LUẬN VĂN:
Một số vấn đề lý luận và giải pháp
trong xây dựng nông nghiệp bền
vững ở VN
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến động to lớn trong quá trình phát triển của xã hội loài
người. Thế kỷ XX là thế kỷ của những phát minh vĩ đại, của những cuộc chiến tranh lớn, của
tự do, bình đẳng và của sự lớn mạnh, phát triển của nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Trong thế kỷ XX, những thành tựu khoa học được ứng dụng rộng rãi trong quá trình sản
xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao, thỏa mãn nhu cầu của con người về vật chất. Trong nông
nghiệp, máy móc được đưa vào sử dụng, giải phóng sức lao động của con người. Các loại
phân hóa học được sản xuất với số lượng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của nông
nghiệp. Các hệ thống thủy lợi, giao thông vận tải, công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển
mạnh mẽ đã rút ngắn thời gian vận chuyển hàng nông sản đến tay người tiêu dùng. Khái
niệm “nông nghiệp công nghiệp hóa” xuất hiện.
Song “nông nghiệp công nghiệp hóa” cũng chứa đựng nhiều vấn đề cần được giải quyết,
mà quan trọng và cấp bách hơn cả là vấn đề môi trường. Việc sử dụng quá nhiều phân hóa
học, lạm dụng máy móc trong sản xuất, chủ quan trong chỉ đạo và thực hiện các kỹ thuật
canh tác đã làm cho ruộng đất ngày càng xấu đi. Việc chặt phá rừng lấy gỗ sản xuất, lấy đất
trồng cấy gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đã không còn là vấn đề của riêng ngành nào,
của riêng quốc gia nào mà đã trở thành vấn đề chung của cả thế giới.
Vậy phải phát triển nông nghiệp như thế nào để vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ được
môi trường là câu hỏi khó giải quyết của các nhà chính sách.
Thế giới đã có nhiều hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường, phát triển, tương lai
của nhân loại. Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển tại Rio
de Janeiro (Braxin), với 179 nước tham gia. Tại Hội nghị này, khái niệm về “phát triển bền
vững” đã được chấp thuận một cách rộng rãi và các quốc gia đã thỏa thuận một chương trình
nghị sự về phát triển bền vững cho thế kỷ XXI (gọi tắt là Agenda 21). Theo đó, phát triển bền
vững là khai thác tốt các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ lợi ích của thế hệ này mà không
gây trở ngại cho các thế hệ mai sau, tất cả các ngành, các lĩnh vực của các nước tham dự đều
cố gắng thực hiện đúng tinh thần của Hội nghị này. Và nông nghiệp không phải là ngoai lệ.
Trở lại vấn đề của Việt Nam, đang trong quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa
(HĐH), phát triển nông nghiệp bền vững là một vấn đề rất khó khăn. Bởi muốn xây dựng
một nền nông nghiệp hiện đại ta cần có nhiều vốn, năng suất phải cao, phải có cơ sở vật chất
kỹ thuật đầy đủ và phải có sự dư thừa lương thực thực phẩm. Song trên thực tế, nước ta còn
rất nhiều hộ nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, chất lượng nông sản còn thấp. Không
những thế, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang là xu thế của thế giới. Việt Nam
không thể đứng ngoài xu thế đó. Ngày 7-11-2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức thương mại quốc tế WTO, mở ra nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng
chứa đựng rất nhiều khó khăn như sự cạnh tranh công bằng, hàng hóa nước ngoài giá rẻ, chất
lượng tốt tràn ngập thị trường…. tạo nhiều bất lợi cho sản xuất trong nước, đặc biệt là sản
xuất nông nghiệp.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững, phát huy những ưu điểm và hạn chế tối
đa nhược điểm là xu thế chung của thế giới. Trong hoàn cảnh của nước ta đòi hỏi Đảng và
Nhà nước cần phải có định hướng và những chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển của
ngành nông nghiệp.
ĐỀ TÀI: “Một số vấn đề lý luận và giải pháp trong xây dựng nông nghiệp bền vững ở
VN”
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ XÂY
DỰNG NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
I – CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Bản chất của nền nông nghiệp bền vững:
1.1. Nông nghiệp công nghiệp hóa:
Với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai, ở các nước công nghiệp phát triển đã hình thành và phát triển một nền nông nghiệp
mới hẳn so với trước: nền nông nghiệp công nghiệp hóa.
Nông nghiệp công nghiệp hóa là nền nông nghiệp của Mỹ, của nhiều nước Tây Âu và
Nhật Bản; trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp tùy theo trình độ phát triển công nghiệp của
từng nước. Nông nghiệp được công nghiệp hóa ở trình độ cao nhất là ở Mỹ, nước có công
nghiệp phát triển vào loại hàng đầu thế giới. Mặc dù trình độ nông nghiệp công nghiệp hóa ở
các nước có sự khác nhau nhưng tất cả các nền nông nghiệp công nghiệp hóa đều có một số
đặc trưng chính sau đây:
1.1.1. Đặc trưng nổi bật của nông nghiệp công nghiệp hóa là sản xuất lớn. Sản xuất lớn
với ưu thế của nó đã đè bẹp sản xuất nhỏ của chế độ phong kiến. Sản xuất lớn được thể hiện
qua nhiều chỉ tiêu về quy mô của nông trại và tính chất của hàng hóa.
Ở Mỹ, trước những năm 50 của thế kỷ XX, quy mô nông trại trung bình là 100-150 acre.
Đến năm 1959, quy mô này đã là 220-250 acre. Số lượng nông trại giảm dần theo quy luật
các nông trại lớn sẽ thôn tính dần các nông trại bé hơn.
Bảng 1: Số nông trại của Mỹ qua các thời kỳ
Đơn vị : Triệu
Các thời 1935- 1945- 1950- 1955- 1960- 1980 1990 kỳ 1939 1949 1954 1959 1964
Số nông 6,8 5,9 5,6 4,6 3,9 >2 >1 trại
Quy mô trung bình của các nông trại ở Mỹ khoảng hơn 200 ha, nhưng diện tích của các
nông trại chuyên môn hóa dao động rất lớn: nông trại sản xuất trứng 4 ha, nông trại chăn
nuôi gia cầm 45 ha, nông trại sản xuất sữa 68 ha, nông trại ngũ cốc 350 ha, nông trại chăn
nuôi vùng Đông Bắc 560 ha và vùng Texas 4500 ha.
Pháp là một nước có nền nông nghiệp lâu đời, đất hoang hóa không nhiều, nhưng trang
trại đã được mở rộng không ngừng. Đầu năm 1970 có 1,5 triệu nông trại và có nhà nông
nghiệp hữu cơ đã tính toán rằng cứ 10 phút thì mất đi một nông trại, nên đến năm 1985 chỉ
còn 25 vạn nông trại. Dân số nông nghiệp của Pháp cũng giảm từ 3 triệu xuống 60-70 vạn.
Đan Mạch là một nước nhỏ ở Bắc Âu, sau năm 1945 chỉ có khoảng 3,1 triệu ha đất nông
nghiệp. Năm 1950 có 20 vạn nông trại lớn với 20 vạn công nhân nông nghiệp. Năm 1983, đất
nông nghiệp chỉ còn 2,8 triệu ha với ngót 10 vạn nông trại và chỉ còn 2,4 vạn công nhân nông
nghiệp. Hiện nay, số nông trại chuyên ở Đan Mạch còn ít: có 25% nông trại lợn và bò (năm
1950 trên 80%), 28% nông trại trồng ngũ cốc, củ cải đường, cây công nghiệp, khoai tây, cải
dầu, còn các nông trại khác kinh doanh hỗn hợp. Đan Mạch sản xuất đủ cho nhu cầu nông
sản trong nước và dành tới 2/3 nông sản để sản khẩu.
Quy mô nông trại chỉ là một chỉ tiêu của sản xuất lớn, chỉ tiêu quan trọng hơn là tính chất
hàng hóa của sản phẩm. Có những trường hợp quy mô của trang trại nhỏ, chiếm ít diện tích
nhưng lại là cơ sở kinh doanh rất lớn do sản phẩm có tính hàng hóa cao.
Trong nền nông nghiệp công nghiệp hóa, chủ trại sản xuất ra để bán trong nước hay xuất
khẩu, chứ không phải để tự túc.
1.1.2.Nông nghiệp công nghiệp hóa sử dụng nhiều máy móc và vật tư nông nghiệp. Vào
đầu thế kỷ XX, khi nghiên cứu về nông nghiệp tư bản chủ nghĩa ở Mỹ và một số nước châu
Âu. Lênin đã phát hiện: những số liệu về chi phí, phân bón và máy móc là biểu hiện chính
xác nhất của trình độ thâm canh trong nông nghiệp. Đến nay, tình hình nông nghiệp công
nghiệp hóa đã diễn ra đúng quy luật ấy. Viện sĩ Nazarenkô (Liên Xô) đã kiểm điểm tình hình
sử dụng phân khoáng và máy móc trong nông nghiệp đến đầu những năm 80 như sau: 1000
ha đất ở Mỹ có 33 máy kéo, Anh có 61, Pháp có 84, Italia có 105, Cộng hòa Liên bang Đức
có 194, Mỹ dành 600 triệu sức ngựa cho nông nghiệp, bình quân một công nhân nông nghiệp
ở nước này có 100 sức ngựa. Về phân khoáng tính theo NPK, ở Mỹ từ 42 kg năm 1960 cho
một hécta đã tăng lên 120 kg/ha năm 1981, Anh và Pháp đạt 300 kg/ha, Cộng hòa Liên bang
Đức 500 kg/ha, Bỉ 600 kg/ha và Hà Lan đạt hơn 800 kg/ha.
Bảng 2: Số lượng máy móc sử dụng trong nông nghiệp
của Niu Dilân(chiếc)
1979 – 1981 1991 1993
Máy kéo 91783 75000 76000
Máy liên hợp thu hoạch 4265 2950 3100
Máy vắt sữa 17147 1290 13000
Ngoài máy móc và phân khoáng là chủ yếu, hiện nay phải kể tới các loại thuốc phòng trừ
sâu bệnh, các chất kích thích sinh trưởng, các thiết bị, các nhà kính v.v.. Đối với chăn nuôi
công nghiệp hóa thì cần chuồng trại, thiết bị hiện đại, thức ăn tổng hợp, thuốc thú y. Người ta
đã so sánh chi phí về chuồng trại, thiết bị để nuôi một trại bò sữa ở Đức bằng chi phí để xây
dựng một căn hộ đầy đủ tiện nghi cho một người. Cả trồng trọt và chăn nuôi đều cần những
giống tốt đã sản xuất ở những cơ sở chuyên môn hóa. H.D Virieu (Pháp) tính toán rằng muốn
nông nghiệp công nghiệp hóa thì vốn cần cho một lao động nông nghiệp là 100.000 frăng
trong khi vốn cần cho một lao động ngành dệt, cơ khí, công nghiệp chế biến chỉ là 20.000-
30.000 frăng và trong ngành dầu khí là 50.000 frăng (tính theo giá giữa những năm 70 ở
Pháp).
1.1.3.Năng suất cây trồng và chăn nuôi gia súc cao. Các nước công nghiệp phát triển có
nền nông nghiệp hóa đều đạt năng suất cây trồng và chăn nuôi gia súc cao hơn nhiều so với
mức bình quân của thế giới.
Đáng chú ý là nhiều loài cây có nguồn gốc nhiệt đới hay á nhiệt đới lại cho năng suất cao
nhất ở các nước ôn đới có nền nông nghiệp công nghiệp hóa. Lúa nước châu Á, nguồn gốc ở
Đông Nam Á hiện chỉ có năng suất 25-30 tạ/ha, lại cho năng suất cao nhất thế giới là 80 tạ/ha
ở Australia trên diện tích 2 vạn ha hay ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ đều đã cho năng suất 55-
60 tạ/ha trên diện tích hàng triệu hécta. Lúa mì nguồn gốc ở Trung Đông với năng suất
khoảng 20-25 tạ/ha hiện nay đã có năng suất trên duới 50 tạ/ha ở Pháp, Anh, Hà Lan và năm
1984 đã đạt 64 tạ/ha ở Pháp. Khoai tây nguồn gốc ở vùng núi Andes (Nam Mỹ) cho năng
suất cao nhất thế giới ở Mỹ và ở Hà Lan (28-30 tấn củ tươi/ha). Khoai lang nguồn gốc ở
Trung Mỹ cho năng suất cao nhất ở Nhật Bản (22 tấn củ tươi/ha). Ngô nguồn gốc ở Mexico
cho năng suất cao nhất ở Mỹ (73 tạ hạt/ha) và ở Pháp trên 60 tạ/ha. Đỗ tương nguồn gốc ở
Trung Quốc cho năng suất cao nhất ở Mỹ (20 tạ/ha). Đối với các loài cốc khác như: mạch,
đại mạch, tiểu mạch, kiều mạch… hay đối với củ cải đường, hướng dương và nhiều loại rau
quả cũng đã cho năng suất cao ở các nước có nông nghiệp công nghiệp hóa.
Bảng 3: Năng suất một số sản phẩm nông nghiệp
của Pháp (tấn/ha)
1939 1950 1960 1980 1990
Lúa mì 1,52 1,9 2,4 5,0 6,4
Ngô 1,66 1,84 2,9 5,4 7,9
Khoai tây 11,0 13,6 15,3 28,4 36,6
Sữa 1,8 2,0 2,35 4,58 5,89
Đối với chăn nuôi cũng vậy. Một hécta đồng cỏ ở Hà Lan được bón đầy đủ phân khoáng
(thường có liều lượng cao nhất ở đồng cỏ) cung cấp đủ cỏ tươi cho 2 bò sữa với thức ăn tổng
hợp ăn kèm và sản xuất được 1 vạn kg sữa/năm. Trong khi ở châu Phi hay Nam Mỹ, trên
những trảng cỏ khô cằn phải cần tới 10 ha cho một bò sữa mà sản lượng chỉ thu được 200kg
sữa/năm/con.
1.1.4.Năng suất lao động sống cao. Với việc được trang bị đầy đủ máy móc và năng
lượng, nông nghiệp công nghiệp hóa đã đạt năng suất lao động cao, hay rất cao.
Năm 1954, René Dumont đã tiến hành điều tra năng suất lao động nông nghiệp ở một số
vùng trên thế giới. Kết quả điều tra cho thấy, một ngày công ở châu Á hay châu Phi sản xuất
được từ 7-20kg hạt cốc, ở vùng Trung Âu 40-50kg hạt cốc, ở vùng Tây nước Pháp 120kg hạt
cốc và ở vành đai ngô ở Mỹ 2000-4000 kg.
Năng suất lao động sống cao nhất là ở Mỹ. Chỉ cần 10-15 phút để sản xuất 1 tạ gạo, 15-20
phút để sản xuất 1 tạ ngô, 3 giờ để sản xuất 1 tạ thịt lợn, 2 giờ để sản xuất 1 tạ thịt bò, 1,5 giờ
để sản xuất 1 tạ gà giò. Năng suất lao động cao trong nông nghiệp còn thể hiện ở tỷ lệ người
tham gia lao động nông nghiệp trong nước. Trước đây, tỷ lệ này ở Mỹ là 3%, nay rút xuống
còn 2%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp ở Đan Mạch cũng chỉ còn 6%, ở Pháp là 5%. Số lượng
lao động nông nghiêp có xu thế giảm dần ở các nước có nông nghiệp công nghiệp hóa. Ngay
cả NICs châu Á như Hàn Quốc và Đài Loan, tỷ lệ lao động nông nghiệp cũng chỉ còn 10-
12%.
Bảng 4: Chi phí lao động cho 1 ha gieo trồng
một số cây trồng ở Mỹ
(giờ công/ha)
1910-1930 1935-1939 1963-1967
86,9 67,7, 15 Ngô
37,5 21,7 7,2 Lúa mì
187,5 172,2 113,4 Khoai tây
286 245 93,9 Bông
879,3 1025 1230 Thuốc lá
29,3 27,9 13,6 Cỏ khô
1.1.5.Nông nghiệp công nghiệp hóa tiêu tốn nhiều năng lượng. Máy móc, phân khoáng,
thuốc trừ sâu bệnh… đều được sản xuất trong các nhà máy và các nhà máy này đều cần năng
lượng để vận hành, chủ yếu là năng lượng của than đá, dầu khí (năng lượng hóa thạch).
Người ta có thể quy các “đầu vào” và “đầu ra” của nông nghiệp thành đơn vị năng lượng
để xem xét tỷ lệ giữa đầu ra với đầu vào. Đơn vị năng lượng có thể biểu hiện bằng đơn vị
nhiệt hay calo, hoặc bằng đơn vị công là jun. Xem xét như vậy sẽ thấy rõ nhược điểm của
nông nghiệp công nghiệp hóa đã sử dụng quá nhiều năng lượng, và khi sử dụng quá nhiều
năng lượng sẽ không có lãi hay lãi quá thấp. Theo Sozinov tính toán: nông nghiệp Pháp phải
tiêu thụ tới 13,8 triệu tấn nhiên liệu quy ước để sản xuất được 12,5 triệu tấn nhiên liệu quy
ước trong lương thực, thực phẩm. Và muốn sản xuất 1 calo lương thực, thực phẩm đòi hỏi
phải có 1,1 calo năng lượng hóa thạch.
Evans so sánh năng lượng sản xuất ra được với năng lượng đầu tư vào, với các kiểu canh
tác khác nhau: hái lượm cho một số sản phẩm bằng 40-50 lần năng lượng đầu tư, canh tác thủ
công bằng 16-17 lần, canh tác với gia súc bằng 10 lần, và canh tác với cơ giới chỉ bằng 0,2-
0,3 lần (năm 1975). Steiphart tính số calo cần thiết để sản xuất ra 1 calo lương thực, thực
phẩm bằng săn bắn hái lượm cần 0,1-0,2 calo, làm rẫy cần 0,03-0,06 calo; trồng lúa quảng
canh cần 0,02-0,01 calo, trồng lúa thâm canh cần 0,1-0,2 calo, trồng ngô thâm canh cần 0,5
calo, nuôi bò thả cần 3 calo, nuôi bò cho ăn hạt cần 15 calo, nuôi gà thâm canh cần 3 calo
(năm 1974).
Pimentel tính năng lượng đầu tư vào và năng lượng sản xuất ra với 3 cách trồng lúa:
-Trồng lúa hiện đại của Mỹ với năng suất thóc 58 tạ/ha, đã đầu tư vào một hécta là 64.885
jun x106 và tỷ lệ năng lượng sản xuất ra gấp 1,3 lần năng lượng đầu tư.
-Trồng lúa kiểu trung gian (Philippin) có các số liệu tương ứng là 27 tạ thóc/ha; năng lượng đầu tư vào là 6.385 jun x 106 và tỷ lệ năng lượng sản xuất ra so với đầu tư vào là 6,2
lần.
-Trồng lúa cổ truyền (Philippin), các số liệu tương ứng là 12,5 tạ/ha. Năng lượng đầu tư
vào là 173 jun x 106 và tỷ lệ năng lượng sản xuất ra so với đầu tư vào là 106,9 lần.
Như vậy, trồng lúa cổ truyền có lãi nhất, còn trồng lúa kiểu hiện đại công nghiệp hóa
không những lãng phí năng lượng nhất mà còn làm cạn kiệt dần các nguồn năng lượng hóa
thạch của trái đất.
1.1.6.Hệ thống trồng trọt không đất (hệ thống hydroponic). Từ lâu các phòng nghiên cứu
đã dùng những dung dịch các chất dinh dưỡng được pha chế với thành phần nhất định để
trồng cây nhằm nghiên cứu về nhiều mặt, nhất là về sinh lý thực vật và đã có nhiều hiểu biết
về dinh dưỡng khoáng của cây trồng. Áp dụng kinh nghiệm này vào sản xuất, các nhà khoa
học đã xây dựng được phương pháp trồng cây không đất mà chỉ dùng dung dịch dinh dưỡng.
Hiện nay, phương pháp này đã được áp dụng ở nhiều nước có nông nghiệp công nghiệp hóa
để sản xuất hoa và rau trong các nhà kính, nhất là vào khi thời tiết bên ngoài không thích hợp
(mùa đông).
Phương pháp trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng đã phát triển ở nhiều nước Tây Âu và
Mỹ. Và từ những năm 70, hệ thống trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng đã được nâng cao
thêm với hiểu biết sâu hơn về dinh dưỡng cây trồng với kỹ thuật vi điện tử.
Hệ thống trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng dựa vào hai phương pháp khác nhau:
-Phương pháp thứ nhất sử dụng một số chất bám cho cây (mỗi cây từ 3-10 kg chất bám).
Chất bám có thể là những mẩu vụn của vỏ cây, rơm rạ băm nhỏ, hoặc một loại hỗn hợp đất
với những chất khác như len, khoáng chất, hay các sản phẩm như péclit…
Các chất bám được đựng trong bồn, chậu, túi ni-lông cách biệt với nền đất trong nhà kính.
Do chất bám ít, không thể thường xuyên cung cấp đủ nước và chất dinh dưỡng cho cây, nên
người ta đã dùng một loại bình, hay bể để chứa dung dịch dinh dưỡng và cho chảy nhỏ giọt
xuống từng cây một. Phương pháp này vì vậy còn được gọi là phương pháp tưới nhỏ giọt.
Phương pháp tưới nhỏ giọt cũng đã được áp dụng ở nhiều nước có nông nghiệp công nghiệp
hóa. Ở Đức có nơi đã dùng phân hữu cơ làm chất bám, vừa kinh tế hơn vừa để đạt sản lượng
cao hơn.
