp ứng cho nhu cầu điều trị ƣớc tính chỉ đạt khoảng 70%. Ngoài ra, an
toàn về chất lƣợng sản phẩm máu cũng phải bắt đầu từ ngƣời hiến máu. Vì
vậy phải nâng cao nhận thức và sự hiểu biết của ngƣời hiến máu về các bệnh
lây truyền qua đƣờng máu, các hoạt động hành vi nguy cơ nhiễm bệnh... để
ngƣời hiến máu tự đánh giá, sàng lọc trƣớc khi quyết định có tình nguyện
tham gia hiến máu hay không.
Tất cả các đơn vị máu phải đƣợc sàng lọc các tác nhân lây nhiễm qua
đƣờng truyền máu nhƣ viêm gan B, viêm gan C, HIV, giang mai và sốt rét tại
thời điểm lấy máu. Đối với bệnh viêm gan B, viêm gan C, nhiễm HIV phải sử
dụng các kỹ thuật sàng lọc có độ nhạy và độ đặc hiệu tƣơng đƣơng hoặc cao
31
hơn kỹ thuật ELISA (Enzyme-linked immunosorbent assay); đối với bệnh
giang mai phải sử dụng kỹ thuật có độ nhạy và độ đặc hiệu tƣơng đƣơng hoặc
cao hơn kỹ thuật VDRL (Venereal Disease Research Laboratory). Xét nghiệm
sàng lọc sốt rét tối thiểu phải thực hiện bằng kỹ thuật soi lam máu giọt đặc
nhuộm giemsa dƣới kính hiển vi quang học.
Ngoài ra cũng cần bảo đảm an toàn về mặt miễn dịch của các sản phẩm
từ máu nhƣ loại kháng thể bất thƣờng, lọc bạch cầu, chiếu xạ... Máu và các chế
phẩm từ máu phải đƣợc vận chuyển và bảo quản đúng nguyên tắc quy định.
Chỉ định truyền máu đúng là vấn đề cần phải chú ý vì máu và các chế phẩm từ
máu có thể đƣợc xem là một loại thuốc điều trị. Vì vậy, cũng nhƣ tất cả các
loại thuốc, việc chỉ định điều trị đúng, sử dụng hợp lý máu và các chế phẩm
từ máu đóng vai trò quan trọng trong an toàn truyền máu. Những sai sót trong
việc sử dụng máu và các chế phẩm từ máu có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng, thậm chí đe dọa ngay cả với tính mạng của ngƣời bệnh. Để có
chỉ định truyền máu đúng và hợp lý, các bác sĩ lâm sàng cần nên xem xét hết
các phƣơng pháp điều trị khác trƣớc khi quyết định truyền máu với phƣơng
châm “cần gì truyền nấy, không cần không truyền”. Nên hạn chế truyền máu
toàn phần. Tất cả chỉ định truyền máu và các chế phẩm từ máu đều phải dựa
trên sự kết hợp của hai yếu tố văn bản hƣớng dẫn sử dụng an toàn, hợp lý
máu, các chế phẩm từ máu và thực tế lâm sàng của từng ngƣời bệnh.
Sử dụng máu và các chế phẩm từ máu an toàn bằng cách định nhóm
máu, làm phản ứng chéo cho ngƣời bệnh và sản phẩm máu trƣớc khi cấp phát;
công việc này phải do 2 nhân viên y tế của phòng truyền máu thực hiện. Khi
điều dƣỡng viên hay kỹ thuật viên đi tiếp nhận máu và các chế phẩm từ máu
phải kiểm tra, đối chiếu theo đúng nguyên tắc quy định của quy chế truyền
máu. Việc thực hiện định nhóm máu và làm phản ứng chéo có thể tiến hành
tại giƣờng bệnh tùy theo chế phẩm máu nhận. Cần theo dõi sát ngƣời bệnh
32
trong suốt quá trình truyền máu. Nếu có phản ứng phải ngừng truyền máu và
báo cáo ngay cho bác sĩ điều trị cũng nhƣ bác sĩ truyền máu để xử trí kịp thời;
sau đó lập biên bản báo cáo Hội đồng truyền máu của bệnh viện. Nếu cơ sở y
tế chƣa thành lập Hội đồng truyền máu của bệnh viện thì báo cáo cho Phòng
Kế hoạch-Tổng hợp, Ban Giám đốc và Khoa Huyết học-Truyền máu.
Nhƣ vậy, an toàn truyền máu là một chuỗi các hoạt động gắn kết chặt
chẽ và đan xen với nhau; bất kỳ một mắc xích nào trong chuỗi các hoạt động
này không thực hiện bảo đảm đúng nguyên tắc quy định thì sẽ làm ảnh hƣởng
đến sức khỏe và tính mạng của ngƣời bệnh.
Những giải pháp bảo đảm an toàn truyền máu
- Bảo đảm nguồn lực của ngƣời cho máu là một vấn đề sống còn của
công tác truyền máu. Muốn có đủ nguồn lực này phải thực hiện công tác
tuyên truyền, vận động phong trào hiến máu tình nguyện với nhiều hình thức
khác nhau. Chính quyền, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội cần vào cuộc,
cùng chung tay, góp sức để sớm xã hội hóa việc hiến máu tình nguyện. Nên
thực hiện tốt công tác biểu dƣơng, tôn vinh, khen thƣởng và bảo đảm các
quyền lợi, đặc biệt là lợi ích về y tế cho những ngƣời hiến máu. Để làm đƣợc
vấn đề này, phải có sự thống nhất giữa Ủy ban Quốc gia vận động hiến máu
tình nguyện, Hội Chữ thập đỏ, các cấp chính quyền và Bộ Y tế.
Xây dựng đƣợc đội ngũ hiến máu tình nguyện nhắc lại lần sau càng
nhiều thì việc an toàn truyền máu càng cao vì đây là lực lƣợng đã đƣợc khám,
tuyển chọn, đủ sức khỏe để hiến máu; đồng thời đối tƣợng này cũng đã đƣợc
các nhân viên y tế tƣ vấn về sức khỏe trƣớc, trong và sau khi hiến máu nên đã
có nhận thức tốt, có trách nhiệm cao trƣớc cộng đồng. Lực lƣợng hiến máu dự
bị ở các địa phƣơng, tỉnh, thành phố cũng cần phải đƣợc xây dựng vì khi có
lực lƣợng hiến máu dự bị càng nhiều thì mới có thể yên tâm đáp ứng đủ nhu
cầu về máu và các chế phẩm từ máu nếu có thiên tai, thảm họa hay chiến
33
tranh xảy ra.
- Phải tổ chức hệ thống truyền máu trong cả nƣớc theo hƣớng tập trung
hóa nhƣ xây dựng các Trung tâm Truyền máu quốc gia, các Trung tâm
Truyền máu khu vực, các Khoa Truyền máu nằm trong bệnh viện... Khi đã
đƣợc tập trung hóa thì mới có thể tập trung đƣợc các nguồn lực để đầu tƣ
đồng bộ và hiện đại hóa trang thiết bị, góp phần nâng cao chất lƣợng về an
toàn truyền máu.
- Cần đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ
cao về an toàn truyền máu. Công tác đào tạo phải đƣợc tiến hành thƣờng
xuyên, liên tục và phải có chế độ, chính sách đặc thù cho cán bộ, nhân viên y
tế ngành truyền máu.
- Chú ý quan tâm việc nâng cấp, đầu tƣ cơ sở vật chất, các trang thiết bị
chuyên môn kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin cho các trung tâm và
các cơ sở truyền máu.
- Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy của nhà nƣớc và chuyên
ngành truyền máu để tạo đƣợc hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể. Tranh thủ sự
hợp tác và viện trợ của các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo nguồn nhân lực,
triển khai các kỹ thuật mới và sự tài trợ, giúp đỡ những trang thiết bị cần thiết.
Nguyên tắc
Để đảm bảo sự an toàn trong quá trình truyền máu cơ bản, tránh tình
trạng tai biến có thể xảy ra, quá trình truyền máu cần phải tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản sau:
Để tránh kháng nguyên và kháng thể tƣơng ứng gặp nhau gây nên hiện
tƣợng các hồng cầu ngƣng kết phải truyền cùng nhóm máu;
Bên cạnh việc xác định đúng nhóm máu của ngƣời hiến và ngƣời nhận,
cần thực hiện thêm phản ứng chéo tức là trộn huyết thanh của ngƣời nhận với
hồng cầu của ngƣời hiến và trộn huyết thanh của ngƣời hiến với hồng cầu của
ngƣời nhận. Máu sẽ chỉ đƣợc truyền cho ngƣời khi không xảy ra hiện tƣợng
34
hồng cầu ngƣng kết;
Những tai biến nghiêm trọng có thể sẽ xảy ra cho ngƣời nhận máu thậm
chí là ngƣời nhận có thể tử vong nếu máu đƣợc truyền không hòa hợp;
Đối với những trƣờng hợp cấp cứu cần truyền máu mà không có máu
cùng nhóm, nguyên tắc tối thiểu bắt buộc phải tuân theo khi bắt buộc
phải truyền máu khác nhóm đó là “ hồng cầu ngƣời cho không bị ngƣng kết
với huyết thanh của ngƣời nhận”. Khi thực hiện truyền máu chỉ truyền máu
với số lƣợng ít (250ml) với tốc độ truyền rất chậm;
Để tránh những tai biến trầm trọng, thậm chí là có thể tử vong có thể
xảy ra, quá trình truyền máu cơ bản phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản khi
truyền máu. Cần thực hiện xét nghiệm nhóm máu phù hợp và kiểm tra các
mầm bệnh trƣớc khi truyền máu bởi mỗi một nhóm máu sẽ mang những đặc
trƣng riêng biệt và nếu không đƣợc truyền đúng nhóm máu tƣơng thích thì kết
cấu của mạch máu có thể bị phá vỡ.
1.2.4. Cơ sở khoa học của tập trung hóa các đơn vị truyền máu
Xu hƣớng tập trung hóa các đơn vị truyền máu để có điều kiện trang bị
hiện đại, có điều kiện để sàng lọc bệnh nhiễm trùng và sản xuất các chế phẩm
máu, việc này sẽ mang lại hiệu quả và đảm bảo an toàn cho ngƣời bệnh.
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV)
Năm 1981, tại Los Angeles (Mỹ) nhà khoa học p. Carini đã phát hiện
một số trƣờng hợp đồng tính luyến ái nam bị viêm phổi rất nặng do
Pneumocystis Carinii.
Tháng 6 năm 1981, bác sĩ Michael Gotleb đã mô tả bệnh nhân đầu tiên
bị hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở ngƣời tại Los Angeles.
Tháng 6 năm 1982, tại Mỹ đã phát hiện ba bệnh nhân hemophilia bị
AIDS, cả ba bệnh nhân này đều không có các yếu tố nguy cơ liên quan đến
nghiện chích ma tuý và đồng tính luyến ái nhƣng đều có tiền sử truyền máu.
Năm 1983, nhà bác học Luc Montagnier (Pháp) và cộng sự đã phát hiện
và chứng minh HIV chính là căn nguyên gây hội chứng suy giảm miễn dịch
35
mắc phải ở ngƣời.
Tháng 3 năm 1995 thử nghiệm để phát hiện kháng thể HIV đƣợc đƣa ra
thị trƣờng để sàng lọc cho ngƣời cho máu.
Khi HIV xâm nhập vào cơ thể, nó tác động chủ yếu lên các tế bào của
hệ miễn dịch và làm rối loạn trầm trọng chức năng của hệ thống miễn dịch do
đó làm thay đổi chức năng của đại thực bào, gây rối loạn chức năng của
lympho B, gây thay đổi số lƣợng và chức năng các dƣới nhóm lympho, giảm
chức năng và số lƣợng tế bào NK, gây giảm tế bào T độc, gây tổn thƣơng các
cơ quan tạo lympho. Với các tổn thƣơng của các tế bào miễn dịch trên, đã tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhiễm trùng cơ hội và ung thƣ một số cơ quan nhƣ
ung thƣ trực tràng, u lympho v.v... phát triển.
Virus viêm gan B (HBV)
Năm 1885 Lurman đã thông báo 919 trƣờng hợp viêm gan sau khi tiêm
chủng vaccin đậu mùa.
Năm 1963 Blumberg đƣa ra nhận xét về bệnh viêm gan B có tính chất
vùng địa lý. Đến năm 1967 ông đã thành công trong việc dùng kỹ thuật miễn
dịch khuyếch tán trên gen thạch để phát hiện đƣợc kháng nguyên viêm gan B
ký hiệu là kháng nguyên Au (Australia). Kháng nguyên này có tỷ lệ thấp ở
châu Âu nhƣng có tỷ lệ khá cao ở châu Phi và châu Á.
Năm 1968 ngƣời ta đã chứng minh rằng kháng nguyên Au chính là
kháng nguyên bề mặt của virus gây viêm gan B và đƣợc ký hiệu là HBsAg.
Năm 1970 nhà bác học Dane và cộng sự đã phân lập đƣợc virus viêm
gan B hoàn chỉnh gọi là thể Dane.
Trong vòng 10 năm sau khi phát hiện ra HBsAg ngƣời ta đã lần lƣợt
phát hiện thêm các kháng nguyên, kháng thể khác nhau của virus, kháng thể
HBs có tác dụng bảo vệ phòng lây nhiễm HBV, sự phát hiện này đã mở
đƣờng cho việc sử dụng vaccin phòng viêm gan B.
Nhiễm HBV có thể gây viêm gan B cấp, viêm gan mạn, xơ gan, ung
36
thƣ gan và ngƣời lành mang HBsAg. Các hậu quả của viêm gan B là rất trầm
trọng. Do vậy phải phòng lây nhiễm viêm gan B một cách hữu hiệu, đặc biệt
là phòng lây nhiễm viêm gan B qua đƣờng truyền máu.
Virus viêm gan C (HCV)
Năm 1975 ngƣời ta nhận thấy ngoài các trƣờng hợp viêm gan A, B có
những trƣờng hợp viêm gan không A không B.
Năm 1978 Hội nghị quốc tế thống nhất đặt tên loại viêm gan này là
viêm gan virus non-A, non-B.
Năm 1988 Houghton phân lập và xác định đƣợc bản chất của virus
viêm gan này là HCV.
Năm 1995 - 2000 với sự phát triển của kỹ thuật sinh học phân tử (PCR)
đã cho phép phát hiện genome của virus và kỹ thuật phát hiện kháng nguyên
nhân của virus.
HCV có thể gây viêm gan cấp, viêm gan mạn, xơ gan và ung thƣ gan
nguyên phát. Tuy tỷ lệ nhiễm HCV trong quần thể không cao bằng HBV
nhƣng tốc độ lây nhiễm viêm gan C ngày càng tăng trong quần thể và tỷ lệ trở
thành viêm gan mạn rất cao (50-70%). Ngƣời ta còn khẳng định mối liên quan
chặt chẽ giữa viêm gan c và ung thƣ gan nguyên phát, do vậy việc phòng lây
nhiễm HCV là rất quan trọng và cần thiết để bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng.
