Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
Chính trị - Xã hội<br />
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM<br />
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN<br />
ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
<br />
<br />
Nguyễn Khánh Vân*<br />
<br />
Trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, trí thức luôn giữ một vị trí quan trọng. Hiện<br />
nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực<br />
hiện được điều này không thể không nói đến vai trò cực kì quan trọng của đội ngũ trí thức mà nếu<br />
được quan tâm đúng mức, lực lượng này sẽ tạo ra được một lực đẩy vô cùng to lớn làm chuyển biến<br />
tích cực mọi mặt của đời sống xã hội theo hướng tiến bộ. Do vậy, việc xác định đúng đắn vai trò của<br />
trí thức ở nước ta, để đề ra những giải pháp phù hợp nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, tạo<br />
điều kiện và động viên trí thức phát huy cao độ sức sáng tạo, góp trí tuệ vào sự nghiệp đẩy mạnh<br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là yêu cầu cấp thiết.<br />
Từ khóa: Xây dựng, phát triển, trí thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế<br />
<br />
CONSTRUCTION AND DEVELOPMENT OF THE INTELLIGENTSIA<br />
IN VIETNAM IN BOOST PHASE OF INDUSTRIALIZATION,<br />
MODERNIZATION AND INTERNATIONAL INTEGRATION<br />
ABSTRACT<br />
During the development process of human history, intellectuals always keep an important<br />
position. Currently, our country is entering a period of accelerated industrialization and<br />
modernization. To accomplish this impossible not to mention extremely important role of the<br />
intelligentsia that if proper care, this force will create a tremendous thrust make positive changes<br />
everything aspects of social life in the direction of progress. Therefore, the determination of proper<br />
role of intellectuals in our country, to devise appropriate solutions in order to build and develop the<br />
intelligentsia, facilitate and motivate highly promoted intellectual power light creation, intellectual<br />
contribution to the cause of promoting industrialization and modernization of the country is an<br />
urgent requirement.<br />
Keywords: Construction, development, intellectuals, industrialization, modernization<br />
and international integration<br />
<br />
* TS. Giảng viên trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Email: khanhvan@ueh.edu.vn<br />
<br />
86<br />
<br />
Xây dựng, phát triển . . .<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Trí thức bao gồm những người lao động<br />
trí óc phức tạp và sáng tạo, hoạt động trong<br />
nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học,<br />
văn hóa nghệ thuật, lãnh đạo, quản lý...Sản<br />
phẩm lao động của họ quyết định đến năng<br />
suất, chất lượng, hiệu quả, đến sự phát triển<br />
của xã hội cả về vật chất và tinh thần.<br />
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học –<br />
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ và tác động<br />
đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc<br />
biệt, nhân loại đang bước vào thời đại của nền<br />
kinh tế tri thức nên rất cần những con người<br />
có trí tuệ cao, năng động và sáng tạo. Do vậy<br />
đội ngũ trí thức càng có vai trò quan trọng<br />
trong việc thúc đẩy sự phát triển nhanh của<br />
mỗi quốc gia – dân tộc.<br />
Sự phát triển của trí thức nhân loại là<br />
nguyên nhân cơ bản của mọi biến đổi trong<br />
đời sống xã hội; là yếu tố quyết định nhất đối<br />
với tăng trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ<br />
xã hội. Với ý nghĩa đó, tri thức trở thành lực<br />
lượng sản xuất hàng đầu mọi ngành, mọi lĩnh<br />
vực, mọi quốc gia đều phải dựa vào nó để<br />
phát triển.<br />
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới,<br />
hội nhập, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại<br />
hóa và bắt đầu xây dựng nền kinh tế tri thức,<br />