-Phương pháp thứ hai không sử dụng chất bám mà toàn bộ rễ cây được ngâm trong
dung dịch dinh dưỡng có nhiệt độ nhất định và thường xuyên lưu thông. Dung dịch dinh
dưỡng cho chảy trong một rãnh chứa làm bằng kim loại không gỉ hay chất dẻo. Rãnh rộng
khoảng 30cm, phía trên che kín, không cho ánh sáng lọt xuống, có độ dốc 1% cho dung dịch
dinh dưỡng chảy đều. Toàn bộ rễ cây được đặt trong rãnh và sẽ hút chất dinh dưỡng trong
dung dịch dinh dưỡng chảy qua. Dung dịch dinh dưỡng chưa được hấp thụ hết sẽ chảy vào
một bình đặt ở đầu thấp của rãnh, rồi sẽ được bổ sung thêm nước, các chất dinh dưỡng điều chỉnh độ pH như lúc ban đầu, rồi lại đưa vào đầu rãnh trên sau khi đã làm nóng lên 250 -300 C
và lại sẽ chảy qua rãnh. Phương pháp thứ hai này tiết kiệm chất dinh dưỡng nhưng đòi hỏi
những thiết bị cần thiết. Với thiết bị vi điện tử, người ta điều chỉnh chính xác nhiệt độ của
dung dịch dinh dưỡng, thành phần dinh dưỡng của dung dịch, độ pH và các điều kiên: không
khí, ánh sáng, độ ẩm, khí CO2 trong nhà kính.
Bằng cách sử dụng dung dịch dinh dưỡng theo phương pháp thứ nhất hay phương pháp
thứ hai, nhiều cơ sở ở Đức đã đạt sản lượng cà chua từ 180 tấn - 200 tấn/ha/năm và ngành
sản xuất hoa Hà Lan đã có lãi lớn với hoa xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Ở Nhật Bản lại có kiểu trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng kiểu Japonica. Hãng
KYOWA ở Nhật Bản đã hoàn thiện hệ thống này với những công thức cần thiết được giữ bí
mật, và được coi là một cuộc cách mạng trong kỹ thuật trồng cây trong dung dịch dinh
dưỡng. Tất cả đã được trồng trong nhà kính với nhiệt độ hầu như không thay đổi, phù hợp
với mỗi loài cây, theo hướng dẫn của máy tính điện tử với những dung dịch dinh dưỡng được
điều chỉnh cùng với thiết bị điện tử. Những kết quả của phương pháp japoniaca đã được trình
bày ở triển lãm EXPO 85 và đã làm mọi người đến xem ngạc nhiên:
-Một cây cà chua trong thời gian triển lãm đã phát triển thành một cây cao tới 5m, có tán
rộng 10m2 và cho 7 tạ quả, có quả nặng 1kg.
-Có những quả dưa chuột dài nửa mét và nặng 5kg và những quả dưa bở lớn gấp 8 lần
bình thường.
-Những cây mía ngoài đồng ít khi cao quá 2,5m nhưng trồng trong dung dịch dinh dưỡng
kiểu này đã có chiều cao tới 5-6m mà chỉ sau 6 tháng.
-Với lúa đại mạch, theo cách trồng này, lúa phát triển nhanh và cho sản lượng rất cao (tuy kích thước hạt lúa vẫn bình thường), 100m2 đã cho sản lượng bằng 1 hécta. Saoburo
Nozawa, phó chủ tịch hãng KYOWA cho rằng các hộp trồng rau theo kiểu không cần đất này
có thể đặt trong điều kiện khác nhau từ sa mạc Gôbi ở châu Á đến sa mạc Sahara ở châu Phi.
Nhưng từ triển lãm đến cuộc sống còn là một quãng đường dài. Thực tiễn cho thấy chất
lượng nông sản của nông nghiệp công nghiệp hóa thường không cao. Các sản phẩm chăn
nuôi, cách đây mấy năm, ở Anh vốn là một nước chăn nuôi bò đã thấy xuất hiện ở đàn bò
bệnh bò điên, bệnh Creuzfeld Jacob vì bò đã được nuôi theo kiểu công nghiệp hóa và phải ăn
thức ăn tổng hợp mà thành phần chế biến có các loài cừu thải loại mà cừu đã bị nhiễm bệnh
này. Bệnh bò điên đã gây tác hại nghiêm trọng đến ngành chăn nuôi bò ở Anh và Chính phủ
Anh đã phải ra lệnh giết hàng chục vạn bò bệnh. Ở Pari, một con gà do nông dân nuôi đắt
gấp đôi một con gà công nghiệp. Ngay trên thị trường Hà Nội gà ri bán với giá 50.000 đồng
một kilôgam gà sống trong khi gà công nghiệp chỉ bán được 25.000-26.000 đồng một
kilôgam gà sống. Cũng có sự chênh lệch giữa giá trứng gà ở nông thôn đem bán và trứng gà
công nghiệp (1.500 đồng/trứng so với dưới 1.000 đồng/trứng)…
1.2.Nông nghiệp hữu cơ:
Trước khuynh hướng nông nghiệp công nghiệp hóa ngày càng tăng, từ cuối những năm
60 thế kỷ XX ở các nước nông nghiệp phát triển đã xuất hiện những trường phái nông nghiệp
mới: nông nghiệp sinh học ở Tây Âu và Mỹ.
Từ những năm 60 do những kết quả không tốt của nông nghiệp công nghiệp hóa và
những nông sản chất lượng kém mà nền nông nghiệp này tạo ra, nên nhiều khuynh hướng
sinh học chống lại nông nghiệp công nghiệp hóa đã nảy sinh ở ngay chính những nước phát
triển như:
-Nông nghiệp sinh học ở Anh và Mỹ.
-Nông nghiệp sinh động học ở Đức.
-Nông nghiệp hữu cơ ở Thụy Sĩ.
-Nông nghiệp sinh học ở Pháp.
Có những biến dạng của nông nghiệp sinh học tùy theo kỹ thuật được đề nghị sử dụng,
nhưng tất cả đều thống nhất ở điểm chống nông nghiệp công nghiệp hóa.
Đến năm 80 của thế kỷ XX, tất cả các khuynh hướng nông nghiệp sinh học đều được gọi
với tên chung là nông nghiệp hữu cơ, để đối lập với nông nghiệp công nghiệp hóa (còn được
hiểu là nông nghiệp hóa học).
Các trường phái nông nghiệp mới đều phê phán những mặt tiêu cực của nông nghiệp hóa.
Các ý kiến này được trình bày rõ trong cuốn sách của Aubert (Pháp): “Công nghiệp hóa nông
nghiệp, hạnh phúc hay sự tự sát của loài người (Pari -1970). Cuốn sách bắt đầu với câu dẫn
của Mahatma Gandhi: “Không phải mọi người lầm, mà sai lầm trở thành chân lý” và tuyên
bố thẳng thừng “nông nghiệp công nghiệp hóa chỉ là một sự ngu xuẩn”. Sai lầm của nông
nghiệp công nghiệp hóa là đã coi những cây trồng và gia súc là những cái máy để sản xuất
các nông sản và đã đối xử với chúng như những cái máy, không coi trọng các quy luật sinh
học bình thường của chúng. Gà muốn ăn phải mổ các hạt thóc và đi tìm bới sâu bọ chứ
không thể đứng yên một chỗ rồi nhồi nhét thức ăn tổng hợp, mặc dù được chế biến có thể là
khoa học, nhưng chưa hẳn đã đáp ứng yêu cầu của cơ thể. Năm 1930, phải mất 4,5 tháng và
5kg hạt cốc mới nuôi được một con gà 1,5kg, nay chỉ cần 49 ngày và 2kg thức ăn tổng hợp.
Năm 1930, phải cần một công nhân để nuôi một vạn con gà thì nay một công nhân có thể
nuôi được vài chục vạn con. Nhưng những con gà đó có chất lượng thịt không giống nhau.
Còn cây trồng phải sinh sống tự nhiên trên đất, hút thức ăn từ đất với hoạt động của nhiều
loại vi sinh vật, nó sẽ khỏe mạnh và chống chịu được với sâu bệnh. Sâu bệnh cũng không
nhiều khi trồng nhiều loại cây, có chế độ luân canh hợp lý, và bảo vệ môi trường trồng trọt
với sự có mặt của thiên địch hại sâu bệnh cây trồng. Cây trồng sử dụng phân khoáng ngày
càng tăng để có năng suất ngày càng cao, nhưng sức đề kháng của cơ thể yếu, và chất lượng
nông sản giảm. Do đó, thuốc trừ sâu bệnh đã phải dùng ngày càng nhiều.
Đất là một “vật sống” có các quy luật của nó, nhưng nông nghiệp công nghiệp hóa coi
thường hoạt động sinh học của đất, đã bón quá nhiều phân hóa học dễ tiêu nhằm tăng sản
lượng cây trồng nên đã làm cho nhiều loại đất chai cứng, mất hay giảm sự sống. Việc rắc
thuốc trừ cỏ làm chết cỏ, đồng thời cũng làm chết nhiều loài vi sinh vật và động vật nhỏ có
ích trong đất trồng. Dùng cày to, nặng và máy kéo lớn (có khi tới 300-500 mã lực) làm cho
đất mất cấu tượng tốt cần cho hoạt động tốt của rễ cây và vi sinh vật trong đất. Và để đối phó
lại, lại bón phân hóa học nhiều hơn.
Như vậy là bắt đầu với phân khoáng, thuốc trừ sâu bệnh, trừ cỏ, mà khối lượng sử dụng
có xu hướng tăng ở tất cả các nước phát triển, sau đó là sự tràn ngập của hóa học vào nông
nghiệp công nghiệp hóa. Đến lúc, khi có thể thì hóa học sẽ thay thế người, thay thế máy, thay
thế cây trồng hay gia súc:
-Cày hóa học: thay việc cày đất bằng phun một chất trừ cỏ, tiện hơn và rẻ hơn.
-Trừ cỏ bằng thuốc hóa học, chỉ diệt cỏ và không động đến cây.
-Tỉa bớt quả đi, để có quả to bằng phun thuốc hóa học.
-Làm cho cây cối lùn xuống để chống đổ bằng chất hóa học CCC (Cheloro Cheline).
-Hãm sự phát triển cành cây của các cây ăn quả để có nhiều quả bằng phun thuốc hóa
học.
-Làm rung lá bông bằng chất hóa học để dễ hái bông.
-Dùng chất hóa học để cải tạo cấu tượng đất, không cần mùn mà dùng các chất nhân tạo
như polyvinyl… Có thể kéo dài thêm với các chất kích thích sinh trưởng cho cây trồng hay
gia súc lớn nhanh với các nguyên tố, các chất vitamin và axit amin tổng hợp. Đỉnh cao của
hóa học trong nông nghiệp công nghiệp hóa là trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng để cho
cây hút thẳng dung dịch và có thức ăn cần thiết, không cần sự khoáng hóa và hoạt động vi
sinh vật học của đất.
Nhiều sản phẩm của nông nghiệp công nghiệp hóa có hại cho sức khỏe con người do hàm
lượng chất hóa học trong đó quá cao.
Nông nghiệp công nghiệp hóa là một nền nông nghiệp chỉ nhằm sản xuất chạy theo số
lượng lớn chứ không sản xuất ra sản phẩm chất lượng tốt, không phục vụ sức khỏe con
người.
Nông nghiệp sinh học xuất phát từ luận điểm: hoạt động nông nghiệp vận dụng các cơ thể
sinh vật để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và các thứ cần dung khác. Sinh vật sinh trưởng
và phát triển theo những quy luật sinh học mà khoa học không ngừng tìm hiểu nhưng đến
nay vẫn chưa hiểu được bao nhiêu, nên khi hành động, con người phải cân nhắc, phải có thái
độ phù hợp với thiên nhiên, với sự sống.
Toàn bộ lý luận và kỹ thuật cụ thể của nông nghiệp sinh học dựa vào phương châm: coi
trọng các quy luật sống, tạo điều kiện cho các quy luật này phát huy tác dụng, không biến cây
trồng hay gia súc thành các cỗ máy, bắt sinh sống trong điều kiện nhân tạo ngày càng cao.
Ngoài các yếu tố vũ trụ (bức xạ mặt trời) và các yếu tố thời tiết (mưa, nắng, gió, các
mùa…), đối tượng chủ yếu của sản xuất nông nghiệp là đất, cây trồng và gia súc. Đối với cả
ba đối tượng này, nông nghiệp sinh học đều coi trọng tính chất sống của chúng và chủ trương
bằng mọi cách tăng cường hoạt động của chúng.
Với tài liệu đã tích lũy trong thổ nhưỡng học, nông hóa học, đất được coi là vật chất sống
đối với bất cứ nhà nông học nào. Đất có nhiều loại vi sinh vật, vi sinh vật hảo khí, kỵ khí,
phần lớn là hảo khí; có thể có từ 1 đến 10 tỷ vi sinh vật trong một gam đất (sinh khối tới
500kg/ha). Các vi sinh vật có những chức năng khác nhau: khoáng hóa chất hữu cơ, cố định
đạm, cộng sinh với cây họ đậu có nốt sần, công phá một số chất vô cơ, tạo ra một số chất
kháng sinh. Đất còn có nhiều loại nấm có những chức năng khác nhau: công phá chất hữu cơ
từ đơn giản đến phức tạp, cộng sinh với rễ một số loại cây lớn (họ thông, họ lan). Đáng chú ý
là trong bộ rễ mỗi loại cây trồng đều có hoạt động của vi sinh vật đặc hiệu với mỗi loài cây,
có ích cho cây và cho bản thân vi sinh vật. Vùng gần rễ thường có hoạt động vi sinh vật
mạnh, có khi rễ như bị bao bọc bởi một mạng vi sinh vật và ở đây có hiệu quả bộ rễ
(rhizosphère). Ngoài ra, còn có các động vật nhỏ, côn trùng hoạt động có ích về mặt lý học,
hóa học, sinh học đất, đặc biệt là giun đất.
Đất tốt có hoạt động vi sinh vật tốt và hoạt động nông nghiệp phải tăng dần được tiềm
năng sinh học của đất.
Thornton (1940) và Virtanen (Giải thưởng Nobel) cho biết sau nhiều thí nghiệm là phân
đạm cản trở việc cố định đạm của Azôtbacter hay của Rhizobiam, cộng sinh ở rễ đậu.
Menhinich (1962) cho biết thuốc trừ sâu ảnh hưởng sâu sắc đến quần xã vi sinh vật của một
đồng cỏ, diệt mất nhiều cơ thể, nhiều loài.
Cây trồng sinh sống bằng cách sử dụng ánh sáng mặt trời để quang hợp và đồng hóa C và
dùng bộ rễ để hút nước và chất khoáng trong đấtt như N, P, K, Ca, Mg và các chất vi lượng.
Cây trồng thường hút chất khoáng ở thể vô cơ và các chất hữu cơ phải được khoáng hóa với
hoạt động của các loại vi sinh vật đặc hiệu. Tuy nhiên, một số nghiên cứu mới cho biết cây
trồng có thể hút thẳng một số thành phần hữu cơ.
Virtanen và Miettinen (1953) ở Phần Lan đã chứng minh rễ cây có thể hút axit amin có
C14 đánh dấu, và một số loài hòa thải có thể hút thẳng axit amin của nốt sần rễ đậu.
Albrech ở Mỹ cũng có nhận xét tương tự. Lại có những nghiên cứu cho biết rễ cây có thể
hút các chất kháng sinh như penicilin, steptomicin, và một số anca lôit.
Pottenger ở Mỹ đã chứng minh sự tồn tại khá bền vững của một số phân tử hữu cơ trong
các vòng tuần hoàn sinh học. Nuôi mèo trong các ô khác nhau với thức ăn khác nhau cho
từng ô: sữa hộp, sữa bột, sữa sát trùng, sữa sống. Sau 2 năm đưa mèo ra và cho cây tự nhiên
mọc rồi trồng đậu. Ô nuôi mèo bằng sữa sống có đậu phát triển cao tới 2m, còn ở các ô khác
đậu thấp và hạt đậu có mùi phân mèo. Từ những kết quả trên, Albrech cho rằng một số phần
tử hữu cơ như indole do súc vật và vi sinh vật tiết ra có thể được rễ cây hút thẳng. HP.Rush
có một giả thuyết táo bạo hơn về sự tuần hoàn của chất hữu cơ từ các vi sinh vật, phân bón,
chất phế thải trồng trọt vào rễ cây trồng, chứ không nhất thiết chất hữu cơ phải được khoáng
hóa. Các tài liệu trên làm đảo lộn một số luận điểm cổ điển của nông nghiệp hóa học và càng
cho thấy rõ sự cần thiết của mùn và phân hữu cơ đối với nông nghiệp.
Cây trồng sinh trưởng lành mạnh khi không bị cưỡng ép hút các chất dinh dưỡng quá
thừa, hay không bị thiếu một số yếu tố dinh dưỡng hay thiếu nguyên tố nào đó và như vậy sẽ
có sức chống chịu với sâu bệnh. Hơn nữa, chúng có thể có khả năng tiết ra các chất xua đuổi
sâu bọ hay loại cây trồng xen bên cạnh về mặt đề kháng với sâu bệnh. Hơn nữa, chúng lại có
ích, có sự tương trợ lẫn nhau với các cách trồng xen, trồng gối của một số nền nông nghiệp
bản xứ. Vì vậy sử dụng phân bón phải chú ý tới sức đề kháng của cây trồng với sâu bệnh.
Gia súc lấy một số nông sản làm thức ăn và chỉ phát triển lành mạnh khi các nông sản này
có giá trị dinh dưỡng tốt, không còn tàn dư thuốc trừ sâu bệnh, và khi có thể chúng chỉ chọn
những thức ăn phù hợp. Ở đồng cỏ có nhiều loại cỏ, loại cốc hay có họ đậu, nên được chăn
thả tự do, bò sẽ gặm những loại cỏ mà chúng thích, không nên bắt chúng vì đói mà phải ăn
những gì chưa thật hợp với cơ thể chúng như thức ăn tổng hợp. Gia súc lại cần vận động, do
vậy, không nên nhốt chúng trong chuồng, nhất là những chuồng chỉ vừa cho chúng nằm mà
không cọ quậy được. Đối với loại gia súc không nên sử dụng thuốc y, chất kháng sinh quá
nhiều, và cả các chất kích thích sinh trưởng nữa. Theo nhận xét của không ít tác giả ở Mỹ,
Đức, Pháp thì các con vật nuôi theo kiểu công nghiệp hóa không cho những sản phẩm tốt đối
với yêu cầu thực phẩm của con người.
Kỹ thuật cụ thể của nông nghiệp sinh học đối lập với kỹ thuật của nông nghiệp công
nghiệp hóa:
-Về bón phân, chỉ dùng phân hữu cơ, phân chuồng, phân rác ủ, phân xanh (họ đậu và cả
một số cây họ khác), bùn ao, bùn sông, các phế liệu của các lò mổ súc vật, các rác thành phố
và đô thị..Phân khoáng thì chỉ dùng những loại khó tiêu (phốt phát tự nhiên, bột đá, bột các
loại tảo biển nhiều Ca, bột đôlômít… bón thẳng ra ruộng hoặc ủ với phân rác. Tuyệt đối
không dùng phân hóa học dễ tiêu có đạm, có lân, có kali, nhất là phân đạm vì dùng phân đạm
rất có hại cho hoạt động của vi sinh vật trong đất và cho cây. Đạm sẽ do hoạt động của các
loại vi sinh vật trong đất cố định N của không khí cung cấp, lân sẽ do phốt phát tự nhiên và
bột đá cung cấp, còn kali do phân hữu cơ, bột đá cung cấp.
Không dùng thuốc hóa học trừ sâu bệnh mà phát huy khả năng tự đề kháng, sức chống
chịu của cây trồng với bón phân thích hợp va luân canh chu đáo. Áp dụng phòng trừ sinh học
và làm vệ sinh đồng ruộng. Nếu cần dùng thuốc trừ sâu thì dùng loại thuốc thảo mộc. Còn
làm đất thì phải làm cho đất có cấu tượng tốt. Làm đất trên một lớp mỏng trên mặt ruộng,
khoảng 0- 15cm, không cày sâu, không lật đất, không vùi phân hữu cơ xuống sâu, bón nông,
thúc đẩy hoạt động của vi sinh vật. Luân canh hợp lý trong các trường hợp cụ thể, chú ý giữa
cây hòa thảo va cây họ đậu. Về chăn nuôi thì gia súc phải nuôi tự do, bò, bê phải có bãi chăn.
Đồng cỏ không cày sâu, không lộn đất và gieo nhiều loại cỏ hỗn hợp. Đồng cỏ thì chỉ bón
phân hữu cơ, phân loãng như nước ủ phân,nước giải dùng nhiều cũng không tốt.
Nhờ có kỹ thuật mà nông nghiệp sinh học sử dụng nên chất lượng nông sản của nông
nghiệp hữu cơ (trồng trọt hay chăn nuôi) hơn hẳn so với nông sản của nông nghiệp công
nghiệp hóa, nhất là giá trị sinh học, gía trị dinh dưỡng của sản phẩm, nên dù có bán giá cao
hơn thì vẫn được ưa chuộng. Nông nghiệp hữu cơ phát triển chậm, nhưng có xu hướng phát
triển trong những năm gần đây ở nhiều nước công nghiệp phát triển và cả ở một số nước
đang phát triển ở châu Á.