Đường lây nhiễm HIV, HBV, HCV qua đường máu
Khi ngƣời cho máu đã bị nhiễm HIV, HBV, HCV mà không đƣợc sàng
lọc thì bệnh nhân nhận máu sẽ có nguy cơ rất cao bị nhiễm HIV, HBV, HCV
(trên 90%). Bệnh nhân cũng có thể bị lây nhiễm HIV, HBV, HCV trong giai
đoạn nhiễm trùng cửa sổ.
Do dùng bơm kim tiêm chung ở những ngƣời tiêm chích ma tuý. Đây là
cách lây truyền HIV, HBV, HCV nhanh và mạnh nhất.
Do bị kim tiêm hoặc vật nhọn đã dùng cho bệnh nhân đâm vào tay nhân
37
viên y tế trong khi chăm sóc và làm thủ thuật cho bệnh nhân bị nhiễm
HIV/AIDS, viêm gan B, viêm gan C. Sử dụng các dụng cụ tiêm chích không
tiệt trùng.
Phòng lây nhiễm HIV, HBV, HCV qua đường truyền máu
Lựa chọn ngƣời cho máu an toàn.
Tổ chức cuộc vận động hiến máu nhân đạo để tìm những ngƣời có nguy
cơ thấp lây truyền các bệnh nhiễm trùng truyền qua đƣờng máu để có nguồn
máu an toàn.
Tuyển chọn những ngƣời hiến máu tình nguyện không lấy tiền và
khuyến khích ngƣời cho máu tự nguyện hiến máu lại.
Loại trừ những ngƣời hiến máu có nguy cơ cao thông qua việc phỏng
vấn và tuyên truyền giáo dục ngƣời hiến máu.
Sàng lọc ngƣời hiến máu một cách kỹ càng với:
+ Bộ câu hỏi để loại trừ các yếu tố nguy cơ.
+ Tƣ vấn trƣớc khi hiến máu.
+ Tìm hiểu tiền sử bệnh gồm các dấu hiệu và triệu chứng có liên quan
đến các bệnh lây truyền, bệnh nhiễm trùng.
+ Kiểm tra sức khoẻ của ngƣời hiến máu
Sàng lọc HIV, HBV, HCV cho ngƣời hiến máu: Tất cả các đơn vị máu
và các chế phẩm máu trƣớc khi truyền phải đƣợc sàng lọc kháng thể HIV,
kháng thể HCV, HBsAg. Đồng thời cần bổ sung thểm các kỹ thuật mới nhƣ
kỹ thuật phát hiện enzym ALT, kháng nguyên HIV p24, kỹ thuật sinh học
phân tử phát hiện HIV- RNA, HCV-RNA, HBV-DNA để phòng lây nhiễm
HIV, HCV, HBV trong qua giai đoạn cửa sổ của bệnh.
Tiệt trùng máu và các chế phẩm máu bằng các phƣơng pháp vật lý, hóa
học, lọc bạch cầu. Áp dụng truyền máu tự thân và truyền máu từng phần. Chỉ
định đúng truyền máu theo phƣơng châm cần thành phần nào thì truyền thành
phần máu đó và không cần thì không truyền. Cần có những biện pháp phòng
hộ hữu hiệu cho các nhân viên y tế và những ngƣời tiếp xúc và chăm sóc trực
38
tiếp bệnh nhân bị nhiễm HIV, HBV, HCV.
1.3. Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu
1.3.1. Chính sách của Nhà nước liên quan đến truyền máu
Trong những năm gần đây, Nhà nƣớc ta đã có nhiều văn bản và
quyết định liên quan đến công tác truyền máu, đặc biệt là vấn đề an toàn
truyền máu:
Điều lệnh Truyền máu ban hành theo Quyết định số: 937/QĐ-BYT
ngày 04/09/1992 của Bộ trƣởng Bộ Y tế là cơ sở pháp lý quy định các hoạt
động truyền máu trong toàn quốc.
Quyết định số: 43/QĐ-TTg ngày 07/04/2000 của Thủ tƣớng Chính phủ
về việc vận động và khuyến khích nhân dân hiến máu tình nguyện.
Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tƣớng Chính phủ
về việc phê duyệt Chƣơng trình An toàn truyền máu.
Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 15/01/2002 của Thủ tƣớng Chính phủ
về việc Đầu tƣ Dự án “Trung tâm truyền máu khu vực”.
Thông tƣ liên tịch số: 12/TTLT/BTC-BYT ngày 25/02/2003 của liên
tịch Bộ Tài chính và Bộ Y tế hƣớng dẫn mức giá và nội dung chi cho một đơn
vị máu đạt tiêu chuẩn.
Quyết định số: 31/2004/QĐ-TTg ngày 08/03/2004 của Thủ tƣớng
Chính phủ về việc “Thành lập Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng”.
Thƣ của Chủ tịch nƣớc Trần Đức Lƣơng gửi đồng bào, đồng chí và
chiến sĩ cả nƣớc Kêu gọi hiến máu nhân đạo nhân ngày “Toàn dân hiến máu
nhân đạo” 7/4/2005.
Theo thông tƣ số 26/2013/TT-BYT Thông tƣ này hƣớng dẫn hoạt
động chuyên môn, kỹ thuật truyền máu, bao gồm: tuyển chọn ngƣời hiến
máu, lấy máu, xét nghiệm, điều chế, bảo quản, vận chuyển, quản lý, sử dụng
máu và chế phẩm máu trong điều trị; giám sát nguy cơ trong truyền máu;
Hội đồng truyền máu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; lƣu giữ hồ sơ và chế
39
độ báo cáo.
Các văn bản trên thể hiện tính quan trọng và cấp thiết của vấn đề an
toàn truyền máu. Một trong những nội dung quan trọng để đảm bảo an toàn
truyền máu là xây dựng các Trung tâm Truyền máu khu vực nhằm thực hiện
cung cấp máu tập trung, đáp ứng nhu cầu về số lƣợng máu và các chế phẩm
máu, nâng cao về chất lƣợng trong dịch vụ truyền máu.
1.3.2. Tiêu chí của chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống
truyền máu
Về lý thuyết, chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền
máu cần hội tụ đủ các tiêu chí mà Kuhn đã đề cập trong Cấu trúc của các
cuộc cách mạng khoa học, tính khách quan, giá trị phán xét và lý thuyết lựa
chọn để đánh giá chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu
đƣợc xây dựng trên quan niệm của Kuhn, bao gồm:
1. An toàn và chính xác
2. Phù hợp
3. Áp dụng trên phạm vi rộng theo nguyên tắc lý thuyết hệ thống (thống
nhất giữa các phân hệ, phần tử trong toàn hệ thống truyền máu)
4. Đơn giản
5. Hiệu quả
Các tiêu chí trên đây sẽ đƣợc Luận văn trình bày trong chƣơng 3.
Tiểu kết Chương 1
Trong chƣơng 1 tác giả đã tập hợp một cách đầy đủ nhất về cơ sở lý
luận có liên quan đến đề tài, gồm các nội dung nhƣ: Cơ sở lý luận về chính
sách công nghệ thống nhất; Cơ sở lý luận về hệ thống truyền máu; Chính sách
công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu; Tập trung hóa các đơn vị
truyền máu, chính sách của Nhà nƣớc liên quan đến truyền máu và các tiêu
chí của chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu.
Đây là cơ sở lý thuyết để tác giả có thể tiến hành phân tích thực trạng
40
trong chƣơng tiếp theo.
Chương 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng tổ chức hệ thống truyền máu
2.1.1. Tổ chức hệ thống truyền máu trên thế giới
Theo Nguyễn Anh Trí, Trần Quý Tƣờng (2012), tùy vào điều kiện kinh
tế và trình độ phát triển y học, mỗi quốc gia xây dựng hệ thống dịch vụ truyền
máu theo những mô hình khác nhau, với những chính sách khác nhau theo
từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Năm 1921 ở các nƣớc nhƣ Anh, Hà Lan và Úc đã thành lập đƣợc
những trung tâm truyền máu đầu tiên trên thế giới. Tại Liên Xô (cũ), vào năm
1929 F.Rƣcốp đã giới thiệu công tác truyền máu qua việc tổ chức đội cấp cứu
trong quân đội và đề nghị tổ chức một đội quân hiến máu tại trạm cấp cứu
quân đội. Cuối năm 1929, N.Elanxki đề nghị thành lập trung tâm truyền máu
ở Leningrat, ông cũng đề cập đến vấn đề tăng cƣờng đội ngũ ngƣời hiến máu
tình nguyện, đồng thời với việc lƣu trữ máu tại các trung tâm truyền máu, để
rồi từ đây chuyển máu về các cơ sở điều trị.
Năm 1933, tại Madrid, Tây Ban Nha đã có 39 nhóm công tác truyền
máu tại các bệnh viện khác nhau và những ngƣời hiến máu là nhân dân của
thành phố cho máu tự nguyện. Năm 1939, trên cơ sở rút kinh nghiệm tại Tây
Ban Nha, A.X. Georgiep (Liên Xô cũ) đã nêu ra rằng: “Sự hợp lý nhất của
công tác truyền máu là xây dựng đƣợc một hệ thống cung cấp, lƣu trữ máu tập
trung tại một số trung tâm truyền máu, nhiệm vụ của trung tâm này ngoài việc
chuẩn bị máu lƣu trữ còn phải tổ chức đƣợc một lực lƣợng đông đảo ngƣời
cho máu ngay tại các trung tâm và với sự tham gia của Hội Chữ thập đỏ”.
Nhƣ vậy, hệ thống truyền máu của một số nƣớc trên thế giới đƣợc tổ
chức theo các hình thức:
- Nhà nước quản lý thông qua Bộ Y tế: Pháp, Hàn Quốc, Trung quốc,
41
Ấn độ, Canada, Malaysia, Anh...
- Ủy quyền cho các tổ chức xã hội: Hội Chữ thập đỏ hoặc các tổ chức
xã hội chuyên ngành nhƣ: Thái Lan, Phần Lan, Nhật, Úc,…
- Hình thức một phần hoạt động của nhà nước, một phần hoạt động của
tư nhân như: Mỹ, Ấn độ, Philippine.
Hệ thống truyền máu ở mỗi nƣớc trên thế giới đều bao gồm 3 bộ phận:
- Nguồn ngƣời hiến máu;
- Hoạt động của các Trung tâm truyền máu;
- Việc sử dụng máu trên lâm sàng.
2.1.2. Tổ chức hệ thống truyền máu tại Việt Nam
Theo Thái Quý (1999), trƣớc năm 1954 ở Việt Nam, cơ sở cung cấp
máu do quân đội Pháp thành lập, tổ chức đầu tiên tại bệnh viện Đồn Thủy
(Viện Quân y 108 ngày nay) cung cấp máu cho quân đội Pháp, sau đó là một
vài bệnh viện ở Sài Gòn cũng do quân đội Pháp tổ chức và quản lý.
Từ năm 1954 sau khi hoà bình đƣợc lập lại, quân đội tiếp quản bệnh
viện Đồn Thủy và đổi tên là Quân y Viện 108. Năm 1956, Bệnh viện Việt
Đức mở khoa lấy máu và truyền máu, tiếp đó nhiều bệnh viện cũng đã tổ chức
tiếp nhận máu.
Từ năm 1972-1992, nguồn máu thu đƣợc chủ yếu là từ ngƣời bán máu
(trên 90%), phƣơng tiện thu gom máu bằng chai, ATTM chủ yếu là làm phản
ứng chéo và định nhóm máu hệ ABO, tìm đơn vị máu tƣơng đồng. Các cơ sở
truyền máu chỉ sàng lọc ký sinh trùng sốt rét và xoắn khuẩn giang mai. Một
vài cơ sở sàng lọc virus viêm gan B (HBV); truyền máu toàn phần chiếm
100%; nƣớc ta chƣa có chƣơng trình quốc gia về ATTM. Tháng 1 năm 1995,
bắt đầu thay chai thủy tinh bằng túi chất dẻo nhƣ quốc tế. Đến năm 1999, đã
có 100% đơn vị máu đƣợc sàng lọc đủ 5 bệnh nhiễm trùng là virus HIV
(HIV), virus viêm gan B (HBV), virus viêm gan C (HCV), giang mai và sốt
42
rét tại hầu hết các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện có sử dụng máu.
Từ năm 1994 trở về trƣớc, các bệnh viện đều tự cung, tự cấp máu
chƣa có ngƣời HMTN, nghĩa là nguồn máu phụ thuộc hoàn toàn vào ngƣời
bán máu và ngƣời nhà bệnh nhân. Tổ chức cung cấp máu thƣờng manh mún,
bệnh viện nào có nhu cầu sử dụng máu là tiếp nhận, lƣu trữ nên chất lƣợng
máu không đƣợc đồng đều, hiện tƣợng thiếu máu xảy ra thƣờng xuyên và
trầm trọng.
Từ 2005 đến nay, bƣớc đầu đã tập trung hoá đƣợc một số trung tâm
truyền máu và xây dựng các TTTMKV, những trung tâm này trở thành những
cơ sở cung cấp máu lớn, chịu trách nhiệm cung cấp máu cho các bệnh viện,
các tỉnh mà trung tâm bao phủ. Các cơ sở truyền máu nhỏ thuộc diện bao phủ
của TTTMKV đã không còn tổ chức tiếp nhận, sàng lọc, điều chế các sản
phẩm máu mà chỉ tập trung vào lƣu trữ, phát máu an toàn và truyền máu lâm
sàng hợp lý và hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện tại với 101 cơ sở truyền máu cấp trung ƣơng và cấp
tỉnh và 550 cơ sở cấp huyện, tổ chức cơ sở truyền máu nhỏ, rải rác nằm trong
hệ thống các bệnh viện, trang thiết bị lạc hậu, thiếu cán bộ đƣợc đào tạo
chuyên khoa, tổ chức thu gom máu với số lƣợng ít, an toàn truyền máu bị đe
doạ, chi phí cho một đơn vị máu cao. Vấn đề sử dụng máu và chế phẩm máu
tại bệnh viện chƣa hợp lý và còn thiếu an toàn: Chỉ định và sử dụng máu toàn
phần trong điều trị còn chiếm tỷ lệ cao, các quy trình truyền máu lâm sàng
còn chƣa đảm bảo; còn xảy ra tình trạng thiếu hoặc thừa máu ở một số thời
điểm trong năm. Nhƣ vậy, hệ thống truyền máu tại Việt Nam đƣợc tổ chức
theo mô hình phân tán.