nên phải “ xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh,<br />
có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển<br />
đất nước”(4) Có thể khẳng định, xây dựng và<br />
phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy<br />
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước<br />
vừa mang tính cấp bách, vừa có tính chiến<br />
lược lâu dài; là động lực cơ bản góp phần thực<br />
hiện thành công mục tiêu phát triển đến năm<br />
2020: Việt Nam cơ bản trở thành nước công<br />
nghiệp theo hướng hiện đại.<br />
Thực tế lịch sử đã chứng minh, trong mỗi<br />
giai đoạn lịch sử nhất định, sự phát triển toàn<br />
<br />
diện của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào trí<br />
thức con người. Vì thế, đội ngũ trí thức có vai<br />
trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi<br />
quốc gia.<br />
Dân tộc Việt Nam có truyền thống tôn<br />
trọng trí thức, quý trọng hiền tài. “Tôn sư<br />
trọng đạo”, “Chiêu hiền đãi sĩ”, “Trọng dụng<br />
nhân tài”. Từ rất sớm, ông cha ta đã từng cho<br />
rằng sự hưng thịnh của quốc gia phụ thuộc<br />
rất lớn vào vai trò và thái độ của đội ngũ trí<br />
thức đối với thể chế xã hội. Kế thừa giá trị<br />
truyền thống tôn trọng trí thức của dân tộc ta,<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt<br />
Nam luôn có quan điểm nhất quán trong việc<br />
xem xét, đánh giá đúng vai trò của trí thức,<br />
xem trí thức là một nguồn lực trí tuệ quan<br />
trọng của dân tộc và luôn quan tâm đến việc<br />
chăm lo xây dựng phát triển đội ngũ trí thức.<br />
2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH<br />
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ<br />
VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC<br />
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy<br />
rõ vai trò, vị trí của trí thức trong tiến trình<br />
phát triển của xã hội. Người thấy rõ tầm quan<br />
trọng của nhận thức, học vấn - sự hiểu biết<br />
nói chung của con người, trong tiến trình phát<br />
triển của xã hội, nhất là trong sự nghiệp cách<br />
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ<br />
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một<br />
dân tộc dốt là một dân tộc yếu.” và giặc dốt<br />
cũng nguy hại như giặc đói, giặc ngoại xâm.<br />
Theo Hồ Chí Minh, trí thức là những người có<br />
học thức cao trong dân chúng, tập trung trí tuệ<br />
của dân tộc, tập trung “nguyên khí” của quốc<br />
gia và người được coi là trí thức hoàn toàn,<br />
trí thức chân chính phải là người có tri thức<br />
và biết vận dụng tri thức ấy vào trong thực tế<br />
cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng của<br />
dân tộc ta, Hồ Chí Minh luôn thấy khả năng<br />
to lớn của đội ngũ trí thức, coi trí thức là vốn<br />
87<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
quý báu của dân tộc, là lực lượng xung kích<br />
trên mọi lĩnh vực.<br />
Nét nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí<br />
Minh là trọng nhân tài, trọng trí thức, luôn<br />
có cái nhìn sáng suốt, đúng đắn và quan tâm<br />
sâu sắc đến việc phát huy vai trò của đội ngũ<br />
trí thức trong xã hội. Ngay sau khi nước Việt<br />
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người đã ra<br />
lời kêu gọi, mong tìm những người tài đức ra<br />
giúp dân, giúp nước. , Người nói: “…chúng<br />
tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài năng và<br />
sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng<br />
hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế<br />
hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ<br />
nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng<br />
có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay.”<br />
(1). Đồng thời, Hồ Chí Minh đã có nhiều sách<br />
lược tài tình để đoàn kết và sử dụng năng lực<br />
của đội ngũ nhân sĩ, trí thức có tư tưởng tiến<br />