Năng suất các trại nông nghiệp hữu cơ ở nhiều nơi nói chung kém năng suất của các trại
công nghiệp hóa hay là trại hóa học, nhưng do giá bán cao hơn nên các trại hữu cơ vẫn tồn tại
ngay ở Mỹ bên cạnh vô số các trại hóa học
Năm 1984, trường đại học Washington ở Mỹ đã điều tra 174 trại nông nghiệp hữu cơ và
thấy rằng năng suất ở đây thấp hơn trại nông nghiệp công nghiệp hóa, nhưng lại ổn đinh, chi
phí cho một đơn vị sản phẩm lại giảm do không phải mua phân hóa học, thuốc trừ sâu, lại
dùng máy kéo nhỏ, nhẹ, cần ít xăng dầu hơn. Mùn trong đất các trại hữu cơ đã tăng tới 2,65%
so với 2,24% của các trại hóa học. Giá bán nông sản lại cao hơn nên trại đã có lãi.
Một trại hữu cơ ơ Cộng hòa liên bang Đức rộng tới 174,5 hă thực hiện chế độ luân canh
5khu, 5 năm đã đạt năng suất lúa mì 44tạ, khoai tây 25- 30 tấn một hécta và thức ăn gia súc
80- 100 tấn/ha. Hệ thống sản xuất hữu cơ tiêu ít tốn năng lượng hơn.
Ở Pháp có quan điểm rằng nông nghiệp hữu cơ dễ áp dụng ở các trại nhỏ, có quy mô gia
đình với diện tích khoảng dăm bảy hay một chuc hecta. Quy mô này thích hợp với yêu cầu
hợp lý hóa tổ chức sản xuất để đạt năng suất cao với giá thành hạ. Sự kết hợp nhiều trại hữu
cơ gia đình thành nhóm kinh doanh vê nhiều mặt, sản xuất ra nhiều loại sản phẩm và nối liền
các cơ sở ấy với người tiêu thụ bằng kiểu hợp tác xã tiêu thụ được coi là tổ chức lý tưởng để
thực hiện nông nghiệp hữu cơ.
Nông nghiệp hữu cơ hiện nay đã được nhiều nhà khoa học nông nghiệp trên thế giới chú
ý tới vì nông nghiệp hữu cơ có những cơ sở khoa học nhất định.
Rõ ràng là đất trồng không phải là chât tro mà là vật sống. Ngay vùng rễ cây lúa nước ở
môi trường yếm khí, theo tài liệu nghiên cứu của Viện lúa quốc tế cũng là vùng có hoạt động
vi sinh vật mạnh. Và dinh dưỡng của cây trồng trong đất có quan hệ mật thiết với hoạt động
vi sinh vật học của đất. Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô đã khái quát hóa nhiều loại công
trình nghiên cứu và khẳng định: sự dinh dưỡng của cây trồng trong đất không chỉ thực hiện
theo những quy luật hóa học hay lý học mà còn có những quy luật sinh vật học. Tất nhiên các
quy luật này cũng thể hiện bằng những hiện tượng lý học hay hóa học. Nói đến các quy luật
sinh vật học này là nói đến quan hệ giữa vi sinh vật đất với rễ cây trồng. Trồng trọt hợp lý
phải tạo điều kiện cho mối quan hệ này phát triển tốt.
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, Manxép ở nông trường “Những lời di huấn của
Lênin” đề ra phương pháp cày không lật đất, cày nông và chỉ cày sâu sau 4-5 năm. Cách làm
đất này thuận lợi cho hoạt động của vi sinh vật ở lớp đất trên. Sau đó nhiều nhà nông học ở
nhiều nước trên thế giới đề ra phương pháp làm đất tối thiểu, hay không làm đất cũng nhằm
mục đích trên. Ở Việt Nam, vụ đông miền Bắc trồng đậu tương đông có nơi đã không làm
đất và gieo ngay đậu tương vào lúa mùa sắp gặt hay đang gặt. Cũng như ở Trà Vinh, để tranh
thủ làm kịp vụ lúa hè thu sau vụ lúa đông xuân gặt muộn, một số vùng đã thực hiện “sạ
chay” nghĩa là không làm đất sau đốt đồng mà sạ vụ lúa sau ngay.
-Bón phân hữu cơ, phân rác ủ sẽ giúp tăng cường hoạt động vi sinh vât của đất, và nên
bón nông, rải ra trên mặt đất. Cùng thời kỳ này, Viện sĩ Koursanov (Viện Sinh lý thực vật
Liên Xô) với cacbon phóng xạ C14 đã phát hiện hiện tượng rễ cây có thể lấy CO2 của đất
tổng hợp ngay một số axit hữu cơ sẽ được vận chuyển lên lá cây, góp vào sự quang hợp của
lá. Rễ cây không phải chỉ hút nước và chất vô cơ để đưa lên trên, mà nó còn có thể có chức
năng khác. Salopki (Liên Xô) đã chứng minh với việc sử dụng vitamin B1 có C phóng xạ, là
vitamin này cùng với nhiều vitamin B khác dễ được rễ cây kiều mạch hấp thụ. Người ta cũng
đã thấy rễ cây hấp thụ cả amino axit như méthionin và cystéin do vi sinh vật trong đất tiết ra.
Vai trò của các loại phân hữu cơ, mùn càng được thấy rõ với quan điểm sinh học về dinh
dưỡng khoáng của bộ rễ.
Một thí nghiệm bón phân dài hạn cho lúa ở trại thí nghiệm đất bạc màu Bắc Giang ở Việt
Nam cho biết: trong 20 vụ liền (hết chiêm đến mùa, hết mùa lại đến chiêm) quanh năm
không nghỉ, ở vạt đất không bón gì năng suất mỗi vụ đạt trung bình 10 tạ/ha. Mà kể cả rơm
rạ, 20 vụ lúa này đã lấy ra từ đất một số NPK khá lớn mà không có sự bón đền bù nào, theo
quy luật bón trả lại của nông học cổ điển. Nhiều tài liệu về bón phân dài hạn ở châu Âu cũng
đã cho kết quả như vậy. Ở trại Rothamsted (Anh) sơ kết đến năm 1978, ruộng không bón
phân vẫn cho thu hoạch. Trong cả hai trường hợp trên, đất đã tự tái tạo độ phì nhiêu của nó
bằng hoạt động của vi sinh vật.
Việc bón phân hóa học dễ tiêu không hợp lý không những không kích thích được sự tiến
triển tự nhiên của đất mà còn làm đảo lộn quá trình sinh học của nó. Bón nhiều đạm, tỷ lệ
đạm tự do trong cây sẽ cao, giảm sức chống chịu của cây với sâu bệnh, giảm năng suất và
sản lượng. Bệnh đạo ôn hại lúa thường gây tác hại nhiều ở ruộng lúa bón nhiều đạm.
-Các giống cây trồng, kết quả của chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo từ lâu đời
thường có khả năng chống chịu với sâu bệnh hay hoàn cảnh bất thuận. Dễ tính, dễ trồng,
chúng dễ thích nghi với lượng phân hữu cơ vừa phải và cho những năng suất tương xứng với
năng lượng đầu tư. Các giống gia súc cũng vậy: dễ tính, dễ nuôi, mắn đẻ và không kén ăn.
Trái lại, các giống mới được lai tạo với tiêu chuẩn số lượng là chủ yếu thường đòi hỏi nhiều
phân hóa học và thuốc trừ sâu bệnh, nhiều thức ăn tổng hợp, nhiều thuốc thú y. Không có
những điều kiện này, việc trồng hay nuôi giống mới ít có hiệu quả. Các giống cũ cũng phản
ứng chậm với những công nghệ của giống mới. Giống lúa cao cây bón phân hóa học nhiều dễ
bị lốp đổ cũng như lợn ỉ sử dụng thức ăn tổng hợp không hiệu quả bằng lợn lai hay lợn ngoại.
Về chất lượng sản phẩm thì có lẽ không cần phải bàn nhiều. Rau cải sen muối nếu đã
được bón phân đạm nhiều: cây to, cao, lá to, thì dễ nhũn và khú. Các bà nội trợ có kinh
nghiệm thường chọn mua những cây cải nhỏ, chắc, bón phân hữu cơ, ít bón phân đạm, giòn
hơn và ngon hơn. Cây cam ở nông trường bón phân hóa học nhiều thường chỉ có tuổi thọ 12-
15 năm, quả chua, dễ xốp. Trái lại cam trồng ở nông thôn, trước đây mỗi nhà có một vài cây
đến dăm cây, bón nông với bùn ao đắp gốc vài ba năm một lần và được tưới bằng nước khô
dần hay phế thải lò sát sinh ngâm trong vại để ở gốc cây, thường có tuổi thọ 25-30 năm và về
sau tuy quả có bé đi nhưng ngọt đậm.
-Hiện nay trên thế giới, nông nghiệp hữu cơ vẫn tồn tại và phát triển ở nước có công
nghiệp hóa. Mỹ có trình độ công nghiệp hóa vào loại cao nhất thế giới nhưng vẫn có một số
ít nông trại hữu cơ cung cấp rau, hoa quả, bò, trứng, sữa… với giá cao cho những người ưa
thích. Ở Pháp cũng có nhiều nông trại hữu cơ sản xuất và bán những nông sản hữu cơ được
ưa chuộng ngay ở thủ đô Paris. Riêng ở Cộng hòa liên bang Đức, nông nghiệp hữu cơ chiếm
tới 1% sản lượng nông sản của cả nước. Nông nghiệp hữu cơ đang có xu thế phát triển ở
Nhật Bản. Thật ra nông nghiệp Nhật Bản trước đây đã phát triển khá nhanh và thành một nền
nông nghiệp hiện đại trên thế giới với phân hóa học và thuốc trừ sâu. Nông nghiệp Nhật Bản
đã dùng tới 500kg chất dinh dưỡng NPK cho một hécta, nghĩa là quá mức thích hợp đến 30-
50%. Nông nghiệp Nhật Bản cũng đã sử dụng tới 8,1kg chất hữu hiệu trừ sâu bệnh cho 1 ha,
trong khi Mỹ mới sử dụng 2,4kg/ha. Ở Nhật Bản, các trại hữu cơ chỉ có thu nhập bằng 60-
90% trại hóa học, trong khi các điều kiện khác tương đương, nhưng trại hữu cơ vẫn có lợi do
nông sản bán được giá cao hơn.
Năm 1995, ông Masamotu Fukuoka có trang trại hữu cơ từ năm 1960 đã xuất bản cuốn
sách “Một cuộc cách mạng rơm rạ” cho biết từ hơn ba chục năm nay một vạt đất không hề
cày lật và bón phân hóa học vẫn cho năng suất lúa mì 4 tấn/ha.
Nông sản hữu cơ được ưa chuộng ở Nhật; số người tiêu dùng nông sản hữu cơ khoảng 3-
5 triệu người (khoảng 3-5% dân số Nhật). Riêng Tokyo có 180.000-200.000 hộ được cung
cấp thường xuyên nông sản hữu cơ (rau, quả, sữa, trứng, gạo, gà) không bón hay bón rất ít
phân hóa học. Một số cửa hàng ăn và trường trung học đã chuyển sang dùng thực phẩm hữu
cơ và có xưởng rượu sakê chỉ sử dụng gạo hữu cơ nấu rượu. Nông sản hữu cơ đến tay người
tiêu dùng qua 3 cách phân phối
+ Qua hệ thống Teikec hay hợp tác xã bao gồm nông dân và người tiêu dùng. Bắt đầu
năm 1971 với 4000 hội viên Nippon Nogyeo Kenkya (Hội nông nghiệp hữu cơ Nhật Bản).
Nông dân không dùng phân hóa học, người tiêu thụ phải mua hết sản phẩm.
+ Gửi qua bưu điện đến tận nhà. Có tổ chức có doanh thu tới nhiều tỷ yên nhận sản phẩm
của 1000-3000 nông dân và cung cấp cho 10.000-30.000 hộ tiêu thụ mỗi tuần. Nhóm quan
trọng nhất là câu lạc bộ Shikatsa thành lập từ cách đây 20 năm, nay đã có 274.000 hội viên.
+ Và cửa hàng bán lẻ nông sản hữu cơ. Tokyo đã có 150 cửa hàng.
Bộ Nông nghiệp Nhật Bản trước kia thờ ơ với nông nghiệp hữu cơ nay đã kịp thời nắm
lấy phong trào và xuất bản tài liệu hướng dẫn. Bộ cũng đã giúp huyện Okagama phát triển
nông nghiệp hữu cơ với kế hoạch cấp những nhãn đỏ cho các sản phẩm hữu cơ và nhãn xanh
đối với các sản phẩm đã dùng chất kích thích sinh trưởng (cơ quan nông nghiệp và cây ăn
quả huyện phụ trách).
Hạn chế của nông nghiệp hữu cơ ở Nhật Bản là năng suất thấp. Nông dân sẽ không còn
lợi nữa khi nhiều người làm. Có giáo sư Trường đại học Tokyo đã nhấn mạnh là nếu phân
hóa học được sử dụng hợp lý, cẩn thận thì sẽ không có hại cho môi trường và tàn dư là không
đáng kể ở sản phẩm.
1.3.Nền nông nghiệp sinh thái học:
Bước vào thế kỷ XXI, lựa chọn con đường phát triển nông nghiệp bền vững, bảo đảm an
ninh lương thực, phục vụ tốt nhất nhu cầu của con người là một đòi hỏi bức thiết của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc. Xây dựng nền nông nghiệp bền vững là cơ sở đầu tiên, hết sức quan
trọng để phát triển nông nghiệp một cách liên tục và lâu dài. Trong sách “Nông nghiệp bền
vững - Định nghĩa và quan hệ với các chính sách nông nghiệp và thương mại - FAO -
Rome”, Young Burton cho biết là có tới 24 định nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm và
chuyên ngành của tác giả, và định nghĩa nào cũng có cơ sở của nó. Song định nghĩa có tính
tổng hợp và khái quát là định nghĩa của Tổ chức thế giới về sinh thái và phát triển (WOED):
“Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được các nhu cầu của thế hệ hiện nay
mà không làm giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau”. Và theo đó thì nông nghiệp bền
vững chính là nền nông nghiệp sinh thái học.
Nông nghiệp sinh thái học-khuynh hướng phát triển nông nghiệp mới xuất hiện từ vài ba
thập kỷ nay, trước sự phá hoại môi trường, không những do công nghiệp mà còn do cả bản
thân nông nghiệp, trước nhiều mặt tiêu cực của nông nghiệp công nghiệp hóa và trước cuộc
khủng hoảng sinh thái đang đe dọa cả hành tinh chúng ta. Nông nghiệp sinh thái học nhằm
phát triển sản xuất trên cơ sở bảo vệ môi trường sinh thái và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, cùng những thành tựu của công nghiệp và khoa học công nghệ.
Sinh thái học là khoa học về quan hệ của vật sống với hoàn cảnh của chúng. Đối tượng
nghiên cứu của sinh thái học là hê sinh thái. Hệ sinh thái là một đơn vị bao gồm các vật sống
và ngoại cảnh không sống của chúng. Hệ sinh thái có 2 thành phần chủ yếu:
Một là: Các quần thể sống (thực vật, động vật, vi sinh vật) với các mối quan hệ dinh
dưỡng và vị trí của chúng.
Hai là: Các nhân tố ngoại cảnh (khí hậu, đất đai, nước)
Nông nghiệp sinh thái học chủ trương:
1. Không tách rời trồng trọt và chăn nuôi, tổ chức các cơ sở sản xuất nông nghiệp tổng hợp,
không chuyên canh quá sâu, có chế độ luân canh với cây thức ăn vật nuôi và phân xanh,
coi trọng phân hữu cơ.
2. Thực hiện “làm đất tối thiểu” ở những nơi thích hợp.
3. Sử dụng những loại phân hóa học “sạch” trong cỏ một hệ thống phòng trừ sâu bệnh tổng
hợp (canh tác, vệ sinh đồng ruộng, sinh học…) và chỉ dùng biện pháp hóa học khi thật
cần thiết.
4. Bỏ lối đốt rừng làm rẫy, có các công trình chống xói mòn ở đất dốc, thực hiện sản xuất
nông lâm kết hợp, bố trí nhiều loại cây trên một địa bàn theo yêu cầu sinh thái của từng
loại; đối với mỗi loại, thay đổi các giống trồng sau từng thời kỳ, đảm bảo cân bằng sinh
thái.
5. Thận trọng trong công tác phát triển thủy lợi, để tránh gây hủy hoại sau ít năm sử dụng
(đất bị lầy, bị bốc mặn).
6. Có những nghiên cứu tiếp cận mới trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên như: phát
triển nuôi trồng thủy sản, sản xuất và sử dụng khí sinh vật từ các chất phế thải của nông
nghiệp, sản xuất protein từ lá cây.
Sinh thái học Nông nghiệp nghiên cứu môi trường tự nhiên, khí hậu và đất trong các mối
tương quan với sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi và năng suất, được xem
xét về cả 3 mặt: số lượng, chất lượng và truyền thống. Một mặt, sinh thái học nông nghiệp
tổng hợp các kết quả nghiên cứu của nông học và các môn khoa học liên quan, mặt khác
nghiên cứu các hệ sinh thái nông nghiệp một cách tổng hợp, nhằm nắm được quy luật hoạt
động của chúng và điều kiển sự hoạt động ấy để đạt năng suất cao nhất. Cần nghiên cứu sinh
thái học nông nghiệp để giải quyết một cách có cơ sở khoa học một số vấn đề tổng hợp do
yêu cầu phát triển nông nghiệp đặt ra như: phân vùng sản xuất nông nghiệp, xác định hệ
thống cây trồng, vật nuôi hợp lý, chế độ canh tác cho các vùng sinh thái học khác nhau, phát
triển nông nghiệp trong điều kiện chi phí năng lượng ngày càng đắt. Đối tượng nghiên cứu
của sinh thái học nông nghiệp là các hệ sinh thái nông nghiệp, chiếm ít nhất 1/3 diện tích lục
địa với các thành phần như đồng ruộng trồng cây lâu năm, vườn cây lâu năm và rừng nông
nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi,ao cá, khu vực dân cư nông nghiệp.Sinh thái học nông nghiệp ứng
dụng, nhằm mục tiêu xác định cho các vùng đất đai, khí hậu khác nhau, những hệ thống cây
trồng, vật nuôi thích nghi với môi trường vật lý và sinh học có khả năng sử dụng tối ưu tài
nguyên trong môi trường, áp dụng một chế độ và kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi có tác dụng
bảo vệ và cải thiện môi trường, không để chất phì xuất ra ngoài hệ thống, không làm cho đất
bị thoái hóa, không để nguồn nước bị cạn kiệt. Có thể nói nông nghiệp sinh thái học là sự kết
hợp hài hòa giữa nông nghiệp công nghiệp hóa và nông nghiệp hữu cơ.
Từ xưa đến nay, mỗi dân tộc đều xây dựng sản phẩm nông nghiệp trên những điều kiện tự nhiên thích hợp và thuận lợi nhất. Khi mật độ dân số còn thấp (vài trăm người/km2 ) thì sản
xuất chưa yêu cầu phải thâm canh cao, lúc đó sản xuất và cuộc sống của con người thích hợp
với thiên nhiên, thích nghi với các hệ sinh thái. Nhưng khi mật độ dân số tăng lên và như mật
độ dân số hiện nay thì có rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường đặt ra. Hiện tại, dân
số thế giới mỗi năm tăng thêm hơn 80 triệu người (cứ mỗi 3 phút lại có một bé sinh ra trên
thế giới), so với 58 triệu vào năm 1960. Hiện dân số thế giới đã lên tới trên 6 tỷ người, và dự
tính đến năm 2050 sẽ ở vào khoảng 7,7 tỷ đến 11,1 tỷ người, nhưng người ta thấy con số 9,4
tỷ là có khả năng nhiều nhất.
Với thực trạng tăng dân số như vậy, mâu thuẫn giữa con người với phương thức sản xuất
của nó và hệ sinh thái đã xảy ra. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn khi mật độ dân số tăng
lên đến mức sản xuất và đời sống bị đe dọa, năng suất và sản lượng nông sản không bền
vững, sâu bệnh, thiên tai nặng nề hơn. Muốn có đủ lương thực, thực phẩm cho con người thì
phải đầu tư thêm nhiều năng lượng cho cây trồng, vật nuôi. Sử dụng nhiều phân khoáng chắc
chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến tính vật lý và hóa học của đất canh tác. Việc dùng nhiều nông
dược để phòng trừ sâu bệnh sẽ làm ô nhiễm môi trường, thức ăn có hàm lượng thuốc có hại
cho sức khỏe con người. Ở vùng núi, do mật độ dân số tăng, nạn khai thác rừng bừa bãi,
vòng quay thảm thực vật tự nhiên và cây công nghiệp rút ngắn lại, tiềm năng sinh học của đất
không tái tạo kịp, đất mặt bị xói mòn, nước thấm vào đất giảm sút, dòng chảy tăng, nước
ngầm ít… Lũ lụt, hạn hán và sa mạc hóa đất canh tác hiện nay là mâu thuẫn giữa phương
thức sản xuất và thiên nhiên.
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) trong khoảng 30 năm tới, sản
lượng lúa thế giới phải tăng thêm 70% so với hiện nay mới đáp ứng được nhu cầu khi dân số
tăng cao trong thế kỷ XXI. Xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững là cơ sở cho
sự phát triển ổn định sản xuất lương thực, thực phẩm.
2.Vị trí & vai trò của nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản có sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Nông
nghiệp giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của hầu hết các nước
trên thế giới bởi các vai trò cụ thể sau:
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành sản xuất và cung cấp các sản phẩm thiết yếu nhất cho
đời sống con người. Đó là lương thực thực phẩm – là loại sản phẩm có vai trò đầu tiên quyết
định mọi hoạt động của con người. Dù trình độ phát triển công nghệ có hiện đại như hiện nay
vẫn chưa có sản phẩm nào thay thế được những sản phẩm thiết yếu do nông nghiệp tạo ra.