Hệ thống tổ chức truyền máu ở Việt Nam đƣợc thể hiện qua sơ đồ
43
sau đây:
Sơ đồ 2.1: Hệ thống truyền máu quốc gia
Sơ đồ 2.2: Hệ thống ngân hàng máu quốc gia
Nguồn: Trung tâm truyền máu khu vực Hà Nội
44
thuộc Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng
Theo Nguyễn Anh Trí, Trần Quý Tƣờng (2012), số liệu điều tra tại
14 tỉnh/thành có các Trung tâm truyền máu khu vực cho thấy, tại 14
tỉnh/thành phố lớn có 128 bệnh viện nhƣng lƣợng máu tiếp nhận lên đến
42.557 đơn vị máu, chiếm 80,9% lƣợng máu tiếp nhận trong cả nƣớc. Nhƣ
vậy, việc tiếp nhận và sử dụng máu chỉ tập trung ở các tỉnh và thành phố
lớn, nơi có các bệnh viện Trung ƣơng và tỉnh, nơi phát triển các kỹ thuật y
tế cao và chuyên sâu, thuận lợi về mặt giao thông, có đến 56,7% số đơn vị
truyền máu nằm trong khoa xét nghiệm chung, có 36,5% các đơn vị truyền
máu là khoa Huyết học - Truyền máu riêng biệt. Khi hoạt động truyền máu
chủ yếu nằm tại các khoa Xét nghiệm chung, mặc dù các cơ sở này chủ yếu
nằm tại các bệnh viện tuyến Trung ƣơng và tuyến tỉnh thì các hoạt động sẽ
rất khó khăn, phụ thuộc và việc đầu tƣ cũng không đƣợc tập trung. Về trình
độ của các cán bộ phụ trách Truyền máu ở các bệnh viện, tập trung chủ yếu
ở nhóm Thạc sĩ, Bác sĩ CK I, chiếm 44.59% (có 33 cơ sở có các cán bộ
trình độ này phụ trách).
Trong số các bệnh viện điều tra, chỉ có 8 bệnh viện thông báo đủ máu,
còn có tới 66 bệnh viện có thếu máu (89,2%). Trong số 66 bệnh viện thiếu
máu thì có đến 24 bệnh viện thiếu máu cả năm, có 30 bệnh viện thiếu máu
vào dịp hè và 12 bệnh viện thiếu máu vào dịp tết. Lƣợng máu tiếp nhận toàn
quốc năm 2010 đạt 670.846 đơn vị, nếu tính nhu cầu máu theo tiêu chuẩn của
WHO (tối thiểu 2% dân số hiến máu) thì đạt khoảng 40%. Lƣợng chế phẩm là
955.018 đơn vị, nếu tính theo nhu cầu của WHO thì đạt khoảng 55%.
2.1.3. Nhận xét về tổ chức hệ thống truyền máu tại Việt Nam
a. Về hệ thống tổ chức:
Theo mô hình phân tán, cả nƣớc có đến 74 cơ sở tiếp nhận máu cấp
Trung ƣơng và tỉnh (không kể các cơ sở tiếp nhận nhỏ, lẻ ở cấp huyện)
- Về nguồn máu: Chủ yếu từ học sinh - sinh viên, ngƣời hiến máu tình
45
nguyện nhắc lại.
- Về nhu cầu sử dụng máu và chế phẩm máu: Vẫn đang rất lớn.
- Về cơ sở vật chất: Phần lớn các cơ sở truyền máu vẫn trực thuộc bệnh
viện, cơ sở vật chất còn chƣa đáp ứng nhu cầu.
- Về cán bộ và trình độ cán bộ về chuyên môn kỹ thuật: Cán bộ thiếu và
trình độ cán bộ chƣa đáp ứng với yêu cầu phát triển của chuyên khoa, đặc biệt
là cán bộ sàng lọc, sản xuất và quản lý chất lƣợng.
b. Hoạt động của mạng lưới cung cấp máu, chế phẩm máu
Có 4 trung tâm đã đƣợc đầu tƣ trong dự án Trung tâm truyền máu
khu vực, đang hoạt động tốt và phát huy cơ bản hiệu quả đầu tƣ. Tuy nhiên
vẫn còn một số mục tiêu chƣa đạt yêu cầu. Các trung tâm chƣa quan tâm cụ
thể đến truyền máu tuyến huyện, cơ chế quản lý chƣa rõ. Hệ thống truyền
máu miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo chƣa đƣợc quan tâm
đúng mức.
Chƣa tạo đƣợc cơ chế quản lý và hoạt động của hệ thống dịch vụ truyền
máu. Việc tiếp nhận máu còn rất phân tán, khó kiểm soát. Thiếu nguồn ngƣời
hiến máu. Đội ngũ cán bộ chƣa đƣợc đào tạo cơ bản, chƣa đào tạo cán bộ
nguồn, độingũ cán bộ chƣa đáp ứng yêu cầu về quản lý và chuyên môn, đặc
biệt là ở Trung tâm Huế và Cần Thơ. Chất lƣợng máu và chế phẩm máu còn
chƣa thống nhất và chƣa đồng đều trên toàn quốc. Nguyễn Anh Trí (2012).
Mô hình phân tán có những nhƣợc điểm: thu gom máu với số lƣợng ít,
không đều và thụ động. Không chủ động máu và chế phẩm cho cấp cứu,
điều trị và dự phòng thảm hoạ cũng nhƣ đảm bảo máu cho an ninh, quốc
phòng. Không điều chế đƣợc các sản phẩm máu nên chủ yếu sử dụng máu
toàn phần. Chi phí thực tế cho đơn vị máu/chế phẩm máu cao. Thiếu đội ngũ
cán bộ có kinh nghiệm, có đủ uy tín để thực hiện các dịch vụ truyền máu và
hƣớng dẫn thầy thuốc lâm sàng sử dụng máu và chế phẩm máu. Không áp
dụng đƣợc các kỹ thuật hiện đại sàng lọc máu. Chất lƣợng máu tuỳ thuộc
46
từng bệnh viện.
2.2. Thực trạng chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu
2.2.1. Công nghệ an toàn trong truyền máu
Với số dân trên 96 triệu ngƣời, nhu cầu máu cho điều trị, cấp cứu đề
phòng các thảm họa rất lớn, theo WHO hàng năm Việt Nam cần khoảng
1.680.000 đơn vị máu (1 đơn vị máu = 250ml).
Năm 2015, cả nƣớc tiếp nhận đƣợc 1.160.726 đơn vị máu toàn phần và
khối tiểu cầu gạn tách từ một ngƣời hiến.
Thực trạng về an toàn truyền máu ở nƣớc ta vẫn là vấn đề bức xúc
hiện nay. Các kỹ thuật sàng lọc bằng huyết thanh chƣa bảo đảm an toàn,
đang ở mức độ thô sơ; nhiều cơ sở truyền máu còn dùng kỹ thuật ngƣng kết,
kít nhanh để xét nghiệm sàng lọc HIV. Trong khi đó nhiều nƣớc trên thế giới
đã sử dụng kít HIV hỗn hợp cả kháng nguyên và kháng thể (Ag/Ab) và kỹ
thuật PCR, NAT để xét nghiệm sàng lọc máu. Do vậy, chất lƣợng máu và an
toàn truyền máu là điều hết sức bức xúc. Hệ thống truyền máu lâm sàng
chƣa đƣợc xây dựng đầy đủ nên việc theo dõi và hƣớng dẫn sử dụng máu
còn rất lạc hậu.
Bên cạnh việc thiếu kinh phí đầu tƣ trang thiết bị, thiếu đồng bộ, số cơ
sở lấy máu ở nƣớc ta còn phân tán quá nhiều, cả nƣớc có 63 tỉnh thành phố
(có tới 83 cơ sở thu gom máu cấp tỉnh), có tới hơn 442 điểm lấy máu cấp quận
huyện. Sự phân tán này đang cản trở việc sử dụng các thiết bị mới hiện đại và
nguy cơ lây nhiễm các bệnh truyền qua đƣòng máu là rất cao.
2.2.2. Công nghệ đảm bảo chất lượng xét nghiệm huyết học truyền máu
Mục tiêu của xét nghiệm là đáp ứng đƣợc yêu cầu lâm sàng. Do vậy
công tác đảm bảo chất lƣợng xét nghiệm huyết học là thực hiện những việc
cần thiết để đảm bảo kết quả kịp thời, có độ tin cậy cao. Trong công tác xét
47
nghiệm huyết học có bốn hoạt động đảm bảc chất lƣợng.
a. Kiểm tra chất lượng nội bộ
Là các hoạt động của labo nhằm đảm bảo xét nghiệm có độ tin cậy.
Kiểm tra độ xác thực, kiểm tra độ lặp lại, kiểm tra phƣơng tiện và sinh phẩm,
kiểm tra bằng kỹ thuật khác.
Để tiến hành kiểm tra nội bộ, ngƣời chịu trách nhiệm chất lƣợng xét
nghiệm của labo phải nghiên cứu kỹ quy trình kỹ thuật, đặt ra các chế độ
kiểm tra thƣờng quy có tính định kỳ, đồng thời đề ra các biện pháp giải quyết
các tình huống khác nhau. Nếu sử dụng các phƣơng tiện xét nghiệm có quản
lý bằng phần mềm, cần đặt ra trong chƣơng trình các báo động cần thiết để
nhắc việc nội kiểm tra.
Với các labo thông thƣờng nhiều khi dễ bỏ qua công tác nội kiểm tra
nên cần đặt ra một nguyên tắc, ví dụ ngƣời chịu trách nhiệm chất lƣợng xét
nghiệm tế bào máu trƣớc khi ký trả kết quả xét nghiệm phải ký vào tò kết quả
xét nghiệm lại các mẫu ngày trƣớc, đồng thời khi xây dựng quy trình cho một
ngày làm việc cần có mục tiêu kiểm tra chất lƣợng nội bộ.
b. Đánh giá chất lượng từ ngoài
Có cơ quan chất lƣợng đƣợc thực hiện đúng quy chuẩn độc lập tổ chức
kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất bằng cách gửi mẫu xét nghiệm đến các labo
trong hệ thống và thu thập, xử lý kết quả.
Tác dụng của đánh giá chất lƣợng từ ngoài là thống nhất đƣợc hệ thống
hay nói cách khác làm cho các phòng xét nghiệm khác nhau cùng đƣa ra một
kết quả tƣơng tự đối với một mẫu nghiệm.
c. Giám sát quy trình
Một phòng xét nghiệm hoạt động phải có các quy trình:
- Quy trình tổ chức, sắp xếp.
48
- Quy trình đào tạo nhân lực.
- Quy trình thực hiện công việc: từ sáng đến chiều, ai làm gì, ai chịu
trách nhiệm.
- Quy trình tiến hành kỹ thuật.
- Quy trình lƣu, ghi chép, trả kết quả.
Việc kiểm tra thƣờng xuyên xem có theo đúng quy trình này là điều cần
thiết, cần có nhân viên kiểm tra việc thực hiện quy trình. Quy trình tổ chức
labo tạo một dây chuyền (hay đƣờng đi) của một xét nghiệm sao cho hợp lý,
tiết kiệm nhân lực, tiết kiệm thời gian và tránh mọi nhầm lẫn, sai sót, quy
trình sắp xếp nhân lực để đảm bảo kết quả xét nghiệm đƣợc thực hiện khách
quan và đƣợc ngƣời có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá. Khi xây dựng quy
trình tổ chức labo cần lƣu ý đến tất cả các khâu từ địa điểm, hình thức, điều
kiện nhận bệnh phẩm đến trả kết quả.
Quy trình đào tạo nhân lực: Đào tạo nhân lực phải đƣợc luôn chú ý, vừa
để củng cố kiến thức chuyên sâu, vừa cập nhật các hiểu biết ứng dụng mói.
Thƣờng ở một phòng xét nghiệm có nhiều loại công việc từ đơn giản đến
phức tạp. Cán bộ khi về nhận công tác đƣợc bố trí công việc và sẽ đƣợc đào
tạo dần trong cả quá trình để thực hiện những công việc ngày càng cao.
Quy trình thực hiện công việc và quy trình tiến hành kỹ thuật có môi
liên quan rất chặt chẽ. Tuy nhiên, để thực hiện đúng kỹ thuật một khối lƣợng
xét nghiệm lớn lại phải đáp ứng về mặt thời gian nên yêu cầu bố trí công việc
khoa học để mọi lao động đều đƣợc tận dụng và có hiệu quả.
Khi xây dựng quy trình kỹ thuật xét nghiệm cần lƣu ý đến các điều kiện
liên quan nhƣ cách lấy bệnh phẩm, thời gian giữ bệnh phẩm tốì đa, điều kiện
vận chuyển, lƣu giữ bệnh phẩm... Sau khi có kết quả xét nghiệm, việc ghi
chép sổ sách lƣu theo mẫu thông nhất, khoa học để sao cho có thể kiểm tra
đánh giá đƣợc. Ngƣời ta căn cứ kết quả từng thông số sau đó lập đồ thị. Nhiều
khi dựa vào đồ thị có thể giúp nhận ra quy luật bệnh tật hay phát hiện sai sót
49
trong xét nghiệm.
d. Tiêu chuẩn và chuẩn hóa
Là đặt ra các tiêu chuẩn của cán bộ, của trang bị, của kỹ thuật để tuân
thủ. Tiêu chuẩn và chuẩn hóa không phải giống nhau cho tất ca các labo mà
tùy cấp, mức độ phục vụ. Tùy điều kiện trang bị mà đặt ra tiêu chuẩn của labo
cần đạt. Chuẩn hóa đặt ra yêu cầu rất cao, nhiều thông số đƣợc kiểm tra chặt
chẽ. Tuy nhiên đã là labo huyết học dù ở mức độ nào cũng phải có các tiêu
chuẩn chặt chẽ để đảm bảo kết quả xét nghiệm đạt độ tin cậy cần thiết. Chuẩn
hóa là dùng các phƣơng pháp, quy trình, vật liệu đã biết, đã đƣợc đánh giá là
tốt để áp dụng trong các labo. Nhiều thông số đặt ra cho việc chuẩn hóa của
labo xét nghiệm:
- Chuẩn tham chiếu: một chất, một thiết bị, một quy trình đƣợc gọi là
chuẩn khi nó đáp ứng đƣợc những yêu cầu chặt chẽ về chất lƣợng, về độ tin
cậy khi tính đến mọi yếu tố.
- Vật liệu tham chiếu: vật liệu đã đƣợc nhiều trung tâm nghiên cứu
đánh giá phù hợp cho một xét nghiệm đặc thù dùng để làm chuẩn.
- Phƣơng pháp tham chiếu: kỹ thuật đƣợc mô tả chính xác, rõ ràng cho
một xét nghiệm cụ thể đƣợc hội đồng chuyên môn xem xét và xác nhận,
phƣơng pháp này dùng để đánh giá các phƣơng pháp labo khác. Phƣơng pháp
chuẩn quốc tế là phƣơng pháp đƣợc thiết lập nhờ hội đồng khoa học quốc tế.