bộ, có tâm huyết với dân, với nước. Theo Hồ<br />
Chí Minh , trong tiến trình của cách mạng<br />
Việt Nam ở giai đoạn nào cũng đều cần đến trí<br />
thức. Người chỉ rõ rằng, làm cách mạng phải<br />
có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng<br />
đối với cách mạng.<br />
Do vậy, ngay trong thời kỳ đầu của sự<br />
nghiệp cách mạng, Người đã chú ý xáy dựng<br />
và phát triển đội ngũ trí thức mới, bên cạnh<br />
việc cải tạo trí thức cũ. Con đường hình thành<br />
và phát triển đội ngũ trí thức mới, theo Hồ Chí<br />
Minh, là: “Đào tạo trí thức mới. Cải tạo trí thức<br />
cũ. Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông<br />
hóa.” (2). Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng sớm<br />
nhận ra rằng, sở dĩ trí thức chưa phát huy hết vai<br />
trò của mình là do nhiều nguyên nhân, mà một<br />
trong những nguyên nhân cơ bản là “Về mặt tổ<br />
chức và lãnh đạo còn thiếu chặt chẽ chưa dựa<br />
hẳn vào lực lượng của nhân dân, chưa dùng<br />
hết khả năng của các nhà trí thức.”(3). Do đó,<br />
để phát huy sức sáng tạo của trí thức, theo Hồ<br />
<br />
Chí Minh, cần đưa trí thức vào phong trào cách<br />
mạng, đi vào cuộc sống của nhân dân. Đó là<br />
trường học lớn để người trí thức học tập, rèn<br />
luyện và trưởng thành.<br />
Nhận thức một cách sâu sắc tư tưởng của<br />
Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức, ngay từ khi<br />
ra đời, đảng Cộng sản Việt Nam đã có những<br />
biện pháp, chủ trương phù hợp nhằm tập hợp,<br />
đoàn kết, giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ trí thức.<br />
Do đó, đội ngũ trí thức Việt Nam đã không<br />
ngừng phát triển về số lượng và nâng cao về<br />
chất lượng. Một trong những thành tựu to lớn<br />
của Đảng là chỉ sau một thời gian ngắn đã xây<br />
dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học đông<br />
đảo, bao gồm nhiều trình độ và thuộc nhiều<br />
lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Trước yêu<br />
cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, vấn<br />
đề đào tạo mới, đào tạo lại và bồi dưỡng kiến<br />
thức cho đội ngũ trí thức được coi là nhiệm<br />
vụ thường xuyên, cấp bách. Do vậy, từ đại hội<br />
Đảng lần thứ VI đến nay, nhiều văn kiện của<br />
Đảng đã thể hiện sự quan tâm đến phát triển<br />
con người – chủ thể trí tuệ của sự phát triển xã<br />
hội. Xuất phát từ quan điểm coi con người là<br />
vốn quý nhất, là nhân tố quyết định sự thành<br />
bại của công cuộc xây dụng CNXH, Đảng đã<br />
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát<br />
triển, chăm lo hạnh phúc của con người là<br />
mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng và Nhà<br />
nước. Để đào tạo được những con người phát<br />
triển cao về trí tuệ, Đảng luôn coi giáo dục và<br />
đào tạo là quốc sách hàng đầu. Đảng xác định,<br />
giữa khoa học và công nghệ, giáo dục và đào<br />
tạo có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: “ Cùng<br />
với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào<br />
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân<br />
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”(7).<br />
Trong Nghị quyết Trung ương II, khóa VIII,<br />
Đảng tiếp tục khẳng định: “ Giáo dục đào tạo<br />
cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố<br />
88<br />
<br />
Xây dựng, phát triển . . .<br />
<br />
quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển<br />
xã hội. Đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư<br />
cho phát triển”(6). Để có được một đội ngũ<br />
trí thức đông về số lượng, đồng đều về chất<br />
lượng, về trình độ chuyên môn, Đảng và Nhà<br />
nước luôn quan tâm đến việc tạo điều kiện<br />
và môi trường thuận lợi cho họ. Nhận thức<br />
được trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt,<br />
với đặc điểm là luôn tư duy sáng tạo, tìm tòi<br />
cái mới trên cơ sở kế thừa có phê phán, luôn<br />
mong muốn có một không gian tự do để sáng<br />