Song hiện nay do áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, do đời sống vật chất
và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao mà xu hướng tiêu dùng của con người
cũng thay đổi theo hướng: từ hàng hóa cấp thấp (lương thực) sang hàng hóa cao cấp (trứng,
thịt, sữa, hải sản, hoa quả…). Chính điều này tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển đa
dạng.
Thứ hai, nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho
công nghiệp và đô thị. Điều đó được thể hiện:
Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp ở các nước đang phát triển là khu vực cung cấp lao
động cho công nghiệp và đô thị. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa, phần lớn dân cư và
lao động sống bằng nông nghiệp và tập trung ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực nông
nghiệp, nông thôn thực sự là nơi dự trữ dồi dào lao động cho công nghiệp và đô thị. Quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa phát triển một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt
khác làm cho năng suất lao động nông nghiệp và năng suất lao động xã hội tăng nhanh. Lực
lượng lao động nông nghiệp được giải phóng nhiều đã bổ sung cho công nghiệp và đô thị. Đó
là tính quy luật trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra ở các nước. Tuy nhiên
việc chuyển dịch lao động từng bước như thế nào là vấn đề cần nghiên cứu và có giải pháp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp đặc biệt là công
nghiệp chế biến. Yêu cầu này đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển và hình thành các vùng sản
xuất tập trung. Thông qua công nghiệp chế biến làm cho giá trị nông sản nâng lên nhiều lần.
Nhờ đó mà mở rộng thị trường, tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy nông nghiệp phát
triển.
Nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế trong đó có
công nghiệp nhất là giai đoạn đầu. Vì đây là khu vực lớn nhất xét về lao động và sản phẩm
quốc dân, nguồn vốn từ nông nghiệp tạo ra bằng nhiều cách: tiết kiệm của nông dân vào lĩnh
vực phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, thu ngoại tệ do xuất khẩu nông sản… đóng góp quan
trọng cho công nghiệp và đô thị hóa.
Thứ ba, nông nghiệp là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp. Vì ở hầu hết các
nước đang phát triển, sản phẩm của công nghiệp sản xuất ra chủ yếu dựa vào thị trường trong
nước, mà thị trường trong nước trước hết là thị trường khu vực nông nghiệp nông thôn. Điều
này là do hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là do quá trình CNH, HĐH diễn ra, việc áp
dụng máy móc công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp làm cho nhu cầu hàng công nghiệp
của khu vực nông nghiệp và nông thôn tăng lên. Nguyên nhân thứ hai là do sản phẩm của
ngành công nghiệp ở các nước đang phát triển chưa có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của
các nước phát triển nên chủ yếu dựa vào thị trường trong nước, mà dân cư ở nông thôn thì
tập trung khá đông làm cho tiềm năng tiêu thụ sản phẩm là rất lớn.
Thứ tư, phát triển nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa rất lớn để phát triển công nghiệp
nước ta. Do sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với điều kiện tự nhiên: đất đai, khí hậu,
thủy văn, thời tiết… Nếu sản xuất nông nghiệp sử dụng quá nhiều hóa chất như thuốc trừ
sâu, phân hóa học… làm ô nhiễm đất đai nguồn nước, dư lượng độc tố trong sản phẩm cao,
ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Nếu sản xuất nông nghiệp để rừng bị tàn phá, đất đai bị
xói mòn, rửa trôi, thời tiết, khí hậu, thủy văn thay đổi theo hướng xấu đe dọa trực tiếp tới đời
sống con người. Vì vậy, phát triển nông nghiệp có giải pháp duy trì, tái tạo sự phát triển bền
vững của môi trường.
3. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm mà ngành khác không thể có. Để có quản lý và
phát triển nông nghiệp cần phải chú ý đến những đặc điểm đó. Những đặc điểm đó là:
3.1. Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp và mang yếu tố
khu vực rõ rệt.
Đặc điểm này cho thấy ở đâu có đất, có lao động là có thể sản xuất nông nghiệp được.
Nhưng mỗi quốc gia, mỗi vùng đều có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau
mà sản xuất nông nghiệp lại gắn liền với các yếu tố đó. Vì thế, sản xuất nông nghiệp diễn ra
ở mỗi vùng, mỗi khu vực cũng khác nhau. Chính vì thế đặc điểm này đòi hỏi cần phải giải
quyết các vấn đề kinh tế đặt ra. Đó là:
Tiến hành điều tra đánh giá các nguồn tài nguyên cả nước, của từng vùng. Trên cơ sở đó
thực hiện quy hoạch bố trí sản xuất cho phù hợp. Song phải đòi hỏi rất tôn trọng quy luật
sinh thái và đảm bảo giữ vững cân bằng sinh thái trước hết là rừng, đất và cả trên phạm vi cả
nước, từng vùng. Có như vậy sản xuất nông nghiệp mới phát triển bền vững.
Tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và xác định phương hướng sản xuất kinh
doanh phù hợp với từng vùng mới đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh.
Xây dựng các chính sách kinh tế nhất là chính sách ruộng đất, thuế, đầu tư… phải phù
hợp với từng vùng, từng địa phương.
3.2.Trong sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thay thế được.
Đất đai là nguồn tài nguyên to lớn hết sức quan trọng đối với nền kinh tế và nó trở thành
tư liệu sản xuất chung cho mọi ngành. Trong nông nghiệp, đất được sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp trở thành tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Vì thế vấn đề đặt ra
là:
Phải hết sức quý trọng tài nguyên đất vì nó là loại tài nguyên không thể sản xuất thêm
theo ý muốn của con người, diện tích chỉ có hạn.
Sử dụng hợp lý, hiệu quả cả về mặt không gian và sức sản xuất: sử dụng tiết kiệm nhất là
trong xây dựng cơ bản như phát triển giao thông, thủy lợi…, cố gắng tránh lấy nông nghiệp
làm mục đích khác; tích cực mở rộng diện tích bằng khai hoang và tăng vụ, đẩy mạnh đầu tư
thâm canh để nhằm đạt mục tiêu 50 triệu đồng/ha; coi trọng cải tạo và bảo vệ đất làm cho đất
ngày càng tốt lên.
Phải thực hiện tốt công tác quản lý đất bằng luật pháp.
3.3. Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cơ thể sống – cây trồng và vật nuôi.
Đặc điểm này rất khác các ngành khác. Các ngành sản xuất khác, đối tượng sản xuất là
các yếu tố vật chất nên khi quá trình sản xuất gặp hỏng hóc thì có thể thay thế ngay được.
Nhưng sản xuất nông nghiệp, do đối tượng sản xuất là các cơ thể sống, chúng phát triển theo
quy luật sinh học. Vì vậy, quá trình sản xuất nếu bị rủi ro (bị hỏng) thì không thể thay thế
ngay được mà phải hàng tháng, hàng vụ thậm chí hàng năm mới có thể thay thế được. Điều
đó rất khó khăn cho ổn định cung cầu nông sản trên thị trường.
Do đối tượng sản xuất là cơ thể sống nên rất nhạy cảm với sự tác động của môi trường:
môi trường tự nhiên, môi trường tác động của chính sách, môi trường tác động của con
người. Vì thế, nếu môi trường thuận lợi hay không đều ảnh hưởng đến sự phát triển và kết
quả sản xuất.
Từ đặc điểm này đặt ra các vấn đề cần giải quyết: tổ chức sản xuất phù hợp với từng loại
đối tượng sản xuât; có các biện pháp tác động phù hợp: cơ chế, kỹ thuật… vừa tạo môi
trường bên ngoài thuận lợi cho cơ thể sống phát triển vừa nâng cao được sức sống bên trong
của cơ thể sống, có như vậy sản xuất nông nghiệp mới đạt được năng suất hiệu quả cao; coi
trọng thường xuyên nâng cao chất lượng giống , cây trồng - vật nuôi bằng cách nhập khẩu,
phát triển công nghệ sinh học để tạo giống mới, năng suất chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu thị
trường.
3.4. Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.
Đây là đặc tính điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp. Vì trong sản xuất nông nghiệp,
quá trình tái tạo sản xuất tự nhiên và quá trình tái sản xuất xã hội kinh tế xoắn xuýt vào nhau
nhưng lại không hoàn toàn trùng hợp nhau. Do đó sinh ra tính thời vụ. Vì vậy, tính thời vụ
trong nông nghiệp là vĩnh cửu và không xóa bỏ được, là khách quan. Đặc điểm này yêu cầu
sản xuất nông nghiệp một mặt phải tôn trọng tính thời vụ để đảm bảo đúng thời vụ đem lại
hiệu quả cao, mặt khác phải tìm cách giảm bớt tính thời vụ bằng các giải pháp sau:
- Sản xuất theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với đa dạng hóa sản xuất.
- Đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ công nghệ mới vào sản xuất trước hết là công nghệ sinh
học.
- Phát triển mạnh ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn.
- Bố trí cây trồng, mùa vụ hợp lý.
Ngoài các đặc điểm chung của ngành nông nghiệp thế giới, nông nghiệp Việt Nam có một số
đặc điểm riêng cần chú ý trong quản lý và phát triển nông nghiệp. Đó là:
●Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu lên phát
triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo định hướng XHCN không qua giai đoạn phát
triển CNTB.
Đặc điểm này cho thấy xuất phát điểm của nền nông nghiệp nước ta khi chuyển sang sản
xuất hàng hóa theo kinh tế thị trường là rất thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
Đó là khó khăn, thách thức của nông nghiệp nước ta trong quá trình hội nhập.
Ở các nước phát triển, trình độ sản xuất hàng hóa cao, nhiều khâu sản xuất được cơ giới
hóa, hiện đại hóa, năng suất lao động và năng suất sản xuất cao đã góp phần đẩy mạnh phân
công lao động trong nông nghiệp và trong nền kinh tế, lao động nông nghiệp giảm cả tương
đối và tuyệt đối, sự phát triển của nông thôn và thành thị xích lại gần nhau.
Ở Việt Nam, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ bé và trình độ thấp, cơ cấu
kinh tế và trình độ sản xuất hàng hóa chưa phát triển, phân công lao động chưa phát triển: 2/3
dân số làm nông nghiệp, tình trạng lao động thiếu việc làm cao.
Vì vậy, vấn đề đặt ra để đẩy nhanh nông nghiệp nước ta sang sản xuất hàng hóa theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước cần:
- Đẩy mạnh tiến bộ khoa học công nghệ và ứng dụng nó vào phát triển nông nghiệp nông
thôn, chính là thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu”.
- Tăng cường đầu tư nâng cấp xây mới hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
cho nông nghiệp nông thôn.
- Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng
hóa và hướng mạnh vào xuất khẩu.
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường cả thị trường đầu vào và đầu ra.
- Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cán bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển nông
thôn.
●Nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới có pha trộn tính chất ôn đới, nhất là ở
miền Bắc.
Đặc điểm này mang lại cho nền nông nghiệp nước ta nhiều thuận lợi: nguồn ánh sáng dư
thừa, nguồn nước ngọt phong phú, có thể phát triển nông nghiệp quanh năm, có thể tạo ra
những năng lượng lớn, cho phép sản xuất ra nhiều sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới và ôn đới
có giá trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu lớn nhưng mới ở dạng tiềm năng.
Thuận lợi đó không phải nền nông nghiệp nước nào cũng có, ngay cả những nước
ASEAN. Đó là thuận lợi lớn cho nền nông nghiệp nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản trên thì những khó khăn, thách thức về tự nhiên đối với
nông nghiệp nước ta không hề nhỏ: địa hình 70% là đồi núi trải dài, kề sát biển, mùa mưa
thường có lũ lụt, lở đất; mùa khô thiếu nước, hạn hán nghiêm trọng, khí hậu nóng ẩm làm
dịch bệnh bùng phát nhanh…
Vì vậy, trong quá trình phát triển đưa nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải
luôn chủ động tìm cách phát huy, nâng cao thuận lợi và hạn chế khó khăn đến mức thấp nhất
để đảm bảo cho nông nghiệp phát triển nhanh và bền vững.
4.Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO:
Qúa trình hội nhập với thế giới của Việt Nam được đánh dấu bằng những mốc thời gian:
Mở cửa nền kinh tế năm 1987; gia nhập ASEAN tháng 7/1995 và tham gia vào AFTA; trở
thành thành viên chính thức của APEC tháng 11/1998 ; chính thức gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới WTO - World Trade Organization vào ngày 7/11/2006. Đây là bước tiến quan
trọng đối với quá trình hội nhập và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Là một
quốc gia có nền kinh tế đi lên từ nông nghiệp, phát triển nông nghiệp và nông thôn luôn là
vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Việc gia nhập WTO mở ra cho nông nghiệp
Việt Nam những cơ hội cũng như thách thức, từ đó tác động rất lớn đến quá trình phát triển
của nông thôn.
Trong những năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp Việt Nam từ 4-
5% năm, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 75% lực lượng lao động, tỷ trọng nông
nghiệp trong cơ cấu GDP chiếm 26%, giá trị xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp chiếm 34%
tổng giá trị xuất khẩu, chỉ số xuất khẩu ròng trong nông nghiệp là 0,49. Việt Nam tiếp tục
khẳng định vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu cà phê.
Ngoài ra, 2/3 trong số 15 mặt hàng xuất khẩu chính là các sản phẩm nông nghiệp: cà phê,
thủy sản, gạo, chè, cao su, hạt tiêu, hạt điều, lạc nhân, rau, quả. Trên thế giới và khu vực thì
ngành nông nghiệp Việt Nam có lợi thế so sánh cao cùng một số ngành khác như: dệt may,
khai thác.
Việc gia nhập vào WTO mở ra một triển vọng xuất khẩu to lớn đối với ngành nông
nghiệp Việt Nam. Thứ nhất, được đối xử bình đẳng thông qua nguyên tắc tối huệ quốc MFN
(Most Favoured Nation) và đối xử quốc gia NT (National Treatment). Trong đó, nguyên tắc
MFN quy định việc đối xử với các nước thành viên khác trong WTO bình đẳng với nhau như
là bạn hàng được ưu đãi nhất, nguyên tắc NT quy định khi hàng hóa của các nước thành viên
thâm nhập vào một thị trường thì phải được đối xử không kém ưu đãi hơn so với hàng hóa
tương tự ở trong nước (liên quan đến chính sách bảo hộ và xuất xứ hàng hóa). Như vậy, đối
với các thị trường truyền thống: Bắc Mỹ, EU, Nhật… thì sản phẩm nông nghiệp Việt Nam
cũng sẽ được ưu đãi như đối với các quốc gia được hưởng MFN khác như Thái Lan,
Indonesia, Ấn Độ… được giảm thuế, bãi bỏ hạn ngạch. Tăng cường khả năng cạnh tranh của
sản phẩm nông nghiệp Việt Nam ngay cả đối với sản phẩm nội địa của những thị trường này.
Thứ hai, gia nhập vào WTO, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có cơ hội để thâm nhập, mở
rộng ra các thị trường khác như Châu Mỹ La Tinh, Châu Phi, Châu Á…là thành viên của
WTO. Thứ ba, Việt Nam có thể cải thiện được hệ thống giải quyết tranh chấp với các nước
thông qua tổ chức WTO và nâng cao vị trí của quốc gia khi tham gia đàm phán với các
cường quốc thương mại bằng các nguyên tắc công bằng, hiệu quả. Ngoài ra, gia nhập WTO
với tư cách là một quốc gia đang phát triển Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi và giúp
đỡ dành cho các quốc gia đang phát triển trong quá trình hội nhập, tự do hóa, tăng cường đầu
tư cho lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đặc biệt khi Việt Nam chuyển hướng từ
xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu sản phẩm chế biến sẽ có những đột biến về giá trị sản
phẩm nông nghiệp xuất khẩu và Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so với những quốc gia đang
được hưởn hệ thống ưu đãi chung GSP của Mỹ hay ưu đãi của EU.
Tuy nhiên, việc gia nhập WTO và tự do hóa theo những Hiệp định của tổ chức này thì
ngành nông nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải gặp những thách thức: Yêu cầu cắt giảm thuế, loại
bỏ các hàng rào phi thuế quan chuyển sang hàng rào thuế quan theo lịch trình dành cho các
nước đang phát triển. Đòi hỏi ngành nông nghiệp Việt Nam phải nâng cao được khả năng
cạnh tranh quốc tế nhờ những chính sách về thị trường, sản phẩm và những chính sách hỗ
trợ do quá trình thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiêp. Duy trì sự ổn định giá cả có lợi
đối với người nông dân, phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư nguồn nhân lực cho vùng nông
thôn, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, đầu tư cho
ngành chế biến lâm sản xuất khẩu, đa dạng hóa mặt hàng tạo cơ hội thâm nhập thị trường
quốc tế. Có được như vậy thì “cơ hội” gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho ngành nông
nghiệp Việt Nam góp phần vào việc thúc đẩy và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức độ
cao. Mở rộng các ngành chế biến nông sản xuất khẩu, phát triển các ngành kinh doanh nông
sản, dịch vụ tạo cơ hội tăng thu nhập cho người nông dân và các hộ gia đình khu vực nông
thôn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam sẽ tăng cường được khả năng sản
xuất lương thực, đảm bảo an ninh lương thực và tăng cường xuất khẩu. Đây cũng là cơ hội
tạo ra nhiều công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phân phối thu nhập công bằng hơn, đặc
biệt với những chính sách phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, thực thu thuế
từ việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Chính phủ sẽ tăng lên nhờ vào khối lượng
trao đổi buôn bán tăng, các hàng rào phi thuế quan được chuyển thành thuế quan cho dù Việt
Nam có phải cắt giảm thuế suất, thực hiện quá trình tự do hóa.
Việt Nam đã đạt được những thỏa thuận đối xử MFN với hơn 60 nước trên thế giới và
gần đây nhất là với Nhật Bản. Tuy nhiên, Việt Nam cần phải tham gia đàm phán song
phương, đa phương với nhiều quốc gia và khu vực đặc biệt với Mỹ, Canada và EU… khi đưa
cả một số Hiệp định về quyên sở hữu trí tuệ TRIPs, nhãn sinh thái của sản phẩm… Việt Nam
cũng có những thuận lợi khi đang tham gia vào AFTA và các chương trình hành động chung
của APEC. Và đây là những bước đà giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên chính
thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn
Việt Nam.
II- CƠ SỞ THỰC TIỄN
Xây dựng một nền nông nghiệp bền vững là một yêu cầu tất yếu của xã hội loài người để
vừa đảm bảo tính hiệu quả của sản xuất nông nghiệp vừa bảo vệ môi trường. Điều này đã
diễn ra ở nhiều nước phát triển trên thế giới từ những thập kỷ 80-90 của thế kỷ trước. Họ đã
đạt được những thành công đáng kể đồng thời cũng để lại cho chúng ta những bài học kinh
nghiệm quý báu trên con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam.
1. Nông nghiệp Nhật Bản
Nhật Bản là nước phát triển nhất ở châu Á và là nền kinh tế lớn nhất nhì thế giới với
nhiều lĩnh vực nổi tiếng như: điện tử, viễn thông, ôtô, máy móc, thiết bị công nghiệp, xây
dựng…. Song không vì thế mà Chính phủ Nhật Bản không chú trọng phát triển nền nông
nghiệp nhỏ bé của đất nước.
Đặc điểm của nông nghiệp Nhật Bản là đất ít, người đông, ruộng đất manh mún, quy mô
các hộ nông dân nhỏ bé, lúa nước là cây trồng chính, hầu như không phù hợp với công nghệ,
thiết bị của các nước Âu, Mỹ.
Trước những khó khăn của điều kiện tự nhiên, Nhật Bản đã có những chính sách và giải
pháp để phát triển nông nghiệp bền vững như sau:
Về giống cây trồng, vật nuôi, Nhật Bản là nước đầu tiên ở châu Á nghiên cứu ứng dụng
công nghệ sinh học, chọn lọc lai tạo ra những giống mới phù hợp với điều kiện của đất nước
như giống lúa, giống rau quả, giống gà, lợn, giống chè, dâu tằm…
Về thủy nông, Nhật Bản đã xây dựng một hệ thống các công trình đầu mối, hồ đập chứa
nước tưới, hệ thống các trạm bơm nước, hệ thống kênh mương nổi được kiên cố hóa bằng bê
tông dùng để tưới nước, và hệ thống kênh tiêu nước với 70% số ống đặt ngầm dưới mặt
ruộng. Ruộng được kè đá, phủ bê tông ở bờ và lót vật liệu chống thấm ở những nơi xung yếu
để giữ nước. Đến những năm 80 và 90, 62-63% diện tích gieo trồng ở Nhật Bản được tưới
nước.
