ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
VŨ THỊ MINH HUYỀN
XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TẠI XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH BẮC GIANG
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI- 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Vũ Thị Minh Huyền
-----------------------
VŨ THỊ MINH HUYỀN
XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TẠI XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH BẮC GIANG
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển
HÀ NỘI- 2015
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban Chấp hành BCH:
Ban Tổ chức BTC:
Ban Tuyên giáo BTG:
Ban Thường vụ BTV:
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng nhân dân HĐND:
Mặt trận Tổ quốc MTTQ:
Tổ chức cơ sở đảng TCCSĐ:
Trung ương TW:
Ủy ban nhân dân UBND:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành
động, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hệ thống tổ chức của Đảng
được chia thành 4 cấp từ TW đến địa phương. Trong hệ thống ấy, TCCSĐ (chi bộ
và đảng bộ cơ sở) là cấp cuối cùng được lập ra ở các xã, phường, thị trấn, cơ quan,
hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và
các đơn vị khác. TCCSĐ giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của
Đảng, là nền tảng, đơn vị cơ bản của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng.
Xã, phường, thị trấn (cấp xã) là đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống
hành chính 4 cấp ở Việt Nam. Ở các xã, phường, thị trấn, TCCSĐ vừa là nơi trực
tiếp thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng thành hành động của đảng viên
và quần chúng nhân dân; vừa là nơi tập hợp những kinh nghiệm, sáng kiến, trí tuệ
của đảng viên và quần chúng nhân dân, thông qua việc thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng. Đồng thời, TCCSĐ cũng là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng nội
bộ Đảng, lựa chọn, bồi dưỡng, rèn luyện, theo dõi và kết nạp đảng viên, đào tạo cán
bộ nhằm bổ sung nguồn lực mới cho TCCSĐ và chính quyền cấp cơ sở. Qua đó,
góp phần tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và đảm bảo sự kế thừa, phát
triển liên tục của Đảng.
Chất lượng của TCCSĐ là yếu tố tiên quyết tạo nên sức mạnh của Đảng và uy tín
của Đảng trước quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, để lãnh đạo
cách mạng, Đảng phải mạnh, “Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là
do các đảng viên hăng hái và gương mẫu” [53, tr.29]. TCCSĐ mạnh hay không
mạnh, việc làm của TCCSĐ và đảng viên tốt hay không tốt đều có tác động mạnh
mẽ đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, “cần phải ra sức
củng cố các chi bộ, để tất cả các chi bộ trở nên thật sự là hạt nhân lãnh đạo của
Đảng ở mọi bộ, mọi ngành, mọi nghề, mọi nơi” [53, tr.30].
Kể từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác xây dựng
TCCSĐ, coi đó là một trong những nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng đầu
1
của công tác xây dựng Đảng. Những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng
TCCSĐ đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Đặc biệt từ khi đất nước bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH, nhiệm vụ xây
dựng Đảng (trong đó có nội dung xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn) được coi
là nhiệm vụ then chốt.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng TCCSĐ vẫn còn hạn chế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng (khóa X) khẳng định: “Năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn
một số khiếm khuyết, yếu kém: nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt
của công tác xây dựng Đảng; không ít TCCSĐ chưa nhận thức và thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ…” [58, tr.1423]. Chính vì thế, việc nâng cao chất
lượng của TCCSĐ một cách toàn diện luôn luôn là một nhiệm vụ chủ yếu trong
công tác xây dựng Đảng, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Bắc Giang là vùng đất có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Tỉnh Bắc Giang nằm gần các trung tâm thương
mại của khu vực phía Bắc, gần thị trường Trung Quốc rộng lớn, có mạng lưới giao
thông đường bộ, đường thủy tương đối thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Bước vào thời kì CNH, HĐH đất nước, tỉnh Bắc Giang đã và đang đạt được những
thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực. Đạt được những thành công ấy, có một
phần đóng góp rất lớn của việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng của
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. Sự phấn đấu bền bỉ ấy thể hiện Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc tỉnh Bắc Giang luôn tin tưởng và thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng Cộng
sản Việt Nam giao phó.
Sau khi tái lập tỉnh (năm 1997), Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn chú trọng thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng
TCCSĐ làm nền tảng cho mọi thắng lợi. Qua thời gian, mô hình TCCSĐ của Đảng
bộ tỉnh Bắc Giang ngày càng hoàn thiện, gồm các loại hình TCCSĐ: xã, phường, thị
trấn; cơ quan hành chính; cơ sở sự nghiệp; doanh nghiệp; quân đội, công an. Trong
đó, số lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn luôn chiếm khoảng 30% tổng số TCCSĐ,
2
với trên 75% số lượng đảng viên của toàn Đảng bộ. Do vậy, Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang luôn quan tâm đến hoạt động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, nhằm
đạt được những thắng lợi trong công tác xây dựng TCCSĐ và xây dựng Đảng nói
chung. Đây chính là một trong những yếu tố góp phần rất lớn cho sự phát triển của
địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, công tác xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang còn một số mặt chưa làm được. Điều
đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tổng hợp, rút ra những kinh nghiệm để giải quyết
các vấn đề đặt ra, nhằm đưa công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Bắc Giang đạt được những kết quả cao hơn.
Với ý nghĩa khoa học thực tiễn đó, đồng thời nhằm tìm hiểu sâu hơn quá trình
xây dựng TCCSĐ ở tỉnh Bắc Giang từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) trong hướng
nghiên cứu khoa học của mình và để thể hiện tấm lòng tri ân đối với mảnh đất nơi
tôi đã sinh ra và trưởng thành, được sự khuyến khích của thầy giáo hướng dẫn, tôi
chọn đề tài: “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang
từ năm 1997 đến năm 2014” để làm Luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu công tác xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ
luôn có ý nghĩa khoa học thực tiễn và mang tính thời sự. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu ở những góc độ khác nhau về xây dựng TCCSĐ, có đề cập đến công tác
xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, gồm những nhóm như sau:
2.1. Các công trình nghiên cứu về Đảng và xây dựng TCCSĐ
Cuốn sách “Về xây dựng Đảng” (Hồ Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1981)
trình bày những tư tưởng của Người về các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ xây dựng
Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ nói chung.
Cuốn sách “Xây dựng Đảng” (Viện Xây dựng Đảng, Học viện CHính trị quốc
gia, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999) là công trình tổng hợp những vấn đề
3
liên quan đến nội dung xây dựng Đảng, trong đó, có đề cập đến vấn đề xây dựng
TCCSĐ. Cuốn sách nêu chức năng và nhiệm vụ của TCCSĐ và một số chủ trương,
biện pháp nâng cao chất lượng TCCSĐ.
Cuốn “Xây dựng Đảng, rèn luyện đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb.
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003) tập hợp các tác phẩm, bài nói, bài viết quan
trọng của Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Đảng và các công trình nghiên cứu khoa học khác.
Trong “Tổ chức cơ sở đảng với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng”
(Nguyễn Cúc, Lê Phương Thảo, Doãn Hùng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004), vấn đề xây dựng TCCSĐ cũng luôn được nhấn mạnh trong cuộc vận động
xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Các cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh” (Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005);
“Xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, giáo dục và nâng cao chất lượng
đảng viên trong thời đại Hồ Chí Minh” (Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2005);
“Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng”
(Thanh Quang, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2009): trình bày những quan
điểm của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến
trình cách mạng; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của một số nhà lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam về nội dung xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong công cuộc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
Trên đây là một số tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến các chủ trương, đường lối
lãnh đạo xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là những tư liệu quan
trọng viết về quá trình xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, trong đó có nội dung
xây dựng TCCSĐ nói chung, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói
riêng.
4
2.2. Những tài liệu liên quan đến sự lãnh đạo, xây dựng TCCSĐ xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Bắc Giang
“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tập I (1925 - 1975) (Tỉnh ủy Bắc Giang, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999)” và “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tập II
(1975 - 2005)” (Tỉnh ủy Bắc Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008): ghi lại
lịch sử vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh; tổng kết những kinh nghiệm
lãnh đạo của Đảng bộ trong 2 chặng đường từ năm 1925 đến năm 1975 và từ năm
1975 đến năm 2005. Trong đó, công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng
TCCSĐ được đề cập đến với vị trí quan trọng trong nhiệm vụ chung của Đảng bộ,
nhất là sau khi tái lập tỉnh Bắc Giang (1997).
“Bắc Giang, những chặng đường lịch sử” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005) là cuốn sách khái quát lịch sử truyền thống của địa phương trong quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc, đậm nét nhất là thời kì từ khi có Đảng lãnh đạo.
Nội dung xây dựng, củng cố TCCSĐ, trong đó có hoạt động xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang được nhấn mạnh từ sau khi đất nước giành được
độc lập, thể hiện sự thường xuyên và liên tục trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng
Đảng của Đảng bộ.
Ngày 17-11-2004, Trường Chính trị Tỉnh Bắc Giang tổ chức Hội thảo Khoa học
“Đánh giá thực trạng, phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của
đảng bộ các xã miền núi tỉnh Bắc Giang”. Hội thảo nghiên cứu khảo sát 163 xã
miền núi; tổng kết thực tiễn 36 đảng bộ xã, 73 chi bộ trên 9 huyện của tỉnh. Tại Hội
thảo, 33 tham luận nêu bật thực trạng và các giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của
TCCSĐ từ lãnh đạo chính quyền, đoàn thế, lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến
việc thực hiện nghị quyết, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, phân công nhiệm
vụ đảng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên… (nguồn: Tổng hợp
qua các báo địa phương (2004), Tạp chí Xây dựng Đảng, số 12 - 2004, trang 46).
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu khác có đề cập đến nội dung xây
dựng TCCSĐ được thực hiện ở Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang, như: “Nâng cao
chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở”, Tạ Văn Thử (1999); “Đào
5
tạo, ồi dưỡng cán ộ cơ sở về xây dựng Đảng và quản l Nhà nước ở tỉnh ắc
iang, thực trạng và giải pháp”, Tạ Văn Thử (2000), “Thực trạng và giải pháp
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn huyện
Yên Thế”, Vũ Cao Hải (2003); “Đánh giá toàn diện về vai trò lãnh đạo của đảng
bộ cơ sở các xã vùng núi trong tỉnh. Nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng từ đó đề
xuất những giải pháp và kiến nghị với các cấp nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến
đấu của các đảng bộ cơ sở, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn”, Nguyễn Xuân Trường (2005); “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ nông thôn trên địa bàn huyện Yên Thế, tỉnh Bắc iang”,
Nguyễn Xuân Cường (2011) (nguồn: Tổng hợp Kết quả hoạt động khoa học từ
1997 - 2011 trường Chính trị Tỉnh Bắc Giang, đăng trên trang web Trường Chính
trị tỉnh Bắc Giang:
http://truongchinhtribg.gov.vn/home/vi/news/Hoat-dong/Ket-qua-hoat-dong-
khoa-hoc-tu-nam-1997-den-2011-cua-truong-Chinh-tri-26).
Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng ở tỉnh Bắc Giang cũng đã được đề cập và
nghiên cứu trong các Khóa luận Tốt nghiệp Đại học, Luận văn Thạc sĩ như:
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam “Đảng bộ
Thị xã Bắc iang lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1996 - 2000”
(Nguyễn Thanh Xuân, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội,
2006): trình bày những chủ trương xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
(1996 - 2000); tổng kết quá trình thực hiện công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ thị
xã Bắc Giang và khẳng định những đóng góp của Đảng bộ thị xã trong sự phát triển
chung của tỉnh.
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam“Đảng bộ
tỉnh Bắc iang lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng thời kỳ 2001 - 2006”
(Nguyễn Thi Hường, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội,
2010): trình bày những chủ trương và biện pháp chỉ đạo cũng như những thành tựu
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã đạt được trong lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng
Đảng (2001 - 2006); đưa ra những nhận xét khách quan về công tác xây dựng Đảng
6
của Đảng bộ cũng như rút ra những kinh nghiệm lịch sử trong thực hiện nhiệm vụ
xây dựng Đảng,
Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, “Đảng bộ
huyện Lục Nam (Bắc Giang) thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ
năm 2005 đến năm 2010” (Chu Thị Lụa, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Hà Nội, 2012): đề cập đến những chủ trương xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang (2005 - 2010); trình bày quá trình xây dựng TCCSĐ của Huyện ủy
Lục Nam (Bắc Giang) từ năm 2005 đến năm 2010; nêu ra những nhận xét và rút ra
kinh nghiệm về công tác xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ huyện Lục Nam.
Luận văn Thạc sĩ ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước “Công tác
phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh Bắc Giang
giai đoạn hiện nay” (Nguyễn Thị Thu Hiền, mã số 60 31 02 03, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Hà Nội, 2012): trình bày quan niệm, vai trò và các bước tiến hành
công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh
Bắc Giang; phân tích, đánh giá thực trạng công tác phát triển đảng viên là người dân
tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của tỉnh từ năm 2006 đến năm 2011, qua đó xác định
nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm thực tế; đề xuất một số giải pháp đẩy
mạnh công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã của
tỉnh Bắc Giang đến năm 2015.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam “Công tác xây
dựng đội ngũ đảng viên của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 2000 đến năm 2010”
(Đinh Hữu Thuận, mã số 60 22 03 15, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân
văn, Hà Nội, 2014): trình bày những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên từ năm 2000 đến năm 2010; đưa
ra những đánh giá về thành tựu, hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đúc rút kinh
nghiệm về quá trình xây dựng đảng viên của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
Trên đây là một số công trình nghiên cứu về lịch sử tỉnh Bắc Giang, có đề cập
đến công tác xây dựng TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn, cung cấp cho tác giả những
nội dung quan trọng và cách nhìn tổng quát nhất cho việc nghiên cứu đề tài.
7
2.3. Những vấn đề các công trình nghiên cứu chưa làm sáng tỏ
Những công trình trên mới chỉ góp phần cung cấp hệ thống quan điểm, chủ
trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác xây dựng Đảng. Các vấn
đề liên quan đến nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ,
hoạt động xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang mới được đề
cập một cách sơ lược, khái quát trong những công trình này.
Các công trình chưa nghiên cứu công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn
ở Đảng bộ tỉnh Bắc Giang một cách sâu rộng cả về không gian (tỉnh Bắc Giang) và
thời gian. Hầu hết, những chủ trương và biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng
TCCSĐ nói chung, xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng mới chỉ được
thể hiện ở các địa phương cụ thể trong các công trình nghiên cứu, chưa đem đến cái
nhìn toàn cảnh và rõ nét về vấn đề xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc
Giang.
2.4. Những vấn đề Luận văn cần đi sâu nghiên cứu
Từ những tài liệu sưu tầm và nghiên cứu, tác giả nhận thấy cần phải đi sâu
nghiên cứu những chủ trương, biện pháp thực hiện và thành tựu đạt được của Đảng
bộ tỉnh Bắc Giang trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Luận văn
hi vọng sẽ khắc họa rõ nét thêm những thành tựu và hạn chế, rút ra những kinh
nghiệm lịch sử trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ
xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014. Từ
đó, rút ra được những kinh nghiệm trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn nói riêng và trong công tác xây dựng TCCSĐ nói chung.
8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm, hệ thống hóa tư liệu và tổng hợp các tư liệu về quá trình xây dựng,
củng cố TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
- Trình bày hệ thống các chủ trương, biện pháp và việc thực hiên nhiệm vụ xây
dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến
năm 2014.
- Nêu lên những nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế và rút ra những kinh
nghiệm về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác xây
dựng Đảng, nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ, trong đó có công tác xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn.
- Quá trình chỉ đạo thực hiện và kết quả xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn
của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Bắc Giang
- Thời gian: Đề tài giới hạn phạm vi thời gian nghiên cứu từ năm 1997 (tái lập
tỉnh Bắc Giang) đến năm 2014 (mốc dừng tương đối của sự nghiên cứu).
- Nội dung nghiên cứu:
+ Những điều kiện ảnh hưởng đến công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn ở Bắc Giang.
+ Những chủ trương và biện pháp chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công
tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
9
+ Công tác xây dựng tổ chức ở các chi bộ, đảng bộ cơ sở (loại hình xã, phường,
thị trấn) trong tỉnh Bắc Giang.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2015, nhất là các
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), IX (2001), X (2006), XI
(2011) của Đảng.
- Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm
2015.
- Các đề án, nghị quyết, kế hoạch, báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng hàng
năm của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2015.
- Các sách, báo, tạp chí nghiên cứu về Lịch sử Đảng và Xây dựng Đảng…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic làm phương
pháp nghiên cứu chính.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê,
so sánh, tổng hợp, phân tích số liệu… để làm rõ nội dung và đánh giá việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang.
6. Đóng góp của Luận văn
- Luận văn trình bày những chủ trương và biện pháp thực hiện của Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang về công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, từ năm 1997 đến
năm 2014.
- Trên cơ sở những nhận xét, Luận văn rút ra những kinh nghiệm lịch sử về công
tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
- Luận văn cung cấp một số tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu về công
tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang.
10
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, cấu trúc của Luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bắc Giang thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2005.
Chương 2: Tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng tại xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Bắc Giang từ năm 2006 đến năm 2014.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
11
Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Những yếu tố tác động đến nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã,
phƣờng, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang và chủ trƣơng của Đảng bộ
1.1.1. Những yếu tố tác động
- Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và yêu cầu của công tác xây dựng
TCCSĐ
Đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH kể từ năm 1996,
song nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa bền vững. Báo cáo Chính trị Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) nhận định, trong 10 năm đổi mới,
Đảng đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới một cách đúng
đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đã có chủ trương và biện pháp đổi mới,
chỉnh đốn Đảng gắn với nhiệm vụ và biện pháp đổi mới, chỉnh đốn Đảng gắn với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn hệ thống chính trị; Đổi mới một bước
tổ chức cán bộ, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, ngăn
chặn được sự sa sút, yếu kém của nhiều TCCSĐ, bước đầu cải tiến phương thức
lãnh đạo và phong cách công tác. Công tác kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ
đảng viên và việc xử lý kỷ luật Đảng có tiến bộ [58, tr.1340-1341].
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều mặt yếu kém và khuyết điểm:
“Đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý
chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống, một số thoái hóa về
chính trị; trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới. Còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được làm
12
sáng tỏ; TCCSĐ ở nhiều nơi còn yếu kém; phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng
túng, có tình trạng vừa kém dân chủ vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương; công tác kiểm tra
việc chấp hành đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị quyết của Đảng chưa được chú
trọng” [58, tr.1341-1342].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh
nhiệm vụ cần phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục những yếu kém và tiêu cực: “Đảng
phải mạnh từ TW đến cơ sở, ở tất cả các cấp, các ngành. Trong công tác xây dựng
Đảng, cần phải thường xuyên nắm vững và quán triệt các nhiệm vụ sau: giữ vững
và tăng cường bản lĩnh giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
và năng lực cán bộ đảng viên; kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú
trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận; nâng cao
sức chiến đấu của TCCSĐ, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” [58,
tr.1342].
Từ ngày 25-1 đến ngày 2-2-1999, Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCH TW Đảng
Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) diễn ra tại Hà Nội, thông qua Nghị quyết “Về một
số vấn đề cơ ản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết
đề ra 10 nhiệm vụ xây dựng Đảng, trong đó có công tác xây dựng TCCSĐ cùng các
giải pháp cụ thể, đồng bộ và kiên quyết nhằm xây dựng và chỉnh đốn tổ chức đảng.
Nhiều nghị quyết của TW Đảng đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Toàn
Đảng tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) BCH TW Đảng (khóa
VIII) [45, tr.71].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), nhiệm vụ xây
dựng Đảng càng được chú trọng hơn, trong đó có nhiệm vụ xây dựng, củng cố các
TCCSĐ: “Tất cả các đảng bộ, chi bộ đều phải phấn đấu thực hiện đúng chức năng là
hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Các cấp ủy trên phải tập trung chỉ đạo củng cố
13
các đảng bộ, chi bộ yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp ủy và tăng cường cán bộ ở
những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết; Nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp ủy; Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy
vai trò tiên phong gương mẫu; giữ mối liên hệ với quần chúng ở nơi công tác, với
chi bộ và nhân dân nơi cư trú; Phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn; Đổi mới
việc phân tích, đánh giá chất lượng các TCCSĐ và đảng viên” [45, tr.55].
Ngày 18-3-2002, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khóa IX) “Về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”
được ban hành. Nghị quyết đề cập đến 6 nội dung: Đổi mới và nâng cao chất lượng
của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở. Đổi mới và nâng cao hiệu
lực của chính quyền cơ sở. Đổi mới công tác mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở [7].
Trong mỗi nội dung, Nghị quyết đưa ra những nhiệm vụ cần thực hiện cụ thể đối
với các TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
Những yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và các chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng chính là nền tảng để
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang có những định hướng xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn phù hợp với điều kiện địa phương ngay sau khi tái lập.
- Tình hình tỉnh Bắc Giang và vấn đề xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn
Tại kì họp lần thứ 10 (6-11-1996), Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết chia tỉnh Hà
Bắc ra làm 2 tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Bộ Chính trị ra quyết định thành lập
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang và chỉ định BCH (lâm thời) Đảng bộ tỉnh. “Tỉnh Bắc Giang
chính thức đi vào hoạt động và làm việc theo đơn vị hành chính mới từ ngày 1-1-
1997” [3, tr.338]. Như vậy, từ năm 1997, Bắc Giang bước sang giai đoạn phát triển
mới, với nhiều thuận lợi và khó khăn.
14
Về thuận lợi:
Trước hết, Bắc Giang là vùng đất có truyền thống văn hiến lâu đời. “Kể từ khi
có Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, những truyền thống tốt đẹp của nhân dân các dân tộc
Bắc Giang được phát huy mạnh mẽ và nhân lên gấp bội, góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp chống Pháp, chống Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân
tộc tỉnh Bắc Giang đang bền bỉ và quyết tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH để xây dựng quê hương ngày càng thêm
giàu mạnh” [3, tr.5].
Hai là, sau hơn 10 năm (1986 - 1996) thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh nỗ lực phấn đấu tạo nên sự phát triển mới cho nền
kinh tế trong tỉnh: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt khá, cơ cấu kinh tế
chuyển biến theo hướng tích cực, cơ chế quản lý có chuyển biến tiến bộ. Cùng với
sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân trong tỉnh được cải thiện từng bước.
Ba là, công tác xây dựng chính quyền, đoàn thể và TCCSĐ, trong đó có TCCSĐ
xã, phường, thị trấn đạt nhiều kết quả; năng lực tổ chức chỉ đạo và trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ từng bước được nâng cao. Tính đến tháng 1-
1997, tỉnh Bắc Giang có 211 đảng bộ xã, phường, thị trấn trong tổng số 740
TCCSĐ. Công tác xây dựng TCCSĐ được Đảng bộ tỉnh chỉ đạo thực hiện gắn liền
với nhiệm vụ củng cố các cơ sở đảng yếu kém. Năm 1996, số lượng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn đạt trong sạch, vững mạnh tăng, chiếm 53,3%, đồng thời số lượng
TCCSĐ yếu kém giảm xuống còn 3,4% [61, tr.10]. Trong quá trình thực hiện xây
dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn, đội ngũ cán bộ của Đảng bộ có nhiều kinh
nghiệm quý báu, để phát huy trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở những
năm tiếp theo.
Những thành tựu trên tạo nhiều điều kiện thuận lợi để Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ, trong đó có nhiệm vụ xây dựng
TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
15
Bên cạnh những thuận lợi, tỉnh Bắc Giang mới tái lập cũng gặp rất nhiều khó
khăn:
Thứ nhất, nền kinh tế tuy có bước phát triển song ở điểm xuất phát thấp. Cơ cấu
kinh tế chuyển đổi chậm, công nghiệp quốc doanh địa phương nhỏ bé, năng lực
thiết bị, trình độ công nghệ lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn
thấp kém, nhiều vấn đề xã hội chưa có biện pháp giải quyết hiệu quả. Những điều
kiện kinh tế này ảnh hưởng đến sự thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng
tại các cấp cơ sở. Đời sống nhân dân còn khó khăn, vì thế tập trung vào phát triển
kinh tế, thiếu điều kiện để tham gia xây dựng TCCSĐ, nhất là TCCSĐ cấp xã,
phường, thị trấn ở địa phương mình.
Thứ hai, Bắc Giang mới được tái lập chính thức từ ngày 1-1-1997, các cơ quan
lãnh đạo được kiện toàn, song sự hoạt động của bộ máy chính quyền còn chưa thực
sự đi vào “guồng”. Bởi sau khi tách tỉnh, có nhiều vấn đề nảy sinh phức tạp, cần
phải giải quyết, trong đó có vấn đề phân chia địa giới hành chính và quản lý dân cư
ở các vùng giáp ranh tỉnh Bắc Ninh.
Thứ ba, Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn nhiều yếu kém: “Một số
TCCSĐ được công nhận là trong sạch, vững mạnh nhưng kinh tế địa phương chậm
phát triển, đời sống nhân dân chưa được cải thiện, tiêu cực xã hội còn nhiều phức
tạp; Có nơi còn vi phạm pháp luật, cá biệt có cán bộ, đảng viên vi phạm phải truy tố
trước pháp luật; Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng và nhân dân còn
hạn chế, nội dung sinh hoạt chưa cải tiến, chất lượng nâng lên chậm, tinh thần tự
phê bình và phê bình chưa cao, còn hữu khuynh tránh né; Lãnh đạo xây dựng chính
quyền, đoàn thể nhân dân chưa được chú trọng đúng mức; Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ còn thiếu quan tâm, một số cơ sở chưa thực sự phát huy dân chủ trong
sinh hoạt Đảng và thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương” [61, tr.2].