tạo và vận dụng vào thực tiễn những kết quả<br />
sáng tạo của mình. Đảng và Nhà nước đã từng<br />
bước xây dựng các quy chế dân chủ trong mọi<br />
sinh hoạt khoa học để đảm bảo quyền tự do<br />
sáng tạo cho mỗi nhà khoa học.<br />
Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX, Đảng<br />
đã khẳng định: “Đối với trí thức, tạo điều kiện<br />
thuận lợi để thu nhận thông tin, tiếp cận các<br />
thành tựu mới của khoa học - công nghệ và<br />
văn hóa thế giới, nâng cao trình độ chính trị,<br />
kiến thức chuyên môn. Khuyến khích tự do<br />
sáng tạo, phát minh, cống hiến, phát hiện, bồi<br />
dưỡng, sử dụng đúng và có chính sách đãi<br />
ngộ xứng đáng các tài năng. Phát huy năng<br />
lực của trí thức trong việc thực hiện chương<br />
trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây<br />
dựng đường lối, chủ trương chính sách pháp<br />
luật.”(5). Như vậy, việc nhìn nhận, đánh giá vai<br />
trò của đội ngũ trí thức để có những biện pháp,<br />
chủ trương, chính sách đúng đắn, nhằm phát<br />
huy tiềm năng và nâng cao hơn nữa vai trò của<br />
đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của xã hội<br />
là một vấn đề then chốt mà Đảng quan tâm.<br />
3. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ<br />
THỨC VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ<br />
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ<br />
TRÍ THỨC<br />
Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, thực<br />
hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN,<br />
<br />
trình độ khoa học - kỹ thuật kém phát triển nên<br />
cần coi trọng và tạo mọi điều kiện để ưu tiên<br />
phát triển lượng sản xuất, đẩy nhanh tiến bộ<br />
khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động<br />
cao. Điều này đòi hỏi sự đóng góp rất lớn của<br />
đội ngũ trí thức. Hiện nay, dưới tác động của<br />
kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc<br />
tế với xu hướng phát triển của nền kinh tế tri<br />
thức thì đội ngũ trí thức càng có vai trò quan<br />
trọng đối với sự phát triển xã hội. Sự nghiệp<br />
đổi mới đất nước, đã và đang đặt ra cho đội<br />
ngũ trí thức những yêu cầu, trách nhiệm nặng<br />
nề, đồng thời, cũng tạo ra môi trường và cơ<br />
hội để trí thức không ngừng vươn lên phát<br />
huy trí tuệ, tài năng, cống hiến cho sự phát<br />
triển của đất nước. Qua nghiên cứu các nhà<br />
khoa học tự nhiên và công nghệ đã kiến nghị<br />
với Nhà nước nhiều phương án phát triển sản<br />
xuất. Trí thức trong lĩnh vực giáo dục và đào<br />
tạo đã góp phần to lớn trong việc nâng cao<br />
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.<br />
Đội ngũ trí thức nước ta không ngừng<br />
tăng lên về số lượng, nâng cao về chất lượng,<br />
đa dạng về thành phần, cơ cấu ngành nghề.<br />
Với xu hướng trí thức hóa, trẻ hóa và chuyên<br />
môn hóa cán bộ lãnh đạo và quản lý, công tác<br />
chuẩn hóa cán bộ được triển khai rộng rãi và<br />
đạt kết quả tương đối khả quan. Đối với cán<br />
bộ cao cấp, khoảng 95% các trưởng, phó ban<br />
của Đảng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng<br />
các cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng các đơn vị<br />
thuộc Chính phủ, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng<br />
các cơ quan Đảng và Nhà nước có trình độ đại<br />
học trở lên. Trải qua quá trình đổi mới, chất<br />
lượng của đội ngũ trí thức được nâng cao. Họ<br />
đã biết kết hợp kiến thức khoa học- công nghệ<br />
với những hiểu biết về xã hội, biết kết hợp lý<br />
luận với thực tiễn. Trí thức trẻ ngày nay đã<br />
chủ động trang bị cho mình kiến thức về tin<br />
học, ngoại ngữ .... Cơ cấu xã hội của trí thức<br />
89<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
cũng có nhiều thay đổi. Trước hết, đó là sự<br />
thay đổi về nguồn gốc xuất thân của trí thức.<br />
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ<br />
cứu nước, đội ngũ trí thức chủ yếu gồm những<br />