Nhật Bản là nước đầu tiên sử dụng phân hóa học trên đồng ruộng với mức độ cao. Những
năm 80, mức độ phân bón cho 1 ha gieo trồng là 450 kg/ha. Những năm gần đây, mức đó
giảm dần: năm 1995, mức phân bón cho 1 ha gieo trồng còn 400 kg/ha. Ở Nhật Bản, hóa chất
phòng trừ sâu bệnh cũng được sử dụng với liều lượng cao. Đến nay, lượng hóa chất trong
nông nghiệp Nhật Bản cũng đã giảm dần. Việc giảm mức phân bón và lượng hóa chất dùng
trong nông nghiệp là kết quả của việc ý thức được rằng cần tránh cho đất, nước có dư lượng
chất độc hại và bảo vệ môi trường. Để phục vụ nhu cầu lao động cho công nghiệp, Nhật Bản
đã tích cực nghiên cứu sử dụng máy móc để cơ giới hóa nông nghiệp, sáng tạo ra những loại,
kiểu máy thích hợp với đặc điểm của nông nghiệp Nhật Bản, như máy kéo nhỏ hai bánh làm
việc được ở ruộng khô và ruộng nước, máy tuốt lúa, máy xay xát, máy cấy lúa, máy gặt tuốt
lúa liên hợp, máy sấy lúa v.v…
Những năm 60 và 70, Nhật Bản tập trung vào cơ giới hóa riêng rẽ một số khâu canh tác
chủ yếu như làm đất, tưới nước, phòng trừ sâu bệnh, đập lúa, xay xát, trên cơ sở hệ thống
máy cơ khí nhỏ. Đến những năm 80 và 90, nước này tiến lên cơ giới hóa đồng bộ, giảm chi
phí lao động làm 1 ha lúa từ 2.000 giờ công (năm 1950) xuống còn 396 giờ công (năm 1995).
Về công nghệ sản xuất nông nghiệp, Nhật Bản đi vào công nghệ thâm canh hiện đại, điển
hình là công nghiệp hóa làm mạ, đảm bảo cung cấp mạ có chất lượng tốt - điều kiện quyết
định thâm canh tăng năng suất lúa và đặc biệt là đảm bảo cấy sớm, tránh được bão sớm ảnh
hưởng đến mùa màng. Nhật Bản cũng xây dựng một mạng lưới đường giao thông nông thôn
hoàn chỉnh, tăng cường các phương tiện vận tải cơ giới và mạng lưới viễn thông nông thôn,
xây dựng mạng lưới điện nông thôn rộng khắp.
Công nghiệp chế biến nông sản ở Nhật Bản đặc biệt phát triển và đạt trình độ cao. Tổ
chức lưu thông buôn bán nông sản ở Nhật Bản cũng được hiện đại hóa cao.
Ở trong nước, Nhật Bản tập trung sản xuất một số loại nông sản có giá trị kinh tế cao, sử
dụng ít đất và lao động, thực hiện nông nghiệp sinh thái, phát triển nông nghiệp du lịch và
các hoạt động ngoài nông nghiệp để tăng thu nhập cho nông dân. Riêng sản xuất lúa gạo,
Chính phủ Nhật Bản có dự án cải cách một cách cơ bản phương thức sản xuất lúa gạo theo
hướng hình thành các trang trại quy mô lớn hơn, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại để
giảm giá thành sản phẩm, tạo ưu thế cạnh tranh về giá cả lúa gạo trên thị trường thế giới.
Tổng số tiền đầu tư cho dự án này là 7.200 tỷ yên.
Nhờ vậy, tổng giá trị sản lượng nông sản tăng gần 6 lần (từ 2.000 tỷ yên lên gần 12.000 tỷ
yên), trong khi lao động nông nghiệp giảm từ 11,8 triệu người (28% lao động xã hội ) xuống
còn 3,35 triệu người ( 5,2% lao động xã hội), diện tích canh tác giảm từ 6 triệu ha xuống còn
4,4 triệu ha.
2.Nông nghiệp Niu Dilân
Niu Dilân thuộc châu Đại Dương, nằm ở phía đông nam Thái Bình Dương, có khí hậu
cận nhiệt đới hải dương, lượng mưa thay đổi theo vùng từ 400-5000mm. Trong tổng số đất tự
nhiên của Niu Dilân, đất nông nghiệp chiếm 14%, đồng cỏ các loại: 50%, rừng: 28%, đất
khác: 8%. Niu Dilân là nước công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, nông nghiệp nước này vẫn
giữ một vị thế hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, với khối lượng nông sản xuất
khẩu lớn, thu nhiều ngoại tệ.
Bảng 5: Cơ cấu lao động và cơ cấu GNP
phân theo ba khu vực (năm 1995),%
Lao động GNP
Khu vực I (nông nghiệp) 10,5 9,0
Khu vực II (công nghiệp) 24,5 21,0
Khu vực III (dịch vụ) 65,0 70,0
Cơ cấu sản phẩm nông nghiệp của Niu Dilân đa dạng, bao gồm nhiều loại nông sản, lâm
sản, thủy hải sản. Sản phẩm chăn nuôi là nguồn xuất khẩu chủ lực của Niu Dilân, vì chăn
nuôi là ngành sản xuất chính, có nhiều thế mạnh của nước này.
Niu Dilân chăn nuôi chủ yếu là gia súc. Do có đồng cỏ tự nhiên chiếm 50% diện tích lãnh
thổ, nên Niu Dilân nuôi gia súc chủ yếu theo phương thức quảng canh, có khi 2 ha đồng cỏ
mới có 1 con gia súc. Thức ăn chính của gia súc là cây cỏ tự nhiên sẵn có ở địa phương, vì
các giống cỏ nơi khác đưa đến trồng đều không thích hợp.
Trong thế kỷ XIX, cây cỏ tự nhiên ở Niu Dilân đảm bảo đủ thức ăn cho đàn gia súc,
nhưng về sau cỏ ít dần đi. Để tăng sản lượng cỏ, người chăn cừu thực hiện biện pháp đốt
cánh đồng cỏ để khi mưa cỏ non mọc lên. Biện pháp này đã làm cho đất trở lên chai cứng, độ
màu mỡ bị suy kiệt. Theo tính toán của các nhà khoa học, mỗi lần đốt, trên mỗi ha đồng cỏ
mất đi 500kg N2 và thảm thực vật bị phá hủy. Vì vậy, từ những năm 40, người ta đã phải
phun phân đạm lên đồng cỏ để phục hồi thảm thực vật. Song, đây chỉ là giải pháp tình thế,
hiệu quả kinh tế không cao. Do vậy, Niu Dilân đã tiến hành nhiều biện pháp cải tạo đồng cỏ
tự nhiên như: ứng dụng công nghệ sinh học cải tạo giống cỏ địa phương cho năng suất cao,
chất lượng vẫn giữ nguyên; tập trung gia súc chăn nuôi vào một khu để tiết kiệm nguồn cỏ tự
nhiên, tạo điều kiện cho cỏ mọc xanh tốt quanh năm…
Hiện nay, nông dân chủ trang trại chăn nuôi ở những đồng cỏ thoái hóa đang tìm lối thoát
bằng cách đưa đàn gia súc vào những cánh đồng cỏ có khả năng đem lại hiệu quả, đi đôi với
việc đa dạng hóa chăn nuôi, như phát triển chăn nuôi hoẵng, còn đối với vùng đồng cỏ thật
sự suy kiệt thì đề nghị chính phủ cho phép chuyển hướng kinh doanh, như trồng nho, phát
triển du lịch, tổ chức chơi trượt tuyết, đua ôtô…để tạo nguồn thu cho thu nhập trang trại.
Sản phẩm sữa của Niu Dilân đạt năng suất và chất lượng cao. Hàng năm nước này xuất
khẩu 75% sản lượng sữa sản xuất ra. Các sản phẩm từ sữa của Niu Dilân bao gồm bơ, pho
mát, sữa bột. Năm 1994, Niu Dilân sản xuất 230.000 tấn bơ, 190.000 tấn pho mát và 482 tấn
sữa bột.
Bảng 6: Sản phẩm sữa(1000 tấn)
1979 - 1981 1994
Sản lượng sữa tươi 6586 8379
Bơ 252 230
Pho mát 93 190
Sữa bột 290 482
Nhờ có sự nhận thức đúng đắn về mối liên hệ giữa sản xuất nông nghiệp với bảo vệ môi
trường, Niu Dilân đã chuyển hướng kịp thời cùng với việc đầu tư cải tạo đất hợp lý, năng
suất cây trồng cũng đạt được thành công
Bảng 7: Diện tích, năng suất, sản lượng hạt cốc
1979 - 1981 1994 1996
Diện tích (1000 ha)
Hạt cốc 267 152 158
Lúa mì 85 36 51
Ngô 20 15 17
Năng suất (tấn/ha)
Hạt cốc 4,5 5,57 5,43
Lúa mì 3,65 5,028 5,148
Ngô 9,622 9,738 9,687
Sản lượng (1000 tấn)
Hạt cốc 1190 845 858
Lúa mì 309 181 261
Ngô 188 143 160
Trong 10 năm 1986-1996, diện tích và sản lượng hạt cốc giảm nhiều, nhưng năng suất hạt
cốc các loại tăng 1 tấn/ha, đạt 5,43 tấn/ha, cao gần gấp đôi mức bình quân của thế giới. Đặc
biệt, năng suất ngô trong 10 năm gần đây đạt hơn 9,6 tấn/ha, thuộc loại cao nhất thế giới.
3. Các nước khác
Mô hình nông nghiệp sinh thái còn xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới: Mỹ, Pháp, CHLB
Đức, Italia… tập trung chủ yếu vào sản xuất rau, quả sạch. Hình thức cơ bản là không dùng
hóa chất làm phân bón và trừ sâu, trừ cỏ, bảo đảm cho nông sản sạch, nhưng vẫn dùng giống
mới, công nghệ sinh học, sản phẩm vi sinh, máy móc làm đất, tưới nước, áp dụng phương
pháp trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM). Chi phí năng lượng đầu vào và năng suất sản phẩm cũng
thấp hơn mô hình nông nghiệp công nghiệp hóa, song do sản phẩm là nông sản sạch, nên bán
giá cao hơn nông sản công nghiệp hóa. Số lượng cơ sở sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện đại
đến nay chưa nhiều nhưng có chiều hướng phát triển với tốc độ chậm. Ở CHLB Đức, đến
nay đã có khoảng trên 1700 trang trại nông nghiệp hữu cơ với tổng diện tích khoảng
30000ha, sản xuất khoảng 1% tổng sản lượng nông nghiệp. Không chỉ ở các nước châu Âu,
châu Mỹ, những nước có nền kinh tế phát triển mới xây dựng thành công mô hình nông
nghiệp sinh thái mà hiện nay, các nước đang phát triển cũng đã có thành tựu trong việc phát
triển nông nghiệp sinh thái theo hướng đô thị hóa với một ví dụ điển hình là Bangkok – Thái
Lan.
Thái Lan có trình độ phát triển kinh tế đi trước Việt Nam khoảng 30 năm. Vào những
năm 1990, thủ đô Bangkok đã là một đô thị lớn với tốc độ đô thị hóa rất nhanh, có dân số là 7,7 triệu người (kể cả ngoại ô), mật độ trung bình 1374 người/km2 . Điều kiện tự nhiên và
kinh tế xã hội của Bangkok cho phép nông nghiệp ở đây hình thành các vùng sản xuất vệ tinh
chuyên môn hóa xen kẽ các khu công nghiệp và dân cư, cách thủ đô từ 40-100 km. Các sản
phẩm sạch và có giá trị kinh tế cao được chú trọng phát triển. Tại những vùng nông nghiệp
gần Bangkok (cách thủ đô 40 km), nông dân phát triển sản xuất rau quả an toàn trên liếp. Tại
các vùng cách xa thủ đô hàng trăm km, nông dân phát triển các mô hình nông nghiệp tổng
hợp, với các trang trại chăn nuôi kết hợp trồng cây ăn quả, hoặc phát triển sản xuất lương
thực kết hợp nuôi thả cá để giải quyết vấn đề môi trường và an toàn lương thực. Vấn đề tiêu
thụ sản phẩm được giải quyết trên cơ sở phát triển quan hệ hợp đồng giữa các công ty chế
biến nông sản của Bangkok và các hộ nông dân ở các vùng nông nghiệp vệ tinh. Đặc biệt,
chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến các chính sách tài chính, tín dụng, khuyến nông, xây
dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết ô nhiễm… thúc đẩy các vùng sản xuất vệ tinh này phát
triển.Mô hình nông nghiệp sinh thái hiện đại đáp ứng được yêu cầu cơ bản của nền nông
nghiệp bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, đem lại hiệu quả trên diện hẹp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
1. Tình hình nông nghiệp thế giới
Nông nghiệp thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể trong thế kỷ XX và 6 năm đầu
thế kỷ XXI. Các mô hình sản xuất, vật tư kỹ thuật, công cụ sản xuất, công nghệ sản xuất và
chế biến nông sản trên cơ sở CNH, HĐH.
Đến cuối thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có hơn 700 triệu ha gieo trồng cây hạt cốc,
đạt tổng sản lượng 2049.
Cây hạt cốc có năng suất bình quân thế giới là 2,83 tấn/ha. Đã có những nước đạt năng
suất bình quân 6,45 - 6,5 tấn như Anh, Pháp, vượt mức 6 tấn như Ai Cập, 5,8 - 5,9 tấn như
Hàn Quốc, Nhật Bản. Như vậy, hạt cốc còn chứa đựng tiểm năng tăng năng suất gấp đôi so
với mức bình quân của thế giới.
Cây lúa mì có năng suất bình quân thế giới là 2,5 tấn/ha. Có những nước đã đạt mức bình
quân từ 6 đến 8 tấn/ha như Hà Lan: 8,033 tấn/ha, Anh: 7,233 tấn/ha, Pháp, CHLB Đức: 6,4 -
6,6 tấn/ha.
Cây lúa nước có năng suất bình quân thế giới là 3,534 tấn/ha. Có những nước đạt năng
suất lúa nước bình quân từ 6 đến hơn 9 tấn/ha như Ôxtrâylia đạt 9,017 tấn/ha, Hy Lạp: 8
tấn/ha, Ai Cập: 7,9 tấn/ha, Mỹ: 6,8 tấn/ha, Hàn Quốc 6 - 6,368 tấn/ha, Nhật Bản: 5,7 - 6,2
tấn/ha, Trung Quốc: 5,3 - 5,8 tấn/ha. Trên diện tích hẹp, ở Mỹ và Trung Quốc đã đạt năng
suất lúa nước kỷ lục: 13,5 - 14,5 tấn/ha.
Cây ngô có năng suất bình quân thế giới là 4,303 tấn/ha. Có những nước đạt năng suất
ngô từ 6,6 – 9,8 tấn/ha, như Hy Lạp, Niu Dilân đạt 9,7 – 9,8 tấn/ha, Italia: 8,66 – 8,71 tấn/ha,
Mỹ: 8,685 tấn/ha, Áo: 8,22 – 8,97 tấn/ha, Pháp: 7,67 – 8 tấn/ha, Tây Ban Nha: 6,6 – 7,0
tấn/ha. Trên diện tích hẹp, Mỹ đạt năng suất ngô kỷ lục: 22,2 tấn/ha.
Khoai tây đạt năng suất bình quân thế giới là 15,121 tấn/ha. Có những nước đạt năng suất
khoai tây bình quân từ 36 đến 46 tấn/ha như Hà Lan đạt 46,149 tấn/ha, Thụy Sỹ: 43,956
tấn/ha, Anh: 41,437 tấn/ha, CHLB Đức: 39,258 tấn/ha, Pháp: 36,592 tấn/ha. Mỹ đạt được
năng suất khoai tây kỷ lục: 95 tấn/ha trên diện tích hẹp.
Đến cuối thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có gần 1300 triệu con bò, hơn 150 triệu con
trâu, 1100 triệu con cừu, hơn 600 triệu con dê, hơn 900 triệu con lợn và hơn 12 tỷ con gia
cầm.
Lao động nông nghiệp trong thế kỷ XX do tác động của CNH cũng tạo năng suất lao
động cao.
Lao động nông nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển đã được đào tạo kiến thức và
thực hành về kỹ thuật và quản lý đủ năng lực để sử dụng các máy móc, thiết bị, vật tư kỹ
thuật hiện đại, áp dụng các công nghệ mới trong sản xuất làm giảm chi phí lao động và tăng
năng suất lao động nông nghiệp rõ rệt so với sản xuất thủ công.
Lượng nông sản do một lao động nông nghiệp công nghiệp hóa làm ra mỗi năm đủ đáp
ứng nhu cầu cho 10 – 100 người (một lao động thủ công đủ đáp ứng nhu cầu cho 2 – 4
người). Một lao động nông nghiệp công nghiệp hóa một năm phụ trách 10 – 20 ha gieo trồng,
sản xuất ra trên 10 tấn hạt cốc, 1500 – 2000 kg thịt.
Kỹ thuật bón phân kết hợp giữa nông nghiệp với công nghệ hiện đại và kết hợp giữa nông
nghiệp với công nghệ thông tin cần được chú trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón.
Những phương pháp, biện pháp có ý nghĩa toàn cầu trong việc sử dụng nước một cách khoa
học và tiết kiệm trong nông nghiệp, từ tưới tràn đến tưới khoảnh, tưới rãnh, tưới nhỏ giọt, kết
hợp tưới với che phủ ứng dụng phù hợp với từng điều kiện cụ thể đã góp phần tạo ra năng
suất cao trong nông nghiệp.
2.Nông nghiệp Việt Nam sau 20 năm đổi mới và phát triển bền vững
Nhận thức được tầm quan trọng và tính bức thiết của vấn đề bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững, Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Sau đó đã hình
thành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường. Ngày 26-8-1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36/CT/TƯ về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; ngày 15-11-2004, Bộ Chính
trị ra Nghị quyết số 41/NQ/TƯ về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2001-2010) và kế hoạch nước ta đã khẳng định: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và
“phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa
giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Rõ ràng là,
phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và giải pháp thực hiện từ rất sớm của
Đảng và Nhà nước ta. Và để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước như đã đề ra,
ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về
định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (chương trình nghị sự 21 của Việt
Nam). Hơn nữa, với những nước nghèo như
Việt Nam, mà cuộc sống của đa số dân phụ thuộc chính vào khai thác các loại tài nguyên
thiên nhiên, thì tính bền vững về sinh thái và kinh tế cũng quan trọng như tính bền vững về
xã hội trong quá trình phát triển. Cũng vì vậy, nếu sự phá hủy môi trường làm tổn hại đến các
hệ sinh thái - cơ sở cho sự sinh trưởng của các sản lượng sinh học, như đất, nước, các quần
thể động vật, thực vật, rừng, đất ngập nước, biển và bờ biển, với nhịp điệu như hiện nay - thì
sự phát triển bền vững không thể thực hiện dài, sự phát triển nông nghiệp bền vững có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững nền kinh tế đất nước.
Nhìn lại 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới và thực hiện phát triển bền vững, nền nông
nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng. Nền nông nghiệp
đang chuyển mạnh từ nền sản xuất tự cung tự cấp theo phương thức truyền thống sang nền
sản xuất kinh doanh hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng XHCN và ngày càng hướng
vào xuất khẩu. Đây là một trong những bước chuyển căn bản có ý nghĩa quan trọng làm thay
đổi tính chất, đặc điểm và các mối quan hệ cơ bản trong nông nghiệp, đồng thời tạo ra động
lực mới thúc đẩy tăng trưởng và phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn trong
những năm đổi mới được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Giải quyết vững chắc vấn đề an ninh lương thực trên phạm vi toàn quốc. Từ chỗ đất
nước luôn trong tình trạng thiếu đói phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành nước xuất khẩu
gạo đứng thứ 2 trên thế giới với số lượng mỗi năm một tăng.
- Cơ cấu kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp đã và đang chuyển dịch đúng hướng. Hình thành
ngày càng rõ nét những vùng chuyên môn hóa sản xuất và sự liên kết công - nông nghiệp có
hiệu quả trên những địa bàn này.
- Cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống được gia tăng trên cơ sở đầu tư của Nhà nước và tiết
kiệm trong dân cư, tạo tiền đề cho phát triển sản xuất và cải thiện đời sống dân cư nông thôn
ngày càng tốt hơn.
- Thu nhập của các tầng lớp dân cư nông thôn ngày càng tăng, các hộ nông dân bước đầu
có tích lũy, đời sống vật chất văn hóa tinh thần của nông dân được cải thiện rõ rệt.
Nhìn một cách tổng thể, sản xuất nông nghiệp và sản lượng nông sản hàng hóa tăng
nhanh, ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng được tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ngày
một tăng. Số liệu thống kê trong 16 năm qua từ năm 1989 đến 2004 cho thấy, sản lượng nông
nghiệp nói chung đã tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao và ổn định, đạt mức 4%/năm
trong suốt thời gian từ năm 1990 tới nay. Sản lượng của hầu hết các loại nông sản đều tăng
nhanh, cao hơn đáng kể so với mức tăng dân số ở nông thôn và cả nước. Sản lượng lương
thực tăng 4,8%/năm, từ 21,5 triệu tấn năm 1989 lên 39,5 triệu tấn năm 2004. Sản lượng
lương thực tính bình quân đầu người của cả nước tăng lên tương ứng với các năm nói trên từ
332,2kg lên hơn 480kg/năm. Sản lượng thủy sản tăng 5%/năm. Sản lượng các loại cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm và sản phẩm chăn nuôi cũng tăng ở mức cao (chẳng hạn
như cà phê tăng 11,5 lần, cao su mủ khô tăng 4 lần, chè búp tăng 1,8 lần, sản lượng mía tăng
3 lần…)
Về lâm nghiệp cũng có những bước phát triển quan trọng. Sau 14 năm, từ năm 1990 đến
2004, các chương trình 327, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng đã bắt đầu phát huy tác
dụng, độ che phủ rừng toàn quốc tăng từ 27,8% năm 1990 lên 33,2% năm 1999 và 36,1%
năm 2003; diện tích rừng trồng tăng gấp đôi so với năm 1990. Đã có 101 khu bảo tồn thiên
nhiên. Đặc biệt các chính sách giao đất, giao rừng, hỗ trợ cho dân phủ xanh đất trống đồi
trọc; xây dựng nhiều mô hình định canh định cư gắn với bảo vệ rừng; xây dựng khoảng
23.000 km đường phục vụ khai thác lâm sản. Chính sách hỗ trợ vùng đồng bào nghèo ở vùng
sâu, vùng xa, chính sách đóng cửa rừng đã bảo vệ được rừng hiện tại và mở rộng đáng kể
diện tích trồng rừng mới. Như vậy, từ năm 1990 đến năm 2004, chương trình 327 và dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng đã có tích cực bảo vệ 10 triệu ha rừng hiện có, đồng thời phát triển
thêm vốn rừng 2,6 triệu ha, nâng độ che phủ của rừng thêm 7,8%, tăng đáng kể khả năng
phòng hộ của rừng, đào tạo được đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân có kinh nghiêm đã và
đang là nòng cốt cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng.