Về xây dựng TCCSĐ, tỷ lệ TCCSĐ đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh các
năm thấp. Bên cạnh đó, tỉnh Bắc Giang vẫn còn 25 TCCSĐ yếu kém, trong đó về
TCCSĐ xã, phường, thị trấn yếu kém chiếm tới 92%, ở các đơn vị sau: Lục Ngạn 5;
Lục Nam 11; Sơn Động, Yên Dũng, Tân Yên, mỗi đơn vị 2; Yên Thế 1 cơ sở. Ở
16
những TCCSĐ yếu kém, vai trò lãnh đạo của Đảng đạt hiệu quả thấp; Có nơi nội bộ
mất đoàn kết, nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng bị buông lỏng; cán bộ, đảng
viên thiếu gương mẫu, một số vi phạm pháp luật, nhất là Luật Đất đai, làm giảm
lòng tin đối với quần chúng nhân dân [61, tr.2].
Những khó khăn về kinh tế - xã hội, cũng như những sự hạn chế trong công tác
xây dựng Đảng đặt ra những yêu cầu mới cho Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. Đặc biệt để
tiếp tục thực hiện xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, Đảng bộ tỉnh cần phải tìm
hiểu rõ những vấn đề phát sinh, cần giải quyết; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa
nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn và các loại hình TCCSĐ khác vững
mạnh, tạo niềm tin vững chắc với nhân dân trong tỉnh, gắn liền với nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội.
Đánh giá được những thuận lợi và khó khăn đó, ngay sau khi tái lập tỉnh, Tỉnh ủy
lãnh đạo, chỉ đạo việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức của các cơ quan Đảng, chính
quyền, đoàn thể, cũng như các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội để đưa hoạt động của
tỉnh từng bước đi vào nền nếp.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ
Sau ngày tái lập tỉnh, Tỉnh ủy Bắc Giang đề ra phương hướng, nhiệm vụ và các
biện pháp cụ thể lãnh đạo việc ổn định tình hình sau khi chia tách tỉnh và tổ chức
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Ngày 19-9-1997, Tỉnh ủy Bắc
Giang (lâm thời) ban hành Kế hoạch số 19-KH/TU“Tiếp tục xây dựng và nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố cơ sở đảng yếu
kém”. Kế hoạch tổng kết tình hình xây dựng TCCSĐ trước năm 1997; kết luận
những thành tựu đạt được và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế. Từ đây, Kế
hoạch đặt ra những yêu cầu:
Thứ nhất, Tăng cường sự đoàn kết trong Đảng và nhân dân về đường lối của
Đảng, về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không
dao động trước khó khăn và âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
17
Thứ hai, Nâng cao chất lượng sự đổi mới, chỉnh đốn Đảng với nội dung toàn
diện, tăng cường bản chất công nhân, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ,
chỉnh đốn hệ thống tổ chức, xây dựng và thực hiện chiến lược cán bộ đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH.
Thứ ba, Xây dựng TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh, phải gắn với xây dựng
chính quyền trong sach, vững mạnh, đổi mới phương thức hoạt động của các đoàn
thể nhân dân; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, phát huy dân chủ trong nhân dân.
Thứ tư, Xây dựng Đảng gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị,với trọng tâm là
phát triển kinh tế, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, qua đó, tạo niềm tin của dân
với Đảng [61, tr.4].
Với những yêu cầu thực hiện trên, Kế hoạch số 19-KH/TU đặt ra mục tiêu:
“Phấn đấu đến năm 2000, số TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh đạt trên 60%, giảm
tỷ lệ cơ sở đảng yếu kém đến mức thấp nhất” [61, tr.4]. Kế hoạch xây dựng những
nội dung chủ yếu xây dựng TCCSĐ: Công tác tư tưởng; Lãnh đạo thực hiện các
nhiệm vụ chính trị chủ yếu ở cơ sở; Xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ đảng
viên; Xây dựng cơ quan chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở vững mạnh;
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong đó, ở nội dung “Lãnh đạo thực
hiện các nhiệm vụ chính trị chủ yếu ở cơ sở”, Kế hoạch yêu cầu từng TCCSĐ tập
trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị theo chức năng nhiệm vụ của mình, đề
cập tới loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn: “TCCSĐ ở xã tập trung lãnh đạo xây
dựng và thực hiện chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; nâng cao hiệu
quả chất lượng sản phẩm. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa và
CNH, HĐH, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng công trình phúc lợi, phát
triển sự nghiệp giáo dục, y tế, giảm tỷ lệ tăng dân số, cải thiện đời sống nhân dân.
Chuyển đổi và phát triển các hình thức hợp tác ở nông thôn theo Luật Hợp tác xã.
TCCSĐ ở phường, thị trấn tập trung lãnh đạo xây dựng chương trình mục tiêu, biện
pháp hướng dẫn nhân dân phát triển kinh tế, đầu tư các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
18
dịch vụ… đúng pháp luật, tạo thêm việc làm. Tăng cường công tác quản lý đô thị,
bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh có hiệu quả với các tiêu cực, các
tệ nạn xã hội, đặc biệt là nghiện hút, mại dâm… Xây dựng gia đình văn hóa và bảo
vệ môi trường sống” [61, tr.4]. Nội dung “Xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán
bộ, đảng viên” nêu: “Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, coi trọng chất lượng,
khắc phục tình trạng không có đảng viên, chi bộ, tổ chức đảng ở một số thôn, bản,
trường học…” [61, tr.6]. Nội dung “Xây dựng cơ quan chính quyền và các đoàn thể
nhân dân ở cơ sở vững mạnh” nêu: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng…
Xây dựng MTTQ và các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là Đoàn Thanh niên vững
mạnh. Lãnh đạo đổi mới phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân, bảo
đảm các đoàn thể hoạt động đúng điều lệ, chăm lo lợi ích chính đảng của đoàn viên,
hội viên, phát huy tính chủ động sáng tạo của đoàn thể trong việc vận động quần
chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị; tích cực tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh” [61, tr.6]. Kế hoạch số
19-KH/TU ngày 19-9-1997 chính là những nét phác đầu tiên cho các đảng bộ, chi
bộ ở xã, phường, thị trấn trong tỉnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng, củng cố TCCSĐ.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7-11-
1997, thảo luận báo cáo công tác của Đảng bộ từ khi tỉnh được tái lập, xây dựng
phương hướng nhiệm vụ công tác của Đảng bộ nhiệm kỳ XV (1997- 2000). Bên
cạnh những mục tiêu phát triển về kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới, Đại hội quyết
định đặt công tác xây dựng Đảng vào đúng vị trí then chốt, tăng cường củng cố cơ
sở đảng, phấn đấu 60% số cơ sở đảng đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng bộ máy Nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân [3, tr.344].
Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh (12-2000) tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tạo chuyển biến toàn diện trên cả ba
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số vấn
đề sau:
19
1- Đổi mới và tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng: làm cho mỗi cán
bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, để nâng cao bản lĩnh chính trị, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động,
thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong đó chú trọng giáo dục, quán
triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế trong giai đoạn mới, đổi mới nếp nghĩ, cách làm trong các cấp ủy
Đảng, trong từng cán bộ, đảng viên để lãnh đạo và thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển
kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế ngay từ địa phương.
2-Củng cố kiện toàn, nâng cao chất lượng công tác tổ chức của Đảng và rèn
luyện đội ngũ đảng viên. Tập trung chỉ đạo sắp xếp lại tổ chức, bộ máy các cơ quan
của Đảng, gắn với cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả
theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng (khóa VIII).
Nâng cao chất lượng TCCSĐ đã đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh, củng cố
cơ sở đảng yếu kém. Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết nội
bộ.
Các cấp ủy và tổ chức đảng phải thường xuyên làm tốt công tác quản lý đảng
viên. Thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ Chính trị về việc đảng viên đang công
tác ở cơ quan doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi
ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Mỗi cán
bộ, đảng viên phải gương mẫu, rèn luyện đạo đức lối sống, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, đồng thời vận động gia đình và người thân thực hiện. Đẩy mạnh
công tác phát triển đảng viên mới, trong đó coi trọng kết nạp những đảng viên mới
là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, công nhân, trí thức, dân tộc thiểu số,
cán bộ nữ và ở vùng cao, vùng sâu...
3-Thường xuyên chăm lo làm tốt công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh theo đúng chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
20
đất nước. Thực hiện tốt các quy định, quy chế về công tác cán bộ, làm tốt công tác
tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển gắn với sử dụng và quản lý
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ ở cơ sở, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Chú trọng công tác tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo cán bộ kế cận trong độ tuổi
thanh niên ngay từ ở nhà trường. Quan tâm đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo
và quản lý bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển. Chú trọng đổi mới tư duy,
nâng cao năng lực sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm trong đội ngũ
cán bộ để đáp ứng kịp yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Tiếp tục thực hiện tốt
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của
tổ chức đảng. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác bảo mật của
Đảng.
4-Tăng cường công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng.
Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên quan tâm làm tốt công tác kiểm tra. Uỷ ban
kiểm tra các cấp chủ động tham mưu giúp cấp uỷ xây dựng kế hoạch kiểm tra theo
đúng quy định của Điều lệ Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra đảng viên và tổ
chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết nghiêm túc, kịp thời các
đơn, thư tố cáo cán bộ, đảng viên. Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng của Ủy
ban kiểm tra các cấp, chú ý đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với
cán bộ kiểm tra. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất, năng lực, trung
thực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
5-Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc lề lối làm việc nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác lãnh
đạo.
Trước hết các cấp ủy Đảng phải quan tâm làm tốt công tác tổ chức cán bộ, để
lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm
túc quy chế làm việc của cấp ủy. Trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phải bảo đảm
giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Đề cao trách nhiệm và nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống tổ chức đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan nhà
21
nước và đoàn thể nhân dân trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
của cơ quan.
Duy trì nền nếp hoạt động của các cấp ủy theo chương trình, kế hoạch công tác
đã đề ra. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác văn phòng,
trong đó quan tâm đúng mức đến công tác văn phòng ở các TCCSĐ. Chú trọng
công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết của cấp ủy trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ.
6-Nâng cao hiệu quả tổ chức chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng.
Các cấp ủy và tổ chức đảng các cấp phải đặc biệt coi trọng công tác tổ chức chỉ
đạo nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nghị quyết, đưa nghị quyết đi vào cuộc sống.
Phải cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành các chương trình, kế hoạch
hoạt động của từng cấp, từng ngành. Các nội dung, nhiệm vụ đề ra sát đúng với tình
hình ở từng địa phương; khắc phục tình trạng dập khuôn, sao chép của cấp trên một
cách máy móc. Trong từng thời gian phải chọn những khâu, những việc trọng tâm
để tập trung chỉ đạo thực hiện dứt điểm. Phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cấp
ủy viên, quy định rõ thời gian, thời điểm hoàn thành. Gắn kết quả thực hiện nhiệm
vụ với đánh giá, phân loại cán bộ. Trong quá trình thực hiện nghị quyết, chú trọng
công tác kiểm tra, định kỳ thời gian sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm. Thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ cương trong lãnh đạo, kiên quyết xử lý
kịp thời và nghiêm minh tập thể và cá nhân vi phạm [4, tr.37-40].
Ngày 30-9-2002, BTV Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 24-KH/TU “ a xây, a
chống”, bao gồm các nội dung: Xây dựng tỉnh tiền phong, gương mẫu trong học
tập, lao động và công tác; Xây dựng lối sống giản dị, trọng sạch, quần chúng; Xây
dựng tinh thần đoàn kết, kỷ luật, kỷ cương. Chống tham nhũng; Chống quan liêu;
Chống lãng phí [10, tr.2]. Kế hoạch phát động một phong trào thi đua khá sâu rộng,
tác động trực tiếp đến nhận thức và hành động của đông đảo đảng viên và nhân dân
trong tỉnh.
22
1.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh và kết quả đạt đƣợc
1.2.1. Sự chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn như sau:
- Đổi mới công tác chính trị, tư tưởng trong đảng viên và quần chúng
Kế hoạch số 19-KH/TU ngày 19-9-1997 của Tỉnh ủy (lâm thời) đặt nhiệm vụ
công tác tư tưởng là hàng đầu trong hệ thống giải pháp. Kế hoạch nêu rõ, phải:
“Tăng cường công tác chính trị tư tưởng; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính
sách của Nhà nước phải được quán triệt đến các cơ sở đảng, đảng viên và đông đảo
nhân dân; Duy trì đều việc phổ biến thông tin thời sự, các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước tới TCCSĐ, đảng viên. Nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của
đảng viên và nhân dân để có biện pháp kịp thời trong công tác tư tưởng; Coi trọng
bồi dưỡng nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
bản chất giai cấp công nhân của Đảng cho cán bộ, đảng viên, kiên quyết đấu tranh
với các quan điểm sai trái; Làm cho cấp ủy Đảng và đảng viên nhận thức sâu sắc
việc xây dựng TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng của tổ
chức đảng, đảng viên trong việc thực hiện Điều lệ Đảng và đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ mới” [61, tr.5].
Kế hoạch số 19-KH/TU phân công những chức năng, nhiệm vụ chính trị cụ thể
của từng loại hình TCCSĐ, cụ thể đối với loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn
như sau:
TCCSĐ ở xã: Xây dựng và thực hiện chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội; nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản
xuất; Tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng công trình phúc lợi, phát triển
giáo dục, y tế, giảm tỷ lệ tăng dân số, cải thiện đời sống nhân dân.
TCCSĐ ở phường, thị trấn: Xây dựng chương trình mục tiêu phát triển kinh tế,
đầu tư các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… đúng pháp luật; Tăng cường công
23
tác quản lý đô thị, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội; Đấu tranh có hiệu quả
các tiêu cực, tệ nạn xã hội, đặc biệt là nghiện hút, mại dâm [61, tr.4-5].
Đến Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh (5-2000), nhiệm vụ đổi mới
công tác chính trị, tư tưởng trong TCCSĐ càng được chú trọng quan tâm hơn. Đảng
bộ tỉnh Bắc Giang xác định nhiệm vụ đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
là quan trọng hàng đầu trong nhiệm vụ xây dựng Đảng. Theo đó, toàn tỉnh thực
hiện:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài. Củng cố,
kiện toàn, nâng cao chất lượng công tác giảng dạy và học tập tại Trường Chính trị
tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên,
xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị, chống các biểu hiện tha hoá về
đạo đức lối sống. Tăng cường giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng, bảo vệ Đảng,
chính quyền và nhân dân, phê phán những biểu hiện tư tưởng lệch lạc, sai trái, ảnh
hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Thứ ba, duy trì nền nếp, chế độ thông tin, phổ biến quán triệt nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên. Đổi mới nội dung,
phương pháp, nâng cao chất lượng công tác báo chí xuất bản, phát thanh truyền
hình, truyền thanh, thông tin cổ động, bảo đảm đúng định hướng, phù hợp với từng
đối tượng, địa bàn, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng, thiết thực của đảng viên và
nhân dân. Đẩy mạnh phong trào mua, đọc và làm theo báo, tạp chí của Đảng [4,
tr.89].
BTG Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành đều đặn Thông tin nội bộ của Tỉnh ủy tới các
chi bộ, tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng nói chung và Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang nói riêng, phục vụ cho sinh hoạt chi bộ. Hàng tháng, mỗi chi bộ
được phát hành 01 số Thông tin nội bộ của BTG Tỉnh ủy và một số Thông tin nội
24
bộ của BTG huyện ủy mà các TCCSĐ xã, phường, thị trấn đó trực thuộc. Đây chính
là cơ sở để xây dựng những nội dung cần bàn trong sinh hoạt chi bộ hàng tháng.
Đồng thời, đó cũng là một biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng hiệu quả đến từng
đảng viên.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán ộ cơ sở, xây dựng cơ quan chính quyền cơ
sở vững mạnh
Kế hoạch số 19-KH/TU yêu cầu: “Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ. Kiện toàn thay thế những cán bộ yếu về năng lực, kém về phẩm chất
đạo đức. Xây dựng tập thể cấp ủy vững mạnh, đặc biệt là người đứng đầu. Chuẩn bị
tốt đội ngũ cấp cơ sở, đáp ứng chiến lược cán bộ thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước” [61, tr.6].
Thường xuyên chăm lo làm tốt công tác cán bộ cũng là một trong những nhiệm
vụ mà Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh chú trọng thực hiện. Đại hội
yêu cầu: “Thực hiện tốt các quy định, quy chế về công tác cán bộ, làm tốt công tác
tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển gắn với sử dụng và quản lý
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ ở cơ sở, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Chú trọng công tác tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo cán bộ kế cận trong độ tuổi
thanh niên ngay từ nhà trường. Quan tâm đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo
và quản lý, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển” [4, tr.91].
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khóa IX) ngày 18-3-
2002 “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”, Tỉnh ủy Bắc Giang chủ trương cử các cán bộ đi học tập, bồi dưỡng chuyên
môn hàng năm. Đồng thời, tại các TCCSĐ xã, phường, thị trấn, Đảng bộ tỉnh chỉ
đạo thực hiện mở các lớp bồi dưỡng chính trị tại trường Chính trị tỉnh và các trung
tâm bồi dưỡng chính trị ở các huyện, đảm bảo bồi dưỡng tối thiểu các cán bộ cơ sở
2 lần trong một nhiệm kỳ [5, tr.74].
Từ năm 2004, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tổ chức cuộc thi “ í thư chi bộ giỏi” ở
các cấp đảng bộ xã, phường, thị trấn, huyện và cấp tỉnh hàng năm. Đây cũng chính
25
là một biện pháp nhằm nâng cao trình độ chính trị và năng lực lãnh đạo của các bí
thư chi bộ.
- Phát triển đảng viên trong TCCSĐ xã, phường, thị trấn
Phát triển đảng viên là phát triển về con người, là một bộ phận trong chiến lược
con người của Đảng, bộ phận đặc biệt quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo vững chắc
và có hiệu quả của Đảng đối với toàn xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ bồi dưỡng quần
chúng ưu tú và kết nạp vào Đảng luôn được Đảng bộ tỉnh Bắc Giang quan tâm, chú
trọng.
Kế hoạch số 19-KH/TU ngày 19-9-1997 của Tỉnh ủy (lâm thời) nhấn mạnh
nhiệm vụ: “Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, coi trọng chất lượng, khắc
phục tình trạng không có đảng viên, chi bộ, tổ chức đảng ở một số thôn, bản…; Các
cấp ủy trên cơ sở có biện pháp nắm chắc diễn biến ở cơ sở, coi đây là nhiệm vụ
trọng tâm, thường xuyên, phân công ủy viên BTV và cấp ủy viên trực tiếp phụ trách
cơ sở xây dựng kế hoạch, chương trình làm việc cụ thể” [4, tr.7].
Đoàn viên, thanh niên chính là tầng lớp kế cận của Đảng. Việc thực hiện giáo
dục và bồi dưỡng chính trị đoàn viên, thanh niên ở địa phương chính là tạo nguồn
cho sự phát triển đảng viên trong các TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Đại hội đại biểu
lần thứ XV của Đảng bộ nhấn mạnh Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các
cấp cần: “Tăng cường giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống cho thanh
thiếu niên, nhi đồng; Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào “Thanh niên lập
nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước”; Khơi dậy trong thanh niên ý chí tự lực, tự cường,
không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, tích cực học tập, lao động, sáng tạo, hăng hái
tiến quân vào khoa học kỹ thuật; phát huy vai trò xung kích đi đầu và hăng hái tình
nguyện trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, an ninh, quốc
phòng, đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội” [3, tr.85].
Hàng năm, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành các kế hoạch tổ chức các lớp học bồi
dưỡng kiến thức về Đảng ở các huyện, giáo dục chính trị và lý tưởng của Đảng cho
quần chúng ưu tú và tổ chức theo dõi, kết nạp họ vào Đảng. Nhiệm vụ phát triển
26
đảng viên không chỉ được Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đề ra trong các kế hoạch hàng
năm, mà còn là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp hạng TCCSĐ. Hướng dẫn
đánh giá TCCSĐ của BTC Tỉnh ủy quyết định xếp hạng TCCSĐ là yếu kém nếu “3
năm liền không phát triển được đảng viên (đối với những nơi có nguồn kết nạp)”
[64, tr.7].
- Tổ chức kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng
“Sức mạnh của Đảng, của mỗi đảng bộ và đảng viên không chỉ ở ưu điểm mà
còn ở chỗ nhận rõ và sửa chưa bằng được những vấn đề tồn tại, những sai lầm
khuyết điểm, và tự vượt lên chính bản thân mình” [73, tr.176]. Nắm vững quan
điểm đó, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn coi công tác tổ chức kiểm tra, giám sát và thi
hành lỷ luật của Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nhằm xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh. Kế hoạch số 19-KH/TU yêu cầu: “Duy trì việc thực
hiện quy chế có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, tự phê
bình và phê bình; Tăng cường quản lý đảng viên nơi công tác và cư trú, đảng viên
làm kinh tế tư nhân, đảng viên đi nước ngoài và có quan hệ làm việc trực tiếp với
người nước ngoài, đảng viên hoạt động ở vùng giáo; Tăng cường công tác kiểm tra
và kỷ luật của Đảng, giúp đỡ kịp thời tổ chức đảng và đảng viên sửa chữa khuyết
điểm, phát huy ưu điểm hoàn thành tốt nhiệm vụ; Xử lý nghiêm minh tổ chức đảng
và đảng viên vi phạm pháp luật; Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ” [61, tr.5-
6]. Kế hoạch đề ra biện pháp: “Rà soát đánh giá toàn diện các TCCSĐ: Đối với cơ
sở Đảng trong sạch, vững mạnh, xác định mặt mạnh, mặt yếu và hạn chế, đề ra biện
pháp khắc phục, tiếp tục vươn lên. Đối với cơ sở đảng khá hoặc yếu kém, cần xác
định rõ những mặt yếu kém, tìm ra nguyên nhân, từ đó có chương trình kế hoạch và
biện pháp khắc phục, phấn đấu giải quyết dứt điểm từng nội dung yếu kém; BTC
các cấp ủy Đảng cụ thể hóa 5 tiêu chuẩn và tiêu thức đánh giá, quy trình đăng ký,
xét duyệt công nhận tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh đối với các loại hình
TCCSĐ và hướng dẫn các cơ sở đảng thực hiện; Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp
ủy cấp trên, sơ kết rút kinh nghiệm, biểu dương khen thưởng kịp thời đối với các
TCCSĐ có thành tích trong công tác xây dựng Đảng” [61, tr.6-7].
27
Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ đề ra các giải pháp: “Uỷ ban kiểm tra
các cấp chủ động tham mưu giúp cấp uỷ xây dựng kế hoạch kiểm tra theo đúng quy
định của Điều lệ Đảng; Tăng cường công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng
cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết nghiêm túc, kịp thời các đơn, thư tố
cáo cán bộ, đảng viên; Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng của ủy ban kiểm tra
các cấp, chú ý đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ kiểm
tra; Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất, năng lực, trung thực, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao” [4, tr.94].
Thực hiện Hướng dẫn số 10-HD/CTTW ngày 30-10-2002 của BTC TW “Về đổi
mới đánh giá chất lượng đảng viên”, năm 2002, tiêu chuẩn đánh giá, phân loại
TCCSĐ và đảng viên ở tỉnh Bắc Giang được thay đổi, đồng thời chuyển sang thực
hiện đánh giá bằng phương pháp tính điểm. Tiêu thức đánh giá TCCSĐ theo 5 tiêu
chuẩn do thực hiện từ năm 1997 được thay đổi từ năm 2002, với 4 tiêu chuẩn đánh
giá TCCSĐ nói chung.
Hướng dẫn đánh giá chất lượng TCCSĐ do Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành ngày
25-11-2002 quy định 4 tiêu chuẩn đánh giá, phân loại các TCCSĐ: Lãnh đạo thực
hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; Lãnh đạo thực hiện tốt công tác tư tưởng;
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân; Thực hiện tốt
công tác xây dựng Đảng. Nội dung tiêu chuẩn đánh giá được Hướng dẫn quy định
riêng với từng loại hình TCCSĐ. Hướng dẫn đề ra biểu điểm đánh giá chất lượng
TCCSĐ theo các loại hình TCCSĐ, trong đó có TCCSĐ xã, phường, thị trấn (xem
Phụ lục 2). Từ biểu điểm tiêu chuẩn và hướng dẫn cách tính điểm, Hướng dẫn xếp
loại TCCSĐ theo các tiêu chuẩn và kết quả chấm điểm:
TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh: Hoàn thành các tiêu chuẩn đạt từ 80 điểm trở
lên; kết quả đánh giá đảng viên phải đạt từ 80% số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ; không có đảng viên là cấp ủy, cán bộ
chủ chốt chính quyền, mặt trận, đoàn thể vi phạm kỷ luật; có từ 70% tổ chức đảng
trực thuộc xếp đạt trong sạch, vững mạnh; không có tổ chức đảng, chính quyền,
đoàn thể trong hệ thống chính trị cơ sở xếp loại yếu kém.
28
TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ: Chi bộ, đảng bộ chưa đạt trong sạch, vững mạnh
nhưng không ở yếu kém, có số điểm đạt từ 50 điểm đến 79 điểm.