- Lựa chọn phƣơng pháp xét nghiệm: dựa vào phƣơng pháp chuẩn tham
chiếu, căn cứ vào điều kiện kinh tế, trang bị, lao động để lựa chọn phƣơng
pháp sử dụng hàng ngày thích hựp vừa đảm bảo mức độ chính xác cần thiết
vừa tính đến yếu tố tiết kiệm và khả thi. Ví dụ: phƣơng pháp chuẩn để xét
nghiệm thăm dò bệnh hemophilia là định lƣợng yếu tố VIII hay yếu tố IX
bằng các kỹ thuật nhạy, trực tiếp. Một labo đông máu tuyến tỉnh có thể căn cứ
vào điều kiện thực tế xét thấy xét nghiệm APTT là hợp lý, vừa kinh tế, có thể
50
thực hiện đƣợc, lại không bỏ sót bệnh nhân dù không phải xét nghiệm khẳng
định. Một labo tuyến huyện có thể phải chấp nhận sử dụng phƣơng pháp xét
nghiệm thời gian.
Nhiều thông số đƣợc chuẩn hóa khác nhƣ kít chẩn đoán, điều kiện
chuẩn... Tất cả phải đƣợc tính đến để làm căn cứ cho các thông số cụ thể của
labo chọn lựa sử dụng.
2.2.3. Công nghệ chuẩn sản xuất chế phẩm máu
Theo Hoàng Văn Phóng (2014), khi nghiên cứu tại Hải Phòng cho thấy.
Giai đoạn trƣớc 2012, tại Hải Phòng việc sản xuất chế phẩm chƣa đƣợc quan
tâm đúng mức, trang thiết bị còn thiếu thốn từ máy ly tâm lạnh, bàn ép huyết
tƣơng, túi lấy máu chủ yếu là túi đơn và túi đôi, quy trình sản xuất đôi khi
chƣa đƣợc đảm bảo nên chất lƣợng máu còn nhiều hạn chế. Từ năm 2012,
theo khuyến cáo của Viện Huyết học-Truyền máu Trung ƣơng về quản lý chất
lƣợng trong dịch vụ truyền máu và sự thành lập và giám sát của hội đồng
Truyền máu bệnh viện Hữu nghị Việt-Tiệp, đặc biệt là sự vào cuộc của lãnh
đạo Trung tâm Huyết học - Truyền máu đã quan tâm đặc biệt đến quy trình
sản xuất chế phẩm máu tại Hải Phòng đã điều chỉnh lại từ tốc độ ly tâm cho
mỗi loại chế phẩm, thời gian ly tâm, nhiệt độ bảo quản và khâu tiếp nhận đã
sử dụng túi 3 để tiếp nhận máu. Chất lƣợng khối hồng cầu đƣợc sản xuất từ
đơn vị máu toàn phần 250 ml và 350 ml về chỉ số huyết sắc tố đƣợc cải thiện
đáng kể với đơn vị khối hồng cầu đƣợc điều chế từ đơn vị máu toàn phần
250ml trƣớc chƣa có cải thiện về đối tƣợng ngƣời hiến máu và chuẩn hóa kỹ
thuật điều chế lƣợng huyết sắc tố chỉ là 29 ± 4,8 g/đơn vị. Đây là bƣớc cải
thiện rõ rệt về chất lƣợng khối hồng cầu đƣợc điều chế tại Trung tâm Huyết
học-Truyền máu Hải Phòng. Có đƣợc kết quả này phần lớn nhờ vào công tác
tuyên truyền vận động HMTN đã mở rộng đƣợc đối tƣợng HMTN có chất
lƣợng và chuẩn hóa lại quy trình sản xuất chế phẩm máu, làm tăng tốc độ
51
vòng quay khi ly tâm làm các tế bào máu lắng nhanh khi tiến hành ép tách
huyết tƣơng hạn chế đƣợc hồng cầu lẫn trong huyết tƣơng nên tận thu đƣợc
hồng cầu. Kết quả các chỉ số huyết tƣơng tƣơi đông lạnh sau khi vận động
HMTN làm thay đổi chất lƣợng ngƣời hiến máu và đặc biệt là sau khi chuẩn
hóa quy trình sản xuất và thời gian sản xuất chế phẩm máu trong vòng 8 giờ
kể từ khi
kết thúc tiếp nhận máu cho thấy chất lƣợng huyết tƣơng tƣơi đông lạnh đƣợc
nâng lên đáng kể.
Nhƣ vậy, kể từ 2012 với việc kiện toàn lại Ban chỉ đạo vận động
HMTN thành phố Hải Phòng, tăng cƣờng công tác chỉ đạo giám sát chất
lƣợng của Hội đồng Truyền máu Bệnh viện Hữu nghị Việt-Tiệp, đặc biệt là
chuẩn hóa lại quy trình sản xuất chế phẩm máu của Trung tâm Huyết học -
Truyền máu Hải Phòng, các chế phẩm máu đã đƣợc cải thiện một cách đáng
kể, đảm bảo ATTM ngày càng tốt hơn, mang lại lợi ích cho ngƣời bệnh và
đáp ứng nhiệm vụ chung cho toàn ngành Truyền máu Việt Nam là phấn đấu
tất cả các cơ sở Truyền máu trên cả nƣớc có chung một chất lƣợng sản phẩm
máu. Hoàng Văn Phóng (2014).
2.2.4. Công nghệ sử dụng máu và chế phẩm máu
Tất cả các công đoạn tạo ra đƣợc một sản phẩm máu có chất lƣợng cuối
cùng nhằm đảm bảo an toàn cho ngƣời nhận máu và nâng cao hiệu quả truyền
máu. Nhƣ vậy muốn có an toàn và hiệu quả trong truyền máu ngoài việc có
chế phẩm máu tốt còn cần những ngƣời làm công tác truyền máu lâm sàng
phải hiểu biết kiến thức về truyền máu lâm sàng để chỉ định truyền máu hợp
lý, an toàn và hiệu quả, đồng thời phải có kiến thức khác về truyền máu nhƣ
an toàn về mặt miễn dịch, an toàn về mặt nhiễm trùng và xử trí tốt các tai biến
truyền máu.
Cũng nhƣ các hoạt động khác, hoạt động truyền máu và xét nghiệm
52
huyết học cũng có sản phẩm. Sản phẩm của một hoạt động là kết quả cuối
cùng do hoạt động đó đem lại. Đối với các hoạt động sản xuất thì sản phẩm có
chất lƣợng có nghĩa là đáp ứng một cách tốt nhất mục đích sử dụng sản phẩm
đó. Đối với công tác xét nghiệm huyết học thì sản phẩm là kết quả xét
nghiệm. Chất lƣợng xét nghiệm đƣợc đảm bảo có nghĩa là kết quả phản ánh
kịp thời, chính xác và rõ ràng các chỉ số huyết học ở bệnh nhân mà lâm sàng
yêu cầu.
Công tác truyền máu đƣợc đảm bảo chất lƣợng có nghĩa là máu và
thành phẩm truyền cho bệnh nhân đáp ứng tốt nhất nhu cầu điều trị và hạn chế
đến mức thấp nhất các kết quả không mong muốn.
Truyền máu là một liệu pháp điều trị rất có hiệu quả trong nhiều bệnh
lý và đã góp phần hỗ trợ quan trọng trong điều trị và bảo vệ sức khỏe cộng
đồng. Cũng nhƣ mọi liệu pháp y học khác, truyền máu cần đƣợc sử dụng
đúng đắn, hợp lý nhằm phát huy tối đa hiệu quả và hạn chế tối thiểu những tai
biên truyền máu. Nguyên tắc cơ bản của truyền máu hiện đại là chỉ sử dụng
loại chế phẩm máu mà ngƣời bệnh cần. Nhƣ vậy, máu toàn phần là một chế
phẩm trƣớc đây đƣợc sử dụng rộng rãi trong nhiều loại bệnh chỉ nên sử dụng
khi ngƣời bệnh cần đồng thời cả hồng cầu và huyết tƣơng, nhƣ trong ngoại
khoa chảy máu cấp với số lƣợng mất máu 1,5 - 2 lít hay hơn nữa và một số
trƣờng hợp truyền thay máu. Vai trò và lợi ích của truyền máu có thể nhắc
đến trong nhiều hoàn cảnh, tình trạng lâm sàng và mục đích của thầy thuốc
cũng nhƣ ngƣời đƣợc truyền máu. Trong số đó có những điểm đã đƣợc công
nhận, có điểm còn gây tranh cãi. Trên thực tế mỗi ngƣời bệnh có những nhu
cầu điều trị rất khác nhau diễn ra trong những tình huống rất phong phú, đa
dạng, do vậy thực hành truyền máu lâm sàng cần đƣợc sự quan tâm và phối
hợp của mọi ngƣời có liên quan từ ngƣời cung cấp đến ngƣời sử dụng, từ y tá
điều dƣỡng, kỹ thuật viên đến bác sĩ điều trị và cả sự hợp tác của ngƣời bệnh
53
và gia đình.
Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành thể tích định danh một đơn vị
máu là 250ml, 350 ml và 450ml. Khi truyền vào cơ thể, thể tích máu ngƣời
bệnh sẽ đƣợc tăng lên tƣơng ứng và duy trì kéo dài trung bình 24 giờ sau
truyền. Ảnh hƣởng này kéo dài hơn khi truyền máu trên bệnh nhân suy gan,
thận gây quá tải tuần hoàn và có nguy cơ gây suy tim cấp. Nhƣ vậy máu toàn
phần có hiệu quả trong phục hồi thể tích máu bị mất, trong khi khối hồng cầu
giúp làm giảm nhẹ gánh nặng tuần hoàn trong khi vẫn duy trì hiệu quả điều trị
thiếu hồng cầu.
2.2.5. Công nghệ NAT đảm bảo chất lượng nguồn máu truyền cho người bệnh
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tại 35 trong hơn 170 quốc gia
cung cấp 112,5 triệu đơn vị máu hiến trong năm 2017 không kiểm nghiệm
chất lƣợng nguồn máu khỏi những virus gây bệnh truyền qua đƣờng máu nhƣ
HIV, viêm gan B và viêm gan C vì thiếu thốn nguồn nhân lực và các thiết bị
xét nghiệm cần thiết.
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), truyền máu là một
trong bốn yếu tố đánh giá sự phát triển y tế của mỗi quốc gia. Cả nƣớc dự
kiến tiếp nhận khoảng 1,8 triệu đơn vị máu năm 2020. Do vậy, việc đảm bảo
an toàn truyền máu luôn đƣợc đặt lên hàng đầu, trong đó xét nghiệm sàng lọc
máu, bảo đảm an toàn truyền máu là một trong những yếu tố quan trọng bậc
nhất góp phần đạt đƣợc mục tiêu này.
Do đó, đảm bảo nguồn máu an toàn, kịp thời luôn là bài toán cần tìm
lời giải của ngành truyền máu - huyết học, để ngƣời nhận không mắc các bệnh
lây nhiễm qua đƣờng máu nhƣ HIV, viêm gan B, viêm gan C, giang mai... từ
máu hiến. Điều này đòi hỏi độ nhạy và tính hiệu quả ở công nghệ sàng lọc
máu rất cao.
Tại Việt Nam, thống kê của Viện Huyết học Truyền máu Trung ƣơng
cho thấy có gần 10% lƣợng máu hiến tặng phát hiện có các bệnh truyền nhiễm,
cao nhất là viêm gan B. Năm 2015, cả nƣớc tiếp nhận đƣợc 1.160.726 đơn vị
54
máu toàn phần và khối tiểu cầu gạn tách từ một ngƣời hiến. Trong đó, ngoài
việc xét nghiệm sàng lọc cho 100% đơn vị máu bằng kỹ thuật huyết thanh học
phát hiện nhiễm vi rút HBV, HCV, HIV, giang mai, sốt rét… Trong đó, bƣớc
đầu thực hiện xét nghiệm sàng lọc bằng công nghệ NAT cho 417.893 mẫu máu
(đạt 36% tổng số máu tiếp nhận và sử dụng (417.893/1.160.726), phát hiện
đƣợc 442 mẫu máu nhiễm bệnh. Ƣớc tính xét nghiệm NAT có thể phát hiện
đƣợc mẫu nhiễm HBV là 1/1.184 mẫu, HCV là 1/37.990 mẫu, với HIV là
1/83.579 mẫu đã có xét nghiệm huyết thanh học âm tính trƣớc đó.
Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng đã ứng dụng thành công
công nghệ xét nghiệm NAT giúp rút ngắn thời gian phát hiện vi rút gây bệnh
có trong máu, góp phần đảm bảo an toàn truyền máu cho bệnh nhân.
Công nghệ xét nghiệm sinh học phân tử NAT (khuyếch đại axit
nucleic) là một trong những công nghệ tiên tiến nhất trong xét nghiệm sàng
lọc máu. Hiện nay, Bộ Y tế ban hành thông tƣ hƣớng dẫn, cho phép áp dụng
tại tất cả các trung tâm truyền máu, các khoa xét nghiệm - sàng lọc máu của
các bệnh viện trên toàn quốc theo lộ trình cụ thể.
Công nghệ NAT đƣợc thực hiện trên máy xét nghiệm sinh học phân tử
hoàn toàn tự động sàng lọc vi rút HBV, HCV, HIV cho độ chính xác, độ nhạy
cao, đem hiệu quả rõ rệt trong việc rút ngắn thời gian phát hiện ở giai đoạn
cửa sổ của các vi rút. Công nghệ này góp phần mở ra kỷ nguyên mới bảo đảm
an toàn truyền máu, cung cấp nguồn máu an toàn, kịp thời.
Viện Huyết học - Truyền máu trung ƣơng là đơn vị đầu tiên trong cả
nƣớc chính thức cung cấp tất cả các đơn vị máu, chế phẩm máu đều đƣợc
sàng lọc bằng xét nghiệm NAT. Tại 4 tỉnh thành Hà Nội, TPHCM, Cần Thơ,
Huế, từ năm 2015, công nghệ khuếch đại a xít nucleic (NAT) là giải pháp
sàng lọc máu tiên tiến đƣợc thực hiện nhằm rút ngắn thời gian phát hiện bệnh
ở giai đoạn cửa sổ mà chƣa phát hiện đƣợc bằng kỹ thuật huyết thanh học.
Công nghệ này đang đƣợc triển khai tại những bệnh viện, trung tâm truyền
55
máu lớn nhƣ Viện Huyết học Truyền máu Trung ƣơng, Bệnh viện Truyền
máu Huyết học TP.HCM, Trung tâm Huyết học Truyền máu - Bệnh viện Chợ
Rẫy… đem đến nhiều kết quả khả quan.
Công nghệ xét nghiệm NAT phát hiện trực tiếp các DNA hoặc RNA
của vi rút thông qua nhân bản đoạn gen đặc hiệu của vi rút (dù khá thấp trong
máu ngay từ lúc mới nhiễm) tăng lên nhiều lần và sau đó xác định chính xác
vi rút đã nhiễm, rút ngắn thời gian cửa sổ của phát hiện vi rút lây nhiễm và
cho kết quả có độ nhạy cao. Thí dụ thời điểm xét nghiệm NAT có thể phát
hiện vi rút HIV rút ngắn 10 ngày, với HBV sớm hơn 25 ngày, với HCV sớm
hơn 60 ngày so với kỹ thuật xét nghiệm huyết thanh học.