Như vậy, sự tăng nhanh sản lượng và đa dạng hóa các loại sản phẩm nông nghiệp thời
gian qua đã cơ bản đáp ứng được mọi nhu cầu tiêu dùng của nông dân và tạo ra một khối
lượng nông sản hàng hóa lớn, phục vụ nhu cầu trong nước và nhất là xuất khẩu. Đó là yếu tố
quyết định bước chuyển quan trọng của nền nông nghiệp Việt Nam từ tự cung tự túc sang sản
xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường… Tỷ trọng nông sản hàng hóa những năm gần đây đã
chiếm hơn 40% sản lượng nông nghiệp nói chung. Nhiều loại nông sản có khối lượng và tỷ
trọng hàng hóa xuất khẩu lớn như lương thực (hơn 50% là hàng hóa, trong đó hơn 20% là
xuất khẩu) các loại cây công nghiệp (hơn 90-97%) và phần lớn các loại sản phẩm của ngành
chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Trong 18 năm xuất khẩu gạo Việt Nam đã cung cấp cho thị
trường thế giới hơn 50 triệu tấn gạo, thu về cho đất nước trên 11 tỷ USD. Có 15 trong số 18
năm Việt Nam giữ vị trí thứ 2 thế giới về lượng gạo xuất khẩu (chỉ có 3 năm đứng thứ 3 sau
Thái Lan và Ấn Độ) và vượt Mỹ liên tục từ năm 1990 đến nay. Trong thời kỳ 4 năm đầu thế
kỷ XXI (2001-2004), hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam không chỉ tăng về số lượng mà
còn tiến bộ về chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Năm 2004 mặc dù thời tiết
không thuận lợi, sản xuất gặp khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt sản lượng 39,3 triệu tấn
lương thực và xuất khẩu 4,55 triệu tấn gạo. Nếu so với năm 1989, lượng gạo xuất khẩu năm
2004 tăng gấp 2,86 lần, giá gạo tăng 28 USD/tấn và kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 3,25 lần.
Năm 1989, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 3,87 tỷ USD; chiếm 35%
kim ngạch xuất khẩu cả nước và gấp 3,4 lần so với năm 1990. Sản lượng gạo xuất khẩu năm
1999 đạt mức kỷ lục 4,6 triệu tấn (tăng 2,8 lần), cao hơn 263 ngàn tấn (tăng 3,5 lần), xuất
khẩu thủy, hải sản đạt trên 1 tỷ USD, gấp 5 lần năm 1990. Cùng với tăng trưởng sản lượng
và sản lượng hàng hóa, trong nông nghiệp đã và đang diễn ra quá trình đa dạng hóa sản xuất,
đa dạng hóa các mặt hàng nông sản trên cơ sở khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh của
từng vùng, từng địa phương và của hộ nông dân, dưới tác động của thị trường. Đặc biệt đã
hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với khối lượng nông sản hàng hóa lớn,
mang tính kinh doanh chuyên môn hóa rõ rệt. Ví dụ như sản xuất lúa gạo và rau quả thực
phẩm ở vùng đồng bằng sông Hồng; lúa gạo, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản, hải sản ở
đồng bằng sông Cửu Long; cà phê, cao su ở vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên; chè và cây
nguyên liệu giấy ở các tỉnh miền núi phía Bắc; mía đường và cây công nghiệp hàng năm và
nuôi trồng thủy sản, hải sản ở các tỉnh miền Trung. Đáng chú ý là cả nước đã hình thành
hàng triệu trang trại gia đình và hàng triệu hộ kinh doanh tiểu điền, mà ở đó khối lượng nông
sản hàng hóa chiếm tỷ trọng khá cao, tính chất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa ngày càng
thể hiện rõ nét. Theo số liệu điều tra, cả nước hiện có khoảng 120.000 trang trại nông, lâm,
thủy sản, trong đó có hơn 45.300 trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên môn
hóa với quy mô khá lớn, tỷ trọng nông sản hàng hóa của nhiều trang trại chiếm tới 85-90%.
Mặt khác, nhờ phát triển kinh tế nói trên, nước ta cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng
về phát triển xã hội, nhất là trong nông nghiệp và trong nông thôn. Đầu tư Nhà nước cho các
lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên 25% vốn ngân sách nhà nước, trong đó đặc
biệt ưu tiên đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo, dạy nghề,
y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống các tệ nạn xã hội, khoa học công nghệ, bảo
vệ môi trường cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác.
3. Kết quả
Kết quả của quá trình thực hiện xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền
vững được thể hiện rõ nét qua một số địa phương sau:
Ở Hà Nội, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng hiện nay đang đặt nông nghiệp Hà
Nội trước những thách thức nặng nề về mất đất nông nghiệp và suy giảm nguồn lực, sức ép
cạnh tranh của các hoạt động phi nông nghiệp, cũng như đe dọa của ô nhiễm môi trường hủy
hoại sản xuất và sức khỏe cộng đồng. Như vậy, phát triển nông nghiệp Hà Nội theo hướng
nông nghiệp sinh thái là con đường tất yếu của sự nghiệp CNH, HĐH thủ đô nhằm giải quyết
những vấn đề cấp bách về môi trường sinh thái, đáp ứng nhu cầu đa dangj về nông sản cao
cấp, an toàn và nhu cầu văn hóa tinh thần cho người dân thủ đô, ổn định và phát triển xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh thái là một
trong các nội dung cơ bản đầu tiên cần thực hiện để đạt được mục tiêu này.
Sự phát triển của nông nghiệp Hà Nội từ sau đổi mới đã có những tiến bộ rõ rệt với tốc độ
bình quân năm là 5,05% trong thời kỳ 1990-2003 ( bảng), trong đó ngành trồng trọt là
3,45%, chăn nuôi là 7,75% và thủy sản là 7,25%. Bước sang giai đoạn 2001-2005, trong điều
kiện không thuận lợi của thời tiết, sâu bệnh, và sự giảm mạnh diện tích đất nông nghiệp (mỗi
năm khoảng 100 ha ), nông nghiệp Hà Nội tăng trưởng chậm hơn với tốc độ bình quân 2,7%,
trong đó ngành nông nghiệp có tốc độ bình quân 3,0% thủy sản đạt 3,3%.
Bảng 8: Giá trị sản xuất Nông – Lâm – Thủy sản ngoại thành Hà Nội
Tốc độ Tốc độ
BQ BQ Chỉ tiêu 1990 2000 2001 2002 2003 2004 1990- 2001-
2000 2004
GTSXN-TS 806,7 1319,8 5,05 1334,0 1392,0 1431,0 1443,1 2,7
1.Nông nghiệp 754,7 1244,4 - 1248,6 1306,1 1345,9 1355,2 3,0
3,45 -Trồng trọt 542,9 763,9 721,8 754,8 780,4 804,6 3,7
7,75 -Chăn nuôi 195,5 446,5 490,6 515,1 529,3 511,7 1,7
-Dịch vụ NN 16,3 34,0 - 36,13 36,14 36,14 38,9 2,7
-6,2 2.Lâm nghiệp 19,7 10,4 11,9 10,5 7,6 7,5 -0,14
7,25 3.Thủy sản 32,3 64,9 73,5 75,4 77,5 80,4 3,3
Đơn vị: Tỷ đồng, % ( giá cố định 1994)
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 1990,2003- Sở NN&PTNN Hà Nội )
Mặc dù phát triển lên một bước mới, trong 10 năm đầu (1990-2000), nông nghiệp Hà Nội
vẫn thể hiện chủ yếu tính chất thuần nông truyền thống với rất ít các vùng chuyên canh các
nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp đô thị sinh
thái. Sắc màu sinh thái của nông nghiệp Hà Nội bắt đầu được thể hiện rõ nét chủ trương
chính sách kể từ năm 2000, sau khi có sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước. Kể từ
đó, nông nghiệp Hà Nội đã có những sự chuyển biến đáng kích lệ trong cơ cấu kinh tế theo
hướng sinh thái với các vùng chuyên môn hóa các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và an
toàn, các mô hình nông nghiệp kết hợp theo yêu cầu sinh thái. Cơ cấu ngành nông nghiệp đã
chuyển đích đúng hướng, tạo được những nét đột phá cho phát triển nông nghiệp theo hướng
sinh thái đô thị. Tỷ trọng ngành trồng trọt giảm đi, tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản tăng
lên. Để khắc phục sự mất diện tích đất ở các vùng canh tác các loại cây trồng có giá trị kinh
tế cao (hoa, quả, rau ở Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì), cơ cấu ngành trồng trọt đã có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực để phát triển đa dạng các loại cây trồng có giá trị kinh tế
cao như hoa, cây cảnh, rau cao cấp, rau sạch, lúa đặc sản, cây ăn quả có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu của một nền nông nghiệp theo hướng sinh thái, đô thị, trong đó loại cây trồng có
tốc độ chuyển dịch nhanh nhất là hoa, cây cảnh (từ 0,3% năm 1990 đến 18% năm 2004).
Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo ngành trong thời gian qua đã vận
động và dịch chuyển để hình thành nên các vùng sản xuất sinh thái tập trung, phục vụ trước
hết cho thị trường nội thành. Các vùng sản xuất tập trung được hình thành trên cơ sở chuyển
đổi các diện tích trồng lúa và các cây trồng không có hiệu quả khác sang hình thành các vùng
chuyên môn hóa như hoa, rau, lúa đặc sản, các trang trại nuôi trồng thủy sản, cây ăn quả và
chăn nuôi, hoặc xây dựng các khu nông nghiệp sinh thái tập trung công nghệ cao. Hầu hết
các vùng sản xuất tập trung bắt đầu được hình thành từ sau năm 2000 trở đi, trong đó rõ nét
nhất là sự chuyển đổi và phát triển trong ngành nuôi trồng thủy sản và sản xuất rau sạch.
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tập trung đã tăng bình quân 66%/năm, diện tích rau
sạch tập trung tăng bình quân 19%/năm, tiếp theo là các vùng cây ăn quả với tốc độ tăng bình
quân là 13%/năm. Diện tích vùng hoa cây cảnh tập trung tuy tăng không nhiều từ sau năm
2000 nhưng nếu so với năm 1990 thì cũng tăng mạnh.
Một số mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái cũng đã và đang được hình thành
và phát triển như mô hình nuôi thả cá - cây ăn quả - dịch vụ câu cá giải trí Đông Anh; mô
hình cây ăn quả - cây lâu năm – nuôi gia cầm theo phương thức công nghiệp kết hợp chăn thả
sinh thái ở vùng đồi núi Sóc Sơn; mô hình nuôi trồng thủy sản - cây ăn quả - dịch vụ du lịch
hồ đầm, đồi núi Sóc Sơn và vùng chuyển đổi chân ruộng trũng Thanh Trì; và mô hình rừng
sinh thái du lịch ở vùng gò đồi những điển hình tiên tiến để nhân rộng phương thức sản xuất
kinh doanh tổng hợp ra các vùng ven đô thị trong tương lai, nhằm khai thác tốt nhất mọi tiềm
năng sẵn có của ngoại thành cho việc phát triển nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
Tính chất sinh thái trong chuyển dịch cơ cấu còn được thể hiện trên khía cạnh kỹ thuật
với sự tham gia của khoa học công nghệ vào quá trình chuyển dịch. Khoa học công nghệ
được coi là yếu tố then chốt cho chuyển dịch cơ cấu qua việc nghiên cứu, chuyển giao và ứng
dụng công nghệ cao, công nghệ sạch và công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp trong
các lĩnh vực như giống, kỹ thuật sản xuất, xử lý bảo vệ môi trường. Công nghệ nhà lưới
trong phát triển trồng rau an toàn trái vụ, hoa chất lượng cao ngày càng được mở rộng.
Chương trình sản xuất rau an toàn khép kín từ thực hiện quy trình, quản lý sản xuất đăng ký
thương hiệu, mã vạch tiêu thụ có nhiều tiến bộ, được nhiều nông hộ tiếp thu thực hiện, đem
lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn cho sản phẩm rau.
Kỹ thuật bảo vệ thực vật giảm dùng hóa chất đã được thực hiện như kỹ thuật phòng trừ dịch
bệnh tổng hợp (IPM) đã cho phép giảm khá lớn diện tích (60% đối với lúa) sử dụng thuốc trừ
sâu hóa chất có hại đến môi trường và sức khỏe người sử dụng.
Bảng 9: Tình hình chuyển giao kỹ thuật IPM huyện Thanh Trì
Số hộ được tập Số hộ áp dụng Số diện tích giảm
Loại cây trồng huấn (1996-2000) (2001-2005) dùng thuốc BVTV
% % %
Lúa 30 95 50
Rau 10 10 10
(Nguồn: Số liệu điều tra chi cục bảo vệ thực vật huyện Thanh Trì)
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hà Nội thời gian qua đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ như trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó những nguyên nhân quan trọng
nhất bao gồm sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp và sự phát triển của lực lượng
sản xuất và khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp.
Một số tỉnh miền Bắc giáp Hà Nội cũng đã tiến hành xây dựng mô hình nông nghiệp sinh
thái như: Viện Di truyền Nông nghiệp đã phối hợp với tỉnh Phú Thọ tổ chức cung cấp giống
cây ăn quả, tập huấn cho các hộ nông dân cải tạo vườn tạp để tăng năng suất cây trồng, bảo
vệ môi trường, giúp nhau xóa đói giảm nghèo. Nhiều tỉnh đã kết hợp giữa nông nghiệp và
phát triển du lịch sinh thái thu được nhiều thành công: các cù lao ở Tây Nam Bộ, Đông Nam
Bộ…
4. Những hạn chế, thách thức và nguyên nhân cản trở sự phát triển bền vững nông
nghiệp và nông thôn nước ta.
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại quốc tế WTO, mở ra một thời kỳ mới cho quá trình hội nhập thế giới của nước
ta. Cơ hội phát triển rất nhiều song thách thức, khó khăn cũng không nhỏ, nhất là đối với
nông nghiệp, nông thôn. Đó là:
- Nhìn chung kinh tế cả nước, công nghiệp vẫn chưa gắn với nông nghiệp thành một cơ
cấu hiệu quả và phát triển bền vững.
- Nền nông nghiệp bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH với điểm xuất phát thấp:
dấu ấn độc canh, manh mún còn mang nặng ở nhiều vùng; lao động nông nghiệp dư thừa còn
lớn, cơ cấu dân số thành thị, nông thôn vẫn chưa chuyển dịch được bao nhiêu; nguồn lực của
kinh tế hộ ở nông thôn còn thấp kém.
- Trình độ khoa học công nghệ ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp và các hoạt động sản
xuất kinh doanh ở nông thôn quá thấp.
- Chiến lược thị trường đối với hàng hóa nông sản chưa được quan tâm đúng mức, làm
cho người nông dân sản xuất hàng hóa thường xuyên là người chịu thiệt thòi nhất.
- Mức sống thu nhập của nông dân còn thấp và có chiều hướng ngày càng dãn ra so với
cư dân thành thị. Thu nhập cư dân nông thôn chỉ bằng 1/5 cư dân thành thị, 90% số hộ cần
xóa đói giảm nghèo nằm ở nông thôn.
Xét trên tổng thể, nền nông nghiệp nước ta vẫn trong tình trạng của sản xuất hàng hóa
nhỏ, ruộng đất ở nông thôn bị chia nhỏ, manh mún, không phù hợp với yêu cầu của việc sản
xuất hàng hóa lớn, tập trung. Kết quả điều tra cho thấy, quy mô bình quân một hộ ở đồng
bằng sông Cửu Long chỉ đạt 1,4 - 1,8 ha, nhưng ở nhiều địa phương số hộ có từ 1 ha trở
xuống chiếm tới 70%. Quy mô ruộng đất ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền Trung là
0,25 - 0,3 ha (số hộ có quy mô từ 0,5 - 1 ha chỉ có 2% số hộ nông dân trong vùng). Cơ câu
sản xuất và phân công lao động trong nông nghiệp có những chuyển biến tích cực nhưng còn
chậm và về cơ bản chưa khắc phục được những hạn chế của cơ cấu nông nghiệp truyền
thống, chưa tạo ra động lực mạnh thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng hóa. Tỷ trọng nông
nghiệp trong giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng giảm nhưng vẫn
chiếm trên 80%. Trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng trồng trọt vẫn chiếm 75 -
78%, tỷ trọng chăn nuôi trong nhiều năm chỉ chiếm 22 - 25%. Sản lượng lương thực vẫn
chiếm tới 70% thu nhập của dân cư nông thôn. Đáng chú ý là do áp dụng giống mới nên năng
suất lúa bình quân của cả nước đạt trên 40 tạ/ha, tăng gấp 1,5 lần so với năm 1985, nhiều nơi
ở đồng bằng sông Hồng đạt 60 - 70 tạ/ha, tăng gấp đôi; một số loại cây trồng đạt năng suất
tương đương hoặc cao hơn so với các nước trong khu vực. Song phát triển nông nghiệp vẫn
cơ bản theo chiều rộng, năng suất và hiệu quả sản xuất thấp. Sản phẩm hàng hóa tuy đa dạng,
phong phú nhưng manh mún, có tính thời vụ và chưa tương thích với nhu cầu của thị trường.
Chất lượng nhiều mặt hàng nông sản (kể cả nông sản xuất khẩu) còn thua kém so với nhiều
nước trong khu vực, giá thành sản xuất còn ở mức khá cao và thiếu sức cạnh tranh. Chẳng
hạn, giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường của ta hiện cao hơn 40% so với Ấn Độ,
48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với mía nguyên liệu ở Australia. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ứ đọng tiêu thụ nông sản hàng hóa trên thị trường và
tình trạng rủi ro, thua thiệt của nông dân và các nhà sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng
hóa hiện nay. Nguyên nhân của thực trạng sản xuất nông nghiệp thời gian qua có nhiều,
trong đó bản thân quá trình kinh doanh sản xuất còn kém hiệu quả là chủ yếu. Nhưng các yếu
tố quan trọng khác tạo nên còn do công nghiệp chế biến nông sản và cơ sở hạ tầng ở nông
thôn chưa phát triển tương ứng và còn nhiều thiếu hụt; sự phát triển nông nghiệp hàng hóa
diễn ra trong bối cảnh nhiều thể chế và quan hệ thị trường chưa hình thành đồng bộ, việc tổ
chức và định hướng thị trường còn nhiều bất cập; các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác, bảo
trợ rủi ro và hỗ trợ phát triển trong nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của phát
triển sản xuát kinh doanh nông nghiệp hàng hóa.
Năng suất và hiệu quả sản xuất thấp của nông nghiệp còn do tình trạng giảm sút da dạng
gen ở giống cây trồng và vật nuôi. Nguyên nhân xuất phát từ trào lưu thay thế giống truyền
thống bằng giống mới đang làm cho việc phòng chống sâu bệnh khó khăn hơn. Việc sử dụng
phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng một cách tùy
tiện, đã có dấu hiệu vượt quá giới hạn cho phép của môi trường sinh thái, dẫn đến thoái hóa
đất, ô nhiễm nguồn nước và gây hại cho sức khỏe con người.
Tình trạng bóc lột tài nguyên đất đai và trong lòng đất, rừng, động thực vật ở các vùng
nông thôn cũng đang lãng phí nhiều nguồn tài nguyên quý không thể tái tạo được.
Công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển mạnh ở nhiều vùng nông
thôn, thu hut khoảng 2 triệu lao động đã tạo thêm công ăn việc làm và làm tăng thu nhập của
dân cư. Song công nghệ sản suất còn lạc hậu, sức cạnh tranh kém, thiếu thị trường tiêu thụ
sản phẩm là những nguyên nhân cản trở sự phát triển ổn định của khu vực này. Bên cạnh
việc có những mặt tác động tích cực, tuy nhiên phát triển thiếu quy hoạch và thiếu đầu tư
thỏa đáng cho bảo vệ tài nguyên và môi trường, khu vực sản xuất nhỏ này đang gây ô nhiễm
môi trường sinh sống của các cộng đồng nông thôn, đặc biệt ở một số làng nghề, nơi sản xuất
và sinh hoạt đan xen trong cùng một khu dân cư đông đúc.
Thực phẩm biến đổi gen
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG NỀN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Xuất phát từ định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị
sự thế kỷ XXI của Việt Nam) với “ Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được
sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và
sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường”. Xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và vị trí vai trò của nông nghiệp trong tiến trình này;
đồng thời xuất phát từ thực tiễn và đặc điểm của nền kinh tế thị trường trong bổi cảnh của
nền kinh tế thị trường hiện đại, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.Phát triển bền
vững nền nông nghiệp nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH cần dựa trên quan điểm
và định hướng sau:
- Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa theo chiều sâu, ưu tiên phát
triển nông nghiệp sạch, công nghệ cao và đặc sản nhiệt đới; đẩy mạnh CNH, HĐH và chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ với công nghiệp trước hết là công nghiệp chế biến,
khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực và lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa
phương và đất nước. Phát triển nông nghiệp bền vững gắn với bảo vệ, tái tạo và phát triển tài
nguyên, môi trường sinh thái.