TCCSĐ yếu kém: Đảng bộ, chi bộ chỉ đạt dưới 50 điểm hoặc trên 50 điểm mà có
một trong những mặt yếu kém sau: Đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ chính trị,
sản xuất kinh doanh thua lỗ làm thất thoát vốn Nhà nước, có trên một nửa số chi bộ
trực thuộc xếp loại yếu kém; Nội bộ mất đoàn kết, giảm uy tín của tổ chức đảng với
nhân dân; Vi phạm quy chế dân chủ ở cơ sở đến mức xảy ra tình trạng quần chúng
khiếu kiện tập thể, các vụ việc tồn đọng kéo dài, chậm được giải quyết; Có trên một
nửa số tổ chức MTTQ, đoàn thể nhân dân trong đơn vị xếp loại yếu; Tổ chức chính
quyền xếp loại yếu; Cấp ủy viên cơ sở, cán bộ chủ chốt của chính quyền, MTTQ,
đoàn thể nhân dân bị xử lý kỷ luật do vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước;
Sinh hoạt Đảng không đúng quy định, chất lượng thấp, vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, 3 năm liền không phát triển được đảng viên (đối với những nơi có
nguồn kết nạp) [64, tr.6-7].
Ngày 26-11-2002, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Kế hoạch số 31- KH/TU “Đánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đánh giá chất lượng đảng viên năm 2002”. Kế
hoạch hướng dẫn cụ thể những việc cần làm trong quá trình hoàn thành việc đánh
giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên, khẳng định về việc tiến hành kiểm tra, đánh
giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên trong tỉnh là sự khẩn trương, nghiêm túc.
Những năm tiếp theo, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành các hướng dẫn đánh giá chất
lượng TCCSĐ và đánh giá chất lượng đảng viên từng năm. Đây chính là căn cứ cơ
bản để đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, đảng
viên, đáp ứng yêu cầu xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong sạch, vững
mạnh, củng cố TCCSĐ yếu kém.
- Vận động nhân dân tham gia xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang chỉ đạo sát sao, đồng bộ, gắn công tác xây dựng TCCSĐ
xã, phường, thị trấn với phát huy tính dân chủ, đoàn kết, tăng cường mối liên hệ mật
thiết với quần chúng nhân dân, lấy đây làm nền tảng quan trọng lãnh đạo thực hiện
29
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội mà Đảng bộ đề ra. Kế hoạch số 19-
KH/TU yêu cầu: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục tình trạng
bao biện làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo, nhằm phát huy hiệu lực quản lý của
cơ quan nhà nước; Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có cơ sở để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp và làm chủ đại diện ở cơ sở; Phát huy tính chủ động
sáng tạo của đoàn thể trong việc vận động quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính
trị ở địa phương, đơn vị và tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong sạch, vững mạnh” [61, tr.6].
Đại hội đại biểu lần thứ XV của Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các cấp ủy Đảng phải: “Có
biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo tích cực để củng cố và mở rộng tổ chức, đổi mới
phương thức, nâng cao hiệu quả tập hợp, thu hút các đoàn viên, hội viên và nhân
dân tham gia các hoạt động đoàn thể; Phát huy vai trò của MTTQ và đoàn thể nhân
dân các cấp, nhất là ở cơ sở trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng khối đoàn kết,
vận động các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa
phương, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; Tích cực tham gia
cùng với các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp,
bức xúc nổi lên ở địa phương, làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở” [4, tr.82].
Từ năm 2004, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tổ chức cuộc thi “Bí thư chi bộ giỏi” các
cấp. Cuộc thi không chỉ nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở
đảng, cụ thể là bí thư chi bộ, mà còn thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân,
góp phần vận động nhân dân cùng tham gia xây dựng TCCSĐ vững mạnh [50,
tr.22-23].
1.2.2. Kết quả đạt được
Do có sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng trong tỉnh nên các chủ trương của Đảng
đã, đang đi vào cuộc sống, tạo được sự chuyển biến rõ nét trong công tác xây dựng
TCCSĐ xã, phường, thị trấn, thể hiện:
30
- Công tác xây dựng TTCSĐ trong sạch, vững mạnh và củng cố TCCSĐ yếu kém
đạt nhiều kết quả
Số TCCSĐ xã, phường, thị trấn đạt trong sạch, vững mạnh qua các năm đều tăng,
các đơn vị yếu kém đều được tập trung củng cố, số TCCSĐ yếu kém nhiều năm liền
cơ bản được giải quyết. Năm 2005, có trên 90% số TCCSĐ xã, phường, thị trấn
đăng ký phấn đấu đạt trong sạch, vững mạnh, tăng 6% so với năm 2004; 09 trong
14 đảng bộ trực thuộc có 100% TCCSĐ xã, phường, thị trấn đăng ký đạt trong sạch,
vững mạnh [17, tr.2].
Bên cạnh đó, cuộc vận động toàn Đảng bộ thực hiện “Ba xây, ba chống” đem lại
nhiều kết quả, góp phần nâng cao chất lượng TCCSĐ và chất lượng đảng viên. Số
lượng đảng viên tham gia sinh hoạt chi bộ tăng, nội dung sinh hoạt được đổi mới, đi
vào trọng tâm. Ý thức tự giác học tập, nghiên cứu, tham dự các lớp đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của đảng viên
ngày càng được nâng lên. Sự gương mẫu đi đầu trong công tác phát triển kinh tế,
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng viên, được đông đảo quần chúng ghi nhận
[60, tr.27]. Cuộc vận động “Ba xây, ba chống” cơ bản đáp ứng yêu cầu về nâng cao
vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, nhất là ở các đơn vị hành chính cấp cơ
sở, góp phần củng cố, xây dựng TCCSĐ thật sự trong sạch, vững mạnh.
Cùng với nâng cao chất lượng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, các cấp uỷ từ
huyện đến xã, phường, thị trấn thường xuyên quan tâm củng cố các cơ sở yếu kém
hoặc yếu kém từng mặt, qua đó tạo sự ổn định, hoàn thành nhiệm vụ của các
TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Cũng qua đây, các đơn vị yếu kém tự đánh giá được
những mặt mạnh, mặt yếu, nhất là trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo; đề ra biện pháp
củng cố, phân công cán bộ phụ trách cụ thể và xác định những nhiệm vụ trọng tâm
của công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Với những đơn vị quá
khó khăn, cấp uỷ tiến hành khảo sát đánh giá, tìm rõ nguyên nhân từ đó đề ra giải
pháp giúp cơ sở khắc phục. Nhiều cách làm sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực
được đề ra, thể hiện rõ nhất là các huyện Hiệp Hoà, Lạng Giang, Lục Ngạn, Việt
Yên... thành lập các tổ công tác trực tiếp giúp cơ sở khắc phục kịp thời những mặt
31
hạn chế, khuyết điểm như mất đoàn kết nội bộ, buông lỏng quản lý, chưa thực hiện
nghiêm quy chế dân chủ. Với sự chỉ đạo thường xuyên, tập trung của cấp uỷ đảng
từ tỉnh đến cơ sở, nhiều cơ sở yếu kém đã phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ
và đạt trong sạch, vững mạnh, điển hình là các chi, Đảng bộ: Nhã Nam (Tân Yên);
Mỹ An, Đồng Cốc (Lục Ngạn); Xương Giang (Thành phố Bắc Giang); Tiên Lục,
Nghĩa Hưng, Thái Đào, Phi Mô, Mỹ Hà, Quang Thịnh, Đại Lâm (Lạng Giang)…
[17, tr.3]. Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh kết luận: Việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ cấp xã, phường, thị trấn góp phần
xây dựng các TCCSĐ trong sạch, vững mạnh được coi trọng theo hướng thực chất
hơn, củng cố cơ sở đảng yếu kém. Số chi, đảng bộ đạt trong sạch, vững mạnh từ
63,8% tăng lên 69,05% năm 2005; số cơ sở yếu kém giảm từ 18 xuống còn 3 đơn vị
[5, tr.28-29].
- Công tác bồi dưỡng cán bộ quy hoạch cán bộ được quan tâm
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khóa VIII), Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang chú trọng bồi dưỡng và đẩy mạnh công tác quy hoạch cán bộ. Kết
quả: công tác cán bộ có chuyển biến tích cực; thực hiện tốt việc quy hoạch, bố trí,
sắp xếp, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, nhận xét và luân chuyển cán bộ, từ
năm 2002 đến 2005, 98 cán bộ thuộc diện BTV Tỉnh uỷ quản lý được luân chuyển
công tác; công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm... góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ [5, tr.55].
Hàng năm, BTC Tỉnh ủy tổ chức cuộc thi “ í thư chi ộ giỏi” các cấp, và tổ chức
cuộc thi cấp tỉnh đạt kết quả tốt; cử cán bộ dự thi “ í thư chi ộ giỏi” ở cụm các
tỉnh phía Bắc. Đây cũng chính là điều kiện thúc đẩy cho sự hoàn thiện về năng lực
chính trị và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở, trước hết là Bí thư chi bộ Đảng.
Hội thi “ í thư chi ộ giỏi” là đợt sinh hoạt chính trị và nghiệp vụ sâu rộng trong
toàn Đảng bộ: “Các chi bộ, Bí thư chi bộ có điều kiện trao đổi, giao lưu, học tập
kinh nghiệm. Qua đó, củng cố, bồi dưỡng kiến thức về công tác Đảng, nâng cao
trách nhiệm cho cấp ủy cơ sở và Bí thư chi bộ. Từ đó, mỗi Bí thư chi bộ tự đánh giá
mặt mạnh, mặt yếu của mình, phấn đấu vươn lên trở thành Bí thư chi bộ giỏi, góp
32
phần củng tập thể chi ủy và đảng viên xây dựng chi bộ thật sự trong sạch, vững
mạnh” [50, tr.22].
Theo Kết luận số 62-KL/TU ngày 1-9-2004 của BTV Tỉnh ủy về chức danh, số
lượng, tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn,
“tổ chức bộ máy Đảng ủy, HĐND, UBND cấp xã trong tỉnh có từ 19 đến 25 chức
danh, hầu hết các xã, phường, thị trấn đều bố trí được 02 phó chủ tịch UBND” [11,
tr.3]. Đến cuối năm 2005, đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn trong toàn
tỉnh có 1.303 người. Trong đó, nam: 1.254 người (96,2%); nữ: 49 người (3,8%);
dưới 35 tuổi: 80 người (6,1%); từ 36 đến 45 tuổi: 552 người (42,4%), từ 46 đến 50
tuổi: 453 người (34,8%); trên 50 tuổi: 218 người (16,7%)” [13, tr.2].
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đủ về số lượng, trình
độ văn hóa, lý luận chính trị, năng lực lãnh đạo, tổ chức, điều hành các công việc ở
cơ sở được nâng lên một bước. Phần đông cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt; có ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nội bộ; có tiến bộ trong
phong cách làm việc, trong vận động quần chúng… được nhân dân tín nhiệm. Qua
rèn luyện thực tiễn, đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở đã tích lũy được một số kinh
nghiệm lãnh đạo, quản lý, góp phần nâng cao hơn chất lượng và hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở, thể hiện: Nhiều tổ chức đảng được củng cố, kiện toàn,
phát huy tốt hơn vai trò là hạt nhân lãnh đạo đối với hệ thống chính trị ở cơ sở. Hoạt
động của HĐND và UBND ở nhiều xã, phường, thị trấn có hiệu quả hơn, nhất là
trong quản lý, điều hành, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội [16,
tr.2]. Những kết quả đó đã đóng góp một phần rất lớn vào thành tựu chung của tỉnh
Bắc Giang trong suốt 9 năm kể từ khi tái lập tỉnh.
- Công tác quản lý và phát triển đảng viên được chú trọng
Việc bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới có chuyển biến tích cực cả về số lượng và
chất lượng, góp phần tăng thêm lực lượng và sức chiến đấu cho Đảng. Số lượng
đảng viên mới kết nạp hàng năm tăng bình quân trên 20% [5, 29]. Nhiều TCCSĐ
xã, phường, thị trấn quan tâm chỉ đạo từng bước đổi mới nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ, tăng cường công tác quản lý và phân công công tác cho đảng viên.
33
Phát triển Đảng gắn với việc xóa thôn, bản trắng và chi bộ ghép được các cấp ủy
quan tâm, trong năm 2005, toàn tỉnh xóa được 11 thôn, bản không có đảng viên, xóa
được 16 chi bộ ghép, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng ở những thôn, bản vùng sâu,
vùng xa và những thôn, bản chưa có chi bộ [18, tr.1].
- Công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng
Công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng được Đảng bộ các cấp coi trọng. Hàng năm,
Đảng bộ tỉnh triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo chương trình, kế hoạch;
ban hành các quy định về giải quyết tố cáo đối với đảng viên, quy chế phối hợp hoạt
động giữa ủy ban kiểm tra, các ban của Đảng với các cơ quan trong khối nội chính,
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động trong công tác kiểm tra của Đảng.
Ủy ban kiểm tra các cấp nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định
của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ của cấp ủy giao, chú trọng kiện toàn tổ chức, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kiểm tra. Thực hiện Kế hoạch số 03-KH/TW
ngày 10-2-1999 của Bộ Chính trị, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành kế hoạch vận động
xây dựng, chỉnh đốn đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình trong các TCCSĐ trên
toàn tỉnh. Sau hơn một năm thực hiện, công tác xây dựng Đảng ở tỉnh Bắc Giang
thu nhiều kết quả, đặc biệt là trong công tác kiểm điểm phê bình và tự phê bình.
Trong vòng một năm (2000 - 2001), số TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong Đảng bộ
bị xử lý kỷ luật như sau: Cảnh cáo 01 Đảng uỷ xã, 01 chi bộ thôn; khiển trách 01
BTV Đảng uỷ xã, 03 ban chi uỷ, 01 chi bộ; xử lý kỷ luật 86 cán bộ chủ chốt cấp xã.
Nội dung các sai phạm chủ yếu do vi phạm về phẩm chất đạo đức lối sống, vi phạm
quy chế, vi phạm nguyên tắc quản lý kinh tế, quản lý đất đai, thiếu tinh thần trách
nhiệm, chấp hành nghị quyết không nghiêm, mất đoàn kết nội bộ, tham nhũng hoặc
cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng, có trường hợp phải truy cứu trách nhiệm
hình sự. Qua tự phê bình và phê bình, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng được
thực hiện nghiêm, nguyên tắc tập trung dân chủ được tôn trọng, đoàn kết nội bộ ở
nhiều đơn vị được tăng cường, mối quan hệ giữa đảng, chính quyền, đoàn thể được
gắn bó hơn, tạo niềm tin của nhân dân đối với cuộc vận động [63, tr.8].
34
Hàng năm, BTC Tỉnh ủy ban hành Hướng dẫn đánh giá chất lượng TCCSĐ và
đảng viên, hướng dẫn rõ ràng từng chỉ tiêu đánh giá đối với loại hình TCCSĐ xã,
phường, thị trấn. Đây chính là cơ sở để xếp hạng các TCCSĐ xã, phường, thị trấn
và đảng viên trong từng năm, góp phần theo dõi sát sao hơn chất lượng của TCCSĐ
xã, phường, thị trấn và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Từ năm 2002, Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang lần đầu tiên thực hiện công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ và chất lượng
đảng viên bằng phương pháp chấm điểm, cơ bản đạt hiệu quả cao.
- Công tác vận động quần chúng tham gia xây dựng TCCSĐ ở xã, phường, thị
trấn
Từ năm 1997 đến năm 2005, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang xây dựng và thực hiện có
hiệu quả các kế hoạch tuyên truyền Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước
sâu rộng trong nhân dân. Các phương tiện truyền thông ngày càng được nâng cấp:
loa phát thanh, truyền hình, báo, tạp chí…, góp phần làm cho nhân dân hiểu rõ hơn
về các chính sách, và tham gia thực hiện Nghị quyết đúng đắn.
Hội thi “ í thư chi bộ giỏi” không chỉ có hiệu quả mạnh mẽ về công tác chính trị,
tư tưởng và nâng cao năng lực đội ngũ bí thư chi bộ, mà còn góp phần vận động
quần chúng tham gia các hoạt động của đảng bộ địa phương. Qua hội thi, hoạt động
tuyên truyền được đẩy mạnh, giúp quần chúng hiểu thêm về Đảng, về chi bộ, tăng
thêm niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Bên cạnh đó, quần chúng còn được Đảng bộ tỉnh chỉ đạo khuyến khích tham gia
quyền giám sát TCCSĐ và đảng viên, phát giác và tố cáo những hành vi có dấu hiệu
vi phạm và báo cáo cho các ủy ban kiểm tra. Thực tế cho thấy, nhiều hoạt động của
TCCSĐ và đảng viên ở các xã, phường, thị trấn mà Ủy ban kiểm tra phát hiện và kỷ
luật là do quần chúng báo cáo.
Tiểu kết chƣơng 1
Ngày 1-1-1997, tỉnh Bắc Giang chính thức đi vào hoạt động và làm việc theo đơn
vị hành chính mới. Khi mới được tái lập, còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất
là đối với xây dựng TCCSĐ, trong đó có TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
35
Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng về công tác
xây dựng Đảng nói chung và nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói
riêng, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang nhanh chóng đề ra những chủ trương, chỉ đạọ việc
sắp xếp, kiện toàn tổ chức của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, cũng như
các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội để đưa hoạt động của tỉnh từng bước đi vào nền
nếp. Những chủ trương và biện pháp xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Bắc Giang, giai đoạn 1997 - 2005, được thể hiện qua Kế hoạch số 19-KH/TU ngày
19-9-1997 của Tỉnh ủy (lâm thời) tỉnh Bắc Giang “Tiếp tục xây dựng và nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố cơ sở đảng yếu
kém”, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (1997), Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (2000), Kế hoạch số 24-KH/TU ngày 30-9-2002 của BTV
Tỉnh ủy Bắc Giang“ a xây, a chống”.
Do có sự kịp thời trong việc đề ra những chủ trương và thực hiện nghiêm túc,
công tác xây dựng TCCSĐ ở Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2005 đạt được nhiều
kết quả: Chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn tăng lên rõ rệt; Đội ngũ cán bộ cơ
sở, đảng viên được quan tâm nâng cao năng lực chuyên môn; Công tác phát triển
đảng viên có chuyển biến tích cực, tiến tới mục tiêu “xóa” thôn, bản “trắng” đảng
viên; Hoạt động kiểm tra, kỷ luật của Đảng được thực hiện nghiêm túc; Công tác
vận động quần chúng tham gia xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn diễn ra sôi
nổi. Những kết quả ấy thể hiện sự nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng
TCCSĐ nói chung, xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng của Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Đó chính là nền tảng để Đảng bộ tỉnh tiếp tục
thực hiện xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn vững mạnh trong những năm tiếp
theo, kể từ khi tái lập tỉnh được 9 năm (1997 - 2005).
36
Chƣơng 2
TĂNG CƢỜNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở TỈNH BẮC GIANG
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Những yêu cầu mới của việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng xã, phƣờng, thị
trấn và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh
2.1.1. Những yêu cầu mới
- Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 18 đến
ngày 25-4-2006, đánh giá về công tác xây dựng Đảng trong những năm từ năm
2001 đến năm 2006, khẳng định: “Đảng đã tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố
TCCSĐ. Xác định chức năng, nhiệm vụ các loại hình TCCSĐ phù hợp hơn trong
điều kiện hoạt động mới. Kiện toàn TCCSĐ ở nông thôn; chú ý hơn xây dựng
TCCSĐ ở vùng sâu, vùng xa. Việc xây dựng, củng cố TCCSĐ gắn với xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở bước đầu tạo nên một số chuyển biến tích cực, xuất hiện
những mô hình tốt và kinh nghiệm mới [46, tr.266].
Bên cạnh những thành tựu cơ bản, Đại hội X nghiêm túc nhận định những yếu
kém, khuyết điểm của Đảng: TCCSĐ chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức. Một
số thôn bản ở vùng sâu, vùng xa chưa có tổ chức đảng và đảng viên. Không ít cơ sở
đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp; sinh hoạt Đảng và quản lý
đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự phê bình và phê bình yếu. Việc
đánh giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không ít trường hợp chưa đúng chất, còn
hình thức [46, tr.271].
Từ những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác xây dựng TCCSĐ, Đại hội X
đề ra phương hướng trong nhiệm kỳ mới: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng
37
trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với
nhân dân” [46, tr.279]. Trong đó, nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ là một nội dung trọng
yếu, được Đại hội xác định gồm các nội dung: Xây dựng, củng cố TCCSĐ, dồn sức
xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, làm cho tổ
chức này thực sự trong sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng đảng viên về tư
tưởng chính trị, về trình độ năng lực và phẩm chất, đạo đức, lối sống [46, tr.281-
282].
Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng (khóa X) ban hành Nghị quyết số 22-
NQ/TW “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán ộ, đảng viên”. Nghị quyết tiếp tục thực hiện phương châm
“Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, với các nhiệm vụ:
Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách
mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự tiền phong gương mẫu, đủ năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình TCCSĐ theo hướng gắn
TCCSĐ với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị
- xã hội; chăm lo kết nạp đảng viên, nhất là ở những địa bàn, đơn vị chưa có tổ chức
đảng, chưa có đảng viên.
Thứ ba, thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và
từng bước nhất thể hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở: Sớm ban hành chính sách thu hút để đưa
sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn. Xem xét
chuyển một số các chức danh cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn đủ điều
kiện và tiêu chuẩn thành công chức nhà nước. Thực hiện chế độ phụ cấp trách
nhiệm đối với cấp ủy viên như đối với đại biểu HĐND cùng cấp. Tăng cường đào
tạo cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
38
Thứ tư, nâng cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động
của các loại hình TCCSĐ theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ
cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính
lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của TCCSĐ.
Thứ năm, tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên, dựa
vào dân để xây dựng Đảng: Cấp ủy cấp trên phải phân công các cấp ủy viên trưc
tiếp phụ trách cơ sở. Văn bản hướng dẫn, chỉ đạo phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ quy
trách nhiệm. Cấp ủy cơ sở phải giám sát đảng viên các mặt, kể cả cán bộ do cấp ủy
cấp trên quản lý. Chi bộ phải phân công công tác cho đảng viên, bảo đảm mọi đảng
viên trong chi bộ đều được phân công công tác phù hợp. Phát huy vai trò của
MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác xây dựng Đảng ở cơ sở [8,
tr.4-6].
Từ ngày 12-1-2011 đến ngày 19-1-2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng được tiến hành tại Hà Nội. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội xác định
nhiệm vụ “Thực hiện xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, với 8 việc cần thực hiện là: Tăng cường xây
dựng Đảng về chính trị; Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận;
Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; Tiếp tục đổi
mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; Kiện toàn tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng
công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát; Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng [47, tr.255-264].
Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết nêu rõ những
thành tựu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cùng những hạn chế, yếu kém,
bất cập và những nguyên nhân; trên cơ sở đó, Nghị quyết khẳng định mục tiêu:
“Phải tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém
trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng
chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh
39
đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của
Đảng” [9]. Nghị quyết cũng đề ra phương và yêu cầu thực hiện tốt 4 nhóm giải
pháp: Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương
mẫu của cấp trên. Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. Nhóm giải
pháp về cơ chế, chính sách. Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
[9].
Như vậy, từ năm 2006 - 2014, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những chủ
trương mới về công tác xây dựng Đảng. Đây chính là một trong những cơ sở để
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn
trong giai đoạn mới
- Những thay đổi của tỉnh Bắc Giang
Bước sang năm 2006, Bắc Giang có một số thuận lợi: Trải qua 20 năm đổi mới,
kinh tế- xã hội của tỉnh liên tục phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng
được cải thiện; nhiều cơ chế, chính sách, công trình mới được xây dựng đang phát
huy hiệu quả. Đảng bộ đoàn kết thống nhất, tích cực đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ
đạo và quản lý. Tình hình chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo
đảm. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; quản lý, điều hành của
chính quyền, hoạt động của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được nâng
lên. Khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường và mở rộng [6, tr.1]. Trong xu thế
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ, tỉnh sẽ có thêm những cơ
hội mới cho phát triển, nhất là về thu hút đầu tư, chuyển giao khoa học, công
nghệ…
Tuy nhiên, trong tình hình mới, Bắc Giang cũng đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức: Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, tác động của mặt trái cơ
chế thị trường và sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt, quyết liệt hơn. Trong khi đó,
tiềm lực kinh tế của địa phương chưa mạnh; sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp; chất lượng nguồn nhân lực chưa cao; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện của các cấp, các ngành từ tỉnh tới cơ sở và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa
40
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và các tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi; cùng với những hạn chế, yếu kém chậm
được khắc phục, đang là những trở ngại, thách thức cho quá trình phát triển của tỉnh
[5, tr.41-42]. Bên cạnh đó, về công tác xây dựng TCCSĐ, chất lượng sinh hoạt
Đảng không cao, tự phê bình và phê bình chưa nghiêm túc. Công tác quản lý đảng
viên có lúc thiếu chặt chẽ, có nơi mất đoàn kết nội bộ. Công tác phát triển Đảng ở
phường, vùng cao, vùng xa và phát triển đảng viên ở nông thôn còn khó khăn, toàn
tỉnh vẫn còn 15 thôn, bản chưa có đảng viên [5, tr.12-13]. Đến năm 2010, “Bắc
Giang vẫn là tỉnh có thu nhập đầu người thấp so với bình quân chung cả nước. Kết
cấu hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Một số mặt trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng- an ninh, xây dựng Đảng, chính
quyền, MTTQ, đoàn thể còn hạn chế” [6, tr.1].
Trong bối cảnh mới, dù là thuận lợi hay khó khăn đều có ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng
bộ. Những điều kiện trên tạo cả thời cơ và thách thức đan xen, đòi hỏi Đảng bộ phải
đề ra những chủ trương và biện pháp phù hợp, góp phần xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn hiệu quả, đẩy mạnh sự phát triển của tỉnh Bắc Giang.