người được đào tạo trong xã hội cũ, rất ít trí<br />
thức xuất thân từ công nhân và nông dân. Từ<br />
khi đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước<br />
luôn coi trọng đào tạo và phát triển đội ngũ<br />
trí thức. Đại bộ phận trí thức hiện nay được<br />
đào tạo và rèn luyện trong thời kỳ mới. Với<br />
việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br />
và sự phát triển của khoa học - công nghệ ở<br />
nước ta, chắc chắn đội ngũ trí thức nước ta<br />
sẽ đông hơn, bao gồm nhiều giai tầng xã hội<br />
hơn, trình độ cũng khác trước. Trí thức xuất<br />
thân từ giai cấp công nhân, nông dân ngày<br />
càng nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc<br />
xây dựng liên minh công, nông, trí thức. Cùng<br />
với quá trình trí thức hóa công - nông thì vấn<br />
đề trí thức hóa nữ giới cũng diễn ra mạnh mẽ.<br />
Xuất hiện nhiều nữ trí thức có khả năng lãnh<br />
đạo và quản lý giỏi trong các lĩnh vực kinh<br />
tế, văn hóa, xã hội,...Cơ cấu xã hội của đội<br />
ngũ trí thức còn có sự thay đổi về thành phần<br />
dân tộc. Với sự quan tâm, tạo điều kiện của<br />
Đảng và Nhà nước, trí thức dân tộc thiểu số<br />
không ngừng tăng lên và đóng góp tích cực<br />
vào sự phát triển của dân tộc. Hiện nay, hầu<br />
hết các tỉnh miền núi, vùng dân tộc thiểu số<br />
đã có đội ngũ trí thức đạt trình độ từ trung<br />
học chuyên nghiệp đến cao đẳng, đại học. Tuy<br />
nhiên, đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số hiện<br />
vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được đòi hỏi<br />
của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.<br />
Bên cạnh lực lượng trí thức trong nước, trí<br />
thức trong cộng đồng người Việt Nam ở nước<br />
ngoài cũng có những đóng góp đáng kể vào<br />
sự nghiệp đổi mới đất nước. Qua nghiên cứu<br />
và ước tính theo phương pháp thống kê của<br />
Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài thì<br />
<br />
hiện có khoảng 300 nghìn trí thức Việt kiều.<br />
Thế mạnh của họ là được tiếp cận với những<br />
thành tựu mới nhất của khoa học và công<br />
nghệ ở các nước tư bản phát triển cao. Cùng<br />
với chính sách mở cửa, Đảng và Nhà nước đã<br />
ban hành chủ trương, chính sách và tạo điều<br />
kiện thuận lợi cho trí thức Việt kiều tham gia<br />
đóng góp công sức, trí tuệ cho đất nước. Hiện<br />
nay, sự đóng góp của đội ngũ này chưa tương<br />
xứng với tiềm năng to lớn của họ, vì vậy, cần<br />
tạo điều kiện hơn nữa để đội ngũ trí thức Việt<br />
kiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo<br />
vệ Tổ quốc.<br />
Có thể nói, vai trò của đội ngũ trí thức<br />
Việt Nam đối với xã hội là rất lớn. Tuy nhiên,<br />
vai trò ấy chưa phát huy hết hiệu quả do có<br />
một số hạn chế sau:<br />
Một là, khả năng khai thác và sử dụng<br />
nguồn lực trí tuệ trong đội ngũ trí thức nước<br />
ta chưa được quan tâm đúng mức. Trước hết<br />
là hiện tượng lãng phí chất xám. Trí thức nước<br />
ta có tiềm năng trí tuệ phong phú, nhưng trên<br />
thực tế tiềm năng đó chưa được khai thác<br />
đúng mức hoặc sử dụng không đúng chuyên<br />
môn đào tạo. Việc phân bổ lực lượng lao động<br />
trí tuệ ở nước ta còn bất hợp lý. Hiện nay, sự<br />
hụt hẫng giữa các thế hệ của đội ngũ cán bộ<br />
khoa học đầu đàn đang diễn ra nghiêm trọng.<br />
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang đối đầu với<br />
tình trạng “chảy máu chất xám”<br />
Hai là, trình độ trí thức ở nước ta hiện nay<br />
nhìn chung còn thấp so với yêu cầu mới của<br />
đất nước và thời đại. Đội ngũ trí thức nước ta<br />
thiếu kiến thức chuyên sâu ở nhiều lĩnh vực<br />
khoa học và công nghệ hiện đại vì điều kiện<br />
và cơ hội tiếp cận với những thành tựu tiên<br />
tiến trên thế giới còn hạn chế.<br />
Từ những thực trạng trên, để phát huy vai<br />
trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đẩy<br />
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở cửa<br />
90<br />
<br />