- Đảm bảo vững chắc vấn đề an ninh lương thực, đáp ứng mọi nhu cầu ngày càng cao về
lương thực, thực phẩm, hàng hóa nông sản phục vụ nhu cầu trong nước và nhất là nhu cầu
xuất khẩu.
- Gắn tăng trưởng và phát triển nông nghiệp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội nông
thôn và kinh tế - xã hội đất nước theo hướng CNH, HĐH, xây dựng nông thôn mới giàu đẹp,
hiện đại, văn minh.
- Dự báo đến năm 2015, dân số nước ta lúc đó (mặc dù thực hiện kế hoạch hóa dân số)
đạt khoảng 95-100 triệu người, sức mua xã hội tăng khoảng 50-60%. Cơ cấu và trình độ tiêu
dùng hàng nông sản cũng có những thay đổi và tăng lên đáng kể, nhất là chất lượng và
chủng loại của sản phẩm hàng hóa nông sản. Nhu cầu xuất khẩu hàng hóa nông, lâm, thủy
sản, theo dự báo cũng tăng lên 2,5 - 3 lần so với hiện nay và trở thành một trong những động
lực chính thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Do đó, trong giai đoạn tới cũng như
trong suốt quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa theo
chiều sâu, nâng cao chất lượng và trình độ phát triển của tất cả các ngành và lĩnh vực sản
xuất trong nông nghiệp là yêu cầu bức thiết. Đó cũng là cơ sở và điều kiện bảo đảm cho phát
triển bền vững nông nghiệp của nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Để thực hiện quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển nêu trên, nền nông nghiệp
Việt Nam cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Đẩy mạnh công tác quy hoạch, tổ chức và quản lý sản xuất
Trên cơ sở tiếp tục rà soát và điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước và mỗi địa phương, vùng lãnh thổ, cần đẩy mạnh công tác điều tra, quy hoạch và
định hướng phát triển tổng thể nông, lâm, ngư nghiệp theo từng vùng, tiểu vùng kinh tế - sinh
thái và theo nhóm sản phẩm hàng hóa.Ưu tiên quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể
theo chiều sâu (kể cả trung hạn và dài hạn) cho các vùng nông nghiệp trọng điểm, có điều
kiện sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn và các loại cây trồng, vật nuôi tao ra sản phẩm
hàng hóa chủ lực có giá trị kinh tế cao, có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với điều kiện cụ thể
của từng vùng, từng địa phương. Việc quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể phải dựa
trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá thực trạng các điều kiện sản xuất và nhu cầu thị
trường gắn với việc quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng, phát triển
nguồn nhân lực và các thể chế luật pháp và bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái. Nội
dung quy hoạch tổng thể nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản phải được lồng ghép các mục
tiêu phát triển bền vững vào kế hoạch dài hạn cũng như ngắn hạn. Việc định hướng và quy
hoạch phát triển tổng thể của mỗi vùng, mỗi địa phương cần có sự tham gia và sự hưởng ứng
của nông dân, của các tổ chức sản xuất kinh doanh và phải có tính khả thi cao. Trên cơ sở
quy hoạch và định hướng phát triển tổng thể, Nhà nước có thể bố trí đầu tư và điều chỉnh cơ
cấu đầu tư cho đúng hướng, có hiệu quả, đồng thời quản lý được quá trình khai thác, sử dụng
đất đai, các nguồn tài nguyên và môi trường sinh thái trong nông, lâm, ngư nghiệp theo đúng
quy hoạch và pháp luật.
2. Tăng cường đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư thích ứng với thực tiễn phát triển
của nền nông nghiệp trong từng thời kỳ
Trong thời gian qua, đầu tư ngân sách và đầu tư xã hội hàng năm cho phát triển nông
nghiệp, nông thôn đã tăng lên đáng kể, chiếm khoảng hơn 20% đầu tư ngân sách, và khoảng
11-12% tổng đầu tư xã hội, nhưng vẫn chưa tương xứng với vị trí, tầm quan trọng và sự đóng
góp của nông nghiệp đối với nền kinh tế (24% GDP, gần 30% giá trị xuất khẩu và trên 60%
lực lượng lao động của cả nước). Vì vậy, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp,
trên các phương diện như nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật
mới (giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật thâm canh tăng năng suất,…) tăng cường đầu tư cho
công nghiệp chế biến để nâng cao chất lượng, giá trị hàng hóa nông, lâm, thủy sản đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhất là xuất khẩu. Ngoài ra, ở những vùng còn nhiều khó
khăn đối với sản xuất, có thể tăng cường đầu tư cho công tác thủy lợi, kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội, các công trình phòng chống thiệt hại do thiên tai, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên
nhiên môi trường, thiệt hại sau thu hoạch. Trong điều kiện hiện nay, để có thể vay vốn đầu tư
kinh doanh nông nghiệp, các ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể nới rộng hạn mức cho vay
không phải thế chấp. Nó sẽ có tác dụng lớn đối với việc phát triển nông nghiệp theo hướng
kinh doanh nông, lâm, ngư trại hàng hóa, khuyến khích khai thác thủy hải sản xa bờ, trồng
cây ăn trái, cây công nghiệp dài ngày quy mô lớn của các hộ nông dân.
Những chủ trương và chính sách đầu tư tài chính, tiền tệ đối với nông nghiệp và nông
thôn có thể tóm lược như sau:
- Chính sách đầu tư thủy lợi bằng các chương trình, các dự án lớn, kết hợp với vừa và nhỏ
theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, hoạt động nhiều nguồn vốn đã tạo ra một
cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn đồng thời bảo vệ
sản xuất, chống thiên tai hiệu quả, nhất là ở hai vùng trọng điểm là Đồng bằng sông Cửu
Long, Đồng bằng sông Hồng và vùng duyên hải miền Trung là vùng thường xuyên xảy ra
thiên tai.
- Chính sách đầu tư tài chính và tiền tệ đối với việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp gắn với giao khoán hộ.
- Chính sách đầu tư tài chính và tiền tệ để phục hồi rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc và
giao đất giao rừng.
- Chính sách đầu tư trong lĩnh vực nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn.
- Chính sách thuế, chính sách tín dụng, giá cả trong chương trình sản phẩm chế biến nông
sản (lương thực, cà phê, cao su, mía đường, chè).
- Cùng với chính sách đầu tư cho giáo dục, đào tạo, y tế, điện, giao thông đã tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật chủ nghĩa xã hội nói chung và nông nghiệp nói riêng. Các cơ sở vật chất kỹ
thuật đó cùng với các cơ chế chính sách khác trong củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn tạo
thành sức mạnh vật chất quyết định tới những thành tựu trong nông nghiệp và phát triển nông
thôn bền vững ngày nay, làm cơ sở cho CNH, HĐH.
Việc tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách Nhà nước hàng năm cho nông nghiệp, nông thôn là rất
cần thiết nhằm để tạo thêm điều kiện phát triển kinh tế nông thôn, góp phần xóa đói giảm
nghèo, khắc phục tình trạng đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nông thôn có xu hướng
doãng dần ra so với thành thị.
3. Thúc đẩy và hỗ trợ phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, liên doanh liên kết
trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp
Hiện nay đã xuất hiện một số hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết nhiều thành phần
trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí trung
tâm của tổ chức liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh. Cần tổng kết các mô hình đã
có, rút ra những bài học kinh nghiệm để nhân rộng những điển hình có ưu thế tại các vùng
sản xuất nông sản hàng hóa phát triển như: lúa, cao su, mía, chè, cà phê, cây ăn quả, chăn
nuôi đại gia súc, các vùng đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản. Thực tế những tổ chức kinh tế
này đã đóng vai trò động lực then chốt trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại
lao động và dân cư, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển bền vững
nền nông nghiệp hàng hóa nước ta trong thời gian qua.
Để phát triển các loại hình kinh tế hợp tác và nhân rộng các điển hình trong thực tiễn, vấn
đề quan trọng là làm thế nào để nông dân và những người kinh doanh sản xuất nông nghiệp
hiểu rõ bản chất Luật Hợp tác xã, nhận thức đầy đủ vai trò và sự cần thiết của các hình thức
hợp tác, liên kết, liên doanh sản xuất và lợi ích khi tham gia tổ chức này. Do đó quá trình
phát triển các tổ chức kinh tế hợp tác phải tiến hành từng bước phù hợp với trình độ phát
triển của sản xuất kinh doanh hàng hóa và nhu cầu thực tế đòi hỏi. Trước mắt cần khuyến
khích và hỗ trợ phát triển các loại hình kinh tế hợp tác đa phương, đa dạng ở những vùng sản
xuất hàng hóa phát triển, nhất là các loại hình hợp tác cung ứng dịch vụ đầu vào, dịch vụ kỹ
thuật chuyển giao công nghệ, hợp tác chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp… Về lâu
dài, có thể thúc đẩy phát triển và mở rộng hoạt động các tổ chức liên hiệp hợp tác xã, hiệp
hội ngành nghề và hiệp hội sản phẩm. Các tổ chức này vừa tham gia tư vấn cho quá trình
hoạch định chính sách, quy hoạch và định hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn; đồng
thời có vai trò quan trọng trong việc phổ biến, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách khuyến
nông, hỗ trợ phát triển và bảo vệ lợi ích của người sản xuất kinh doanh nông nghiệp trước
những tác động rủi ro của thị trường của thiên tai.
4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ
thuật, phát triển hệ thống khuyến nông và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
Đây là giải pháp không kém phần quan trọng bảo đảm cho việc tăng năng suất là hiệu quả
kinh doanh nông nghiệp. Cần xây dựng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ trong
nông nghiệp, mà trước mắt tập trung vào việc bảo toàn và phát huy hệ sinh thái và sự đa dạng
sinh học của nước ta đang có nguy cơ bị suy giảm; đồng thời phải có giải pháp hữu hiệu để
tạo ra các loài, giống mới thích hợp với từng vùng (chịu được sâu bệnh, hạn, úng, chua phèn,
thân thiện với môi trường) cho năng suất và chất lượng sản phẩm cao. Chú trọng công nghệ
sản xuất, chế biến và bảo quản sản phẩm; công nghệ quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý và
phòng trừ dịch hại tổng hợp trong nông nghiệp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần
đẩy mạnh khoa học dự báo, đặc biệt là nghiên cứu thị trường (vì thị trường là quyết định xuất
khẩu) và nghiên cứu các chế định và luật pháp quốc tế. Việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học
công nghệ trong nông nghiệp cần gắn với thực tế, coi trọng kinh nghiệm sản xuất và sáng
kiến kỹ thuật của nông dân, các nhà sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Đồng thời phát triển
hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước từ trung ương đến địa phương (bao
gồm cả các tổ chức tư vấn về kỹ thuật, quản lý và thị trường) phối hợp với các tổ chức kinh
tế hợp tác và hỗ trợ và mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyên lâm, khuyến ngư đến từng
vùng, từng doanh nghiệp sản xuất và hộ nông dân. Cần trang bị đầy đủ và đồng bộ cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại, phối hợp chặt chẽ trên cơ sở phân công, hợp tác giữa các tổ chức khoa
học trong hệ thống nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học; sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán
bộ khoa học - công nghệ (kể cả đội ngũ khuyến nông giỏi về chuyên môn, sâu sát với thực tế
và thực sự tâm huyết với nghề nghiệp) nhằm phát huy hơn nữa những khả năng và sức lực vì
sự phát triển bền vững nền nông nghiệp hàng hóa Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
5. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển bền vững nền nông
nghiệp hàng hóa nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế
Thiết lập và điều chỉnh các chính sách tạo lập đồng bộ khuôn khổ pháp lý cho việc phát
triển và mở rộng thị trường sử dụng và chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; giao
rừng và đất rừng cho hộ nông dân kinh doanh lâu dài và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà
nước; hình thành và phát triển thị trường tài chính, thị trường vốn và chuyển giao công nghệ,
khuyến khích nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật,
phát triển hệ thống khuyến nông, lâm, ngư nghiệp. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ,
tiêu thụ nông sản trong nước và thị trường xuất khẩu phục vụ nông nghiệp, nông thôn; đổi
mới và hoàn thiện các chính sách thuế, lãi suất ngân hàng, giá cả và tỷ suất hối đoái; cơ chế
và thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa nông sản, mậu dịch thuế quan và phi thuế quan. Đồng
thời tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện các chính sách và
quy định nói trên, xử lý nghiêm minh những sai phạm trong hoạt động thị trường. Mặt khác
phải đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ cho việc
lưu thông trao đổi và xuất khẩu nông sản hàng hóa (các trạm trại máy móc phục vụ sản xuất,
chế biến nông sản, kho tàng, bến bãi và phương tiện bốc dỡ, mạng lưới giao thông nông thôn,
các chợ buôn bán nông sản, các cơ sở giao dịch…). Thiết lập và phát triển hệ thống nghiên
cứu, phân tích đánh giá, dự báo, cung cấp thông tin và giao dịch thị trường hiện đại. Trong
đó đặc biệt chú trọng hệ thống phân tích, dự báo thị trường trung hạn và dài hạn, thị trường
xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, các thị trường
mới và thị trường tiềm năng để phục vụ cho việc hoạch định chính sách vĩ mô và quy hoạch
phát triển sản xuất và mở rộng thị trường nông nghiệp, nông thôn. Về lâu dài, cần xây dựng
chiến lược thị trường, vì thị trường nông sản đang là yếu tố có tính quyết định quy mô sản
xuất hàng hóa nông sản ở trong nước. Nhưng Việt Nam là nước đi sau trong khi thị trường
nông sản thế giới đã được phân chia tương đối ổn định. Trong bối cảnh đó, hàng hóa nông
sản xuất khẩu của nước ta chịu thiệt thòi. Vì thế, một mặt cần có những giải pháp khai phá
thị trường mới, mặt khác cần căn cứ vào tình hình dự báo thị trường để bố trí cơ cấu sản xuất
cho phù hợp với lợi thế so sánh từng vùng. Đã đến lúc phải chấm dứt tình trạnh xuất khẩu
nông sản chỉ dựa vào tình hình dư thừa trong nước, hoặc do một cơ cấu đã có sẵn trong thời
kỳ kinh tế bao cấp trước đây để lại. Có như vậy mới chủ động được hàng hóa trao đổi và xuất
khẩu theo yêu cầu của thị trường và chấm dứt được tình trạng giá cả xuất khẩu bình quân có
khi thấp hơn cả giá nông sản trong nước.
Để đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững, chúng ta cần xây dựng và thực hiện
các chính sách ngăn cấm việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên như: đất,
nước, không khí, đặc biệt là rừng và đất rừng. Cần tạo bước chuyển và đổi mới toàn diện tư
duy, quan điểm phát triển và cơ chế chính sách đối với nghề rừng, đảm bảo khai thác hợp lý
và phát huy thế mạnh, có thể làm giàu từ rừng và bằng nghề rừng, nhất là ở miền núi. Trên
quan điểm phát triển rừng gắn với đất rừng và người làm nghề rừng, ngoài thành phần kinh tế
nhà nước, cần nghiên cứu và ban hành chính sách giao quyền sử dụng rừng và đất rừng cho
các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là hộ gia đình kinh doanh lâu dài và làm tốt nghĩa vụ
đối với Nhà nước đối với một số loại rừng mà khả năng kinh doanh và quản lý của nhà nước
chưa có điều kiện thực hiện nhằm tạo ra “người chủ” thực sự đối với tất cả các loại rừng và
đất rừng hiện nay. Đồng thời cũng nghiêm túc thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của
chính quyền các cấp đối với rừng và đất rừng theo Chỉ thị số 12/2003/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị về triển khai các biện pháp chống chặt phá
rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng ngày 19-4-2005. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
về đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường và đưa các quy định pháp luật nói trên
vào cuộc sống nhằm quản lý, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, hạn chế,
tiến tới ngăn chặn tối đa mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ đa dạng sinh
học. Bên cạnh đó, cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, kết hợp với đào tạo, bồi
dưỡng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ khoa học và kỹ thuật của người dân đối
với việc bảo vệ, khai thác cũng như phát triển tài nguyên và môi trường; áp dụng các chính
sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa ở miền núi, nhằm thúc
đẩy hội nhập kinh tế, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả các lĩnh vực sản xuất vật chất
như nông nghiệp, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phục vụ có hiệu quả
cho sự phát triển bền vững đất nước.
Cần tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước đi đôi với việc hoàn thiện thể chế và chính sách
phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải phát triển
kinh tế với tốc độ nhanh hơn, hiệu quả hơn và bền vững hơn trên cơ sở chăm lo giải quyết tốt
hơn các vấn đề xã hội và văn hóa, gắn tăng trưởng kinh tế với tiếp tục xóa đói giảm nghèo và
phát triển con ngươi cũng như mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Việc hoàn thiện chính sách
là rất cần thiết. Trong ngắn hạn, có thể kiềm chế được sự gia tăng bất bình đẳng kinh tế ở
Việt Nam. Những kinh nghiệm quốc tế cho thấy tăng trưởng nhanh không nhất thiết đi kèm
với bất bình đẳng cao: chúng ta có thể đạt được cả hai. Nhiều nước đã duy trì được mức độ
tăng trưởng kinh tế cao mà không phải chứng kiến bất bình đẳng ngày càng gia tăng như
đang diễn ra ở Trung Quốc. Có những can thiệp chính sách nâng cao được tính công bằng và
đồng thời cũng hoàn toàn nhất quán với sự thúc đẩy phát triển trong nền kinh tế thị trường.
6. Thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức vào phát triển nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam
ODA (Official Development Assistance) là nguồn hỗ trợ của các nước phát triển, các tổ
chức phi chính phủ dành cho các nước đang và chậm phát triển nhằm giúp các nước này tăng
trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Trong một số trường hợp, ODA giúp các nước vượt
qua khủng hoảng kinh tế hoặc tái xây dựng lại đất nước do chiến tranh…
Theo các đánh giá mới đây của Ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC), ODA được phân bổ rộng
khắp ở các khu vực trên thế giới, tập trung chủ yếu ở khu vực có nhiều quốc gia chậm phát
triển và đang phát triển như Đông Nam Á chiếm 33,5%, Châu Phi 36,7% ODA của khối
OECD. Trong khi đó, nguồn ODA vào Châu Âu chỉ có 4,2%, khu vực Bắc và Trung Mỹ
6,4% và khu vực Nam Mỹ là 7,0%. Nếu xét theo trình độ phát triển kinh tế của các nước tiếp
nhận ODA, thì sự phân bổ ODA của thế giới như sau: 53,8% ODA vào các nước có thu nhập
quốc dân bình quân đầu người dưới 765 USD; 35,7% vào quốc gia có thu nhập từ 765 USD
đến 3035 USD; còn lại chỉ có 10,4% ODA đổ vào khu vực các quốc gia có thu nhập bình
quân trên 3035 USD. ODA thường tập trung vào các lĩnh vực giáo dục, y tế chiếm 16,8%,
cung cấp nước và vệ sinh chiếm 6,6%, vận tải và công nghiệp chiếm 24,5%, nông nghiệp
chiếm 9,5%, còn lại ODA được tập trung vào việc giảm nợ (5,7%), viện trợ khẩn cấp (5,1%),
hỗ trợ chương trình (4,7%), và một số lĩnh vực khác.
Đối với Việt Nam, ODA có tầm quan trọng đặc biệt, giúp chúng ta giải quyết tình trạng
cơ sở hạ tầng lạc hậu, và phân bố không đều, xóa bỏ bớt sự cách biệt về phát triển kinh tế - xã
hội giữa các vùng lãnh thổ trong cả nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần đẩy nhanh
quá trình CNH và HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: “ Tranh
thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa phương và song phương, tập trung
chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, nâng cao trình độ khoa học,
công nghệ và quản lý, đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những
vùng chậm phát triển…”
Thời gian qua, số các dự án ODA trong nông nghiệp, nông thôn còn ít lại chưa được quan
tâm khai thác và sử dụng có hiệu quả. Vì vậy, việc đẩy mạnh thu hút và sử dụng có hiệu quả
ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đang là đòi hỏi hết sức cấp bách.
Quá trình thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam vẫn bộc lộ một
số nhược điểm sau:
- Quy mô thu hút các dự án ODA trong phát triển nông nghiệp, nông thôn còn nhỏ chưa
đáp ứng được sự mong đợi của nông dân ở các vùng này.
- Chưa có quy hoạch phân bổ và sử dụng ODA. Cơ cấu thu hút ODA còn bất hợp lý, chưa
thu hút vào những vùng sâu, vùng xa của đất nước, đặc biệt là miền núi. Ngược lại, ODA chỉ
tập trung vào giao thông thủy lợi, nông thôn của các tỉnh có đông dân cư.
- Thiếu những quy định mang tính pháp lý về quyền hạn và chức năng của các cơ quan,
dẫn đến thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương. Quy trình thủ
tục, xét duyệt, thẩm định còn rườm rà, chồng chéo mất nhiều thời gian, đôi khi bỏ lỡ mất
nhiều dự án.
- Công tác quản lý dự án còn bị buông lỏng, chưa có sự quan tâm đúng mức của các cơ
quan chức năng.