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng bộ
Tình hình mới đặt ra những yêu cầu cho Đảng bộ tỉnh Bắc Giang cần phải phát
triển kinh tế - xã hội trong tỉnh, đồng thời nâng cao chất lượng của các TCCSĐ,
trong đó có TCCSĐ xã, phường, thị trấn để góp phần xây dựng Đảng ngày càng lớn
mạnh. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI (12-2005) đề ra một số
nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của tỉnh trong nhiệm
kỳ tiếp theo: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng;
phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách hành
chính, tạo bước chuyển biến tích cực trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; xây
dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong giai đoạn cách mạng
mới” [5, tr.15]. Đại hội đề ra mục tiêu: “Nâng cao hơn chất lượng TCCSĐ trong
41
sạch, vững mạnh; có 70% cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; phấn đấu hàng
năm có 95-97% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ; hàng năm kết nạp từ
2.200 đến 2.500 đảng viên, sớm “xóa” thôn, bản “trắng” đảng viên” [5, tr.62].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ, ngày 14-4-2006, BTC
Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 07-KH/TCTU “Kết nạp đảng viên ở thôn, bản chưa
có đảng viên và có số lượng đảng viên ít, tách các chi bộ sinh hoạt ghép”. Kế hoạch
đưa ra một loạt các biện pháp, nhằm thực hiện mục tiêu: “Kết nạp được đảng viên ở
các thôn chưa có đảng viên, bảo đảm tính vững chắc và chất lượng của đảng viên
mới kết nạp; chú trọng kết nạp đảng viên là nữ, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh ở khu vực nông thôn. Tập trung tách các chi bộ đang sinh hoạt
ghép; thành lập tổ chức đảng ở thôn, bản, tổ dân phố. Phấn đấu đến cuối năm 2008
có 100% số thôn chưa có đảng viên, kết nạp được đảng viên mới và 80% số thôn,
đơn vị trực thuộc có đảng viên nhưng hiện đang sinh hoạt chi bộ ghép thành lập
được TCCSĐ” [19, tr.2].
Ngày 5-12-2006, BTV Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Đề án số 02-ĐA/TU “Xây
dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán ộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn, giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo”. Đội ngũ cán bộ
chủ chốt xã, phường, thị trấn được đề cập trong Đề án này bao gồm: Bí thư đảng ủy,
phó bí thư thường trực hoặc thường trực đảng ủy, chủ tịch và các phó chủ tịch
HĐND, UBND xã, phường, thị trấn. Đề án tổng kết, đánh giá về thực trạng về chất
lượng, năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn trong tỉnh Bắc Giang; rút ra những ưu điểm, hạn chế trong công tác quy hoạch
cán bộ. Từ đây, Đề án nêu lên những giải pháp xây dựng và nâng cao năng lực lãnh
đạo, điều hành của đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn giai đoạn 2006 -
2010 và những năm tiếp theo, với phương hướng: “Nâng cao năng lực lãnh đạo,
điều hành của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở xã, phường, thị trấn, đồng bộ với
phát triển đội ngũ cán bộ và đổi mới tổ chức hệ thống chính trị cơ sở để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở
công tâm, thạo việc, tận tụy với nhân dân; trẻ hóa, chuẩn hóa, không quan liêu,
42
tham nhũng; có đủ năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao” [13, tr.5].
Đề án nêu lên mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đạt chuẩn về
trình độ theo chức danh.
Thứ hai, nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của
dôi ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn.
Thứ ba, nâng cao tinh thần trách nhiệm, uy tín của đội ngũ cán bộ chủ chốt trước
nhân dân.
Thứ tư, nâng cao bản lĩnh chính trị: cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; tăng cường đoàn kết nội bộ của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở xã,
phường, thị trấn [13, tr.5-7].
Để thực hiện những mục tiêu trên, Đề án đề ra những giải pháp:
Một là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ chủ chốt ở cơ sở theo hướng chuẩn hóa, gắn với quy hoạch cán bộ cơ sở.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các khâu của công tác cán bộ,
bảo đảm thực sự dân chủ, công khai, minh bạch.
Ba là, hoàn thiện và duy trì thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của các tổ
chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Bốn là, tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của cấp trên đối với
cán bộ chủ chốt cơ sở.
Năm là, củng cố bộ máy, kiện toàn đội ngũ cán bộ của hệ thống chính tri, tạo
điều kiện cho cán bộ chủ chốt thực hiện nhiệm vụ.
Sáu là, xây dựng và thực hiện một số chính sách liên quan; Tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất, điều kiện làm việc cho các xã, phường, thị trấn [xem Phụ lục 3].
43
Như vậy, với hệ thống các giải pháp thực hiện, Đề án số 02-ĐA/TU ngày 5-12-
2006 cơ bản tạo cơ sở cho Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đẩy mạnh công tác quy hoạch
cán bộ chủ chốt ở cấp đảng bộ tại các xã, phường, thị trấn.
Ngày 23-5-2007, BTC Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Kế hoạch số 10-KH/BTCTU
“Tổng kết 10 năm thực hiện Kế hoạch số 19-KH/TU ngày 19-9-1997 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh, củng cố cơ sở đảng yếu kém”. Kế hoạch là cơ sở để các cấp
ủy Đảng thực hiện đánh giá đúng kết quả, những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên
nhân về tổ chức thực hiện các nội dung được đề ra trong Kế hoạch số 19-KH/TU
ngày 19-9-1997 của BTV Tỉnh ủy. Qua đó, phát hiện và nhân rộng các điển hình
tiên tiến trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng TCCSĐ trong sạch, vững
mạnh, củng cố cơ sở đảng yếu kém. Kế hoạch xác định phương hướng: “Tập trung
xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, củng cố TCCSĐ yếu kém, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, nâng cao chất lượng đảng viên. Nâng
cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ, sinh hoạt cấp ủy; chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng, chuẩn hóa cán bộ xã, phường, thị trấn. Tăng cường mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân, thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, quản lý,
giám sát của chi bộ đối với đảng viên ở nơi công tác và nơi cư trú, nhất là đối với
đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý” [20, tr.7].
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (10-2010) nhấn mạnh nhiệm vụ nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, với hệ thống giải pháp như
sau:
1- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Thường xuyên quan tâm giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đổi
mới, nâng cao hiệu quả triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tăng cường giáo
dục chính trị tư tưởng, bồi đắp truyền thống tốt đẹp, niềm tự hào, tình yêu quê
hương, đất nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phát huy kết quả Cuộc vận
44
động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", đẩy mạnh việc "làm
theo" tấm gương đạo đức của Bác, xác định đây là việc làm thường xuyên, lâu dài,
có ý nghĩa rất quan trọng; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
2- Thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của TCCSĐ
Đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế chất vấn và trả lời chất vấn; mở rộng và phát
huy dân chủ trong Đảng gắn với tăng cường kỷ cương, giữ gìn sự đoàn kết, thống
nhất trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng. Tăng cường tạo nguồn kết
nạp Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình mới.
3- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán ộ
Kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan Đảng, nâng cao chất lượng công tác tham
mưu, tổng hợp, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp
uỷ đảng. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
khoa học - công nghệ và cán bộ người dân tộc thiểu số. Quan tâm phát hiện, tuyển
chọn, trọng dụng những người có đức, có tài. Kiên quyết thay thế những cán bộ
năng lực, phẩm chất đạo đức kém, vi phạm kỷ luật.
4- Quan tâm thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Tăng cường kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo đức, về chấp hành đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Đảng và kết quả
thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, đảng viên. Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra
của Đảng, thanh tra của Nhà nước với hoạt động của các cơ quan tư pháp, giám sát
của các đoàn thể và nhân dân. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
nghiệp vụ của cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp.
5- Đổi mới phương thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
Xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung, dân
chủ, tự phê bình và phê bình. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các
45
nhiệm vụ, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp
uỷ; chú trọng cải cách hành chính trong Đảng, nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo,
chỉ đạo [6, tr.21-23].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, ngày 29-4-2011, BTV Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành
Đề án số 02-ĐA/TU “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng giai đoạn 2011 - 2015”. Từ việc đánh giá thực trạng năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của TCCSĐ và nhận dạng được những ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ, Đề án nêu lên mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
đến năm 2015 của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, trong đó có các mục tiêu, nhiệm vụ đối
với xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
Với mục tiêu chung: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ,
tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình TCCSĐ; Kiện
toàn, sắp xếp các tổ chức trong hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị ở cơ sở; Đẩy mạnh việc tạo nguồn, bồi
dưỡng kết nạp đảng viên mới, chăm lo đời sống cán bộ, đảng viên ở cơ sở, Đề án
đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2015: “Hằng năm có trên 70% TCCSĐ đạt tiêu chuẩn
trong sạch, vững mạnh; Bảo đảm 100% các TCCSĐ đều xây dựng được quy chế
làm việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Đến năm 2015, giảm 50% số chi bộ
sinh hoạt ghép, 100% cán bộ chủ chốt cơ sở đạt trình độ chuyên môn trung cấp trở
lên, trình độ lý luận trung cấp trở lên, 100% bí thư chi bộ, cấp ủy viên cơ sở được
bồi dưỡng kiến thức xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước” [14, tr.7].
Đề án nêu lên 9 nhiệm vụ và giải pháp: Tăng cường công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Rà soát,
sắp xếp, củng cố, phát triển tổ chức đảng ở các loại hình cơ sở phù hợp với yêu cầu
quản lý và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thực hiện nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ. Tập trung lãnh
đạo đảng viên, chú trọng khu vực nông thôn, tổ dân phố; tăng cường phân công
nhiệm vụ, quản lý, nâng cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Xây dựng
46
đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tiếp tục thực hiện Đề án số 02-
ĐA/TU, ngày 5-12-2006 của BTV Tỉnh ủy “Xây dựng và nâng cao năng lực lãnh
đạo, điều hành của đội ngũ cán ộ chủ chốt xã, phường, thị trấn”. Phát huy vai trò
của MTTQ, các đoàn thể và nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường vai trò lãnh đạo, hướng dẫn của cấp trên. Làm
tốt công tác thi đua, khen thưởng; tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cấp
cơ sở và tổ chức đảng ở thôn, bản, tổ dân phố [xem Phụ lục 5].
Nhằm góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ theo tinh
thần Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29/4/2011 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang, ngày
4/11/2011, BTC Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 11-KH/BTCTU “Nâng tỷ lệ đảng
viên trong đội ngũ trưởng, phó thôn, bản, tổ dân phố”. Kế hoạch đề ra mục tiêu:
“Tăng cường bồi dưỡng, kết nạp đảng viên là trưởng, phó thôn. Thực hiện tốt công
tác lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức bầu cử trưởng, phó thôn. Tăng cường giáo dục,
rèn luyện, quản lý, phân công, giới thiệu cấp uỷ viên, đảng viên để Ban công tác
Mặt trận thôn hiệp thương, giới thiệu bầu cử chức danh trưởng, phó thôn. Qua đó,
nâng tỷ lệ hàng năm và phấn đấu đến năm 2015 toàn tỉnh đạt từ 75% trưởng, phó
thôn là đảng viên trở lên” [27, tr.2].
Ngày 11-7-2014, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Đề án số 05-ĐA/TU “Tạo nguồn
í thư đảng ủy, chủ tịch Ủy an nhân dân xã, phường, thị trấn đến năm 2025 và
những năm tiếp theo” nhằm “tạo nguồn cán bộ, công chức có chất lượng, trẻ hóa,
đáp ứng yêu cầu xây dựng, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ bí thư đảng ủy, chủ
tịch UBND cấp xã trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” [81, tr.1]. Đề án đề ra mục
tiêu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, trước hết là cán bộ quy hoạch
chức danh đứng đầu cấp ủy, chính quyền cấp xã có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực thực tế, khả năng lãnh đạo, quản lý và chuẩn
hóa về trình độ đại học để tạo nguồn và nâng cao chất lượng nguồn bí thư đảng ủy,
chủ tịch UBND cấp xã (đến năm 2025, tạo được nguồn kế cận từ 400- 500 cán bộ);
bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị của cơ sở” [15, tr.3-4].
47
Để tạo nguồn và nâng cao chất lượng nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND cấp
xã đến năm 2025 và những năm tiếp theo, Đề án yêu cầu cần thực hiện tốt các
nhiệm vụ: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã; Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, tạo nguồn lâu
dài bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND cấp xã ; Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác
cán bộ ở cơ sở, chủ động tạo nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND cấp xã [15, tr.4-
6].
2.2. Hiện thực hóa chủ trƣơng của Đảng bộ trong xây dựng và củng cố tổ
chức cơ sở đảng xã, phƣờng, thị trấn
2.2.1. Sự chỉ đạo của Đảng bộ
Để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng và củng cố các TCCSĐ, Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang đề ra những biện pháp như sau:
- Nâng cao năng lực nhận thức chính trị của TCCSĐ xã, phường, thị trấn
Từ năm 2006 - 2014, nhiệm vụ tăng cường công tác chính trị, tư tưởng của
TCCSĐ xã, phường, thị trấn tiếp tục được Đảng bộ tỉnh thực hiện theo Kế hoạch số
19-KH/TU ngày 19-9-1997 của Tỉnh ủy Bắc Giang (lâm thời). Tiếp theo đó, Đại hội
đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ nhấn mạnh: “Chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến cán bộ, đảng viên và nhân dân; Đẩy mạnh nghiên cứu,
điều tra, dự báo tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; Kịp thời phát hiện và có biện
pháp xử lý những vấn đề phức tạp mới nảy sinh; Phát huy vai trò của báo chí, phát
thanh, truyền hình, văn hoá, nghệ thuật trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng;
Chú trọng thông tin đa chiều, có định hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác
thông tin” [6, tr.58].
Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng bộ yêu cầu: Thường xuyên quan tâm
giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Đổi mới, nâng cao hiệu quả triển
khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, bồi
48
đắp truyền thống tốt đẹp, niềm tự hào, tình yêu quê hương, đất nước cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân; Kịp thời nắm bắt dư luận xã hội, những vấn đề phức tạp nảy
sinh để định hướng và có biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp [6, tr.21].
Đặc biệt, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo: “Phát huy kết quả Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đẩy mạnh việc “làm theo” tấm gương
đạo đức của Bác, xác định đây là việc làm thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa rất
quan trọng; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Chú trọng chỉ đạo thực
hiện tốt việc đăng ký “làm theo”; kiểm điểm việc “làm theo” tại các kỳ sinh hoạt chi
bộ; nhân rộng các điển hình tiên tiến trong thực hiện cuộc vận động, đưa cuộc vận
động đi vào chiều sâu [6, tr.22].
- Đẩy mạnh công tác quy hoạch cán bộ, bồi dưỡng năng chính trị, chuyên môn
cho đội ngũ cán ộ cơ sở
Từ Đại hội XVI, Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh nhiệm vụ: “Thường xuyên quan tâm
nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ. Chú ý tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu
số, cán bộ nữ; mạnh dạn bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ, có thành tích
xuất sắc trong học tập và công tác. Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ năng
lực, trình độ yếu, phẩm chất đạo đức kém, vi phạm kỷ luật [5, tr. 25]. Đảng bộ cũng
yêu cầu: “Hằng năm, cấp huyện dành 5% biên chế dự phòng để thực hiện việc đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và tăng cường cán bộ cho cơ sở; Thực hiện công khai,
dân chủ, đúng quy trình trong việc giới thiệu, điều động, bổ nhiệm và quản lý cán
bộ tham gia các chức danh chủ chốt ở cơ sở; Đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở theo chức danh và chú trọng
đào tạo cán bộ trong quy hoạch” [40, tr.7].
Tiếp đó, Đề án số 02-ĐA/TU ngày 5-12-2006 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang nhấn
mạnh nhiệm vụ nâng cao năng lực chính trị, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở:
Thứ nhất, về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đang giữ chức danh và cán bộ dự nguồn
các chức danh chủ chốt ở cơ sở
49
Chú trọng đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc, cán bộ nữ, cán bộ vùng sâu, vùng
xa; Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học,
chuyên môn nghiệp vụ, để cán bộ đạt chuẩn theo chức danh; Tập trung bồi dưỡng
thường xuyên về quản lý hành chính, kiến thức pháp luật và các kỹ năng hoạt động,
công tác ở cơ sở; Tăng cường giáo dục về phẩm chất, nâng cao ý thức, tinh thần
trách nhiệm của cán bộ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Việc đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị và bồi dưỡng chức danh theo kế
hoạch, bảo đảm cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải được bồi dưỡng theo chức danh ít nhất
02 lần trong một nhiệm kỳ; Tổ chức các lớp trung cấp chuyên môn để đào tạo cho
đội ngũ cán bộ đương nhiệm và trong quy hoạch giữ chức danh chủ chốt nhiệm kỳ
tới, nhưng chưa đạt trình độ theo chuyên môn theo tiêu chuẩn chức danh.
Thứ hai, về nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện công tác cán bộ
Việc đánh giá cán bộ phải thực hiện đúng quy định, hướng dẫn của TW; Kiên
quyết khắc phục tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, nể nang, né tránh trong đánh giá cán bộ;
Quy định việc bỏ phiếu kín khi đánh giá các chức danh chủ chốt, tạo điều kiện
thuận lợi cho người nhận xét, đánh giá có cơ hội và an tâm bày tỏ nhận xét của
mình.
Nhiệm vụ quy hoạch cán bộ cũng được Đảng bộ tỉnh Bắc Giang nêu rõ trong Đề
án: Kiên quyết không đưa vào quy hoạch những người đã quá tuổi hoặc không còn
đủ tuổi, chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị theo quy định;
Quan tâm quy hoạch cán bộ nữ, tuổi trẻ, cán bộ là người dân tộc; Đối với các cơ sở
nội bộ mất đoàn kết, tình hình phức tạp, cán bộ chủ chốt vi phạm khuyết điểm, phải
thi hành kỷ luật, nguồn cán bộ thay thế gặp khó khăn, thì nhất thiết phải luân
chuyển cán bộ lãnh đạo phòng, ban, ngành của huyện, thành phố xuống giữ các
cương vị chủ chốt; Nghiên cứu, bố trí biên chế hợp lý ở các huyện để tạo thuận lợi
trong việc thực hiện luân chuyển cán bộ; Có kế hoạch và chỉ đạo cụ thể việc bố trí,
sắp xếp đội ngũ công chức theo đúng các quy định của TW và tỉnh; Tiếp nhận, bố
trí những sinh viên là người địa phương đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học
vào làm công chức cơ sở, để tạo nguồn lâu dài về cán bộ chủ chốt; Chăm lo kiện
50
toàn và nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy của các cơ quan làm công tác tổ chức
cán bộ, để nâng cao chất lượng tham mưu, giúp cấp ủy trong công tác cán bộ; Lựa
chọn những cán bộ có phẩm chất và năng lực vào làm việc ở các cơ quan tổ chức
cán bộ, kịp thời thay thế những cán bộ không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ” [13, tr.9-
11].
Ngoài ra, Đề án xây dựng và thực hiện một số chính sách liên quan đến công tác
này như: “Tuyên truyền, vận động những cán bộ chủ chốt cơ sở chưa đạt trình độ
năng lực, trình độ hạn chế, tuổi đời cao (năm trên 55 tuổi; nữ trên 50 tuổi), có đủ 10
năm đóng bảo hiểm xã hội, nghỉ công tác, tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ
điều kiện nghỉ hưu, theo Thông tư 34/TT-LB ngày 14-5-2004 của Liên bộ Nội vụ -
Tài chính - Lao động Thương binh Xã hội, thực hiện Nghị định 121/2003-NĐ/CP
của Chính phủ. Xây dựng chính sách hỗ trợ cho cán bộ các phòng, ban, ngành của
huyện, thành phố luân chuyển xuống giữ các cương vị chủ chốt ở các xã, phường,
thị trấn (thực hiện thống nhất trong toàn tỉnh; gồm hỗ trợ lần đầu và công tác phí
hàng tháng). Từng bước bố trí hợp lý vốn đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của các
xã, phường, thị trấn, nhất là các xã thuộc huyện miền núi, vùng cao. Tăng cường
trang thiết bị, các phương tiện làm việc cần thiết; từng bước, thực hiện tin học hóa
hoạt động của cấp ủy và hệ thống quản lý hành chính, phục vụ chung cho hoạt động
của cả hệ thống chính trị ở cơ sở” [13, tr.11-12].
Ngày 17-4-2008, Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Kế hoạch số 30-KH/TU “Thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ cán ộ đảng viên”. Kế hoạch đề ra các giải pháp về xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn:
Thứ nhất, một số chức danh cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định, thì được xem xét chuyển thành công chức nhà
nước, tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp. Từ năm 2008,
các chức danh cán bộ chuyên trách không đủ điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành
công chức nhà nước, khi được giữ chức vụ do bầu cử thì hưởng chế độ phụ cấp
51
trách nhiệm và thực hiện chế độ bảo hiểm, khi thôi đảm nhiệm chức vụ thì thôi
hưởng phụ cấp và đóng bảo hiểm tự nguyên; Đối với các chức danh cán bộ không
chuyên trách thì thực hiện theo hướng khoán kinh phí hoạt động và đóng bảo hiểm
tự nguyện; Thực hiện chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với cấp ủy viên các cấp như
đối với đối với đại biểu HĐND cùng cấp.
Thứ hai, kiên quyết đưa ra khỏi biên chế những công chức cơ sở không đảm bảo
đủ chuẩn theo chức danh và tuyển dụng số sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng,
trung học hệ chính quy là người địa phương về công tác ở xã, phường, thị trấn; Có
chế độ phụ cấp thu hút đối với cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông
đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng dẫn của TW; Tăng cường đầu tư, nâng cao
chất lượng đào tạo của các trường phổ thông dân tộc nội trú, tiếp tục thực hiện tốt
việc chọn thanh niên người dân tộc thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự đưa đi
đào tạo về văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, để tạo nguồn cán bộ
cho cơ sở.
Thứ ba, hàng năm, 100% cán bộ chuyên trách, cấp ủy viên cơ sở xã, phường, thị
trấn phải được bồi dưỡng để cập nhật kiến thức mới tại Trường Chính trị tỉnh hoặc
trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện.
Thứ tư, tiếp tục luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, khắc phục tình trạng cục
bộ, khép kín trong công tác cán bộ; Hàng năm, dành 5% biên chế dự phòng để thực
hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển và tăng cường cán bộ cho cơ sở.
Thứ năm, thực hiện thí điểm chủ trương về “nhất thể hóa” hai chức danh cán bộ
chủ chốt ở cơ sở xã, phường, thị trấn (bí thư, chủ tịch UBND) và thực hiện thí điểm
việc đại hội đảng bộ cơ sở bầu cấp ủy, BTV, bí thư và phó bí thư đảng ủy theo sự
chỉ đạo của TW [65, tr.4-5].
Tiếp tục thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU ngày 5-12-2006 của BTV Tỉnh ủy, Đề án
“Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giai đoạn 2011
- 2015” của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang xác định nhiệm vụ “Xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”:
52
Một là, trong nhiệm kỳ, phấn đấu tuyển chọn cho mỗi xã, phường, thị trấn ít nhất
01 đến 02 cán bộ trẻ được đào tạo đại học chính quy, có chuyên ngành phù hợp làm
cán bộ, công chức cấp xã, khi khuyết vị trí trong biên chế; Nghiên cứu, vận dụng
hình thức xét tuyển khi tuyển dụng, trừ địa bàn thành phố Bắc Giang và các thị trấn;
Cán bộ được tuyển dụng vào đơn vị nào phải ổn định công tác trong thời hạn ít nhất
5 năm.
Hai là, tăng cường bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đảm bảo trong
nhiệm kỳ, 100% bí thư chi bộ thôn, bản, tổ dân phố được bồi dưỡng chuyên đề về kĩ
năng điều hành, duy trì sinh hoạt chi bộ, xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo điều hành.
Ba là, cấp ủy cấp xã xây dựng tạo nguồn cán bộ thôn, bản, tổ dân phố, gắn với
bồi dưỡng để từng bước nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là đối với bí thư chi bộ và
trưởng thôn, bản, tổ dân phố.
Bốn là, cấp ủy cấp trên hướng dẫn thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ
(đánh giá, nhận xét, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử, thực hiện tốt chính sách cán bộ…); Tăng cường hướng
dẫn, kiểm tra nhiệm vụ đối với cấp cơ sở; Kiên quyết thay thế những cán bộ lãnh
đạo, quản lý yếu kém về năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức, vi phạm khuyết
điểm, không đủ uy tín để thực hiện nhiệm vụ [14, tr.10].
Đề án số 05-ĐA/TU ngày 11-7-2014 của BTV Tỉnh ủy đề ra các giải pháp thực
hiện: Tổ chức đào tạo để đạt chuẩn về trình độ đại học chuyên môn và trung cấp lý
luận chính trị. Tổ chức các lớp dự nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND cấp xã.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng cán bộ, công chức cấp xã. Thí
điểm tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy, để đào tạo, bồi dưỡng, tạo
nguồn có chất lượng. Xây dựng quy định cụ thể tiêu chuẩn chức danh bí thư đảng
ủy, chủ tịch UBND cấp xã theo hướng chuẩn hóa, chính quy về trình độ đại học (lộ
trình phấn đấu đến năm 2025, 100% bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND cấp xã có trình
độ đại học trở lên), tạo động lực thúc đẩy sự rèn luyện, phấn đấu của đội ngũ cán
bộ, công chức dự nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND cấp xã [xem Phụ lục 6].