Công nghệ khuyếch đại a xít nucleic (NAT) giúp đo lƣờng phát hiện trực
tiếp các ADN hoặc ARN của virus, giúp phát hiện virus trong thời kỳ cửa sổ
(giai đoạn mới nhiễm bệnh). Công nghệ NAT giúp phát hiện virus HIV trong
vòng 10 ngày sau khi phơi nhiễm, virus viêm gan siêu vi B trong 34 ngày và
viêm gan siêu vi C trong 23 ngày, ngắn hơn nhiều so với kỹ thuật hiện có.
Công nghệ NAT trong xét nghiệm HIV, viêm gan siêu vi B và C đã
đƣợc thực hiện tại các cơ sở truyền máu trên toàn quốc từ ngày 01.01.2018.
2.3. Nhận xét chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu
2.3.1. Công nghệ truyền máu:
- Hệ thống tổ chức: Tập trung;
- Công nghệ tiếp nhận;
- Công nghệ sàng lọc;
- Công nghệ sản xuất;
- Công nghệ lƣu trữ , phân phối;
- Sử dụng máu lâm sàng;
- Hệ thống cảnh báo tai biến truyền máu.
2.3.2. Vị trí của Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương trong hệ thống
truyền máu
Tạo ra quy trình chuẩn để có thể ứng dụng rộng rãi. Các công đoạn
56
trong quá trình thành lập “ngân hàng máu sống” bao gồm vận động truyên
truyền, xét nghiệm, sàng lọc, khám kiểm tra lại sức khỏe… đều đƣợc hoàn
thiện trƣớc khi bàn giao lại Bộ Y tế. Khi đã chuẩn hóa, việc áp dụng quy trình
tại cơ sở y tế các cấp cũng thuận lợi hơn.
Trên cơ sở những kết quả thực hiện nghiên cứu và đề xuất của Viện, Bộ
Y tế đã ban hành thông tƣ số 26/2013/TT-BYT hƣớng dẫn hoạt động truyền
máu, thay thế quyết định số 06/2007/QĐ-BYT về quy chế truyền máu, trong
đó có những quy định rất rõ về tuyển chọn ngƣời hiến máu; xét nghiệm các
đơn vị máu toàn phần và thành phần máu; điều chế, bảo quản, vận chuyển
máu và chế phẩm máu; quản lý, sử dụng máu và chế phẩm máu ở cơ sở điều
trị; lƣu giữ hồ sơ và chế độ báo cáo…
Đồng thời đặt ra nguyên tắc thực hiện hoạt động truyền máu: vì mục
đích nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm tự nguyện đối với
ngƣời hiến máu; không ép buộc ngƣời khác hiến máu, thành phần máu, chỉ sử
dụng máu và các chế phẩm máu phục vụ chữa bệnh, đào tạo, nghiên cứu khoa
học, giữ bí mật các thông tin có liên quan đến ngƣời hiến máu, ngƣời nhận
máu và chế phẩm máu, bảo đảm an toàn cho ngƣời hiến máu, ngƣời bệnh
đƣợc truyền máu, chế phẩm máu và nhân viên y tế có liên quan, thực hiện
truyền máu hợp lý đối với ngƣời bệnh.
Về nguyên tắc cấp phát, sử dụng, thu hồi máu và chế phẩm máu: chỉ
đƣợc cấp phát đơn vị máu và chế phẩm máu cho ngƣời bệnh khi: không
phát hiện thấy nguy cơ nhiễm các tác nhân lây truyền bệnh qua đƣờng máu;
có đầy đủ kết quả xét nghiệm định nhóm máu hệ ABO, Rh(D); đơn vị máu,
chế phẩm máu đạt tiêu chuẩn quy định tƣơng ứng và không vƣợt quá thời
hạn sử dụng theo quy định đối với từng loại; không có các dấu hiệu bất
thƣờng khi kiểm tra hình thức bên ngoài; bảo đảm hòa hợp miễn dịch giữa
đơn vị máu, chế phẩm máu và ngƣời đƣợc truyền máu. Chỉ định sử dụng
truyền máu hợp lý trên cơ sở tình trạng bệnh lý của từng ngƣời bệnh. Bộ
57
phận phát máu của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện xét nghiệm hòa
hợp miễn dịch truyền máu và trực tiếp cấp phát máu cho các khoa điều trị
lâm sàng thuộc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để thực hiện truyền máu, chế
phẩm máu cho ngƣời bệnh.
Về vị trí của Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng trong hệ thống
tuyền máu:
- Làm đầu mối đề xuất, tham mƣu, kiến nghị với Bộ Y tế trong việc
xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động
truyền máu; xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch, các chƣơng trình, dự
án; xây dựng tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật, hƣớng dẫn chuyên môn
có liên quan đến truyền máu;
- Triển khai đào tạo, hƣớng dẫn, hỗ trợ chuyên môn, kỹ thuật liên quan
đến hoạt động truyền máu trong phạm vi toàn quốc.
- Triển khai các nghiên cứu, đánh giá về chất lƣợng, phƣơng cách sử
dụng các loại thuốc thử, sinh phẩm, thiết bị, dụng cụ sử dụng trong hoạt động
truyền máu theo quy định của Bộ Y tế.
- Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, thống kê số liệu, xây dựng
cơ sở dữ liệu quản lý hoạt động truyền máu trong phạm vi toàn quốc.
- Thực hiện triển khai hoạt động giám sát nguy cơ truyền máu trong
phạm vi toàn quốc.
- Kiểm tra và đánh giá hoạt động các cơ sở truyền máu trong phạm vi
toàn quốc
- Thực hiện nghiên cứu, áp dụng khoa học công nghệ trong truyền máu.
- Tổng hợp, phân tích, báo cáo số liệu kết quả hoạt động truyền máu
của các cơ sở truyền máu trong phạm vi toàn quốc gửi Bộ Y tế.
Trách nhiệm của Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng: chỉ
đạo, tổ chức thực hiện, quản lý, kiểm tra, đánh giá hoạt động truyền máu của
các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở truyền máu trên địa bàn quản lý.
Căn cứ vào nhu cầu sử dụng máu của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, tổng
58
hợp, xây dựng kế hoạch sử dụng máu hàng năm của địa phƣơng; đồng thời
phối hợp với các đơn vị có liên quan trong việc vận động hiến máu tình
nguyện, bảo đảm nguồn cung cấp máu cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định, hƣớng dẫn về chuyên môn, nghiệp
vụ, quản lý nhằm khắc phục các bất cập liên quan đến hoạt động truyền máu.
Tổng hợp, phân tích, báo cáo số liệu kết quả hoạt động truyền máu của các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở truyền máu trên địa bàn quản lý gửi Cục
Quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y tế.
2.3.3. Hạn chế của chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu
Các cơ sở lấy máu ở nƣớc ta rất phân tán, hiện toàn quốc có 83 trung
tâm truyền máu cấp tỉnh, các bệnh viện trung ƣơng và hàng trăm cơ sở lấy
máu tại tuyến huyện. Các kỹ thuật sàng lọc còn chƣa đƣợc thống nhất trên
phạm vi toàn quốc, một số ít cơ sở truyền máu vẫn còn tình trạng lấy máu cấp
cứu do vậy không sử dụng các kỹ thuật đảm bảo chất lƣợng để sàng lọc các
bệnh nhiễm trùng truyền qua đƣờng máu, sử dụng kít nhanh do vậy an toàn
truyền máu phòng lây nhiễm HIV chƣa đƣợc đảm bảo.
Thiếu hệ thống thông tin để quản lý ngƣời cho máu, việc sử dụng máu
toàn phần vẫn còn phổ biến, trình độ cán bộ còn hạn chế, chƣa có hệ thống
quản lý chất lƣợng trong dịch vụ truyền máu do vậy an toàn truyền máu tại
nƣớc ta vẫn còn rất lạc hậu so với các nƣớc trên thế giới và trong khu vực.
Công tác vận động tuyên truyền hiến máu: thiếu kinh phí tuyên truyền
vận động nên cản trở đến việc thúc đẩy phong trào hiến máu.
Khó khăn trong đầu tƣ về đào tạo, huấn luyện con ngƣời; Trong việc
xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị để áp dụng những phƣơng
pháp hiện đại để tuyển chọn, sàng lọc, điều chế, lƣu trữ, bảo quản và phân
phối máu...
Trong sử dụng máu từng phần: Với số lƣợng máu ít sẽ không thể điều
chế đƣợc các sản phẩm máu nên không thực hiện đƣợc truyền máu từng phần
59
mà phải truyền máu toàn phần dẫn đến an toàn truyền máu không đảm bảo.
2.3.4. Nguyên nhân hạn chế của chính sách công nghệ trong hệ thống
truyền máu
Phần lớn các bệnh viện có thu gom máu tự mua bổ sung sinh phẩm cho
xét nghiệm sàng lọc HIV nên chất lƣợng xét nghiệm không bảo đảm, do kinh
phí không đủ để tập trung sinh phẩm về một mối.
Nhiều cơ sở có thu gom máu đã không báo cáo đầy đủ, kịp thời theo
yêu cầu của Tiểu ban ATTM, vì vậy việc quản lý và theo dõi gặp nhiều khó
khăn. Kinh phí cho việc bồi dƣỡng các cán bộ làm xét nghiệm chƣa đƣợc
cung cấp đầy đủ đúng theo quy định của Bộ Y tế
Truyền máu lâm sàng: Các bác sỹ ở một số địa phƣơng vẫn còn sử
dụng máu toàn phần vừa lãng phí, vừa không an toàn. Một số nơi chƣa có Hội
đồng truyền máu bệnh viện để hƣớng dẫn, chỉ đạo và xử trí các vấn đề liên
quan đến truyền máu. Các cán bộ chuyên khoa còn thiếu, trình độ chuyên
môn của cán bộ cũng còn hạn chế, đặc biệt lực lƣợng cán bộ có trình độ
chuyên môn cao để thực hiện các khâu trong dịch vụ truyền máu.
Tiểu kết Chương 2
Trong Chƣơng 2, Luận văn đã phân tích chính sách công nghệ trong hệ
thống truyền máu ở Việt Nam, đã tìm ra các hạn chế của chính sách công
nghệ này đó là tổ chức theo mô hình phân tán.
Để đảm bảo sự bình đẳng của bệnh nhân ở các vùng của đất nƣớc trong
việc thụ hƣởng dịch vụ truyền máu, bởi vì các bệnh nhân dù ở thành phố lớn
hay vùng sâu, vùng xa... cùng chung một loại sản phẩm, một chất lƣợng, Luận
văn xin trình bày giải pháp ở Chƣơng 3, với luận điểm nghiên cứu: tổ chức
theo mô hình tập trung, thống nhất, hiện đại và hiệu quả, tách dần các trung
60
tâm truyền máu ra khỏi các bệnh viện đa khoa.
Chương 3. KHUNG CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ THỐNG NHẤT
TRONG HỆ THỐNG TRUYỀN MÁU TRÊN CƠ SỞ TẬP TRUNG HÓA
CÁC ĐƠN VỊ TRUYỀN MÁU
3.1. Xu hướng tập trung hóa các đơn vị truyền máu
3.1.1. Hình thành ngân hàng máu
Ngân hàng máu là một trung tâm nơi máu có đƣợc từ việc hiến
máu đƣợc thu thập, lƣu trữ và bảo quản để sử dụng sau này cho truyền máu.
Thuật ngữ "ngân hàng máu" thƣờng dùng để chỉ một bộ phận của bệnh viện
nơi lƣu trữ sản phẩm máu và nơi thực hiện xét nghiệm thích hợp (để giảm
nguy cơ các tác dụng phụ liên quan đến truyền máu). Tuy nhiên, đôi khi nó đề
cập đến một trung tâm chuyên thu thập máu, và thực sự một số bệnh viện
cũng thực hiện thu thập máu.
Dịch vụ hiến máu đầu tiên trên thế giới đƣợc thành lập vào năm 1921
bởi thƣ ký Hội Chữ thập đỏ Anh, Percy Oliver. Tình nguyện viên đã trải qua
một loạt các xét nghiệm vật lý để thiết lập nhóm máu của họ. Dịch vụ truyền
máu London miễn phí và đƣợc mở rộng nhanh chóng. Đến năm 1925, nó đã
cung cấp dịch vụ cho gần 500 bệnh nhân và nó đã đƣợc đƣa vào cấu trúc của
Hội Chữ thập đỏ Anh năm 1926. Các hệ thống tƣơng tự đã đƣợc thiết lập ở
các thành phố khác bao gồm Sheffield, Manchester và Norwich và công việc
của dịch vụ này bắt đầu thu hút sự chú ý của quốc tế. Các dịch vụ tƣơng tự
đƣợc thành lập ở Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Úc và Nhật Bản.
Vladimir Shamov và Sergei Yudin ở Liên Xô đã tiên phong trong việc
truyền máu từ các ngƣời cho mới chết. Yudin đã thực hiện truyền máu thành
công lần đầu tiên vào ngày 23 tháng 3 năm 1930 và báo cáo bảy lần truyền
máu lâm sàng đầu tiên của ông với máu ngƣời mới chết tại Đại hội bác sĩ
phẫu thuật Ukraine lần thứ tƣ tại Kharkov vào tháng 9 năm 1930. Cũng trong
61
năm 1930, Yudin đã tổ chức ngân hàng máu đầu tiên trên thế giới tại Viện
Nikolay Sklifosovsky, nơi làm gƣơng cho việc thành lập các ngân hàng máu
tiếp theo ở các khu vực khác nhau của Liên Xô và các quốc gia khác. Vào
giữa những năm 1930, Liên Xô đã thiết lập một hệ thống gồm ít nhất 65 trung
tâm máu lớn và hơn 500 công ty con, tất cả đều lƣu trữ máu "đóng hộp" và
vận chuyển nó đến mọi nơi trên đất nƣớc.
Một trong những ngân hàng máu đầu tiên đƣợc thành lập bởi Frederic
Durán-Jordà trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha năm 1936. Duran tham gia
Dịch vụ truyền máu tại Bệnh viện Barcelona khi bắt đầu cuộc xung đột,
nhƣng bệnh viện đã sớm bị choáng ngợp bởi nhu cầu về máu và sự ít ỏi của
các nhà tài trợ. Với sự hỗ trợ của Bộ Y tế Quân đội Cộng hòa Tây Ban Nha,
Duran đã thành lập một ngân hàng máu để sử dụng thƣơng binh và thƣờng
dân. 300 chiết xuất 400 ml 400 ml máu đƣợc trộn với dung dịch citrat 10%
trong bình Duran Erlenmeyer đã đƣợc sửa đổi. Máu đƣợc lƣu trữ trong một ly
vô trùng đƣợc bao bọc dƣới áp suất ở nhiệt độ 2 °C. Trong 30 tháng làm việc,
Dịch vụ truyền máu của Barcelona đã có 30.000 ngƣời cho máu đăng ký và
xử lý 9.000 lít máu.