- Trình độ cán bộ quản lý dự án của Nhà nước và các địa phương còn yếu kém về chuyên
môn, ngoại ngữ và luật pháp.
- Mặc dù có sự ưu tiên cho các địa phương khó khăn, nhưng ngân sách các địa phương
vẫn không đảm bảo nhu cầu vốn đối ứng cho các dự án, công tác đền bù giải phóng mặt bằng
còn chậm làm ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân dự án.
Vì vậy, một số biện pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả ODA vào nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời gian tới:
- Nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA, xác định thứ tự ưu
tiên phân bổ ODA theo từng ngành và từng địa phương. Các ngành, các địa phương và các
đơn vị xin sử dụng vốn ODA cần tính toán chính xác hiệu quả và xác định đầy đủ nghĩa vụ
trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn có chọn lọc và phải đặt lợi ích
quốc gia lên hàng đầu.
- Hoàn thiện các quy định về quy trình và thủ tục đầu tư. Đơn giản hóa các quy trình ra
quyết định và có quy chế cụ thể với các nhà tài trợ. Trong khâu tổ chức thực hiện cần đổi mới
cơ chế quản lý và năng lực điều hành của các cơ quan quản lý và sử dụng vốn ODA, đặc bịêt
là các địa phương nơi có dự án sử dụng ODA. Tất cả các dự án sự dụng vốn ODA phải thực
hiện tốt quy trình đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Ưu tiên và phân bổ vốn đối ứng cho các dự án, đề ra các biện pháp chống tham nhũng để
một mặt đảm bảo chất lượng công trình, mặt khác giữ được uy tín với các đối tác cung cấp
ODA của nước ngoài.
- Có các biện pháp đồng bộ nhằm đẩy nhanh tốc độ giải ngân. Thực hiện tốt công tác
nghiên cứu và chuẩn bị thực hiện dự án, thẩm định và xét duyệt dự án, hướng dẫn đấu thầu và
xét chọn nhà thầu; có chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác di dân và tái định cư,
giải phóng mặt bằng kịp thời cho thực hiện dự án…
- Chú trọng công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ và
ngoại ngữ ở tất cả các cấp, cả trung ương và địa phương nơi có dự án. Nâng cao năng lực
quản lý và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như Bộ Kế hoach và đầu tư, Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tài chính và các địa phương…, kịp thời xử lý các
vấn đề phát sinh, bổ sung và điều chỉnh chính sách, cơ chế tạo điều kiện thuận lợi để thực
hiện dự án đầu tư, đồng thời thực hiện tốt chức năng giám sát kiểm tra và đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn.
7. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam
Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chiếm vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, coi đó là nền tảng để phát triển kinh tế,
xã hội, ổn định chính trị. Hiện trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta còn gặp nhiều khó khăn.
Để khắc phục tình trạng đó, Đảng và Nhà nước xác định cần lấy giáo dục - đào tạo làm đòn
bẩy nhằm biến gánh nặng dân số nông thôn thành ưu thế nhân lực.
Nội dung đào tạo cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Cần nhận thức đầy đủ hơn về quan điểm phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên đất -
nước - rừng trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành. Trong nông - lâm nghiệp:
phát triển nền nông lâm nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch, chất lượng cao theo hướng đa
canh, đa dạng hóa sản phẩm, kết hợp nông, lâm nghiệp với công nghệ bảo quản và chế biến,
gắn CNH, HĐH tăng nhanh giá trị hàng hóa nông, lâm sản. Trong thủy lợi, phát triển tài
nguyên thiên nhiên nước là ngành kinh tế - kỹ thuật - xã hội quan trọng. Công trình thủy lợi
là hạ tầng cơ sở chủ chốt phục vụ cấp - thoát nước nông nghiệp, cấp nước và vệ sinh nông
thôn, phòng chống thiên tai, cải tạo phát triển hệ sinh thái nông, lâm nghiệp, kết hợp phát
triển thủy điện, thủy sản, giao thông, công nghiệp và dịch vụ, du lịch…
Để đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, cần nâng cao năng lực đào tạo
nhân lực, trước hết trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở nông thôn bao gồm: sớm khắc phục tình
trạng đào tạo theo diện hẹp, ngành hẹp, chuyên môn hóa quá sớm, nâng cấp, phát triển ngành
cũ, điều chỉnh lại nội dung và cơ cấu ngành nghề, môn học, xây dựng một số ngành đào tạo
mới, thực hiện đa dạng hóa ngành nghề đào tạo, các trường đại học như Thủy lợi, Nông
nghiệp, Lâm nghiệp cần kết hợp xây dựng những ngành trọng điểm, mũi nhọn. Các trường
trung học và dạy nghề cần đào tạo theo hình thức “mũi nhọn và diện rộng” (nhanh chóng phổ
cập, đào tạo nghề nghiệp cho mọi lực lượng lao động ở nông thôn)… Về đào tạo công nhân
kỹ thuật, cần có chương trình đào tạo hệ chuẩn chất lượng cao các nghề đặc thù của ngành:
trồng trọt, chăn nuôi, thú y, bảo vệ thực vật, trồng và quản lý rừng, quản lý thủy nông, quản
lý đất đai… Xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng công nhân kỹ thuật lành nghề, bậc
cao của ngành. Trong đào tạo nghề ngắn hạn cần quan tâm lĩnh vực khuyến nông, khuyến
lâm, chủ doanh nghiệp nhỏ, trang trại nông thôn…
Hết sức chú ý đào tạo những cái mà ngành cần, xã hội cần, có dự kiến cho phát triển
tương lai. Chất lượng được nâng cao trên cơ sở gắn chặt lý luận với thực tiễn, chú ý đến kỹ
năng thực hành, ứng dụng và phát triển công nghệ. Quán triệt phương châm chỉ đạo: Chính
quy hóa - hiện đại hóa - đa dạng hóa - Việt Nam hóa - xã hội hóa - học để biết - học để làm -
làm để học. Tăng cường đào tạo theo các mảng kiến thức có tính chất liên ngành về đất -
nước- cây - khí hậu, về thủy lợi - thủy điện - xây dựng - kiến trúc - giao thông.
- Do đặc điểm và yêu cầu của nông nghiệp - nông thôn như lao động dư thừa nhiều, lao
động có tính thời vụ, mỗi năm có vài tháng nông nhàn, nông dân ta lại rất cần cù chăm chỉ,
hiếu học, người nông dân rất gắn bó với gia đình, ruộng vườn, ít có điều kiện tiếp cận thông
tin, kiến thức mới, họ thường xuyên bị “đói thông tin” nên cần tìm ra hình thức đào tạo đa
dạng, linh hoạt, đơn giản phù hợp, ít tốn kém sao cho mọi người đều được đào tạo thường
xuyên, thiết thực, có hiệu quả như kết hợp chặt chẽ và liên thông giữa các bậc, loại hình học
tập, chú ý kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo ở trường lớp và khuyến nông, khuyến lâm, phát triển
hình thức học theo chế độ cử tuyển, ngắn hạn… với nội dung, chương trình đào tạo thích hợp
với từng đối tượng và từng địa phương.
Cần có các chính sách ưu tiên, khuyến khích hơn nữa cho người nông dân và con em họ
được học tập và bồi dưỡng kiến thức đầy đủ, thường xuyên, nhất là đối với các vùng sâu,
vùng xa ít phát triển (như Tây Nguyên, miền núi, biên giới, hải đảo…) để khi học xong trở về
phục vụ quê hương, như các chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, học sinh ở vùng sâu, vùng xa,
khuyến khích học sinh vào các trường của ngành, xây dựng quỹ khuyến học ngành nông
nghiệp và phát triển nông thôn để hỗ trợ ưu tiên cho học sinh từ nông thôn…, có chính sách
bồi dưỡng vật chất thỏa đáng cho mọi cán bộ kỹ thuật ở nông thôn khi họ có đóng góp mang
lại hiệu quả.
- Đào tạo cho yêu cầu phát triển nông thôn
+ Phát triển nguồn nhân lực nông thôn, trước hết cần nhanh chóng đào tạo và đào tạo
lại lực lượng lao động nông thôn (hiện nay có khoảng 27 triệu chiếm 73% lực lượng lao động
cả nước và trong số này có tới 94-95% không có trình độ chuyên môn kỹ thuật) để họ có thể
tiếp thu được các tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện đổi mới tư duy kinh
tế và tổ chức cuộc sống.
+ Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn cần hướng vào phục vụ chương
trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn với nội dung cụ thể là:
CNH, HĐH bản thân ngành nông - lâm - thủy lợi, bao gồm khâu sản xuất (làm đất,
gieo trồng, thu hoạch…), sau sản xuất (chú trọng lĩnh vực bảo quản, chế biến để tạo ra sản
phẩm có giá trị cao…), dịch vụ từ sản phẩm nông nghiệp và phục vụ sản xuất (nước, phân,
giống…)
Tăng cường đào tạo các kiến thức mới và cấp bách để phục vụ CNH, HĐH nông thôn
đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển các hoạt động
phi nông nghiệp. Các nghề phụ và dịch vụ mới sẽ xuất hiện như: lập kế hoạch và phương
pháp khuyến nông, khuyến lâm, kỹ thuật chăn nuôi, bảo vệ thực vật, thú y, bảo quản nông
sản sau thu hoạch, chế biến nông lâm thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí nhỏ phục
vụ nông thôn, xây dựng và sửa chữa nhỏ, dệt, may, chế biến nông sản… Những vấn đề cần
được quan tâm và bồi dưỡng, đào tạo như tiếp cận thông tin, tiếp cận thị trường, công nghệ
sinh học, quản lý kinh tế trang trại và doanh nghiệp nhỏ, tín dụng ở nông thôn, vệ sinh môi
trường nông thôn, sự tham gia của cộng đồng trong quản lý kinh tế, xã hội… Một số nông
dân cần được đào tạo tay nghề cao và chuyên môn hóa để làm hạt nhân phát triển.
Tăng cường cập nhật và phổ biến thông tin về các vấn đề khoa học kỹ thuật, kinh tế,
xã hội thiết thực cho người ở nông thôn như thành lập các trung tâm, mạng lưới thông tin,
tuyên truyền viên, phát triển các phương tiện thông tin nghe, nhìn.
Xu thế trong thời gian tới là giảm dần độc canh lúa, tăng dần tỷ trọng cây công nghiệp,
rau quả, cây đặc sản, chăn nuôi để có nhiều sản phẩm hàng hóa giá trị cao, do vậy nội dung,
chương trình đào tạo phải chuyển biến thích ứng và phải đi đón đầu. Cần nghiên cứu điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, của từng vùng, địa phương để đề ra được các nội dung, chương
trình đào tạo hợp lý.
Tóm lại, để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn thì đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực có tầm quan trọng hàng đầu. Để thực hiện thành công việc đào tạo và
phát huy vai trò nhân lực ở nông thôn thì việc đổi mới, cải tiến, nâng cấp nội dung, chương
trình và phương pháp hình thức đào tạo cùng với xây dựng và thực hiện các quy định, chế độ,
chính sách phù hợp là hết sức cần thiết và cấp bách.
KẾT LUẬN
Xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái phát triển bền vững là xu thế tất yếu của sự phát
triển xã hội loài người. Nó đem lại cho con người cả những giá trị vật chất và tinh thần không
thể thiếu được. Song để có thể xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sinh thái là một
vấn đề còn nhiều khó khăn, nhất là đối với các nước đang phát triển và các nước nghèo.
Muốn thực hiện được điều đó cần có sự tham gia tích cực của cả người dân và Nhà nước
đồng thời có sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đang trên con đường CNH, HĐH đất nước với mục tiêu đến năm 2020 sẽ cơ
bản trở thành nước công nghiệp. Nhưng không vì thế mà chúng ta quên nền nông nghiệp mà
còn phải ra sức xây dựng nó trở nên ngày càng phát triển hơn phục vụ nhu cầu trong nước và
đặc biệt là xuất khẩu .
Nông nghiệp là một lĩnh vực kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Vì vậy, Nhà nước cần
có những chính sách thu hút vốn đầu tư cho nông nghiệp và có những biện pháp để tăng năng
suất lao động, năng suất cây trồng tạo môi trường hấp dẫn hơn cho đầu tư.
Bước vào thế kỷ XXI với nhiều cơ hội mới và những thách thức mới, nông nghiệp cần
được quan tâm phát triển nhiều hơn nữa để tiến kịp với nền nông nghiệp khu vực và thế giới.
Để đạt được điều này, ngay từ bây giờ chúng ta cần có nhận thức đúng đắn về một nền nông
nghiệp sinh thái – xu thế phát triển tất yếu của nông nghiệp thế giới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Niên giám thống kê 2005 - Cục thống kê thành phố Hà Nội
2. Nông nghiệp thế giới bước vào thế kỷ XXI – NXB Chính trị quốc gia
3. Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI – NXB Chính trị quốc gia
4. Tạp chí giá cả tháng 8/2000
5. Tạp chí kinh tế phát triển số 46/2001
6. Tạp chí kinh tế và phát triển số 99 tháng 9/2005
7. Tạp chí kinh tế và phát triển số 104 tháng 2/2006
8. Tạp chí khoa học công nghệ môi trường số tháng 12/1999
9. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 10(329) tháng 10/2005
10. Tạp chí thông tin tài chính số 9/1999
11. Tạp chí thương mại số 48(362) tháng 12/2004
12. Tạp chí thương mại số 17(379) tháng 5/2005
13. Tạp chí thương mại số 26(436) tháng 9-10/2006
Phần II: Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của phát triển nông nghiệp bền vững
I – Cơ sở lý luận
1.Bản chất của nông nghiệp bền vững
1.1. Nông nghiệp công nghiệp hóa
Trên thế giới, nền nông nghiệp công nghiệp hóa đã xuất hiện từ những năm 50 – 60 của
thế kỷ XX ở những nước có trình độ phát triển công nghiệp cao như: Mỹ, các nước Tây Âu,
Nhật Bản…
Đặc điểm của nền nông nghiệp công nghiệp hóa là:
1.1.1. Đặc trưng nổi bật của nông nghiệp công nghiệp hóa là sản xuất lớn. Sản xuất lớn
với ưu thế là đè bẹp sản xuất nhỏ của chế độ phong kiến. Sản xuất lớn được thể hiện qua
nhiều chỉ tiêu về quy mô của nông trại và tính chất hàng hóa.
1.1.2. Nông nghiệp công nghiệp hóa sử dụng nhiều máy móc và vật tư nông nghiệp.
1.1.3. Năng suất cây trồng và chăn nuôi gia súc cao. Các nước công nghiệp phát triển có
nền nông nghiệp công nghiệp hóa đều đạt năng suất cây trồng và chăn nuôi cao hơn nhiều so
với mức bình quân của thế giới.
1.1.4. Năng suất lao động sống cao. Với việc được trang bị đầy đủ máy móc và năng
lượng, nông nghiệp công nghiệp hóa đã đạt năng suất lao động cao, hay rất cao. Người lao
động nông nghiệp sử dụng nhiều lao động quá khứ để sản xuất. Nói cách khác, sản xuất nông
nghiệp ngoài đồng ruộng hay trong chuồng trại chỉ là một công đoạn nối liền nhà máy đến
nhà máy. Khái niệm ngày công không còn với nông nghiệp công nghiệp hóa mà thời gian sản
xuất trong nền nông nghiệp công nghiệp hóa tính bằng giờ, bằng phút.
1.1.5. Nông nghiệp công nghiệp hóa tiêu tốn nhiều năng lượng. Máy móc, phân khoáng,
thuốc trừ sâu bệnh…đều được sản xuất trong nhà máy và các nhà máy này đều cần năng
lượng để vận hành.
1.1.6. Hệ thống trồng trọt không đất đã được nghiên cứu từ lâu trong các phòng thí
nghiệm, hiện nay đã và đang được dùng để sản xuất rau và hoa trong các nhà kính đem lại
hiệu quả cao nhất là trong thời tiết có nhiều biến động.
1.2. Nông nghiệp hữu cơ
Trước khuynh hướng nông nghiệp công nghiệp hóa ngày càng tăng và những hậu quả mà
nó gây ra cho môi trường, từ cuối những năm 60 ở các nước công nghiệp phát triển đã xuất
hiện những trường phái nông nghiệp mới: nông nghiệp sinh học ở Tây Âu và Mỹ.
1.2.1 Nông nghiệp hữu cơ đã nghiên cưú cách bón phân cho cây trồng và xây dựng được
phương pháp bón phân nhân tạo Indore với rác rưởi, cây xanh và phân chuồng.
1.2.2.Nông nghiệp hữu cơ phê phán nông nghiệp công nghiệp hóa .
1.2.3.Nông nghiệp sinh học xuất phát từ luận điểm: hoạt động nông nghiệp vận dụng các
cơ thể sinh vật để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và các thứ cần dùng khác. Sinh vật sinh
trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học mà khoa học không ngừng nghiên cứu
nhưng đến nay vẫn chưa hiểu được bao nhiêu, nên khi hành động, con người phải cân nhắc,
phải có thái độ đúng đắn.
1.3. Nông nghiệp hữu cơ hiện đại và bền vững
Từ 2 trường phái nông nghiệp trên đã xuất hiện khái niệm “nông nghiệp sinh thái”. Đây là
sự kết hợp giữa trường phái nông nghiệp công nghiệp hóa và trường phái nông nghiệp hữu cơ
với những chủ trương sau: không tách rời chăn nuôi và trồng trọt, thực hiện “làm đất tối
thiểu” ở những nơi thích hợp, sử dụng những loại phân hóa học “sạch”, phát triển công tác
thủy lợi, nghiên cứu ứng dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Mô hình này đang được nhiều nước áp dụng và thu được nhiều thành công.
2. Vị trí và vai trò của nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện sớm nhất trong lịch sử xã hội loài
người. Nông nghiệp cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho đời sống con người. Nông nghiệp
cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp và đô thị. Nông nghiệp là thị trường tiêu thụ
rộng lớn của công nghiệp. Phát triển có ý nghĩa lớn đến việc phát triển công nghiệp.
3. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng mà ngành khác không thể có. Đó là : sản
xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp và mang yếu tố khu vực rõ
rệt. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cơ thể sống. Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao.
Ngoài ra, nông nghiệp Việt Nam còn có đặc điểm riêng là: nông nghiệp Việt Nam đang trong
quá trình chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu lên sản xuất hàng hóa và nông nghiệp nước ta là
nền nông nghiệp nhiệt đới có pha trộn tính chất ôn đới nhất là ở miền Bắc.
4. Nông nghiệp Việt Nam gia nhập WTO
Sau khi gia nhập WTO, nông nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội nhưng cũng gặp phải
nhiều khó khăn, thách thức: sự cạnh tranh, sản phẩm chất lượng tốt của nước ngoài tràn vào
thị trường với giá rẻ… đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp cụ thể để phát triển nông
nghiêp.
II – Cơ sở thực tiễn:
Kinh nghiệm của một số nước trong việc thực hiện mô hình nông nghiệp sinh thái: Thái
Lan, Nhật Bản, Niu Dilân và một số nước khác
Chương II: Tình hình thực hiện ở Việt Nam
1. Nông nghiệp thế giới
Nông nghiệp thế giới thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI có nhiều thành tựu: năng
suất cây trồng, vật nuôi cao, năng suất lao động cao, sản phẩm đa dạng phong phú…Song vẫn
chứa đựng nhiều khó khăn: sự phá hủy môi trường, nạn đói, sự phát triển mất cân đối trong
nông nghiệp ở nhiều nước trên thế giới, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm luôn tiềm ẩn: bệnh bò
điên, cúm gia cầm…
2. Nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp Việt Nam với nhiều thành tựu: năng suất cao, xuất khẩu lớn: đứng thứ hai
thế giới về xuất khẩu gạo nhiều năm liền, cơ cấu chuyển dịch hợp lý đang phát huy tác dụng.
Nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: phát triển chưa ổn định , khả năng cạnh tranh hàng nông sản
còn kém, dịch bệnh đe dọa…
3.Kết quả của thực hiện nông nghiệp sinh thái
Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt Nam đã áp dụng vào sản xuất nông
nghiệp bền vững ở nhiều nơi và đã thu được kết quả tốt trong giai đoạn đầu như ở Hà Nội,
Phú Thọ, các tỉnh miền Đông Nam Bộ…
4.Nguyên nhân của những hạn chế
Nền nông nghiệp bước vào xây dựng bền vững với điểm xuất phát thấp. Trình độ ứng
dụng khoa học công nghệ còn yếu kém. Chiến lược thị trường đối với hàng hóa nông sản còn
chưa được chú ý…
Chương III: Các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển bền vững
1. Đẩy mạnh công tác quy hoạch, tổ chức và quản lý sản xuất
2. Tăng cường đầu tư và điều chỉnh cơ cấu thích ứng với thực tiễn phát triển của nền nông
nghiệp trong từng thời kỳ.
3. Thúc đẩy và hỗ trợ phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, liên doanh liên kết trong sản
xuất kinh doanh nông nghiệp
4. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật,
phát triển hệ thống khuyến nông và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
5. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển bền vững nền nông nghiệp
hàng hóa nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
6. Thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức vào phát triển nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam
7. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn
Việt Nam
Phần III: Kết luận
Nông nghiệp sinh thái là xu thế phát triển tất yếu của nền nông nghiệp thế giới bởi nó đáp
ứng được nhu cầu của con người đồng thời cũng bảo vệ và cải tạo được môi trường. Vì vậy,
chúng ta ngay từ bây giờ cần chú trọng tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển bền vững,
tránh để tụt hậu quá xa so với thế giới.