53
- Tiếp tục phát triển đảng viên trong TCCSĐ xã, phường, thị trấn
Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh (12-2005) chú trọng nhiệm vụ
phát triển đảng viên, xác định nhiệm vụ: Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên;
chú trọng khu vực phường, xã, địa bàn nông thôn, miền núi, đối tượng phụ nữ,
người dân tộc thiểu số, công nhân, người lao động trực tiếp; sớm “xoá” thôn, bản
chưa có đảng viên [5, tr.59].
Ngày 14-4-2006, Kế hoạch số 07-KH/TCTU “Kết nạp đảng viên ở thôn, bản
chưa có đảng viên và có số lượng đảng viên ít; tách các chi bộ sinh hoạt ghép”
được BTC Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành, nhằm đảm bảo các thôn, đơn vị trực thuộc
đều có đảng viên, giảm số cho bộ sinh hoạt ghép; xây dựng, củng cố hệ thống chính
trị ở cơ sở vững mạnh; đảm bảo mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
được triển khai thực hiện đạt kết quả ở từng đơn vị cơ sở. Kế hoạch yêu cầu: “Công
tác kết nạp đảng viên cần kết hợp chặt chẽ với việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, xây
dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố tổ chức đảng yếu kém và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình, tăng
cường đoàn kết trong Đảng, tạo môi trường tốt để quần chúng phấn đấu vào Đảng;
Chú trọng kết nạp đảng viên mới là nữ, là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, là người dân tộc thiểu số” [19, tr.2-3].
Kế hoạch số 30-KH/TU ngày 17-4-2008 yêu cầu nhiệm vụ phát triển đảng viên
trong TCCSĐ xã, phường, thị trấn như sau: Chăm lo kết nạp đảng viên, nhất là ở
những thôn, bản chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên… Tiếp tục chỉ đạo đẩy
mạnh công tác tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên, nâng cao chất lượng đảng
viên mới kết nạp, không chạy theo số lượng; Chú trọng kết nạp đảng viên là đoàn
viên thanh niên, nữ, ở khu vực nông thôn, miền núi; Các huyện ủy, thành ủy còn
thôn, bản chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên, cần phân công cấp ủy viên và
các ban, ngành, đoàn thể phụ trách từng đơn vị để chỉ đạo công tác kết nạp đảng
viên, xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội [66, tr.3-4].
Tiến tới hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình TCCSĐ, Đảng bộ tỉnh xác
định thực hiện theo hướng gắn TCCSĐ với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và
54
lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; chăm lo công tác phát triển Đảng, nhất là ở
những thôn, bản chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên. Đối với khu vực xã,
phường, thị trấn, bố trí mô hình tổ chức của đảng bộ, chi bộ, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội trên địa bàn dân cư theo hướng: dưới đảng bộ xã là chi bộ
thôn, bản; dưới đảng bộ phường, thị trấn nói chung là chi bộ tổ dân phố; những
thôn, tổ dân phố có trên 50 đảng viên, cấp ủy cơ sở báo cáo cấp trên xem xét, thành
lập đảng bộ bộ phận, có các chi bộ trực thuộc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tạo
nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên mới được kết
nạp; chú trọng kết nạp đảng viên là nữ, người dân tộc thiểu số, ở những thôn, bản
chưa có đảng viên và TCCSĐ. Tìm các biện pháp khắc phục khó khăn về nguồn
phát triển Đảng và đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn trước thực trạng ngày càng
có nhiều thanh niên thoát ly nông thôn [40, tr.6].
Kế hoạch số 11-KH/BTCTU ngày 4-2-2011 “Nâng tỷ lệ đảng viên trong đội ngũ
trưởng, phó thôn, bản, tổ dân phố” đề ra các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong đội ngũ trưởng, phó thôn
giai đoạn 2011-2015
Đảng ủy các xã, phường, thị trấn và các chi bộ thôn, bản, tổ dân phố triển khai rà
soát, nắm chắc đội ngũ trưởng, phó thôn chưa là đảng viên để phát hiện những nhân
tố có khả năng, triển vọng kết nạp đảng. Đẩy mạnh các phong trào thi đua trong
quần chúng nhân dân nhằm lựa chọn, giới thiệu quần chúng ưu tú là trưởng, phó
thôn tham gia các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, quản lý nhà nước, văn hóa…
qua đó nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ học vấn, bảo đảm
người vào Đảng có đủ trình độ và điều kiện theo quy định. Phân công đảng viên có
kinh nghiệm theo dõi, giúp đỡ, hướng dẫn và thường xuyên kiểm điểm đánh giá kết
quả rèn luyện, phấn đấu đối với những trường hợp trưởng, phó thôn dự kiến kết nạp
vào Đảng.
Cấp uỷ cấp trên tích cực chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đảng bộ các xã, phường, thị
trấn xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch kết nạp đảng viên hàng năm, trong
đó có nội dung kết nạp đảng viên là trưởng, phó thôn. Quán triệt rõ phương châm,
55
phương hướng, tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc kết nạp đảng viên theo
quy định. Việc giao chỉ tiêu phát triển đảng viên hàng năm phải chỉ rõ số lượng
đảng viên cần kết nạp trong đội ngũ trưởng, phó thôn ở từng địa phương cụ thể
nhằm đề cao trách nhiệm của các cấp ủy trong quá trình tổ chức thực hiện. Thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc, nắm tình hình để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời
đối với việc thực hiện nhiệm vụ này.
Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bầu cử
trưởng, phó thôn
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai xây dựng các chương trình, kế hoạch và
giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, nâng
cao đời sống nhân dân. Đổi mới nội dung hoạt động, phương thức vận động, thu
hút, tập hợp quần chúng của MTTQ và các đoàn thể nhân dân, tạo niềm tin của
nhân dân với Đảng. Thông qua đó, phân công, giới thiệu cấp uỷ viên, đảng viên có
uy tín để ban công tác mặt trận thôn hiệp thương, giới thiệu ứng cử làm trưởng, phó
thôn.
Ba là, điều chỉnh thống nhất nhiệm kỳ trưởng thôn
Các huyện ủy, thành ủy nghiên cứu, điều chỉnh nhiệm kỳ trưởng thôn để đến năm
2015 nhiệm kỳ trưởng thôn phù hợp với nhiệm kỳ đại hội chi bộ thôn, qua đó bảo
đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất chi bộ đối với hoạt động của thôn. Việc điều
chỉnh cần thực hiện theo hướng chi bộ đại hội trước sau đó kiện toàn bầu trưởng
thôn. Nếu nhiệm kỳ trưởng thôn đến khi đại hội chi bộ nhiệm kỳ mới mà chưa hết
thì rút ngắn thời gian nhiệm kỳ trưởng thôn; nếu đã hết nhiệm kỳ (còn dưới 12
tháng đến khi đại hội chi bộ) thì kéo dài thời gian nhiệm kỳ của trưởng thôn đến sau
khi đại hội chi bộ.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh thi đua và thực hiện nghiêm
việc đánh giá nhiệm vụ nâng tỷ lệ trưởng, phó thôn là đảng viên
Các cấp uỷ cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với cơ sở về công
tác tạo nguồn phát triển đảng viên, đặc biệt chú trọng đối tượng là trưởng, phó thôn.
56
Làm tốt công tác quản lý, phân công, theo dõi, giúp đỡ đảng viên mới nói chung và
đảng viên mới là trưởng, phó thôn hoàn thành nhiệm vụ do tổ chức phân công.
Thực hiện nghiêm túc việc đánh giá, sàng lọc, phân loại đảng viên; kiên quyết thay
thế những trưởng, phó thôn yếu kém về năng lực, trình độ, phẩm chất và uy tín
thấp; xử lý kỷ luật nghiêm minh những đảng viên, trưởng, phó thôn vi phạm khuyết
điểm; kịp thời động viên, khen thưởng đảng viên, trưởng, phó thôn có thành tích
xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Đưa nội dung nâng tỷ lệ đảng viên
trong đội ngũ trưởng, phó thôn là một trong những tiêu chí thi đua và đánh giá
TCCSĐ hàng năm [27, tr.2-3].
Như vậy, trong giai đoạn 2006 - 2014, công tác phát triển đảng viên trong các
TCCSĐ xã, phường, thị trấn được Đảng bộ tỉnh quan tâm hơn rất nhiều so với giai
đoạn trước.
- Cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt của các đảng bộ, chi bộ
Cùng với thực hiện các nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ, Đảng bộ tỉnh chú trọng cải
tiến trong sinh hoạt của các đảng bộ, chi bộ. Hàng tháng, BTG Tỉnh ủy ban hành 01
số Thông tin nội bộ, cùng với Thông tin nội bộ của các huyện, phát về các chi bộ,
làm tài liệu phục vụ sinh hoạt của chi bộ. Nội dung trong Thông tin nội bộ do BTG
Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành chính là hướng nội dung chính mà chi bộ cần bàn tới
trong buổi sinh hoạt chi bộ hàng tháng.
Kế hoạch số 30-KH/TU ngày 17-4-2008 yêu cầu: “Các cấp ủy, tổ chức đảng cơ
sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt định kỳ; Nội dung sinh hoạt
chi bộ phải cụ thể, thiết thực; Các chi bộ ít nhất mỗi quý phải sinh hoạt chuyên đề
một lần bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên trong chi bộ và
bàn các biện pháp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị; Định
kỳ sáu tháng một lần, cấp ủy cấp trên trực tiếp của TCCSĐ kiểm tra việc thực hiện
nền nếp, nội dung, chất lượng sinh hoạt chi bộ và thông báo kết quả kiểm tra trong
toàn Đảng bộ” [65, tr.6].
57
Tiếp đó, Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29-4-2011 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang yêu
cầu thực hiện giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ như sau:
Một là, cấp ủy cần bám sát vào chức năng nhiệm vụ, quy chế làm việc và tình
hình thực tiễn ở đơn vị để lựa chọn nội dung sinh hoạt phù hợp; lựa chọn một số nội
dung cụ thể, thiết thực để sinh hoạt theo các chuyên đề và ra nghị quyết chuyên đề
để lãnh đạo thực hiện; Chi ủy chi bộ chuẩn bị kỹ nội dung, thông báo để đảng viên
biết trước nội dung sinh hoạt và đảm bảo nguyên tắc trong sinh hoạt; Theo dõi chặt
chẽ đảng viên dự sinh hoạt, tạo điều kiện để đảng viên tham gia ý kiến tại các kỳ
sinh hoạt chi bộ; Những chi bộ có đông đảng viên, phải tổ chức sinh hoạt theo tổ
đảng trước hoặc sau khi sinh hoạt chi bộ.
Hai là, cấp ủy cấp trên trực tiếp phải thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, chỉ đạo
và định kỳ kiểm tra việc thực hiện chế độ sinh hoạt chi bộ; Chuẩn bị chu đáo các
nội dung thông tin cần phổ biến, gửi xuống cấp dưới để kịp thời phục vụ sinh hoạt
đảng nhật và gợi ý các nội dung sinh hoạt chuyên đề đối với cấp dưới; Chỉ đạo xác
định ngày sinh hoạt Đảng nhật của chi bộ, hoặc cấp ủy cấp dưới phù hợp để bảo
đảm phân công, bố trí các đồng chí cấp ủy viên, cán bộ, chuyên viên các ban xây
dựng Đảng thường xuyên dự sinh hoạt với chi bộ; Tăng cường kiểm tra, giám sát
việc duy trì nền nếp, nội dung sinh hoạt, sổ ghi nghị quyết của chi bộ [14, tr.8-9].
Nhằm đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ, tạo sự phong phú, hấp dẫn
trong sinh hoạt Đảng, ngày 14-10-2013, BTC Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Hướng
dẫn số 14-HD/TU “Sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề”. Hướng dẫn yêu cầu: “Việc
sinh hoạt chuyên đề phải được tổ chức định kỳ hằng quý, cấp ủy cấp trên trực tiếp
chỉ đạo các chi bộ xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên đề và thường xuyên kiểm
tra, hướng dẫn các chi bộ trực thuộc tổ chức sinh hoạt chuyên đề” [32, tr.1]. Cùng
với việc nêu ra nội dung, quá trình tổ chức sinh hoạt chuyên đề, Hướng dẫn số 14-
HD/TU đưa ra một số chuyên đề để các chi bộ tham khảo, trong đó nêu ra các
chuyên đề riêng cho loại hình chi bộ thôn, bản, tổ dân phố: “Nhiệm vụ của chi bộ
trong lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng nông thôn mới ở địa phương;
Chi bộ lãnh đạo xây dựng thôn, bản, tổ dân phố văn hóa; Chi bộ lãnh đạo chuyển
58
dịch cơ cấu kinh tế và các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp, nông thôn…” [32, tr.5-6].
- Tăng cường công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng
Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh yêu cầu: “Các cấp uỷ Đảng phải
thường xuyên quan tâm làm tốt công tác kiểm tra; Ủy ban kiểm tra các cấp chủ
động tham mưu giúp cấp uỷ xây dựng kế hoạch kiểm tra theo đúng quy định của
Điều lệ Đảng; Tăng cường công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới
khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết nghiêm túc, kịp thời các đơn, thư tố cáo cán bộ,
đảng viên; Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng của ủy ban kiểm tra các cấp,
chú ý đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ kiểm tra; Xây
dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có phẩm chất, năng lực, trung thực, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao” [5, tr.60].
Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng bộ xác định: “Tăng cường kiểm tra, giám
sát về phẩm chất đạo đức, về chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, Điều lệ Đảng và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ
chức đảng, đảng viên; Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra của
Nhà nước với hoạt động của các cơ quan tư pháp, giám sát của các đoàn thể và nhân
dân; Giải quyết kịp thời các đơn, thư tố cáo đảng viên; Chủ động phát hiện những
nhân tố tích cực để động viên, tuyên truyền, nhân rộng; Xử lý nghiêm đối với
những trường hợp sai phạm và công khai kết quả xử lý; Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp; Thực
hiện chủ trương luân chuyển cán bộ kiểm tra cấp tỉnh, huyện; xây dựng đội ngũ cán
bộ kiểm tra có phẩm chất, năng lực, đáp ứng tốt nhiệm vụ được giao” [6, tr.22-23].
Kế hoạch số 30-KH/TU ngày 17-4-2008 yêu cầu: “Thường xuyên và nghiêm túc
thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng một cách thiết thực,
nhất là trong các đợt tự phê bình hàng năm và trong quá trình thực hiện Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Thi hành kỷ luật
nghiêm minh đối với đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng và đưa ra khỏi Đảng những
59
người không đủ tư cách đảng viên; Động viên những đảng viên không còn tác dụng
tự nguyện xin ra Đảng” [66, tr.6].
Công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên ở loại hình TCCSĐ xã,
phường, thị trấn tiếp tục được thực hiện theo hướng dẫn hàng năm của BTC Tỉnh
ủy. Đảng bộ tỉnh nắm bắt tình hình trong từng giai đoạn, điều chỉnh các tiêu chuẩn
đánh giá TCCSĐ cho phù hợp. Năm 2008, Tiêu chuẩn đánh giá TCCSĐ và đảng
viên được điều chỉnh so với năm 2002:
Tiêu chuẩn 1 “Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, an ninh quốc phòng”: Tiêu
chuẩn này yêu cầu thực hiện 5 nhiệm vụ, thay vì thực hiện 3 nhiệm vụ trong Tiêu
chuẩn “Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị” của Hướng dẫn đánh giá TCCSĐ
năm 2002. Hướng dẫn năm 2008 còn yêu cầu: “Thực hiện công tác quốc phòng toàn
dân và chính sách hậu phương quân đội, bảo đảm các chỉ tiêu tuyển quân, huấn
luyện dân quân tự vệ, xây dựng lực lượng dự bị đông viên; Thực hiện chính sách
đối với người có công, thương binh, gia đình liệt sĩ và các đối tượng thuộc diện
chính sách khác”.
Tiêu chuẩn 2 “Lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng” thêm một yêu cầu so với
tiêu chuẩn đánh giá năm 2002: “Phát hiện, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả cá hành
vi nói, viết và làm trái với quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, bè phái, gia trưởng, bảo
thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, chống suy thoái đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên; Thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” ở chi bộ, đảng bộ”.
Tiêu chuẩn 3 “Lãnh đạo xây dựng chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị
- xã hội” rút gọn từ 3 xuống còn 2 yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ.
Tiêu chuẩn 4 “Thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức đảng” cơ bản được giữ
nguyên [22, tr.1-4].
60
Phương pháp đánh giá TCCSĐ năm 2008 được tiếp tục thực hiện bằng cách tính
điểm. Tuy nhiên, thang điểm đánh giá đối với loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn
được thay đổi so với năm 2002 (xem Phụ lục 4).
Theo Hướng dẫn năm 2008, căn cứ vào tiêu chuẩn và kết quả chấm điểm,
TCCSĐ được phân chia làm 4 mức (thay vì 3 mức như Hướng dẫn năm 2002):
TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh phải có các tiêu chí tính điểm đạt từ 90 điểm
trở lên, đồng thời bảo đảm các điều kiện: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị đề
ra; tổ chức chính quyền và các tổ chức MTTQ, các đoàn thể ở cơ sở phải đạt tiêu
chuẩn vững mạnh hoặc tiên tiến xuất sắc, không có tổ chức nào xếp loại yếu kém;
không có cấp ủy viên, cán bộ là cấp trưởng, cấp phó của tổ chức chính trị - xã hội bị
xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên (trừ trường hợp kỷ luật do tổ chức đảng chủ động
phát hiện, đấu tranh và xử lý); kết quả đánh giá chất lượng đảng viên có tỷ lệ đảng
viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt từ 80% trở lên; số chi bộ trực thuộc đạt
trong sạch, vững mạnh từ 80% trở lên, không có chi bộ yếu kém; các chi bộ sinh
hoạt đều, đúng quy định, tỷ lệ đảng viên dự sinh hoạt bình quân đạt từ 80% trở lên;
có 65% (xã vùng đồng bằng), 50% (xã vùng trung du), 35% (xã vùng miền núi) có
số thôn, bản được công nhận thôn, bản văn hóa; 65% (thị trấn vùng trung du), 55%
(thị trấn vùng miền núi) có số tổ dân phố được công nhận tổ dân phố văn hóa.
TCCSĐ hoàn thành tốt nhiệm vụ là những đảng bộ, chi bộ thực hiện tốt 4 nội
dung đánh giá, có tổng số điểm từ 70 đến dưới 90 điểm.
TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ là những chi bộ, đảng bộ có tổng số điểm đạt được
từ 50 điểm đến dưới 70 điểm.
TCCSĐ yếu kém là những chi bộ, đảng bộ đạt dưới 50 điểm [22, tr.10-11].
Từ năm 2011, Nội dung đánh giá TCCSĐ tỉnh Bắc Giang thực hiện theo 5 tiêu
chí. Trong đó, có thêm một tiêu chuẩn là “Về lãnh đạo thực hiện việc học tập tư
tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Tổ chức cho đảng viên nghiên
cứu, học tập, quán triệt Chỉ thị của Bộ Chính trị, các văn bản của TW về học tập tư
tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Xây dựng tiêu chí về chuẩn
61
mực đạo đức của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị theo tư tưởng và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực hiện” [37, tr.3].
Ngày 30/10/2014, BTC Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành Hướng dẫn số 18-
HD/BTCTU “Hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất
lượng tổ chức đảng ở cơ sở và đảng viên hàng năm”. Theo đó, nội dung đánh giá
TCCSĐ ở tỉnh Bắc Giang thực hiện theo 5 tiêu chuẩn, nhưng có sự thay đổi so với
Hướng dẫn năm 2011: Nội dung “học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” được đặt trong tiêu chuẩn “Công tác chính trị tư tưởng”; đồng thời,
quy định thêm 1 tiêu chuẩn là “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng” (năm
2011, nội dung này thuộc tiêu chuẩn “Công tác xây dựng đảng bộ, chi bộ) [34,
tr.14].
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác vận động quần chúng tham gia xây dựng TCCSĐ
Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XVI yêu cầu: “Tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; Tiếp tục thực hiện tốt
Nghị quyết lần thứ 7 BCH TW Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; về công tác dân tộc; công tác tôn giáo; Đẩy mạnh Cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; Củng cố chính quyền, đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí; Vận động và tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân phát huy
quyền và nghĩa vụ công dân” [5, tr.63].
Đến Đại hội đại biểu lần thứ XVII, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tiếp tục nhấn mạnh
nhiệm vụ vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng, đặc biệt là xây dựng
TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn: “Đẩy mạnh công tác dân vận của hệ thống chính trị;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực; thực hiện tốt chính sách
dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân; tạo sự đồng thuận trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ; tạo điều kiện để MTTQ và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, xã hội
nghề nghiệp phát huy vai trò trong việc hỗ trợ, vận động hội viên, đoàn viên và
62
nhân dân tham gia phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn
hoá, giữ gìn quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền” [6, tr.24].
2.2.2. Kết quả đạt được
Từ năm 2006 đến năm 2014, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở
Bắc Giang đạt nhiều kết quả, thể hiện như sau:
- Công tác xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh; củng cố TCCSĐ xã,
phường, thị trấn yếu kém được đẩy mạnh
Đại hội đại biểu lần thứ XVII của Đảng bộ tỉnh khẳng định: “Các cấp uỷ Đảng đã
chủ động bám sát nghị quyết, chỉ thị, sự chỉ đạo của cấp trên và tình hình thực tế để
đề ra các chủ trương, biện pháp cụ thể, phù hợp, lãnh đạo thực hiện toàn diện các
nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; thường xuyên quan tâm chỉ đạo nâng
cao chất lượng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, củng cố cơ sở đảng yếu kém. Hầu
hết TCCSĐ giữ vững vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Chất lượng sinh hoạt chi bộ
có bước cải thiện; nội dung sinh hoạt được chuẩn bị chu đáo, thiết thực; không khí
sinh hoạt sôi nổi, dân chủ hơn; bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ,
tăng cường kỷ cương, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng” [6, tr.22].
Chất lượng sinh hoạt chi bộ ở các TCCSĐ xã, phường, thị trấn có những chuyển
biến tích cực. Nội dung sinh hoạt của chi bộ có sự đổi mới thiết thực, hiệu quả hơn.
Việc ghi biên bản, nghị quyết hội nghị chi bộ được thực hiện nghiêm túc. “Hầu hết
các chi bộ đều đã quy định ngày sinh hoạt chị bộ hàng tháng; tỷ lệ đảng viên tham
gia sinh hoạt chi bộ đạt trên 90%” [25, tr.3]. Sinh hoạt chi bộ đã có bước đổi mới
gắn với đẩy mạnh việc học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, việc duy trì giao ban đối với Bí thư chi bộ được thực hiện đúng quy
định. Một số nơi duy tốt việc thường trực huyện ủy, thành ủy định kỳ hàng quý tổ
chức giao ban với bí thư chi bộ trực thuộc các đảng bộ xã, phường, thị trấn, kịp thời
nắm bắt tình hình cơ sở để chỉ đạo. Nhiều đơn vị có cách làm sáng tạo trong chỉ đạo
như: Thành ủy Bắc Giang thành lập 10 tổ công tác hằng tháng đi dự sinh hoạt chi
bộ, qua đó nắm chắc tình hình của địa phương, đơn vị, giúp cấp ủy có biện pháp chỉ
63
đạo, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở. Huyện ủy Lục Ngạn
chỉ đạo mỗi xã, thị trấn chọn một chi bộ sinh hoạt điểm, qua đó rút kinh nghiệm và
triển khai biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ đến các đồng chí bí thư
chi bộ. Sơn Động, Hiệp Hòa cử cán bộ của Huyện ủy hàng tháng dự sinh hoạt chi
bộ. Huyện ủy Yên Thế ban hành kế hoạch, thành lập 10 tổ công tác chỉ đạo nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ… [68, tr.6].
Hàng năm, các chi, đảng bộ cơ sở ở xã, phường, thị trấn đều đăng ký xây dựng
TCCSĐ trong sạch vững mạnh. Một số Huyện ủy như Lục Ngạn, Tân Yên, Việt
Yên thành lập tổ công tác do đồng chí ủy viên BTV Huyện ủy làm tổ trưởng, trực
tiếp chỉ đạo củng cố hạn chế, yếu kém ở các TCCSĐ. Căn cứ vào tình hình thực
tiễn, năm 2013, BTV Tỉnh uỷ Bắc Giang thành lập Tổ công tác tăng cường, củng cố
05 xã yếu kém của huyện Lục Ngạn (Tân Hoa, Kim Sơn, Phong Minh, Phong Vân
và Sa Lý). Qua đó, năng lực và kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của tổ chức
đảng, chính quyền, tác phong làm việc, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ
sở, thôn, bản được nâng lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ [68, tr.4-5].
Chất lượng TCCSĐ và đảng viên ở loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn ngày
càng được nâng cao rõ rệt. Năm 2014, có 126 đơn vị trong tổng số 230 TCCSĐ xã,
phường, thị trấn của tỉnh đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh (chiếm 54,78%); số
TCCSĐ xã, phường thị trấn đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh chiếm 19,5% so
với tổng số các TCCSĐ trong sạch, vững mạnh của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang. Đánh
giá riêng trong từng loại hình, ở TCCSĐ xã, số đơn vị đạt tiêu chuẩn trong sạch,
vững mạnh chiếm 54,11% (xem Phụ lục 7); số đơn vị là TCCSĐ phường, thị trấn
đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh chiếm 60,87% so với tổng số TCCSĐ cùng
loại hình (xem Phụ lục 8). Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên năm 2014 ở loại
hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn, có 4.933 đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
(chiếm 10,43%); 34.380 đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ (chiếm
72,7%); 7.455 đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ (chiếm 15,76%) và
521 đảng viên vi phạm tư cách (chiếm 1,1%) (xem Phụ lục 9, Phụ lục 10). Trong
tổng số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên của Đảng bộ tỉnh Bắc
64
Giang, tỷ lệ đảng viên thuộc loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn chiếm 72,53%
(39.313/54.204 đảng viên). Nhìn chung, kết quả chất lượng TCCSĐ và đảng viên
gắn liền với kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và kiểm
điểm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng (khóa XI).