Năm 1937, Bernard Fantus, giám đốc trị liệu tại Bệnh viện Cook
ở Chicago, đã thành lập một trong những ngân hàng máu bệnh viện đầu tiên
ở Hoa Kỳ. Khi tạo ra một phòng thí nghiệm ở bệnh viện chuyên bảo quản,
làm lạnh và lƣu trữ máu của ngƣời hiến, Fantus đã dùng thuật ngữ "ngân hàng
máu" lần đầu tiên. Trong một vài năm, các ngân hàng máu của bệnh viện và
cộng đồng đã đƣợc thành lập trên khắp Hoa Kỳ.
3.1.2. Tập trung hóa các đơn vị truyền máu
Xu hƣớng tập trung hoá Trung tâm máu của các nƣớc trên thế giới hiện
nay là giảm bớt sự phân tán các Trung tâm máu nhỏ lẻ và tập trung dần vào
những trung tâm lớn để có điều kiện thuận lợi trong việc quản lý chất lƣợng
62
sàng lọc, điều chế, lƣu trữ và phân phối máu và các chế phẩm máu nhằm đảm
bảo an toàn và chất lƣợng hơn. Cụ thể ở Pháp, những năm 1990 đang từ 60
trung tâm đã giảm xuống còn 22 rồi 16 trung tâm tiếp nhận, sàng lọc. Ở Mỹ
giai đoạn trƣớc 1996 có gần 180 trung tâm, hiện chỉ còn 6 trung tâm làm
nhiệm vụ sàng lọc và 32 trung tâm truyền máu đảm bảo cung cấp máu trong
toàn quốc. Các nƣớc nhƣ Nhật, Hàn Quốc, Hà Lan, Thụy Điển đã giảm bớt
các trung tâm truyền máu nhỏ ở các địa phƣơng để tập trung vào các trung
tâm lớn hơn.
Ở các nƣớc tiên tiến trên thế giới nhƣ Mỹ, Pháp, Nhật..., từ năm
1996 đều đã thực hiện rất quyết liệt chủ trƣơng tập trung hóa ngân hàng
máu khu vực, thế nhƣng ở nƣớc ta quá trình tập trung hóa này vẫn đang
diễn ra rất chậm chạp. Nhiều chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc đã ra
đời để thúc đẩy quá trình này, thế nhƣng thực tế quá trình này vẫn cần một
lộ trình dài hơi.
Sự xuất hiện của HIV, viêm gan B, viêm gan C đã buộc Chính phủ
các nƣớc phải nhìn nhận và tổ chức lại hệ thống truyền máu cho an toàn và
hiệu quả.
Máu rất quan trọng và cần thiết cho sự sống, nhờ có truyền máu mà
nhiều ngƣời bệnh đã đƣợc cứu sống, hàng năm toàn thế giới (176 nƣớc) có
trên 4.00 triệu đơn vị máu đƣợc thu thập để truyền cho ngƣời bệnh, tuy
nhiên con số này so với nhu cầu điều trị vẫn còn rất thiếu. Mỗi năm có
khoảng 500.000 phụ nữ bị chết khi sinh con, hầu hết những phụ nữ này
thuộc các nƣớc đang phát triển và trong số các trƣờng hợp trên có 25%
ngƣời mẹ khi sinh con bị chết vì mất máu nặng. Máu cũng rất cần thiết để
cấp cứu các trƣờng hợp chấn thƣơng, các tai nạn và các thảm họa do thiên
tai và chiến tranh. Máu quan trọng nhƣ vậy nhƣng truyền máu cũng co thể
làm lây truyền một số bệnh từ ngƣời cho máu sang ngƣời bệnh nếu các
63
nguyên tắc về an toàn truyền máu không đƣợc tôn trọng. Hiện nay, hàng
năm trên toàn thế giới vẫn còn khoảng 13 triệu đơn vị máu trên toàn thế giới
đƣợc thu thập nhƣng chƣa đƣợc sàng lọc bất cứ một bệnh nhiễm trùng nào.
Các bệnh nhiễm trùng này đã gây nên các hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt
có một số bệnh đƣợc gây ra bởi virus đã ảnh hƣởng rất lớn tới sự sống của
hàng triệu ngƣời, nhƣ đại dịch HIV/AIDS đã gây tử vong khoảng 2,5 triệu
ngƣời/năm. Hiện nay ngƣời ta đã phát hiện có rất nhiều căn nguyên gây các
bệnh nhiễm trùng truyền qua đƣờng truyền máu nhƣ virus gây suy giảm
miễn dịch ở ngƣời (human immunodeficiency viruses), virus viêm gan B
(hepatitis B virus), virus viêm gan c (hepatitis c virus), virus viêm gan D
(hepatitis D virus), virus viêm gan G (hepatitis G virus), Cytomegalovirus
(CMV), Epstein - B'arr virus, virus gây ung thƣ tế bào lympho ở ngƣời
(HTLV), Parvovirus, giang mai, sốt rét... Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế
Thế giới thì sáu loại căn nguyên bắt buộc phải đƣợc sàng lọc cho ngƣời cho
máu là: HIV, HBV, HCV, xoắn khuẩn giang mai, ký sinh trùng sốt rét và
xoắn khuẩn Czuzi. Tại Việt Nam năm loại căn nguyên bắt buộc phải sàng
lọc trƣớc khi máu đƣợc truyền cho ngƣời bệnh là HIV, HBV, HCV, xoắn
khuẩn giang mai và ký sinh trùng sốt rét.
Xu hƣớng tập trung hóa hệ thống các Trung tâm truyền máu để có điều
kiện trang bị hiện đại, có điều kiện để sàng lọc bệnh nhiễm trùng và sản xuất
các chế phẩm máu, việc này sẽ mang lại hiệu quả và đảm bảo an toàn cho
ngƣời bệnh.
Ví dụ : - Singapore (4 triệu dân) chỉ có một ngân hàng máu;
- Thái Lan (65 triệu dân) có 12 ngân hàng máu;
- Nhật Bản hiện nay có 65 trung tâm truyền máu nhƣng chỉ có 10 trung
tâm làm xét nghiệm và 30 trung tâm sản xuất chế phẩm máu. Theo kế hoạch,
đến năm 2013, chỉ còn 8 trung tâm xét nghiệm và 11 trung tâm sản xuất chế
64
phẩm máu.
- Hàn Quốc: Năm 2010, với 50 triệu dân chỉ có 15 trung tâm tiếp nhận
máu, trong đó chỉ có 3 trung tâm đƣợc phép sàng lọc máu.
- Nƣớc Mỹ tiếp nhận 20 triệu đơn vị máu/năm (2008), có 6 trung tâm
đƣợc phép sàng lọc các bệnh nhiễm trùng và bằng kỹ thuật rất hiện đại - kỹ
thuật NAT.
3.1.3. Xu hướng tập trung hóa các đơn vị truyền máu ở Việt Nam
Từ 2005 đến nay, bƣớc đầu đã tập trung hoá đƣợc một số trung tâm
truyền máu và xây dựng các TTTMKV, những trung tâm này trở thành những
cơ sở cung cấp máu lớn, chịu trách nhiệm cung cấp máu cho các bệnh viện,
các tỉnh mà trung tâm bao phủ. Các cơ sở truyền máu nhỏ thuộc diện bao phủ
của TTTMKV đã không còn tổ chức tiếp nhận, sàng lọc, điều chế các sản
phẩm máu mà chỉ tập trung vào lƣu trữ, phát máu an toàn và truyền máu lâm
sàng hợp lý và hiệu quả, đã xây dựng đƣợc phong trào HMTN phát triển bền
vững, Ban chỉ đạo vận động HMTN cấp quốc gia và các cấp tỉnh, huyện... đã
đƣợc thành lập, công tác tổ chức vận động hiến máu đƣợc thực hiện một cách
hiệu quả, đã duy trì nguồn ngƣời HMTN ổn định. Chúng ta từng bƣớc hoàn
thiện qui trình tổ chức hiến máu, tiếp nhận máu từ các tỉnh về TTTMKV,
hoàn thiện qui trình chăm sóc và tƣ vấn sức khoẻ ngƣời hiến máu. Chúng ta
đã xây dựng đƣợc cơ chế tài chính cho công tác tuyên truyền vận động
HMTN một cách hợp lý và hiệu quả; xây dựng quy chế tôn vinh ngƣời
HMTN; mở rộng phạm vi cung cấp máu của các TTTMKV; từng bƣớc hoàn
thiện qui trình cung cấp máu từ các trung tâm đến các tỉnh, các bệnh viện. Sau
một thời gian thực hiện cần khảo sát đánh giá nhu cầu và thực trạng sử dụng
máu và các chế phẩm máu tại các địa phƣơng, nghiên cứu một số biện pháp
để vận chuyển, bảo quản, phân phối máu và chế phẩm một cách kịp thời, khoa
học và thuận lợi.
Hiện nay, đã có 12 Trung tâm truyền máu đƣợc thành lập ở 7 vùng,
65
riêng vùng Tây Bắc chƣa có trung tâm truyền máu. Các trung tâm đó là: Hà
Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Bình Định, Khánh
Hòa, Đắc Lắc, Thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Rẫy, Cần Thơ.
Mở rộng truyền máu từng phần, áp dụng các biện pháp điều trị hiện đại.
Nâng cao chất lƣợng máu phục vụ ngƣời bệnh: Đảm bảo đáp ứng đƣợc nhu
cầu “cần gì truyền nấy”, truyền máu có chất lƣợng, an toàn.
Quy hoạch mạng lƣới truyền máu Việt Nam đã đƣợc hình thành từ
quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tƣớng Chính phủ.
Trong đó có các giải pháp chính để thực hiện mục tiêu:
a) Tổ chức và xây dựng hợp lý hệ thống truyền máu quốc gia theo
hƣớng tập trung và hiện đại trên 3 lĩnh vực: vận động hiến máu, ngân hàng
máu và sử dụng máu. Ƣu tiên xây dựng ngân hàng máu tỉnh và khu vực để có
đủ khả năng cung cấp máu có chất lƣợng cao và an toàn cho các bệnh viện
trong tỉnh/khu vực, bao gồm cả bệnh viện huyện.
b) Xã hội hoá công tác vận động hiến máu tự nguyện để tăng nguồn
ngƣời cho máu an toàn. Tăng cƣờng hoạt động lồng ghép và phối hợp với các
chƣơng trình, các tổ chức quần chúng. Hợp tác giữa trung ƣơng và địa
phƣơng, phát huy trách nhiệm đóng góp và xây dựng của địa phƣơng và
chƣơng trình An toàn truyền máu.
c) Đổi mới trang bị, kỹ thuật nhằm nâng cao số lƣợng và chất lƣợng thu
gom máu, sàng lọc bệnh nhiễm trùng, sản xuất các sản phẩm máu, bảo quản
và phân phối máu an toàn cho các bệnh viện trong tỉnh/ khu vực.
d) Xây dựng hệ thống an toàn truyền máu bệnh viện, lập kế hoạch về
nhu cầu cung cấp máu hàng năm, hƣớng dẫn sử dụng hợp lý máu và các sản
phẩm máu, kiểm tra các quy chế an toàn truyền máu bệnh viện, bảo đảm an
toàn truyền máu tại giƣờng bệnh.
đ) Đào tạo cán bộ, kỹ thuật viên có trình độ và tay nghề về an toàn
truyền máu, bảo đảm sử dụng thành thạo các trang bị và kỹ thuật hiện đại.
Chuẩn hoá các trang bị, kỹ thuật, các sản phẩm máu, các sinh phẩm sử dụng
66
cho Ngân hàng máu.
3.2. Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu
3.2.1. Mục đích của chính sách
Theo Vũ cao Đàm (2011), khái niệm “Mục tiêu của chính sách” đƣợc
hiểu là mục tiêu của hệ thống mà chính sách phục vụ. Khi thiết kế mục tiêu
cho chính sách, các nhà quản lý luôn quan tâm tới hai loại mục tiêu: mục tiêu
công bố và mục tiêu ngầm định. Có những mục tiêu công bố đƣợc viết ra dƣới
dạng một thiết chế thành văn. Gọi là thiết chế công bố thành văn. Cũng có
những mục tiêu công bố bất thành văn. Mục tiêu ngầm định là mục tiêu không
đƣợc tuyên bố công khai, nhƣng những thiết chế ngầm định trong chính sách
sẽ buộc hệ thống định hƣớng theo mục tiêu đó.
Mục tiêu của chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền
máu trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu là giảm các đầu mối trong
hệ thống truyền máu, xây dựng hệ thống truyền máu tập trung.
Chính sách này nhằm:
- An toàn trong công tác truyền máu: thực hiện quy trình khép kín gồm
nhiều giai đoạn từ khi tuyển chọn ngƣời hiến máu, khám lâm sàng, làm các
xét nghiệm sàng lọc, thu thập máu, sản xuất các chế phẩm máu, lƣu trữ, phân
phối máu… đến chỉ định truyền máu và thực hành truyền máu trên lâm sàng.
- Hiện đại hoá công tác truyền máu: xây dựng, phát triển mạng lƣới
huyết học truyền máu từ trung ƣơng đến địa phƣơng, nâng cao năng lực quản
lý, hiện đại hoá công tác thu gom, lƣu trữ bảo quản máu và đáp ứng và hỗ trợ
đƣợc sự phát triển của công tác vận động hiến máu tình nguyện, để bảo đảm
mọi ngƣời có điều kiện và công bằng trong tiếp cận các dịch vụ về truyền máu.
Truyền máu hiện đại là một dây chuyền công nghệ cần sử dụng nhiều trang
thiết bị hiện đại, đắt tiền cho thu gom, sàng lọc, điều chế, bảo quản vận chuyển
máu và các chế phẩm máu mà với qui mô của một bệnh viện cấp tỉnh, huyện
không thể đáp ứng đƣợc. Tổ chức lại mạng lƣới các trung tâm truyền máu lớn
67
trên cơ sở 84 khoa huyết học truyền máu có thu gom máu và 4 Trung tâm khu
vực bảo đảm khoa học, hiệu quả; đầu tƣ các trang thiết bị để bảo đảm mọi
ngƣời có điều kiện và công bằng trong tiếp cận các dịch vụ về truyền máu.
- Tiết kiệm nhân lực, vật lực: Khi tập trung ngân hàng máu sẽ đảm
bảo thu gom lƣợng máu lớn, sản xuất đƣợc nhiều thành phần, hiệu suất sử
dụng con ngƣời và trang thiết bị cao. Đồng thời, trung tâm lớn có thể điều
phối đƣợc sử dụng máu tại các bệnh viện, tránh thừa thiếu cục bộ, huỷ máu
do quá hạn.
- Góp phần thúc đẩy phong trào hiến máu nhân đạo: Tổ chức đƣợc
những buổi hiến máu cho nhiều ngƣời đáp ứng nguyện vọng tham gia hiến
máu, đồng thời tập trung đƣợc kinh phí cho công tác tuyên truyền vận động.