- Công tác phát triển đảng viên thu nhiều thành tích
Trong nhiệm kỳ 2006-2010, Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh nhiệm vụ: Chú trọng tạo
nguồn, bồi dưỡng kết nạp đảng khu vực nông thôn, đảng viên nữ, nâng cao chất
lượng đảng viên mới, cơ bản “xoá” thôn, bản “trắng” đảng viên; Tăng cường quản
lý, rèn luyện đội ngũ đảng viên cả ở nơi công tác và nơi cư trú [6, tr.23]. Năm 2014,
toàn Đảng bộ mở các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng cho 4.348 quần chúng ưu
tú, kết nạp 3.135 đảng viên mới, trong đó, đảng viên là nông dân có 988 đồng chí
(chiếm 31,5%) [35, tr.2]. Đến ngày 31-12-2014, số đảng viên thuộc loại hình
TCCSĐ xã, phường, thị trấn trên toàn tỉnh là 57.934 đồng chí (chiếm 77,24% tổng
số đảng viên toàn Đảng bộ) [35, tr.11].
Thực hiện Kế hoạch số 11-KH/BTCTU ngày 4-11-2011 của BTC Tỉnh ủy về
nâng tỷ lệ đảng viên là trưởng, phó thôn, bản, tổ dân phố, năm 2014, Đảng bộ kết
nạp 84 trưởng thôn, 84 phó thôn vào Đảng [35, tr.3]. Tính từ năm 2011 đến ngày
30/9/2014, toàn tỉnh kết nạp 163 trưởng thôn và 241 phó thôn, bản, tổ dân phố vào
Đảng. Một số đơn vị đạt tỷ lệ trưởng thôn, bản, tổ dân phố là đảng viên cao, như:
Thành phố Bắc Giang (78,6%), Lạng Giang (65,8%), Yên Dũng (64,6%), Yên Thế
chỉ đạo thí điểm nhất thể hóa bí thư chi bộ và trưởng thôn tại 05 thôn, bản, tổ dân
phố, Tân Yên tổ chức bầu trưởng thôn đồng loạt trong 1 ngày [70, tr.6]. Đến ngày
31-12-2014, Đảng bộ có 1.375 trưởng thôn, bản, tổ dân phố là đảng viên (chiếm
55,1% tổng số trưởng thôn), 1.184 phó thôn là đảng viên (chiếm 34,9% tổng số phó
thôn) [35, Biểu số 1].
Đẩy mạnh việc thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29-4-2011, Đảng bộ tỉnh
quan tâm công tác kết nạp đảng viên ở những tổ chức đảng nhiều năm liền không
kết nạp được đảng viên, đồng thời nâng cao chất lượng đảng viên được kết nạp. Do
đó, năm 2014, Đảng bộ tỉnh không còn thôn, bản “trắng” đảng viên.” [70, tr.6]
65
Mô hình chi bộ cơ quan xã trực thuộc TCCSĐ loại hình xã, phường, thị trấn tiếp
tục được chỉ đạo hoàn thiện. Đến năm 2014, Đảng bộ tỉnh có 111 chi bộ cơ
quan/230 xã, phường, thị trấn (bằng 48,3%) với tổng số 1.934 đảng viên. Đảng ủy
các xã, phường, thị trấn bố trí đồng chí phó bí thư hoặc thường trực đảng ủy làm bí
thư chi bộ cơ quan xã; chỉ đạo xây dựng quy chế làm việc; phân công nhiệm vụ cụ
thể cho đảng viên; duy trì nền nếp chế độ sinh hoạt định kỳ; chú trọng sinh hoạt
theo chuyên đề; phát huy tốt vai trò trong lãnh đạo đảng viên, cán bộ, công chức và
quần chúng ở cơ quan xã [70, tr.3].
- Công tác cán bộ được chú trọng, quan tâm hơn
Trong giai đoạn 2006 - 2014, Đảng bộ tỉnh kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
trong hệ thống chính trị, tăng cường phân cấp quản lý cán bộ; sửa đổi, ban hành tiêu
chuẩn chức danh, làm cơ sở đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển
cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ có tiến bộ; trình độ và tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số trong quy hoạch cao hơn nhiệm kỳ trước. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển được thực hiện tích cực, gắn với quy hoạch, tạo
điều kiện để cán bộ rèn luyện, trưởng thành toàn diện. Việc bổ nhiệm cán bộ tiến
hành dân chủ, công khai, bảo đảm tiêu chuẩn và quy trình; cán bộ được giới thiệu,
bổ nhiệm cơ bản phát huy tác dụng tốt.
Thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU ngày 5-12-2006, và Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29-
4-2011, BTC các huyện ủy, thành ủy xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp xã. Trong đó, riêng năm 2012, toàn tỉnh có gần 300 cán bộ, công
chức cấp xã được cử lên học tập, bồi dưỡng tại các phòng, ban cấp huyện nhằm
nâng cao trình độ, kỹ năng và kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ ở cơ sở. Một
số đơn vị có cách làm tiêu biểu như: Tân Yên tổ chức tuyển chọn bí thư đoàn xã
công khai; Yên Dũng, Yên Thế, Việt Yên đẩy mạnh thực hiện luân chuyên cán bộ
xuống cơ sở bố trí các chức danh chủ chốt, tăng cường cán bộ cho những nơi khó
khăn; Thành ủy Bắc Giang cử cán bộ các phòng ban, đoàn thể của thành phố xuống
cơ sở trực tiếp hướng dẫn cán bộ xã, phường thực hiện chuyên môn [30, tr.5].
66
Trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở được nâng lên rõ rệt, tinh thần trách
nhiệm trong giải quyết công việc, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ
cán bộ được nâng lên, uy tín với nhân dân ngày càng cao. Đến 30/9/2014, tổng số
cán bộ chủ chốt cấp xã là 1.379 đồng chí, trong đó có 74 nữ (chiếm 5,4%), tuổi dưới
35 là 93 đồng chí (chiếm 6,7%); trình độ chuyên môn trung cấp trở lên là 1.337
đồng chí (chiếm 97%, mục tiêu Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29-4-2011 đạt 100% vào
năm 2015), trong đó, cao đẳng, đại học và trên đại học là 585 đồng chí (chiếm
42,5%, mục tiêu Đề án số 02-ĐA/TU đạt 50% vào năm 2015); trình độ lý luận
chính trị từ trung cấp trở lên bằng 95,1% (mục tiêu Đề án đến năm 2015 đạt 100%)
[70, tr.7].
Việc tuyển chọn cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản vào hệ thống chính trị cơ sở
được chú trọng, một số đơn vị thực hiện hợp đồng lao động đối với sinh viên làm
việc tại xã, xét tuyển sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy làm Bí thư Đoàn xã;
tiếp nhận tri thức trẻ, có trình độ đại học tăng cường về làm phó chủ tịch UBND xã;
bố trí, sắp xếp cán bộ khuyến nông cơ sở có trình độ đại học chính quy giữ chức vụ
phó chủ tịch UBND xã... Thực hiện chủ trương thí điểm đồng chí bí thư cấp uỷ
đồng thời là chủ tịch UBND ở cấp xã, BTV Tỉnh uỷ chỉ đạo lựa chọn 07 xã để thực
hiện. Đến năm 2014, có 02 đảng bộ xã đang thực hiện (xã Tuấn Đạo- Sơn Động, xã
Phồn Xương- Yên Thế) và 01 xã do huyện chủ động thực hiện (xã Tân Thịnh- Lạng
Giang) [70, tr.7].
- Công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng
Từ năm 2006 đến năm 2014, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang đối với TCCSĐ nói chung, loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng
được duy trì nề nếp, góp phần giữ nghiêm kỷ luật Đảng, hạn chế sai phạm. Ủy ban
Kiểm tra Tỉnh ủy Bắc Giang phối hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước, giám sát của MTTQ, các đoàn thể và
nhân dân; xử lý nghiêm minh và đồng bộ giữa kỷ luật đảng, kỷ luật chính quyền và
đoàn thể, kết hợp với thu hồi kinh tế sai phạm; giải quyết kịp thời tố cáo, kiến nghị
và khiếu nại kỷ luật Đảng.
67
Thời gian 2006 - 2012, Ủy ban Kiểm tra các cấp tiến hành kiểm tra và phát hiện
7470 TCCSĐ vi phạm; đã thi hành kỷ luật 1.006 tổ chức đảng. Qua kiểm tra, đã kết
luận 42.322 đảng viên có vi phạm; đã thi hành kỷ luật 23.846 đảng viên [39, tr.15].
Đặc biệt, trong năm 2012, công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật tổ chức
đảng và đảng viên trong Đảng bộ được các cấp ủy đảng coi trọng và thực hiện
nghiêm túc, phát hiện 02 đảng bộ cơ sở có vi phạm; ban hành quyết định thi hành
kỷ luật đảng đối với 395 đảng viên [30, tr.4]. Năm 2013, Đảng bộ có 604 đảng viên
bị kỷ luật Đảng [33, tr.5]. Năm 2014, công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật Đảng đối
với đảng viên trong Đảng bộ tỉnh được các cấp ủy đảng coi trọng và thực hiện
nghiêm túc, đã quyết định thi hành kỷ luật Đảng đối với 427 đảng viên (khiển trách
252, cảnh cáo 129, cách chức 04, khai trừ 42) [35, tr.5]. Mặc dù công tác kỷ luật
Đảng gia tăng thể hiện sự nghiêm túc thực hiện Điều lệ Đảng. Tuy nhiên, điều đó
cũng thể hiện chất lượng đảng viên cần phải được chú trọng hơn nữa.
Tiểu kết chƣơng 2
Trong thời gian 1997 - 2005, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đạt được nhiều thành tựu
đáng khích lệ. Đó chính là nền tảng để Đảng bộ tiếp tục thực hiện công tác xây
dựng TCCSĐ, trong đó có công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong
những năm 2006 - 2014.
Bước sang năm 2006, tình hình đất nước và địa phương có sự thay đổi rất nhiều,
đem lại những thời cơ và thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội. Những chủ
trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được đề ra qua 2 Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X và lần thứ XI, xác định các nhiệm vụ và định hướng cho công tác
xây dựng Đảng của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn mới.
Trong tình hình mới, từ năm 2006 đến năm 2014, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đẩy
mạnh hơn công tác xây dựng Đảng, trong đó có nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ. Những
chủ trương của Đảng bộ tỉnh được thể hiện chủ yếu trong: Nghị quyết Đại hội lần
thứ XVI (2006) và Nghị quyết Đại hội lần thứ XVII (2011) của Đảng bộ tỉnh; Đề án
số 02-ĐA/TU ngày 5-12-2006 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang “Xây dựng và nâng cao
năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán ộ chủ chốt xã, phường, thị trấn, giai
68
đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo”; Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29-4-2011
của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015”. Đề án số 05-ĐA/TU ngày 11-7-2014 của
BTV Tỉnh ủy Bắc Giang “Tạo nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn đến năm 2025 và những năm tiếp theo”.
Từ những chủ trương chỉ đạo thực hiện xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn
trong giai đoạn 2006 - 2014, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đạt được nhiều kết quả đáng
ghi nhận: Công tác xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, củng cố TCCSĐ yếu
kém được đẩy mạnh thực hiện; Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở được quan tâm hơn; Công
tác phát triển đảng viên thu được nhiều thành tích; Nhiệm vụ kiểm tra, kỷ luật của
Đảng được Đảng bộ chỉ đạo thực hiện nghiêm túc. Đây chính là sự kế thừa và phát
huy những kết quả mà công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn giai đoạn
1997 - 2005 đạt được. Từ đó, khẳng định sự thường xuyên, liên tục của Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói
riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung, tạo nền tảng cho công tác xây dựng Đảng
những năm tiếp theo.
69
Chƣơng 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
3.1. Nhận xét
3.1.1. Ưu điểm
Thực tế 18 năm (1997 - 2014), công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Bắc Giang được xem là có ý nghĩa rất quan trọng trong những thắng lợi chung
của tỉnh Bắc Giang. Quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang nổi lên một số ưu điểm sau đây:
Một là, bằng những chủ trương và iện pháp cụ thể, quá trình xây dựng TCCSĐ
tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014 là sự tiếp nối
và phát triển việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ từ trước khi Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang được tái lập.
Có thể khẳng định rằng, ngay từ trước khi Đảng bộ tỉnh Bắc Giang được tái lập
(năm 1997), các cấp ủy đảng đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, gắn với việc củng cố các cơ sở Đảng yếu kém. Các
cơ sở Đảng được công nhận trong sạch, vững mạnh đã thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ chủ yếu: TCCSĐ là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, làm nhân tố quyết
định lãnh đạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo phát triển kinh tế
- xã hội ở địa phương; thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng ở địa phương,
củng cố và tạo được niềm tin của nhân dân [61, tr.1]. Đây chính là nền tảng cơ bản
để Đảng bộ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ngay
khi được tái lập tỉnh.
Trong từng thời gian cụ thể, Đảng bộ tỉnh luôn căn cứ vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác xây dựng Đảng, từ đó đề ra các chủ trương lãnh đạo
và biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn phù hợp với
yêu cầu và tình hình của địa phương. Từ năm 1997 đến năm 2005, sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn chủ
yếu thể hiện qua Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (1997) và Nghị
70
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV (2000) và Kế hoạch số 19-KH/TU ngày 19-
9-1997 của Tỉnh ủy Bắc Giang “Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức
cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố sơ sở đảng yếu kém”. Từ Đại hội đại
biểu lần thứ XVI của Đảng bộ (2005), nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn được Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tích cực thực hiện với phương hướng “Nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của
Đảng bộ trong giai đoạn cách mạng mới” [5, tr.61].
Đặc biệt, từ năm 2006 đến năm 2014, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn được đẩy mạnh lên một bước với Đề án số 02-ĐA/TU của Tỉnh ủy Bắc Giang
ngày 5-12-2006 “Xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn, giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp
theo”, Đề án số 02-ĐA/TU của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang ngày 29-4-2011 “Nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015” và Đề án
số 05-ĐA/TU ngày 11-7-2014 của Tỉnh ủy Bắc Giang “Tạo nguồn bí thư đảng ủy,
chủ tịch Ủy an nhân dân xã, phường, thị trấn đến năm 2025 và những năm tiếp
theo”. Ba Đề án thực sự đã góp phần tăng cường việc thực hiện công tác xây dựng
TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
Với những chủ trương lãnh đạo và biện pháp thực hiện mà Đảng bộ đề ra, trong
thời gian 1997 - 2005, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc
Giang được củng cố và là nền tảng để Đảng bộ phát huy những thành tựu trong giai
đoạn 2006 - 2014, tăng cường xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh ở loại
hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn, đưa chất lượng TCCSĐ ở xã, phường, thị trấn lên
cao hơn, hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội đã đề ra.
Hai là, Đảng bộ tỉnh Bắc iang thường xuyên quan tâm công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ cán ộ, đảng viên.
Công tác xây dựng TCCSĐ vững mạnh về chính trị, tư tưởng là một nhiệm vụ
cốt lõi đối với Đảng cầm quyền. Những năm 1997 - 2014, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
71
thường xuyên tổ chức nghiên cứu, ban hành và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, kế
hoạch nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên của TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Qua đó, góp phần tăng cường năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở các địa phương.
Ngay từ khi tái lập tỉnh (1997), Đảng bộ tỉnh luôn coi công tác xây dựng TCCSĐ
trong sạch, vững mạnh, củng cố cơ sở đảng yếu kém và nhiệm vụ trọng tâm với
việc ban hành Kế hoạch số 19-KH/TU ngày 19-9-1997; trong đó, nhiệm vụ hàng
đầu là tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Trong thời gian từ năm
1997 đến năm 2014, toàn Đảng bộ từ 211 TCCSĐ xã, phường, thị trấn đã phát triển
và tăng lên là 230 đơn vị; trong đó số TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh liên tục
tăng trong nhiều năm và chiếm tỷ lệ cao.
Trong giai đoạn 1997 - 2014, Đảng bộ tỉnh kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
trong hệ thống chính trị, tăng cường phân cấp quản lý cán bộ; sửa đổi, ban hành tiêu
chuẩn chức danh, làm cơ sở đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển
cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ có tiến bộ; trình độ và tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số trong quy hoạch cao hơn nhiệm kỳ trước. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ được thực hiện tích cực, gắn với quy
hoạch, tạo điều kiện để cán bộ rèn luyện, trưởng thành toàn diện. Việc bổ nhiệm cán
bộ tiến hành dân chủ, công khai, bảo đảm tiêu chuẩn và quy trình; cán bộ được giới
thiệu, bổ nhiệm cơ bản phát huy tác dụng tốt.
Đề án số 02-ĐA/TU của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang ngày 05-12-2006 “Xây dựng
và nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán ộ chủ chốt cấp xã,
phường, thị trấn, giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo” được thực hiện
khẩn trương, nghiêm túc và có hiệu quả thiết thực. Đến năm 2011, Đề án tiếp tục
được thực hiện và đẩy mạnh hơn cùng với Đề án số 02-ĐA/TU của BTV Tỉnh ủy
Bắc Giang, ngày 29-4-2011, về “Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015”. Năm 2014, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tiếp tục
lãnh đạo công tác cán bộ với Đề án số 05-ĐA/TU ngày 11-7-2014 của Tỉnh ủy Bắc
Giang “Tạo nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
72
đến năm 2025 và những năm tiếp theo”, thay thế cho Đề án số 02-ĐA/TU ngày 02-
12-2006. Ba Đề án thực sự góp phần đẩy mạnh việc thực hiện công tác đào tạo, bồi
dưỡng và luân chuyển cán bộ, đảng viên.
Trong công tác cán bộ, được quan tâm nhất là đối với cán bộ cấp xã, thôn, bản
được kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn. Một số địa phương đã có chính
sách thu hút đối với cán bộ không chuyên trách, cán bộ đoàn thể, có nhiều cách làm
sáng tạo như: Tân Yên tổ chức tuyển chọn bí thư Đoàn xã công khai; Yên Dũng,
Yên Thế, Việt Yên đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ xuống cơ sở bố trí các
chức danh chủ chốt, tăng cường cán bộ cho những nơi khó khăn; Thành ủy Bắc
Giang cử cán bộ các phòng, ban, đoàn thể của thành phố xuống cơ sở trực tiếp
hướng dẫn cán bộ xã, phường thực hiện nhiệm vụ chuyên môn… Tổ chức hội thi
“ í thư chi ộ giỏi” trong nhiều năm, nhằm nâng cao nghiệp vụ công tác tổ chức
xây dựng Đảng cho đội ngũ cán bộ. Nhờ vậy, Đảng bộ tỉnh tập hợp được đội ngũ
cán bộ có chất lượng ở các tổ chức cơ sở, cán bộ hiểu sâu hơn và rõ hơn về vị trí,
chức trách, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với công việc được giao; được
rèn luyện kỹ năng, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và vận dụng kiến thức bồi
dưỡng trong lĩnh vực công tác. Thông qua đó, các phòng, ban, cơ quan cấp huyện
đánh giá được thực chất năng lực, trình độ thực tế của cán bộ cấp xã, nắm bắt được
những khó khăn, hạn chế, vướng mắc đang xảy ra ở cơ sở để tham mưu cho cấp ủy
lãnh đạo giải quyết; mặt khác, giúp cấp ủy, UBND xã nhận xét, đánh giá đúng thực
chất cán bộ, công chức ở đơn bị mình, thúc đẩy mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa
Đảng ủy, UBND các xã, phường, thị trấn với các phòng, ban, cơ quan cấp huyện.
Cùng với đó, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” được Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tổ chức và vận động đông đảo cán bộ, đảng
viên và quần chúng tham gia. Qua đây, ngày càng xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân
ưu tú, góp phần nâng năng lực cho đảng viên. Thông qua sinh hoạt Đảng góp phần
giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, khắc phục những biểu hiện chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa tự do vô tổ chức, nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình trong đội
ngũ đảng viên. Do làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nên trước những
73
biến động của tình hình thế giới, khu vực, cán bộ và đảng viên vẫn luôn giữ vững
lập trường chính trị, góp phần tuyên truyền nhân dân trong tỉnh luôn tin tưởng vào
sự lãnh đạo và đường lối đổi mới của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền
các cấp, thực hiện đoàn kết, thống nhất, hoàn thành những nhiệm vụ chính trị địa
phương, cơ sở.
Ngoài ra, việc đề ra các giải pháp để tiến tới tách các chi bộ ghép và xóa những
thôn, bản “trắng” đảng viên luôn được Đảng bộ đề ra thường xuyên, liên tục. Điều
này thể hiện trong các nhiệm kỳ, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đều chú trọng thực hiện
nhiệm vụ kết nạp đảng viên ở những thôn, bản chưa có đảng viên, thành lập các chi
bộ ở các thôn, bản đó. Kế hoạch số 07-KH/TCTU của BTC Tỉnh ủy Bắc Giang ban
hành ngày 14-4-2008 đã chứng minh cho sự quan tâm sát sao ấy. Đến năm 2014,
toàn tỉnh không còn thôn, bản “trắng” đảng viên.
Nhờ những nỗ lực trên, công tác phát triển đảng luôn được chú trọng, mỗi năm,
Ðảng bộ tỉnh kết nạp trung bình trên 2.000 đảng viên mới, đặc biệt tăng nhanh trong
những năm 2001 - 2014, trong đó trên 30% là đảng viên thuộc TCCSĐ xã, phường,
thị trấn. Những kết quả đó góp phần khẳng định thêm vị trí hạt nhân và vai trò lãnh
đạo của các TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở địa phương, nâng cao sức chiến đấu của
TCCSĐ nói chung, loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng.
Ba là, Đảng bộ tỉnh Bắc iang đã có sự quan tâm đến công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật của Đảng, đồng thời tích cực vận động quần chúng tham gia
xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn có hiệu quả, góp phần tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng với nhân dân.
Công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên ở xã, phường, thị trấn được
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang chỉ đạo thực hiện thường xuyên. Hàng năm, BTC Tỉnh ủy
đều ban hành các Hướng dẫn đánh giá, tạo hướng đánh giá và xếp loại các TCCSĐ
và đảng viên. Các tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại TCCSĐ xã, phường, thị trấn được
BTC Tỉnh ủy điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cụ thể, đồng thời phù hợp với
đặc điểm riêng của TCCSĐ xã và TCCSĐ phường, thị trấn. Từ năm 2002, việc
đánh giá, xếp loại TCCSĐ dựa trên 4 tiêu chí, thay vì 5 tiêu chí đánh giá như trước.
74
Đến năm 2008, các yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong từng tiêu chuẩn đánh giá được
nâng lên ở mức cao hơn. Từ năm 2011, tiêu chuẩn đánh giá TCCSĐ được nâng lên
1 tiêu chuẩn là “Lãnh đạo thực hiện việc học tập tư tưởng và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”. Từ năm 2014, nội dung “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” thuộc tiêu chuẩn “Công tác chính trị tư tưởng”, đồng thời bổ
sung 1 tiêu chuẩn là “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng”.
Phương pháp đánh giá TCCSĐ xã, phường, thị trấn và đảng viên được Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang lựa chọn phù hợp và có sự điều chỉnh. Đặc biệt, từ năm 2002,
phương pháp đánh giá TCCSĐ và đảng viên toàn tỉnh có sự thay đổi, thực hiện
bằng cách tính điểm. Phương pháp này góp phần giúp công tác đánh giá hàng năm
của TCCSĐ và đảng viên ở xã, phường, thị trấn được thực hiện nhanh chóng và
chính xác và khách quan hơn.
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên trong
Đảng bộ tỉnh được các cấp ủy Đảng coi trọng và thực hiện nghiêm túc, đảm bảo dân
chủ và khách quan. Năm 2012, Đảng bộ đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ. Tỉnh ủy yêu cầu cấp ủy các cấp
tham mưu, chỉ đạo chặt chẽ việc thành lập các tổ công tác của BTV cấp ủy trực tiếp
chỉ đạo kiểm tra, giám sát TCCSĐ ở địa phương. Từ năm 2014, công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật đảng trở thành 1 trong 5 tiêu chuẩn đánh giá chất lượng TCCSĐ.
Như thế, việc thực hiện kế hoạch, kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra và
công tác tự kiểm tra, giám sát của Đảng bộ ở các xã, phường, thị trấn và công tác
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, giải quyết đơn thư khiếu
nại, tố cáo, phát hiện và xử lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm trở thành một nhiệm
vụ riêng biệt, nằm trong nội dung đánh giá hàng năm của TCCSĐ nói chung,
TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng.
Việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng được thực hiện nghiêm túc
trong nhiều năm. Từ sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH TW Đảng
(Khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, các tổ chức Ðảng
và đảng viên ở xã, phường, thị trấn trong tỉnh thực hiện nghiêm túc trong tự phê
75
bình và phê bình, củng cố vai trò, trách nhiệm của tổ chức đảng đối với đời sống xã
hội. Nhìn chung, việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đã trở thành một đợt sinh
hoạt chính trị sâu rộng trong Đảng bộ tỉnh, góp phần làm trong sạch đội ngũ đảng
viên .
Nắm vững quan điểm “dân là gốc”, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tăng cường công tác
dân vận hướng về cơ sở; đẩy mạnh công tác dân vận của chính quyền; phát huy vai
trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong việc thúc đẩy các cuộc vận động,
phong trào thi đua yêu nước phát triển rộng khắp. Toàn tỉnh xuất hiện nhiều mô
hình điển hình “Dân vận khéo”. Từ năm 2007 đến nay, cấp ủy các cấp tiến hành Hội
thi “Cán bộ dân vận khéo” cấp xã, phường, thị trấn, cấp huyện và cấp tỉnh. Qua đó,
góp phần rèn luyện kĩ năng, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ dân vận ở cơ
sở, đồng thời thu hút đông đảo nhân dân tham gia và hiểu biết thêm về đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Các cấp uỷ Đảng kịp thời chỉ đạo
quán triệt, xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện có hiệu quả các
nghị quyết, chỉ thị của TW về công tác dân vận, MTTQ và các đoàn thể nhân dân,
chỉ đạo thực hiện kịp thời các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào
dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo và vùng khó khăn. Tình hình dân tộc, tôn giáo
trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định.
Từ đây, các TCCSĐ và chính quyền cấp cơ sở tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải
quyết những vấn đề liên quan đến công tác vận động quần chúng, phát huy có hiệu
quả các phong trào thi đua yêu nước, phong trào phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường, các phong trào giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa các xã, phường, thị trấn;
phối hợp tốt giữa các Ban Dân vận và MTTQ, các Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ,
Đoàn Thanh niên… Do vậy, ạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, tăng
cường sự đồng thuận giữa cán bộ và quần chúng, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị địa phương. Hơn thế nữa, từ các phong trào quần chúng, các cấp
ủy phát hiện những gương quần chúng ưu tú để giáo dục, bồi dưỡng chính trị, tư
tưởng, tạo nguồn kết nạp vào các TCCSĐ ở địa phương.
76
Bốn là, quá trình xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang tác
động tích cực đối với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng
của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi” [51, tr.460].
Những kết quả Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đạt được trong công tác xây dựng TCCSĐ
xã, phường, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2014, tác động tích cực đối với việc củng
cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị ở cơ sở. Hoạt động của HĐND cấp xã, phường, thị trấn tiếp tục đổi mới theo
hướng công khai, dân chủ. Nội dung họp tập trung bàn sâu, quyết định những vấn
đề lớn của địa phương, những vấn đề nổi cộm đang được cử tri quan tâm. Công tác
tiếp xúc cử tri, hướng về thôn, bản, kịp thời tiếp nhận, tập hợp các ý kiến, kiến nghị
của cử tri để phản ánh đến cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết. Qua đó, đảng
bộ cơ sở nắm rõ tình hình địa phương, kịp thời đề ra những biện pháp xây dựng và
củng cố chính quyền.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn quan tâm đến đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
các cán bộ chủ chốt; tích cực đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ cơ sở. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên; ý thức
phục vụ nhân dân của một bộ phận bước đầu có chuyển biến tiến bộ hơn. Đẩy mạnh
cải cách hành chính, rà soát, sửa đổi, bổ sung, loại bỏ những thủ tục hành chính
rườm rà; tích cực triển khai mô hình “một cửa điện tử”, “một cửa liên thông”. Việc
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai tích cực. Công tác thanh
tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở có tiến bộ. Năng lực quản lý, điều hành của UBND
các cấp được nâng lên [6, tr.8]. Nhờ vậy, hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng được
nâng cao về chất lượng, đảm bảo là cơ quan quyền lực của dân, do dân và vì dân,
luôn được nhân dân tin tưởng.
77
Năm là, những thành tựu xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc
Giang (1997 - 2014) góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Xây dựng TCCSĐ, trong đó có loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn là góp
phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Từ năm 1997 đến
năm 2014, với sự đóng góp của những thành tựu trong xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn nói riêng, xây dựng TCCSĐ nói chung: Kinh tế tăng trưởng với tốc
độ khá, quy mô kinh tế của tỉnh tăng lên đáng kể, tiềm lực kinh tế của tỉnh ngày
càng mạnh. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, thông tin, truyền thông…
phát triển toàn diện theo hướng tăng về quy mô và nâng cao về chất lượng, một số
lĩnh vực nằm trong nhóm đứng đầu các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc và cả nước.
Hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện rõ nét. Thu nhập của đại bộ phận người dân
được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở cả khu vực thành thị,
nông thôn được cải thiện rõ rệt. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền đạt nhiều kết
quả tích cực. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng được
nâng lên. Công tác quản lý, điều hành của chính quyền các cấp ngày càng hiệu lực,
hiệu quả. Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể tiếp tục có một số chuyển biến tiến
bộ. Khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố vững chắc. An ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững. Đến năm 2014, Bắc Giang đã trở
thành tỉnh phát triển khá trong khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc [71, tr.17].
Tốc độ tăng trưởng (GDP) bình quân cơ bản tăng: từ 6,9%/ năm (1997 - 2000)
[4, tr.11] lên 9%/năm (2006 - 2011) [6, tr.1]; tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm của
tỉnh (GRDP) từ năm 2011 - 2014 đạt bình quân 9,4%/năm [82, tr.1]. Thu nhập bình
quân đầu người năm 2000 chỉ đạt 208 USD [4, tr.11], năm 2011 tăng lên là 650
USD [6, tr.2], đến năm 2014 đạt 1.530 USD [71, tr.1], tăng hơn 5 lần so với đầu
năm 2005 và tăng gấp hơn 7 lần so với năm 2000.
Khu vực nông thôn tiếp tục được quan tâm đầu tư, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi
mới: Hạ tầng nông thôn tiếp tục được hoàn thiện. Tư duy phát triển kinh tế của
người dân khu vực nông thôn chuyển dịch tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của
người dân khu vực nông thôn được nâng lên. Xây dựng nông thôn mới đạt một số
78
kết quả tích cực bước đầu. Bình quân các xã trên địa bàn tỉnh đạt 12,5/19 tiêu chí xã
nông thôn mới [71, tr.3].
Giáo dục, đào tạo đạt một số thành tựu quan trọng, các cơ sở đào tạo nghề trên
địa bàn mỗi năm dạy nghề cho gần 3 vạn lao động, góp phần nâng tỷ lệ lao động
qua đào tạo của tỉnh đạt 50,5%. Hệ thống y tế được quan tâm đầu tư, nâng cấp
tương đối đồng bộ. Đến hết năm 2014, toàn tỉnh có 77,4% xã, phường, thị trấn đạt
tiêu chí quốc gia về y tế; 100% thôn, bản có nhân viên y tế hoạt động; 72% dân số
trên địa bàn tỉnh có thẻ bảo hiểm y tế. Văn hóa, thể thao, thông tin, truyền thông
tiếp tục phát triển đa dạng, cơ bản đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, tinh thần
của nhân dân. 100% các xã, phường, thị trấn được sử dụng hiện lưới quốc gia và
phủ sóng điện thoại di động (2G, 3G) và kết nối được Internet. Các hoạt động báo
chí, tuyên truyền đóng góp tích cực tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước tới người dân, cổ vũ phong trào thi đua yêu
nước, đồng thời phản ánh kịp thời nguyện vọng của nhân dân với các cấp ủy Đảng,
chính quyền [71, tr.7-8].
Có được những ưu điểm trên là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang đề ra trong thời gian qua là đúng đắn, phù hợp, tạo được sự đồng thuận
cao trong nhân dân. Đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh
phát huy truyền thống đoàn kết, không ngừng đổi mới, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Thứ hai, Tỉnh uỷ và các cấp, các ngành có sự đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành; hướng mạnh về cơ sở, phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho cấp dưới, gắn
với việc tăng cường hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra tổ chức thực hiện; tập trung cao
việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm và then chốt; kịp thời cụ thể hoá các mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp thành các chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể để tổ chức thực
hiện.
79
Thứ ba, truyền thống yêu quê hương, đất nước, một lòng tin tưởng vào lý tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam được duy trì từ rất lâu trong Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc tỉnh Bắc Giang. Đây chính là điều kiện tiên quyết để hoàn thành có hiệu quả
các nghị quyết, chính sách của Đảng bộ và chính quyền, đặc biệt ở cấp xã, phường,
thị trấn.
Thứ tư, điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh có sự phát triển qua các năm, cơ sở vật chất
hạ tầng được đầu tư, góp phần nâng cao cả về số lượng và chất lượng các trang thiết
bị thực hiện công tác xây dựng Đảng ở các địa phương, đặc biệt là các vùng sâu,
vùng xa, đặc biệt khó khăn. Việc đầu tư các trang thiết bị trong giảng dạy chính trị
hay đầu tư, lắp đặt các phương tiện truyền thông cũng góp phần tuyên truyền sâu
rộng trong đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; để cán bộ, đảng viên và nhân dân sớm
có kế hoạch thực hiện, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm hết sức nổi bật, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường,
thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, từ năm 1997 đến năm 2014, vẫn còn có những
hạn chế nhất định:
Một là, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên có lúc, có nơi
còn bị xem nhẹ và chưa theo kịp tình hình thực tiễn; chất lượng sinh hoạt chi bộ
trực thuộc đảng bộ xã, phường, thị trấn còn hạn chế.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở một số
nơi chỉ theo phong trào chứ không đạt kết quả rõ nét, chưa đi vào chiều sâu. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu. Một số
cấp ủy cơ sở chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Chất lượng sinh hoạt chi bộ có được nâng lên nhưng chưa đáp ứng so với yêu
cầu: Nội dung sinh hoạt ở nhiều chi bộ nông thôn chậm đổi mới; việc tổ chức sinh
hoạt chuyên đề còn hình thức; kĩ năng điều hành, chủ trì cuộc họp của nhiều đồng
80
chí bí thư chi bộ còn yếu. Trong sinh hoạt, đảng viên ngại phát biểu, né tránh tham
gia những ý kiến trái chiều hoặc chỉ phát biểu lựa theo ý của lãnh đạo. Do đó, chất
lượng sinh hoạt chi bộ ở một số nơi còn thấp.
Hai là, công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
người dân tộc thiểu số ở một số xã, phường, thị trấn chưa được quan tâm đúng
mức; nhiệm vụ phát triển đảng viên còn thụ động, thiếu đồng bộ.
Cơ cấu độ tuổi cán bộ cơ sở chưa bảo đảm, tỷ lệ tuổi trẻ, tỷ lệ nữ thấp. Sự bất
hợp lý về cơ cấu độ tuổi không phát huy được điểm mạnh của từng độ tuổi như chắc
chắn, nhiều kinh nghiệm của độ tuổi cao, sự hài hoà, thận trọng của độ tuổi trung
niên và sự năng động, sáng tạo của độ tuổi trẻ. Năng lực và trình độ của một bộ
phận không nhỏ đội ngũ cán bộ cơ sở, số cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
sơ cấp và chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao. Một số địa phương vẫn còn tình trạng vi
phạm quy chế dân chủ ở cơ sở, chưa thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, còn biểu
hiện mất đoàn kết, đoàn kết xuôi chiều.
Chất lượng bộ máy ở nhiều cấp, ngành, địa phương còn bất cập. Nhận thức, tư
duy kinh tế của một số cán bộ lãnh đạo, đảng viên chậm đổi mới. Trình độ, năng
lực,của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chất lượng quy hoạch
cán bộ ở một số xã, phường, thị trấn còn hạn chế.
Bên cạnh đó, “một số chi, đảng bộ thực hiện quy trình kết nạp đảng viên chưa
chặt chẽ; kết nạp đảng ở khu vực nông thôn vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn
(số thanh niên nông thôn đi làm ăn xa nhiều); tỷ lệ đảng viên là trưởng, phó thôn,
bản, tổ dân phố đến năm 2014 là 54,2%, chưa đạt đạt mục tiêu đề ra (mục tiêu 75%)
[70, tr.7]. Sự phối hợp giữa tổ chức đảng và các đoàn thể trong việc xây dựng phong
trào quần chúng để tạo nguồn kết nạp đảng viên còn chưa đạt hiệu quả. Ở nhiều nơi,
do ảnh hưởng của những hạn chế từ công tác dân số, nên nhiều quần chúng có năng
lực, uy tín trong nhân dân nhưng không được kết nạp vào Đảng, do vi phạm chính
sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
81
Hàng năm, số lượng đảng viên mới trong TCCSĐ xã, phường, thị trấn được kết
nạp tăng lên, nhưng công tác phát triển đảng viên chưa thực sự coi trong kết nạp
đảng viên là người dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng công giáo. Đảng viên là nữ và
thuộc thành phần dân tộc thiểu số có tăng về số lượng qua các năm, nhưng còn ít so
với mặt bằng chung và năng lực còn hạn chế.
Ba là, hoạt động kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời
và triệt để; việc tuyên truyền và vận động quần chúng tham gia thực hiện xây dựng
TCCSĐ xã, phường, thị trấn chưa thực sự sâu rộng, ít sáng tạo.
Tình trạng hữu khuynh, né tránh, ngại va chạm trong công tác kiểm tra, kỷ luật
Đảng còn xảy ra. Tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi chưa cao,
còn biểu hiện đoàn kết “xuôi chiều” hình thức.
Hoạt động của ủy ban kiểm tra ở một số đảng bộ xã, phường, thị trấn chưa hiệu
quả, chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy về công tác kiểm tra, do đó tác dụng giáo
dục, phòng ngừa, đấu tranh vi phạm còn hạn chế. Chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát ở một số nơi còn hạn chế, chưa kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, xử
lý sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên
có dấu hiệu vi phạm có mặt hiệu quả chưa cao.
Mặc dù từ năm 1997 đến năm 2014, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang luôn coi trọng
nhiệm vụ tuyên truyền và vận động quần chúng tham gia xây dựng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn và đề ra nhiều biện pháp, nhưng về cơ bản vẫn chưa đạt được hiệu
quả cao. Các đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu Chiến binh, Đoàn
Thanh niên… chưa phát huy hết vai trò tuyên truyền và ảnh hưởng sâu rộng trong
quần chúng, hoạt động còn mang tính hành chính, hình thức. Công tác phối hợp
giữa MTTQ và các đoàn thể với chính quyền trong giải quyết các vụ việc phức tạp
ở cơ sở chưa hiệu quả. Công tác giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ và các đoàn thể chưa đi vào nền nếp.
Việc tuyên truyền và tổ chức thực hiện Nghị quyết ở một số nơi còn làm dàn trải,
thiếu trọng tâm, không đồng bộ, ít sáng tạo, chỉ mang tính hình thức.
82
Sở dĩ công tác xây dựng TCCSĐ ở tỉnh Bắc Giang, từ năm 1997 đến năm 2014,
còn tồn tại những hạn chế là vì những lý do sau:
Thứ nhất, điều kiện kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang trong 18 năm, kể từ ngày
tái lập tỉnh (1997), dù đã được phát triển, nhưng vẫn thấp so với sự phát triển chung
của cả nước. Bắc Giang là tỉnh miền núi, năm 2014 có 10 huyện, thành phố, trong
đó có 6 huyện miền núi (Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng
Giang) và 1 huyện vùng cao (Sơn Động); tổng số 230 xã, phường, thị trấn (177 xã
miền núi, 33 xã đặc biệt khó khăn) với trên 20 dân tộc sinh sống [49]. Năm 2012,
thu nhập bình quân đầu người tỉnh Bắc Giang vẫn chỉ đạt bằng ½ thu nhập bình
quân đầu người trên cả nước [6, tr.10]; đến năm 2014, thu nhập bình quân đầu
người của tỉnh đạt 74,6% so với cả nước (thu nhập bình quân đầu người trên cả
nước năm 2014 đạt 2.052 USD) [56]. Nhiều khu vực kinh tế vẫn còn lạc hậu, nghèo
nàn, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa, khó khăn như ở huyện Sơn Động, Lục
Ngạn.
Bên cạnh đó, đặc điểm của các xã, các huyện trong tỉnh có sự khác nhau. Chất
lượng giáo dục giữa khu vực đô thị và miền núi còn chênh lệch khá lớn. Đời sống
của một bộ phận người dân miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó
khăn. Đặc biệt, các xã vùng miền núi và vùng cao có vị trí địa lý và địa hình phức
tạp, điều kiện đi lại, liên lạc khó khăn, nên khó được thường xuyên tiếp xúc trao đổi
kinh nghiệm, nâng cao trình độ. Ở các xã vùng cao, mật độ dân cư thấp, người sống
không tập trung, người dân tộc thiểu số sống xen kẽ với những đặc thù văn hóa
khác nhau. Điều đó gây khó khăn cho cán bộ, công chức xã khi xuống các thôn, bản
công tác, khó khăn trong việc đảm bảo an ninh - trật tự và vận động tuyên truyền
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trên thực tế, điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng rất nhiều đến công tác xây
dựng Đảng nói chung và nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói riêng.
Do khó khăn, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng xây dựng Đảng và phát
triển đảng viên ở các xã, phường, thị trấn còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù đến năm
83
2014, toàn tỉnh không còn thôn, bản “trắng” đảng viên nhưng nguy cơ “tái trắng”
đảng viên ở một số thôn, bản, tổ dân phố vẫn tồn tại.
Thứ hai, việc tổ chức thực hiện nghị quyết ở đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là
khâu yếu trong Đảng bộ tỉnh. Một số địa phương khi triển khai không xác định
được nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm; xây dựng kế hoạch không sát với tình hình...
Trong chỉ đạo, có lúc còn thiếu sự phối hợp đồng bộ, nên kết quả thực hiện không
cao.
Thứ ba, công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch về phát
triển kinh tế- xã hội có mặt còn lúng túng. Việc dự báo tình hình, xây dựng một số
mục tiêu, nhiệm vụ chưa sát thực tiễn. Địa phương chưa có những biện pháp mang
tính đột phá, tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn trong phát triển kinh tế- xã hội.
Thứ tư, thông tin về dấu hiệu vi phạm được phản ánh từ nhiều nguồn, độ tin cậy
không cao, trong khi “nhận thức của cán bộ lãnh đạo quản lý về công tác kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm chưa đầy đủ; cá nhân được kiểm tra thì bức xúc, phản ứng
tìm mọi cách để che giấu khuyết điểm, vi phạm” [38, tr.15]. Điều này phần nào gây
nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin về dấu hiệu vi phạm, dẫn đến kết quả
kiểm tra còn chưa thực sự xác đáng.
3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử
Từ thực tế xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Bắc Giang, dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Đảng bộ địa phương, với những ưu điểm và hạn chế, có thể rút ra một
số kinh nghiệm sau:
Một là, xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn phải luôn căn cứ vào nhiệm vụ
chính trị của loại hình TCCSĐ; luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Có thể khẳng định rằng, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn là nhân
tố quyết định kinh tế - xã hội. Vì đảng bộ có mạnh, năng lực điều hành hoạt động
chính quyền đoàn thể có tốt, thì ở đó kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân
được cải thiện và nâng cao, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, an ninh chính trị
84
đảm bảo, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện có hiệu
quả.
Với đặc điểm trên địa bàn tồn tại nhiều loại hình TCCSĐ: xã, phường, thị trấn,
hợp tác xã, doanh nghiệp, công an, quân sự…; trong đó số lượng TCCSĐ xã,
phường, thị trấn chiếm 26,3% tổng số TCCSĐ, với 77,51% đảng viên của toàn
Đảng bộ, các cấp ủy Đảng tỉnh Bắc Giang cần tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức
về vị trí, vai trò, nhiệm vụ loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong đội ngũ cán
bộ, đảng viên. Đảng bộ tập trung vào việc tăng cường các hoạt động tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của TCCSĐ xã, phường,
thị trấn, coi đây là một trong các yếu tố quan trọng giúp bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ
đạo của tổ chức đảng trong việc hoạch định, thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã
hội. Công tác này được thực hiện thông qua những hình thức đa dạng: tổ chức các
buổi nói chuyện, họp mặt, hoặc lồng ghép vào nội dung các buổi sinh hoạt chi bộ,
sinh hoạt chuyên môn... đặc biệt, chú trọng gắn hoạt động này với thực hiện tốt
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo nhận
thức đầy đủ, toàn diện hơn nữa và sự chuyển biến rõ rệt về đạo đức và lối sống
trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các xã, phường, thị trấn.
Đảng bộ cần tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng công tác
thông tin, chất lượng giảng dạy và học tập lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên ở
các xã, phường, thị trấn, trên cơ sở ngày càng bám sát tình hình và yêu cầu thực tế,
gắn với xu thế hội nhập của đất nước. Tăng cường bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên
kỹ năng lãnh đạo, giải quyết những tình huống cụ thể xảy ra ở các đơn vị hành
chính cấp cơ sở.
Hai là, luôn coi công tác cán bộ là chiến lược xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị
trấn trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi việc. Vì vậy, huấn luyện cán
85
bộ là công việc gốc của Đảng” [51, tr.309]. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã,
phường, thị trấn có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư. Vì vậy, trong nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ trong
sạch, vững mạnh, Đảng bộ phải luôn coi trọng công tác cán bộ, coi đó là nhiệm vụ
chiến lược và thực hiện thường xuyên. Thực tiễn cho thấy, nơi nào có đội ngũ cán
bộ cơ sở vững mạnh thì nơi đó tình hình chính trị, xã hội ổn định; kinh tế, văn hóa
phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Ngược lại, cơ sở nào đội ngũ cán bộ
không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, thì cơ sở đó, địa phương đó sẽ gặp khó
khăn, kinh tế - xã hội chậm phát triển, thậm chí tạo sơ hở cho các phần tử cơ hội,
chống đối ở trong và ngoài nước lợi dụng gây “điểm nóng” về chính trị. Với đặc thù
là tỉnh miền núi, Đảng bộ cần đặc biệt quan tâm công tác cán bộ ở các xã vùng dân
tộc, miền núi đặc biệt khó khăn nhằm đạt hiệu quả cao và đồng bộ trong công tác
cán bộ toàn tỉnh.
Chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội
ngũ cán bộ cơ sở, trước hết là của cấp ủy Đảng và Bí thư chi bộ. Năng lực lãnh đạo
và trình độ chuyên môn, sự đoàn kết nhất trí trong cấp ủy là nhân tố đảm bảo thực
hiện các nhiệm vụ chính trị địa phương. Vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở (bí
thư đảng ủy, phó bí thư đảng ủy, chủ tịch UBND) cần coi trọng trong việc củng cố
và bồi dưỡng. Bên cạnh đó, TCCSĐ xã, phường, thị trấn phải chú ý uốn nắn đấu
tranh trước những biểu hiện tiêu cực, quan liêu, xa rời quần chúng, vi phạm Điều lệ
Đảng và pháp luật của Nhà nước của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, cần có các cơ chế và chính
sách phát hiện, tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trọng
dụng những người có đức, có tài ở trong và ngoài Đảng. Trường Chính trị tỉnh và
các trung tâm Chính trị huyện mở thêm nhiều lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác
Đảng, giúp cán bộ chủ chốt các cơ sở đảng quán triệt nhiệm vụ yêu cầu trong tình
hình mới. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ nữ và cán
86
bộ dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực, hàng năm có bổ sung, điều chỉnh
quy hoạch. Cần thực hiện đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, phân
công cán bộ trẻ hoạt động thực tiễn ở cơ sở để có khả năng phát triển. Qua đó, tạo
nguồn cho đội ngũ cán bộ kế cận thay thế ngay cho số cán bộ, công chức không đủ
năng lực hoặc bị thoái hóa, biến chất không còn tín nhiệm, đảm bảo tính liên tục, kế
thừa và phát triển. Đảng bộ cần đề ra các chính sách đãi ngộ và phát huy những cán
bộ thực sự có tài năng, uy tín, có cống hiến xứng đáng
Việc bố trí cán bộ phải căn cứ theo tiêu chuẩn và lấy hiệu quả công tác làm thước
đo, phải có tín nhiệm trong đảng viên và quần chúng; bố trí cán bộ phải đúng người,
đúng việc, chú ý kiện toàn những cơ sở còn yếu, còn thiếu, kiên quyết xử lý các
trường hợp có sai phạm, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng. Thực
hiện tốt việc phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng. Đảng viên
là cán bộ chủ chốt ở các đơn vị hành chính cấp cơ sở phải thực sự là đầu tàu gương
mẫu trong công tác và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thực hiện theo đúng lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới
đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân… Làm đày tớ nhân
dân chứ không phải làm “quan” nhân dân. Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải
làm cho tốt” [55, tr.292].
Công tác cán bộ chính là nhiệm vụ chiến lược nâng cao năng lực lãnh đạo của
TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Việc thực hiện tốt, thường xuyên nhiệm vụ bồi dưỡng,
đào tạo năng lực, phẩm chất cán bộ, luân chuyển cán bộ sẽ góp phần hoàn thành
nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ chính trị
ở địa phương.
Ba là, công tác phát triển đảng viên gắn liền với nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên trong TCCSĐ xã, phường, thị trấn.