3.2.2. Áp dụng tiêu chí công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu
Nhƣ đã phân tích trong chƣơng 1, về lý thuyết, chính sách công nghệ
thống nhất trong hệ thống truyền máu cần hội tụ đủ các tiêu chí mà Kuhn đã đề
cập trong Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, trong đó tập trung vào:
3.2.2.1. An toàn và chính xác
Để tránh kháng nguyên và kháng thể tƣơng ứng gặp nhau gây nên hiện
tƣợng các hồng cầu ngƣng kết phải truyền cùng nhóm máu. Bên cạnh việc xác
định đúng nhóm máu của ngƣời hiến và ngƣời nhận, cần thực hiện thêm phản
ứng chéo tức là trộn huyết thanh của ngƣời nhận với hồng cầu của ngƣời hiến
và trộn huyết thanh của ngƣời hiến với hồng cầu của ngƣời nhận. Máu sẽ chỉ
đƣợc truyền cho ngƣời khi không xảy ra hiện tƣợng hồng cầu ngƣng kết
3.2.2.2. Tính phù hợp
Những tai biến nghiêm trọng có thể sẽ xảy ra cho ngƣời nhận máu thậm
chí là ngƣời nhận có thể tử vong nếu máu đƣợc truyền không hòa hợp. Đối
với những trƣờng hợp cấp cứu cần truyền máu mà không có máu cùng nhóm,
nguyên tắc tối thiểu bắt buộc phải tuân theo khi bắt buộc phải truyền máu
khác nhóm đó là “hồng cầu ngƣời cho không bị ngƣng kết với huyết thanh
68
của ngƣời nhận”.
Để tránh những tai biến trầm trọng, thậm chí là có thể tử vong có thể
xảy ra, quá trình truyền máu cơ bản phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản khi
truyền máu. Cần thực hiện xét nghiệm nhóm máu phù hợp và kiểm tra các
mầm bệnh trƣớc khi truyền máu bởi mỗi một nhóm máu sẽ mang những đặc
trƣng riêng biệt và nếu không đƣợc truyền đúng nhóm máu tƣơng thích thì kết
cấu của mạch máu có thể bị phá vỡ.
Ví dụ, sáng tạo và cải tiến phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, chẳng
hạn, các nhà khoa học đã xây dựng và sản xuất đƣợc bộ hồng cầu mẫu và
panel hồng cầu mang tính đặc thù của ngƣời Việt Nam, chất lƣợng cao tƣơng
đƣơng với chất lƣợng quốc tế.
3.2.2.3. Tính hệ thống
Tiêu chí này đƣợc hiểu là, truyền máu đƣợc tổ chức theo hệ thống,
trong đó các phần tử thuộc hệ thống có các yếu tố thống nhất với nhau và
thống nhất với phân hệ trên.
Tiêu chí này sử dụng lý thuyết hệ thống của Vũ Cao Đàm (2016),
trong đó:
- Phân cấp là sự phân chia thứ bậc tôn ti (hierarchy) của hệ thống. Từ
kết quả phân cấp, ngƣời ta có sơ đồ hình cây của hệ thống.
- Phân hệ (Sub-system) là kết quả của sự phân rã mục tiêu của hệ
thống. Một hệ thống đƣợc phân chia thành các phân hệ, mỗi phân hệ thực
hiện một bộ phận mục tiêu nhỏ hơn trong mục tiêu tổng thể của hệ thống.
Có thể minh họa cho tiêu chí này, Viện Huyết học - Truyền máu Trung
ƣơng có đủ máu và chế phẩm cung cấp cho trên 150 bệnh viện thuộc khu vực
phía Bắc, kể cả các tỉnh biên giới. Viện Huyết học và Truyền máu Trung
ƣơng đã xây dựng đƣợc một câu lạc bộ nhóm máu hiếm và một “ngân hàng
ngƣời hiến máu có nhóm máu hiếm” để cung cấp kịp thời những đơn vị máu
69
hiếm cho bệnh nhân thuộc nhóm này.
3.2.2.4. Hiệu quả (Fruitful)
Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu phải đạt
hiệu quả KH&CN nhƣ trên đã phân tích, đồng thời đạt hiệu quả xã hội, có thể
dẫn chứng sự sáng tạo trong việc xây dựng “ngân hàng máu sống” tại vùng
sâu, xa, biên giới và hải đảo. Đây là một mô hình riêng có của Việt Nam. Các
nhà khoa học đã xây dựng lực lƣợng hiến máu dự bị tại chỗ mà mỗi thành
viên của lực lƣợng này là một ngân hàng máu sống để có thể hiến máu kịp
thời, cung cấp cho việc điều trị ngƣời bệnh. Đây là một mô hình cung cấp
máu an toàn để bảo đảm có đủ máu cung cấp cho ngƣời bệnh khi cần truyền
máu cấp cứu, đồng thời cũng giúp ngƣời dân tại các vùng đó yên tâm giữ đất,
bám biển bảo vệ Tổ quốc.
Trong nhiều trƣờng hợp, hiệu quả kinh tế không đặt ra, nhƣng trong
thực tế bộ hồng cầu mẫu và panel hồng cầu này đƣợc sản xuất với một công
nghệ hiện đại, sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nƣớc. Thông qua
nghiên cứu, đã sản xuất đƣợc dung dịch nuôi dƣỡng và bảo quản hồng cầu
thay cho việc phải mua sản phẩm này của nƣớc ngoài với giá đắt gấp 10 lần,
tiết kiệm đƣợc rất nhiều kinh phí cho đất nƣớc.
3.3. Chính sách tập trung hóa các đơn vị truyền máu
3.3.1. Áp dụng tiêu chí tập trung hóa trong hệ thống truyền máu
Theo Nguyễn Anh Trí (2012), hệ thống truyền máu ở mỗi nƣớc trên thế
giới đều bao gồm 3 bộ phận:
- Nguồn máu: tất cả các nƣớc đã có các chƣơng trình vận động hiến
máu tình nguyện không lấy tiền nhiều năm và đã hoàn thành việc vận động
toàn dân tham gia với 100% hiến máu không lấy tiền. Công việc này tùy
thuộc lịch sử và cơ cấu tổ chức của mỗi nƣớc mà trực thuộc Hội Chữ Thập đỏ
hoặc trực thuộc Ngành Y tế hoặc phối hợp cả hai bên.
- Hoạt động của các Trung tâm truyền máu: phần hoạt động của các
70
Trung tâm truyền máu phần lớn có sự kiểm soát kỹ thuật chuyên môn của
ngành Y tế. Các hoạt động bao gồm: Tiếp nhận máu, sàng lọc máu, sản xuất
máu, phân phối và lƣu trữ máu; đảm bảo chất lƣợng của máu và chế phẩm
máu. Các hoạt động này cần đƣợc tập trung hóa để từng bƣớc hiện đại việc
tiếp nhận, sàng lọc và sản xuất máu. Đây cũng là xu thế chung của thế giới
trƣớc tình hình gia tăng của các bệnh lây truyền qua đƣờng truyền máu và nhu
cầu đƣợc sử dụng máu và chế phẩm máu an toàn của ngƣời dân. Chỉ có xây
dựng hệ thống truyền máu tập trung, độc lập với hệ thống bệnh viện thì mới
giải quyết đƣợc bài toán đầu tƣ và hiệu quả, an toàn.
- Việc sử dụng máu trên lâm sàng: phần sử dụng máu và chế phẩm máu
thuộc hệ thống các bệnh viện. Tuy nhiên, việc sử dụng cũng liên quan nhiều
đến mạng lƣới các trung tâm truyền máu về việc lập kế hoạch sử dụng máu,
đánh giá chất lƣợng máu và chế phẩm máu, điều tiết máu giữa các trung tâm
truyền máu.
Theo xu hƣớng hiện nay, chỉ có tập trung các cơ sở truyền máu nhỏ
thành thành các cơ sở truyền máu tập trung lớn thì việc thực hiện công tác
truyền máu mới thực sự hiệu quả và an toàn. Chỉ khi ba bộ phận này phối hợp
với nhau một cách chặt chẽ thì hoạt động của hệ thống truyền máu mới thực
sự hoàn chỉnh và hiệu quả.
3.3.2. Tập trung hóa công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu
Nguyên tắc tổ chức: hệ thống Truyền máu Việt Nam theo hƣớng tập
trung, thống nhất, hiện đại và hiệu quả. Tách dần các trung tâm truyền máu ra
khỏi các bệnh viện đa khoa.
Theo Nguyễn Anh Trí, Trần Quý Tƣờng (2012), việc tập trung hóa hệ
thống truyền máu là hình thành hệ thống các Trung tâm truyền máu toàn
quốc. Có ba hoạt động chính để hình thành mạng lƣới truyền máu Việt Nam:
- Tăng cƣờng năng lực cho các Trung tâm truyền máu đã đƣợc đầu tƣ.
- Xây dựng 7 trung tâm truyền máu đã đƣợc thành lập: (Hải phòng,
71
Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Đăk Lăk, Bình Định).
- Thành lập và xây dựng mới 2 trung tâm truyền máu còn lại (Điện
Biên, Kiên Giang).
Giải pháp thực hiện:
- Đối với các Trung tâm đã đƣợc đầu tƣ: (1) Tiếp tục phối hợp với các
tổ chức trong công tác vận động ngƣời hiến máu, (2) tích cực đào tạo cán bộ
quản lý và chuyên môn, (3) đề xuất cơ cấu tổ chức mạng lƣới truyền máu, (4)
xây dựng các Chƣơng trình, dự án để kêu gọi tài trợ hoặc xin ngân sách nhà
nƣớc để thực hiện các việc trên.
- Đối với các Trung tâm sẽ đầu tƣ (1) Xây dựng các dự án đầu tƣ để
kêu gọi tài trợ để tiến hành xây dựng các Trung tâm, (2) đào tạo cán bộ quản
lý và cán bộ chuyên môn, (3) phối hợp với các tổ chức trong việc vận động
hiến máu tình nguyện, (4) đề xuất cơ cấu tổ chức của các trung tâm.
- Đối với 2 trung tâm dự kiến sẽ thành lập: Xác định lại nhu cầu, đề
xuất dự án đầu tƣ và tiến hành thực hiện dự án.
Các giải pháp cụ thể:
- Tổ chức và xây dựng hợp lý hệ thống truyền máu quốc gia theo hƣớng
tập trung và hiện đại trên 3 lĩnh vực: vận động hiến máu, ngân hàng máu và
sử dụng máu. Ƣu tiên xây dựng ngân hàng máu tỉnh và khu vực để có đủ khả
năng cung cấp máu có chất lƣợng cao và an toàn cho các bệnh viện trong
tỉnh/khu vực, bao gồm cả bệnh viện huyện.
- Xây dựng hệ thống kiểm tra chất lƣợng an toàn truyền máu từ Trung
ƣơng nhằm chuẩn hoá các trang bị - kỹ thuật - sinh phẩm chẩn đoán và sản
phẩm máu đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế.
3.3.3. Xây dựng “hạt nhân” của hệ thống truyền máu
Xây dựng Viện Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng thành viện đầu
ngành của Bộ Y tế để chỉ đạo chuyên môn, đào tạo cán bộ về Huyết học -
Truyền máu, đồng thời bảo đảm cung cấp đủ máu an toàn, chất lƣợng cao cho
72
nhu cầu điều trị
Viện đã xây dựng đƣợc hệ thống phòng xét nghiệm hàng đầu ở Việt
Nam trong lĩnh vực Huyết học với đội ngũ chuyên gia, cán bộ, nhân viên tâm
huyết, giàu kinh nghiệm, thƣờng xuyên cập nhật những kỹ thuật tiên tiến trên
thế giới. Nhờ đó, nhiều kỹ thuật cao về đông máu, miễn dịch, di truyền, sinh
học phân tử… đã đƣợc triển khai nhƣ: Áp dụng xét nghiệm sinh học phân tử
vào chẩn đoán trƣớc sinh các bệnh máu di truyền trên cả mẫu tế bào ối và tế
bào phôi, chẩn đoán các ca bệnh khó, theo dõi các ca bệnh điều trị bằng
phƣơng pháp nhắm đích, ghép tế bào gốc.
Viện đã có 8 đơn vị lâm sàng, số lƣợng ngƣời bệnh điều trị nội trú luôn
duy trì từ 1.200 - 1.300 ngƣời mỗi ngày. Năm 2019, bệnh nhân đến khám là
154.829 lƣợt (gấp trên 41 lần so với năm 2004), bệnh nhân điều trị nội trú là
41.480 lƣợt (gấp trên 12 lần so với năm 2004)”.
Từ năm 2006, Viện bắt đầu triển khai kỹ thuật ghép tế bào gốc và đến
nay đã thực hiện đƣợc 400 ca ghép, trở thành đơn vị ghép tế bào gốc nhiều
nhất và có chất lƣợng tại Việt Nam. Năm 2014, Viện đã thành lập Ngân hàng
tế bào gốc máu dây rốn cộng đồng và thực hiện thành công ghép tế bào gốc từ
máu dây rốn không cùng huyết thống vào đầu năm 2015, mở ra hy vọng cho
rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh máu mà không có ngƣời hiến tế bào gốc phù
hợp. Hiện nay, Ngân hàng tế bào gốc máu dây rốn cộng đồng đang lƣu trữ
trên 4.000 mẫu phục vụ cho ghép tế bào gốc điều trị các bệnh máu và các
bệnh lý liên quan khác.
Đối với nhóm bệnh máu di truyền nhƣ hemophilia, thalassemia, Viện
đã nỗ lực, tìm mọi cách nâng cao chất lƣợng chẩn đoán, điều trị ngang tầm
với các nƣớc trong khu vực; Tổ chức các hoạt động Hội, kết nối, hỗ trợ cả về
vật chất lẫn tinh thần nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho ngƣời bệnh.
Trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, các hoạt động vận động chính sách,
73
hợp tác quốc tế, truyền thông về các bệnh máu di truyền và bƣớc đầu tầm soát
gen bệnh thalassemia cũng đƣợc đẩy mạnh, hƣớng tới mục tiêu giảm dần số
trẻ sinh ra bị bệnh và nâng cao chất lƣợng dân số Việt Nam.
Viện đã xây dựng đƣợc Trung tâm Máu Quốc gia đồng bộ, hoàn chỉnh
từ tuyên truyền, vận động hiến máu, tổ chức tiếp nhận máu, sàng lọc, điều
chế, lƣu trữ, phân phối máu và các chế phẩm máu với công suất lớn, kỹ thuật
hiện đại.
Viện cũng đã khởi xƣớng và tổ chức thành công nhiều chƣơng trình, sự
kiện vận động hiến máu có quy mô lớn, đa dạng về mặt hình thức và nội
dung, mang tính nhân văn, góp phần thúc đẩy phong trào hiến máu tình
nguyện phát triển. Đặc biệt, Viện đã tổ chức thành công Lễ hội Xuân Hồng và
chƣơng trình Hành trình Đỏ - chƣơng trình vận động hiến máu có quy mô lớn
nhất cả nƣớc nhằm khắc phục tình trạng thiếu máu vào dịp Tết và dịp hè ở
nƣớc ta, hƣớng tới mục tiêu chất lƣợng, hiệu quả, bền vững.
Lƣợng máu tiếp nhận đƣợc hàng năm đã tăng lên nhanh chóng. Từ
chỗ mới đạt gần 3.500 đơn vị máu vào năm 1994 và chỉ có khoảng 10%
lƣợng máu tiếp nhận từ ngƣời hiến máu tình nguyện, đến năm 2019, lƣợng
máu tiếp nhận đã đạt hơn 355.000 đơn vị, trong đó tỷ lệ hiến máu tình
nguyện chiếm trên 98%. Trung tâm Máu Quốc gia đã điều chế đƣợc trên
640.000 đơn vị chế phẩm máu có chất lƣợng, đảm bảo an toàn truyền máu,
cung cấp cho 170 bệnh viện phục vụ nhu cầu cấp cứu, điều trị của 25 tỉnh,
thành khu vực phía Bắc.
Các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật
cho tuyến dƣới, các chƣơng trình, dự án đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, hiệu
quả góp phần thúc đẩy hệ thống Huyết học - Truyền máu trên toàn quốc.
Viện cũng đã xây dựng và duy trì mối quan hệ hợp tác quốc tế gắn bó
nhằm trao đổi, tiếp cận với những tiến bộ của y học thế giới; đồng thời
nhận đƣợc nhiều nguồn lực hỗ trợ của bạn bè quốc tế, đem lại lợi ích to lớn
74
cho ngƣời bệnh.
3.4. Các giải pháp xây dựng chính sách công nghệ thống nhất trong hệ
thống truyền máu trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu
3.4.1. Giải pháp kỹ thuật
Xây dựng các ngân hàng máu theo hƣớng tập trung (ngân hàng máu
khu vực) bằng các nguồn viện trợ và kinh phí trong nƣớc, từng bƣớc hiện đại
hoá hệ thống an toàn truyền máu. Nâng cao chất lƣợng sàng lọc HIV, HCV,
HBV cho các đơn vị máu và chế phẩm máu trƣớc khi truyền, cung cấp đủ và
kịp thời sinh phẩm có chất lƣợng cho công tác sàng lọc máu, đảm bảo sàng
lọc HIV, HCV, HBV cho 100% các đơn vị máu và chế phẩm máu trƣớc
truyền. Từng bƣớc xã hội hoá công tác an toàn truyền máu thông qua việc tính
đủ giá thành đơn vị máu và chế phẩm máu.
Khuyến khích phát triển việc ứng dụng các kỹ thuật hiện đại và chỉ
định truyền máu phù hợp nhƣ: truyền máu từng phần, truyền máu tự thân,
lọc bạch cầu... nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV, HCV, HBV do
truyền máu. Thực hiện đúng quy định của Quy chế truyền máu, chỉ định
truyền máu đúng, hạn chế truyền máu toàn phần và truyền máu điều trị dự
phòng thiếu máu.
Triệt để thực hiện các quy định về công tác vô trùng, tiệt trùng trong
các dịch vụ y tế nhà nƣớc và tƣ nhân. Huy động các nguồn lực, xây dựng các
khu tiệt trùng, xử lý dụng cụ đạt tiêu chuẩn. Xây dựng phòng xét nghiệm
chuẩn thức quốc gia để kiểm tra chất lƣợng an toàn truyền máu bao gồm kiểm
tra sinh phẩm xét nghiệm, kiểm tra quy trình xét nghiệm, trang thiết bị...
3.4.2. Giải pháp về nguồn lực
Tăng cƣờng năng lực cho hệ thống làm công tác an toàn truyền máu;
đào tạo nâng cao kiến thức, chuyên môn kỹ thuật cho cán bộ ngành Huyết học
- Truyền máu nói riêng và ngành y tế nói chung về an toàn truyền máu dự
75
phòng lây nhiễm HIV, HCV, HBV. Tăng cƣờng sự chỉ đạo kiểm tra giám sát
hoạt động của chƣơng trình an toàn truyền máu dự phòng lây nhiễm HIV,
HCV, HBV ở các tuyến.
Điều phối thống nhất, hỗ trợ kỹ thuật từ tuyến Trung ƣơng đến địa
phƣơng trong công tác an toàn truyền máu thông qua các chƣơng trình bệnh
viện vệ tinh, 1816,... Tranh thủ sự giúp đỡ cuả cộng đồng quốc tế.
3.4.3. Giải pháp về tổ chức, chính sách
Tiểu ban an toàn truyền máu Viện Huyết học Truyền máu Trung ƣơng
có nhiệm vụ xây dựng chiến lƣợc, kế hoạch, kiểm tra giám sát, đánh giá tất cả
các hoạt động của chƣơng trình quốc gia, dƣới sự chỉ đạo của ban điều hành
chƣơng trình tại Bộ Y tế và Cục Quản lý Khám, chữa bệnh là đầu mối.
Đơn vị huyết học truyền máu cấp tỉnh/ thành phố chịu trách nhiệm xây
dựng, kế hoạch dự phòng lây nhiễm HIV đảm bảo ATTM của đơn vị mình
đồng thời thực hiện các nội dung đã đề ra trong kế hoạch.
Đối với Bộ Y tế
a) Cục Quản lý Khám, chữa bệnh là đầu mối, có trách nhiệm phối kết
hợp cùng với Cục phòng, chống HIV/AISD và các đơn vị có liên quan chịu
trách nhiệm quản lý, giám sát, đánh giá chƣơng trình cấp quốc gia; chỉ đạo lập
kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện Chƣơng trình hành động quốc gia về
an toàn truyền máu.
b) Vụ Kế hoạch- Tài chính có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh và các cơ quan có liên quan để hƣớng dẫn chế độ
tài chính bảo đảm các hoạt động truyền máu tại các tuyến;
c) Thanh tra Bộ Y tế có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Cục Quản lý
Khám, chữa bệnh và các Vụ, Cục có liên quan để tổ chức việc thanh tra hoạt
động truyền máu trong phạm vi cả nƣớc.
Có trách nhiệm chỉ đạo về chuyên môn kỹ thuật để đảm bảo chất lƣợng,
76
an toàn truyền máu đối với các cơ sở đƣợc Bộ Y tế giao phụ trách. Phối hợp
chặt chẽ với Tiểu ban an toàn truyền máu Viện Huyết học - Truyền máu trung
ƣơng trong việc thực hiện những hoạt động thuộc chƣơng trình hành động
thực hiện chiến lƣợc quốc gia phòng chống HIV/ AIDS trong truyền máu.
Tích cực tham gia chƣơng trình theo dõi, giám sát và đánh giá trong công tác
phòng chống HIV/AIDS trong truyền máu. Gửi báo cáo số liệu định kỳ hoặc
theo yêu cầu một cách kịp thời, chính xác về đơn vị chịu trách nhiệm thu thập
báo cáo.
Đối với các cơ sở truyền máu
a) Thực hiện hoạt động chuyên môn theo nhiệm vụ đƣợc giao, phù hợp
với điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực, trang thiết bị hiện có và phải theo đúng
quy định, quy trình chuyên môn kỹ thuật về an toàn truyền máu.
b) Phối hợp, hỗ trợ các cơ sở điều trị thực hiện truyền máu lâm sàng
an toàn.
c) Phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong công tác vận động hiến máu
tình nguyện.
Bảo đảm chất lƣợng trong an toàn truyền máu, thực hiện việc truyền
máu lâm sàng theo đúng quy định, quy trình chuyên môn kỹ thuật về an toàn
truyền máu. Phối hợp với các cơ sở truyền máu để đảm bảo an toàn truyền
máu lâm sàng.
3.4.4. Những điều kiện cần và đủ để thực hiện chính sách
Điều kiện cần và điều kiện đủ để việc thực hiện chính sách công nghệ
thống nhất trong hệ thống truyền máu ở Việt Nam có thể thu đƣợc hiệu quả
cao nhất đó là:
Xác định các chính sách liên quan đến xây dựng và phát triển nguồn
lực nhƣ: cơ sở vật chất, nhân lực, tài chính, thông tin, các yếu tố tổ chức.
Xác định các cơ chế đãm bảo các hoạt động trên nhất quán theo một
77
chính sách công nghệ thống nhất xuyên suốt ở Việt Nam.
Tiểu kết Chương 3
Trong chƣơng 3 tác giả đã trình bày những nội dụng nhƣ: Xu hƣớng tập
trung hóa các đơn vị truyền máu; Chính sách công nghệ thống nhất trong hệ
thống truyền máu; Chính sách tập trung hóa các đơn vị truyền máu.
Từ đó tác giả đƣa ra các giải pháp xây dựng chính sách công nghệ
thống nhất trong hệ thống truyền máu trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị
truyền máu, gồm có nhóm nhƣ sau: 1. Giải pháp kỹ thuật; 2. Giải pháp về
78
nguồn lực; 3. Giải pháp về tổ chức, chính sách.
KẾT LUẬN
Với mục tiêu phân tích thực trạng từ đó đề xuất việc xây dựng chính
sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu ở Việt Nam trên cơ sở
tập trung hóa các đơn vị truyền máu.
Bằng các phƣơng pháp nghiên cứu định tính: Phƣơng pháp tổng hợp và
phân tích số liệu đƣợc cung cấp và do cơ quan quản lý cung cấp (phƣơng
pháp sử dụng số liệu thứ cấp); các nguồn tài liệu tìm kiếm đƣợc (sách báo,
truyền hình, internet…); Phƣơng pháp phỏng vấn chuyên gia, thảo luận với
một số nhà quản lý để thu đƣợc những thông tin chính xác và trọng tâm.
Đề tài đã hoàn thành đƣợc các mục tiêu nhƣ: Phân tích cơ sở lý luận về
chính sách công nghệ, thống nhất trong hệ thống truyền máu; Khảo sát thực
trạng chính sách công nghệ trong hệ thống truyền máu Việt Nam hiện nay; Đề
xuất khung chính sách công nghệ thống nhất trong hệ thống truyền máu ở
Việt Nam trên cơ sở tập trung hóa các đơn vị truyền máu.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu nên đề tài khó tránh khỏi những sai
sót, tác giả hy vọng nhận đƣợc góp ý từ quý thầy cô, hội đồng khoa học nhằm
79
hoàn thiện hơn đề tài này, ứng dụng đƣợc trong thực tế thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đỗ Thị Minh Cầm (2012), An toàn truyền máu trong lâm sàng
2. Chi Hà Lâm Chi và cộng sự (2017), “Nghiên cứu thực trạng sử dụng
máu, chế phẩm máu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Trị trong 5 năm
(2013-2017)”
3. Vũ Cao Đàm (2011), Giáo trình Khoa học chính sách, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội
4. Vũ Cao Đàm (2016), Lý thuyết hệ thống, Trƣờng Đại học KHXH&NV.
5. Fichter J. H. (1971), Sociology, Publisher University of Chicago, 2
edition, ISBN-10: 0226246337 ISBN-13: 978-0226246338, bản dịch
tiếng Việt, Trần Văn Đĩnh (1974), Xã hội học, NXB Hiện đại, Sài Gòn.
6. Đinh Thị Bích Hoài và cộng sự (2017), “Nghiên cứu tình hình sử dụng
các chế phẩm máu tại bệnh viện đa khoa huyện Đan Phượng giai đoạn
2012- 2015”
7. Kuhn Thomas S. (1962), The Structure of Scientific Revolutions,
University of Chicago Press, ISBN-13: 978-0226458083, ISBN-10:
0226458083, bản dịch tiếng Việt, Nguyễn Quang A (1999), Cấu trúc
các cuộc cách mạng khoa học
8. Đoàn Văn Khoa (2017), Thực hành chính sách công nghệ thống nhất
tương thích trong hệ phần mềm xử lý dữ liệu địa chính nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý đất đai trong phạm vi toàn quốc, Luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Quản lý KH&CN, Trƣờng Đại học KHXH&NV
9. Lê Hoàng Oanh và cộng sự (2014) “Tình hình sử dụng máu và chế
phẩm máu tại bệnh viện Chợ Rẫy 6 tháng đầu năm 2012 (1/2012 -
80
6/2012)”
10. Hoàng Văn Phóng (2014), Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả một số
giải pháp nâng cao chất lượng máu, chế phẩm máu tại trung tâm truyền
máu Hải Phòng, Luận án Tiến sĩ Y học, Trƣờng Đại học Y Hà Nội
11. Thái Quý (1999), Lịch sử truyền máu, Nhà xuất bản Y học, Trƣờng Đại
học Y Hà Nội.
12. Nguyễn Quang Tùng - PGS.TS. Trần Văn Sáu (2017), “Nghiên cứu
tình hình sử dụng và tai biến truyền máu , chế phẩm máu tại bệnh viện
19 - 8 giai đoạn 2016 - 2017”
13. Đỗ Thoa (2019), Xây dựng Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương
phát triển bền vững với sứ mệnh “Vì sức khỏe dòng máu Việt”
14. Nguyễn Anh Trí, Trần Quý Tƣờng (2012), Nghiên cứu xây dựng quy
hoạch mạng lưới truyền máu ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Viện
Huyết học - Truyền máu Trung ƣơng
15. Trịnh Kiến Trung (2012), “Nghiên cứu nồng độ acid uric máu ở người
dân ≥ 40 tuổi tại quận Ninh Kiều thành phố Cần Thơ năm 2012”
16. Ngô Văn Truyền (2012), “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, lipid máu và
hiệu quả kiểm soát đường máu và lipid máu bằng Metformin trên bệnh
nhân đái tháo đường type 2 mới chẩn đoán.”
17. Văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
81
18. Website https://www.dieutri.vn/bghuyethoctruyenmau
Tiếng Anh
19. Branscomb, L. M. (1995), Confessions of a Technophile, Springer
Science & Business Media.
20. Koh B C M, Chong L L, Goh L G, Iau P, Kuperan P, Lee L H, Lim L
C, Ng H J, Sia A, Tan H H, Tan L K, Tay K H, Teo L T D, Ting W C,
Yong T T (2011) “Ministry of health clinical practice guidelines:
clinical bloob transfusion”
21. Wolf Robert (2013), Definitions of Policy Analysis, School of Policy
Studies, Queen's University.
22. Joe Schurman (2011), Microsoft Voice and Unified Communications,
1st Edition, ISBN-13: 978-0321579959, Pearson Education.
23. Shigeyoshi MAKINO, Shuichi KINO, Nelson Hirokazu TSUNO, Koki
TAKAHASHI (2012), “The Current State of Transfusion Medicine and
Cell Therapy”, Japanese Association of Medical Sciences
24. Shoichi Inaba (2005) “Safe management of blood products for
82
transfusion in Japan”