Phát triển đảng viên trong TCCSĐ chính là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
về xây dựng Đảng vững mạnh. Đây chính là cơ sở để tạo nguồn về cả nhân lực và
trí tuệ cho Đảng. Đối với Đảng cầm quyền, công tác phát triển đảng viên là một vấn
đề hết sức quan trọng, nhằm duy trì sự kế thừa và phát triển của Đảng. Hồ Chí Minh
87
đã chỉ rõ: “Chọn lọc đảng viên mới cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Chi bộ cần
thường xuyên giáo dục quần chúng, bồi dưỡng những phần tử hăng hái, nâng cao
trình độ giác ngộ của họ đến tiêu chuẩn đảng viên” [52, tr.289]. Ở các đơn vị hành
chính cấp cơ sở, TCCSĐ chính là nơi giáo dục cơ bản nhất, rèn luyện, bồi dưỡng và
kết nạp đảng viên, là nơi quản lý và phân công công tác cho đảng viên, kiểm tra thi
hành kỷ luật đảng viên.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng Đảng tốt, thì phải có đảng bộ
tốt, chi bộ tốt. Muốn có đảng bộ tốt, chi bộ tốt, thì phải có đảng viên tốt” [54,
tr.749], TCCSĐ xã, phường, thị trấn cần làm tốt công tác Đảng, công tác cán bộ, tổ
chức sinh hoạt chi bộ đều đặn và hiệu quả trong giáo dục, nâng cao nhận thức chính
trị, tư tưởng cho đảng viên. Bên cạnh đó, tổ chức cần phân công công tác cho đảng
viên, giúp đỡ gia đình đảng viên có hoàn cảnh khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi nếu
đảng viên đi làm ở xa nơi cư trú.
Đảng bộ thường xuyên củng cố, xây dựng, phát huy truyền thống đoàn kết trong
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn, trên cơ sở giữ vững các nguyên
tắc của Đảng, làm nòng cốt đoàn kết trong Đảng, trong hệ thống chính trị; chú trọng
thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
đảng; thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, ý
thức phục vụ nhân dân là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính
trị của địa phương.
Các chi, đảng bộ ở xã, phường, thị trấn cần phối hợp với các đoàn thể nhân dân,
gây dựng các phong trào quần chúng và vận động nhân dân tham gia. Qua đó, chi,
đảng bộ chú ý phát hiện những thanh niên ưu tú để giáo dục, bồi dưỡng và kết nạp
vào Đảng; chú ý kết nạp những đảng viên trẻ, nhằm “trẻ hóa” đội ngũ đảng viên,
cùng với những đảng viên lâu năm sẽ làm cho sức chiến đấu của chi bộ được tăng
lên, theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị mới. Các cấp ủy cơ sở phải thực hiện
thường xuyên việc tuyên truyền, giáo dục về chính trị, tư tưởng, mục tiêu và lý
tưởng trong sáng của Đảng và Điều lệ Đảng, giác ngộ những quần chúng ưu tú, qua
88
đó củng cố hơn nữa niềm tin vào Đảng của quần chúng, để họ có động cơ phấn đấu
trở thành đảng viên.
Ngoài ra, từ quá trình xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc
Giang, từ năm 1997 đến năm 2014, cho thấy, công tác phát triển đảng viên cần gắn
với nhiệm vụ thành lập các TCCSĐ ở các đơn vị hành chính cấp cơ sở, đặc biệt là
địa bàn trọng yếu và đảm bảo sự hoạt động của cơ sở đảng, tiến đến hoàn thành
nhiệm vụ xóa thôn, bản, tổ dân phố “trắng” và tái “trắng” đảng viên. Có được như
vậy, những chính sách của Đảng và Nhà nước mới được nhân dân địa phương thực
hiện hiệu quả.
Bốn là, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phù hợp với loại hình TCCSĐ xã,
phường, thị trấn; luôn quan tâm đến công tác tuyên truyền và vận động quần chúng
tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ ở cơ sở, xác lập mối quan hệ chặt
chẽ giữa Đảng với nhân dân.
Sinh hoạt chi bộ có tầm quan trọng đặc biệt. “Nếu coi toàn Đảng là một cơ thể
sống, trong đó các chi bộ là tế bào cấu thành tổ chức đảng, thì sinh hoạt chi bộ
thường xuyên là quá trình trao đổi chất trong mỗi tế bào, là dấu hiệu quả sự sống”
[72, tr.172]. Do vậy, hễ ở xã, phường, thị trấn nào mà sinh hoạt chi bộ lỏng lẻo, rời
rạc hoặc không có nội dung chính trị tư tưởng cụ thể, thiết thực, thì nơi đó, lúc đó
đã bắt đầu có nguy cơ đi chệch đường lối chính sách của Đảng, hạ thấp vai trò tiên
phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, làm cho kỷ luật của đảng bị buông lỏng,
các hiện tượng tiêu cực nảy sinh, sự gắn bó giữa Đảng với dân bị suy yếu. Vì thế,
trong xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn, nhất thiết phải luôn duy trì nền nếp
sinh hoạt đảng, đồng thời có những sáng tạo phù hợp trong xây dựng nội dung sinh
hoạt chi bộ, bám sát vào nhiệm vụ chính trị, vào tình hình địa phương.
Các BTC, BTG xây dựng những chuyên đề cụ thể để phân công công tác sinh
hoạt chi bộ cho các cấp ủy xã, phường, thị trấn. Trong sinh hoạt chi bộ, cần phải
phát huy dân chủ. Vì vậy, chi ủy, nhất là đồng chí bí thư chi bộ phải thể hiện vai trò
đầu tàu tổ chức sinh hoạt cụ thể, phù hợp với yêu cầu công tác của đơn vị, đồng thời
đáp ứng được mong mỏi của quần chúng nhân dân; kiên quyết kắc phục những mặt
89
yếu, tồn tại trong sinh hoạt Đảng như: thiếu nghiêm túc, hình thức, sinh hoạt chung
chung, vô tổ chức, vô kỷ luật, mà phải cụ thể, rõ ràng bảo đảm tính Đảng để giữ
vững kỷ luật Đảng, tạo không khí dân chủ xây dựng trong sinh hoạt chi bộ.
Khối đại đoàn kết toàn dân có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia,
dân tộc, nhưng để có được khối đại đoàn kết ấy, thì trước hết, mỗi địa phương trên
cả nước cần phải làm tốt công tác dân vận. Trong nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ tại
xã, phường, thị trấn cũng vậy, một trong những yêu cầu trước hết của các cán bộ,
đảng viên, chính là tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng ở
cơ sở, qua đó góp phần tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì
nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng. Nhiệm vụ của chi bộ là: Luôn
luôn tuyên truyền cho nhân dân và tổ chức nhân dân, để thực hiện khẩu hiệu và
chính sách của Đảng; Luôn luôn chú ý đến tư tưởng và nhu cầu của nhân dân và kịp
thời báo cho cấp trên biết rõ; Luôn luôn quan tâm đến đời sống kinh tế, chính trị và
văn hóa của nhân dân, đồng thời giáo dục nhân dân, tổ chức nhân dân để giải quyết
các vấn đề cho nhân dân” [52, tr.288-289]. “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần
chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc
đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc ngừng trôi chảy”
[54, tr.193]. Vì vậy, cần tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng, vận
động nhân dân, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, coi đây
là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Các TCCSĐ cấp xã, phường, thị trấn phải luôn
luôn “lấy dân làm gốc” theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để vận dụng vào
công tác vận động quần chúng.
TCCSĐ xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng và
chính sách của Nhà nước cùng với quần chúng nhân dân. Vì vậy, trong mọi nhiệm
vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cần phải chú trọng nhiệm vụ vận động
quần chúng tham gia xây dựng TCCSĐ, coi trọng công tác dân vận của cả hệ thống
chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua
yêu nước. Đồng chí Lê Hồng Phong nói về Đảng và công tác Xây dựng Đảng, nhấn
90
mạnh: “Nhiều đồng chí hiểu lầm rằng công tác tổ chức đảng bộ là quan trọng, còn
công tác quần chúng là phụ thuộc, nên họ hoàn toàn phân khai công tác Đảng với
công tác quần chúng. Vì lẽ đó mà cứ cặm cụi tổ chức đảng viên trong xó tối mà
quên hẳn công tác vận động quần chúng. Vì chính sách đóng cửa đó mà Đảng ít
phát triển, ít có liên hệ với quần chúng” [48, tr.5]. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Lãnh đạo phải có quyết tâm; phải đi đúng đường lối quần chúng,
phải biến những nghị quyết của Đảng thành lực lượng của nhân dân” [53, tr.461-
462], với vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở, các TCCSĐ cần tích cực hơn nữa
trong thực hiện củng cố chính quyền, các đoàn thể quần chúng để đoàn kết các tầng
lớp nhân dân, khơi dậy sức mạnh to lớn đông đảo của quần chúng, thực hiện thắng
lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra, góp phần củng cố và nâng cao vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, đáp ứng các nhiệm vụ chính trị.
Năm là, luôn tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện xây dựng TCCSĐ ở
các xã, phường, thị trấn.
Mỗi TCCSĐ không thể làm tốt vai trò, chức năng của mình nếu không có một hệ
thống quy chế hướng dẫn. Khi không có sự kiểm tra, giám sát của cấp trên, thì sẽ dễ
dẫn tới tình trạng tổ chức đảng buông lỏng, hoặc đi lệch hướng với nhiệm vụ đặt ra.
Do vậy, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh rất
cần đến hệ thống các quy chế về tổ chức và hoạt động của TCCSĐ theo từng loại
hình cụ thể, cùng với sự chỉ đạo, giám sát và kiểm tra, đánh giá của cấp trên.
BTC Tỉnh ủy cần ban hành các hướng dẫn đánh giá chất lượng TCCSĐ và chất
lượng đảng viên hàng năm. Trong đó, cần nêu rõ các tiêu chuẩn đánh giá và phương
pháp đánh giá, để các TCCSĐ xã, phường, thị trấn thực hiện đúng và hiệu quả hơn
trong quy trình đánh giá.
“Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức
nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên” [53, tr.67]. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên
phải thấm nhuần tư tưởng tự giác phê bình và tự phê bình. Cấp ủy tăng cường kiểm
tra, giám sát nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên; phát hiện kịp thời,
xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, góp phần tích cực xây dựng đội ngũ cán
91
bộ, đảng viên ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng ở cơ sở; tổ chức thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra phải năng động, sáng tạo, sâu sát thực tiễn; điều hành quyết
liệt, công khai, minh bạch; phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể đi đôi đề cao vai trò,
trách nhiệm của cá nhân, người đứng đầu; mạnh dạn phân cấp cho cấp dưới, đi đôi
với tăng cường kiểm tra, đôn đốc; lãnh đạo, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm.
Thực tế trong quá trình xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc
Giang, từ năm 1997 đến năm 2014, cho thấy, nhiều sai phạm của TCCSĐ và cán
bộ, đảng viên ở đơn vị hành chính cấp cơ sở được phát hiện và xử lý là do quần
chúng nhân dân tố cáo trước khi thực hiện các công tác kiểm tra. Vì vậy, việc phát
huy vai trò giám sát của nhân dân cũng là một biện pháp để phát hiện, ngăn chặn
những hành vi vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật của cán bộ, đảng viên ở cơ
sở.
Tiểu kết chƣơng 3
Nhìn chung, từ năm 1997 đến năm 2014, công tác xây dựng tại TCCSĐ xã,
phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang là sự tiếp nối và phát triển việc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ từ trước khi Đảng bộ tỉnh được tái lập, đồng thời
có bước tiếp nối và phát triển giữa hai giai đoạn, đặc biệt được đẩy mạnh từ năm
2006. Quá trình xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang đã nổi lên
những ưu điểm hết sức quan trọng. Đảng bộ tỉnh quan tâm lãnh đạo, đề ra các biện
pháp nhằm tăng cường xây dựng TCCSĐ đạt trong sạch, vững mạnh, góp phần có ý
nghĩa vào công cuộc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh. Song, bên cạnh đó,
công tác TCCSĐ xã, phường, thị trấn tỉnh Bắc Giang, từ năm 1997 đến năm 2014,
vẫn còn có những hạn chế nhất định, cần phải được khắc phục kịp thời. Công tác
xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang vẫn còn dừng lại ở giai
đoạn đầu tiên, đòi hỏi cần phải đẩy mạnh hơn trong lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện ở
giai đoạn sau.
Từ những ưu điểm và hạn chế nhất định trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, ta rút ra được một kinh nghiệm lịch sử quý
báu về nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong những năm tiếp theo.
92
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với cả nước, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh Bắc Giang đã không ngừng phấn đấu, nỗ lực để xây dựng Bắc Giang
thành một tỉnh giàu đẹp, văn minh. Những kết quả đạt được của công tác xây dựng
TCCSĐ xã, phường, thị trấn, trong thời gian 1997 - 2014, của Đảng bộ góp phần
thúc đẩy sự phát triển chung của tỉnh Bắc Giang. Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang lãnh đạo xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn, từ năm 1997 đến năm
2014, bước đầu có thể nhận thấy:
1. Xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn là nhiệm vụ quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng. Từ ngày đất nước đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH, Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang đã nhận thức đúng đắn và ra sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ,
từ năm 1997 đến năm 2014. Quá trình xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, thời gian 1997 - 2014 trải qua 2 thời kỳ:
Thời kỳ từ năm 1997 đến năm 2005 là 9 năm đầu xây dựng kể từ ngày tái lập
tỉnh (1997) và cùng cả nước thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước toàn diện với
những bước đi vững chắc. Công tác xây dựng TCCSĐ nói chung, xây dựng TCCSĐ
xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang thời gian này được thực hiện theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng (1996), Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 6 (lần 2) BCH TW Đảng khóa VIII (1999), Kế hoạch số 19-KH/TU, ngày 19-9-
1997, của Tỉnh ủy Bắc Giang (lâm thời) “Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng
tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố cơ sở đảng yếu kém”, Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (1997).
Từ năm 2006 đến năm 2014, phát huy những thành quả của giai đoạn trước, hoạt
động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang được tăng
cường. Dưới sự chỉ dẫn của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng (2006), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI cuả Đảng (2011),
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI (2006), Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (2011), Đảng bộ tỉnh đẩy mạnh công tác xây
dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn phát triển hơn giai đoạn trước. Bên cạnh đó, hoạt
93
động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của tỉnh Bắc Giang còn được thể hiện
trong: Kế hoạch số 07-KH/TCTU, ngày 14-4-2006, của BTC Tỉnh ủy Bắc Giang
“Kết nạp đảng viên ở thôn, bản chưa có đảng viên và có số lượng đảng viên ít; tách
các chi bộ sinh hoạt ghép”; Đề án số 02-ĐA/TU ngày 5-12-2006 của BTV Tỉnh ủy
Bắc Giang “Xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán
bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn, giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo”;
Đề án số 02-ĐA/TU ngày 29-4-2011 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang “Nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015”; Kế
hoạch số 11-KH/BTCTU ngày 4-11-2011 của BTC Tỉnh ủy Bắc Giang “Nâng tỷ lệ
đảng viên trong đội ngũ trưởng, phó thôn, bản, tổ dân phố”; Đề án số 05-ĐA/TU
ngày 11-7-2014 của BTV Tỉnh ủy Bắc Giang “Tạo nguồn bí thư đảng ủy, chủ tịch
U ND xã, phường, thị trấn đến năm 2025 và những năm tiếp theo”.
2. Đảng bộ các cấp và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang thực hiện nghiêm
túc, đầy đủ và có hiệu quả các kế hoạch mà Đảng bộ tỉnh đề ra. Từ năm 2006 đến
năm 2014, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn đạt nhiều thành tựu.
Những kết quả này góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được về phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương và cơ sở; làm bộ mặt của tỉnh đổi thay tích cực, ổn
định bộ máy chính quyền ở cấp cơ sở; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
trong tỉnh được nâng cao.
3. Hoạt động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang,
từ năm 1997 đến năm 2014, đã nổi lên một số ưu điểm quan trọng: Bằng những chủ
trương và biện pháp cụ thể, quá trình xây dựng TCCSĐ tại xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Bắc Giang từ năm 1997 đến năm 2014 là sự tiếp nối và phát triển việc thực
hiện nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ từ trước khi Đảng bộ tỉnh Bắc Giang được tái lập.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang thường xuyên quan tâm công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Đảng bộ tỉnh đã có sự quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật của Đảng, đồng thời tích cực vận động quần chúng tham gia xây
dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn có hiệu quả, góp phần tăng cường mối liên hệ
94
giữa Đảng với nhân dân. Quá trình xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh
Bắc Giang tác động tích cực đối với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Những
thành tựu xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bắc Giang (1997 - 2014)
góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Mặt khác, công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang cũng có hạn chế nhất định: Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ,
đảng viên có lúc, có nơi còn bị xem nhẹ và chưa theo kịp tình hình thực tiễn; chất
lượng sinh hoạt chi bộ trực thuộc đảng bộ xã, phường, thị trấn còn hạn chế. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc
thiểu số ở một số xã, phường, thị trấn chưa được quan tâm đúng mức; nhiệm vụ
phát triển đảng viên còn thụ động, thiếu đồng bộ. Hoạt động kiểm tra, thi hành kỷ
luật của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời và triệt để; việc tuyên truyền và vận động
quần chúng tham gia thực hiện xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn chưa thực sự
sâu rộng, ít sáng tạo.
4. Từ những thành công và chưa thành công, những ưu điểm và hạn chế trong
công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, tôi rút
ra được những kinh nghiệm lịch sử hết sức quý báu, có giá trị lý luận và thực tiễn
sâu sắc: Xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn phải luôn căn cứ vào nhiệm vụ
chính trị của loại hình TCCSĐ; luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng.
Luôn coi công tác cán bộ là chiến lược xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn trong
sạch, vững mạnh. Công tác phát triển đảng viên gắn liền với nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên trong TCCSĐ xã, phường, thị trấn. Nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ phù hợp với loại hình TCCSĐ xã, phường, thị trấn; luôn quan tâm đến
công tác tuyên truyền và vận động quần chúng tham gia thực hiện nhiệm vụ xây
dựng TCCSĐ ở cơ sở, xác lập mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân. Luôn
tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện xây dựng TCCSĐ ở các xã, phường,
thị trấn.
Trong hoàn cảnh lịch sử mới, mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng những
thành tựu của công tác xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc
95
Giang, từ năm 1997 đến năm 2014 góp phần thực hiện thành công của công tác xây
dựng Đảng, qua đó hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Đó chính là cơ sở để đẩy mạnh hoạt động xây dựng TCCSĐ xã, phường, thị trấn nói
riêng và nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ nói chung, góp phần hoàn thành thắng lợi
trong công tác xây dựng Đảng trong thời gian sau.
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (lâm thời) (1997), Báo cáo của Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV,
lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1999), Bắc Giang - những chặng
đường lịch sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XV, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVII, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết của
Hội nghị lần thứ năm an Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, số 17-NQ/TW,
http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&su
btopic=9&leader_topic=&id=BT1960632078, 19-6-2006
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa X) “Về nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán ộ, đảng
viên”, số 22-NQ/TW, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2012) , Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, số 12-
NQ/TW, http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nghi-quyet-Hoi-nghi-Trung-uong-4-
Mot-so-van-de-cap-bach-ve-xay-dung-Dang-hien-nay/125067.vgp, 17-1-2012
97
10. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang (2002), Kế hoạch “ a xây, a chống”, số
12-KH/TU ngày 30/09/2002, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
11. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang (2004), Kết luận về chức danh, số lượng,
tiêu chuẩn, chế độ, chính sách đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn, số 62-
KL/TU, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
12. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Phương hướng, nhiệm vụ và biện
pháp tiếp tục thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng của
Đảng bộ tỉnh trong thời gian tới, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
13. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Đề án Xây dựng và nâng cao
năng lực lãnh đạo, điều hành đội ngũ cán ộ chủ chốt xã, phường, thị trấn, giai
đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo, Số 02-ĐA/TU, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy
Bắc Giang
14. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Đề án Nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015, Số 02-ĐA/TU,
lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
15. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang (2014), Đề án tạo nguồn í thư đảng ủy,
chủ tịch Ủy an nhân dân xã, phường, thị trấn đến năm 2025 và những năm tiếp
theo, số 05-ĐA/TU, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
16. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2000), Báo cáo tình hình công tác nghiệp
vụ quản l đảng viên năm 2000, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
17. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Báo cáo tổng kết công tác tổ chức
xây dựng Đảng năm 2005; phương hướng, nhiệm vụ năm 2006, lưu tại Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Bắc Giang
18. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Báo cáo nghiệp vụ công tác đảng
viên năm 2005, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
98
19. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Kế hoạch kết nạp đảng viên ở thôn,
bản chưa có đảng viên và có số lượng đảng viên ít, tách các chi bộ sinh hoạt ghép,
số 07-KH/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
20. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2007), Kế hoạch tổng kết 10 năm thực hiện
Kế hoạch số 19-KH/TU ngày 19/9/1997 của an Thường vụ Tỉnh uỷ về “Tiếp tục
xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng
cố cơ sở đảng yếu kém”, số 10- KH/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc
Giang
21. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2008), Hướng dẫn Đánh giá chất lượng
đảng viên, Số 19-HD/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
22. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2008), Hướng dẫn Đánh giá chất lượng tổ
chức cơ sở đảng, Số 20 - HD/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
23. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2010), Báo cáo kết quả 04 năm thực hiện
Đề án số 02-ĐA/TU của an Thường vụ Tỉnh ủy về “Xây dựng và nâng cao năng
lực lãnh đạo, điều hành của đội ngũ cán ộ chủ chốt xã, phường, thị trấn giai đoạn
2006 - 2010 và những năm tiếp theo”, số 11-BC/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh
ủy Bắc Giang
24. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị
quyết Trung ương 6 (khóa X) về “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán ộ, đảng viên”, lưu tại Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Bắc Giang
25. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Báo cáo tổng kết công tác tổ chức
xây dựng Đảng năm 2010; phương hướng, nhiệm vụ năm 2011, lưu tại Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Bắc Giang
26. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Báo cáo kết quả thực hiện nghiệp vụ
công tác đảng viên năm 2010, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
99
27. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Kế hoạch nâng tỷ lệ đảng viên trong
đội ngũ trưởng, phó thôn, bản, tổ dân phố, số 11-KH/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Bắc Giang.
28. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2011), Hướng dẫn kiểm điểm, đánh giá, tự
phê ình, phê ình đối với tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp và
công chức khối Đảng, đoàn thể; đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên năm”, số 06-HD/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
29. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2012), Báo cáo kết quả thực hiện nghiệp vụ
công tác đảng viên năm 2011, số 94-BC/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc
Giang
30. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2013), Báo cáo Tổng kết công tác tổ chức
xây dựng Đảng năm 2012; phương hướng, nhiệm vụ năm 2013, lưu tại Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Bắc Giang
31. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2013), Báo cáo kết quả thực hiện nghiệp vụ
công tác đảng viên năm 2012, số 189-BC/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy
Bắc Giang
32. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2013), Hướng dẫn sinh hoạt chi bộ theo
chuyên đề, số 14-HD/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
33. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2014), Báo cáo kết quả thực hiện nghiệp vụ
công tác đảng viên năm 2013, số 281-BC/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy
Bắc Giang.
34. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2014), Hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá
nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức đảng ở cơ sở và đảng viên hằng
năm, số 18-HD/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
35. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2015), Báo cáo kết quả thực hiện nghiệp vụ
công tác đảng viên năm 2014, số 360-BC/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy
Bắc Giang
100
36. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang (2015), Báo cáo kết quả củng cố, khắc phục
những hạn chế, yếu kém và đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên năm
2014, số 362-BC/BTCTU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
37. Ban Tổ chức Trung ương (2010), Hướng dẫn xây dựng và hoàn thiện mô
hình tổ chức của tổ chức cơ sở đảng, 38-HD/BTCTW, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy
Bắc Giang
38. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bắc Giang (2006), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
39. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bắc Giang (2012), Thông tin nội bộ, số 12/2012, lưu
tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang.
40. Đào Xuân Cần (2009), “Bắc Giang tăng cường hướng về tổ chức cơ sở
đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 5/2009
41. Nguyễn Cúc, Lê Phương Thảo, Doãn Hùng (2004), Tổ chức cơ sở đảng với
cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
42. Trần Kim Cúc (2006), “Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng tổ
chức cơ sở đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6/2006
43. Ngô Văn Dụ (2006), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của
Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
101
48. “Đồng chí Lê Hồng Phong nói về Đảng và công tác xây dựng Đảng” (2007),
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9/1997
49. Hoa Hiền, “ ắc iang xây dựng đề án tạo nguồn í thư đảng ủy, chủ tịch
U ND xã, phường, thị trấn”, http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Can-
bo/2014/7568/Bac-Giang-xay-dung-de-an-tao-nguon-bi-thu-dang-uy.aspx, 11-7-
2014
50. Nguyễn Công Huyên (2004), “Bắc Giang thi Bí thư chi bộ”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 7/2004, Hà Nội
51. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội
52. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội
53. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội
54. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 14, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội
55. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội
56. M.P, “Đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế để hội nhập và phát triển”,
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=30106&cn_i
d=731175, 28-8-2015
57. Ngô Kim Ngân (2006), “Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6/2006, Hà Nội
58. Nguyễn Trọng Phúc (2003), Tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua
các Đại hội và Hội nghị Trung ương (1930 - 2002) Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội
59. Thanh Quang (2009), Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xây dựng tổ chức cơ sở đảng, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội Tài liệu
102
hỏi - đáp về các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (2006), khóa X, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Lê Thủy (2004), “Ba xây ba chống ở Bắc Giang”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
12/2004, Hà Nội
61. Tỉnh ủy Bắc Giang (lâm thời) (1997), Kế hoạch tiếp tục xây dựng và nâng
cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố sơ sở đảng yếu
kém, Số 19- KH/TU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
62. Tỉnh ủy Bắc Giang (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Tập 1 (1926 -
1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
63. Tỉnh ủy Bắc Giang (2000), Báo cáo kết quả sau hơn một năm thực hiện cuộc
vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng, kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh
thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc
Giang
64. Tỉnh ủy Bắc Giang (2002), Hướng dẫn đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên, số 01-HD/TU, lưu tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang
65. Tỉnh ủy Bắc Giang (2002), Kế hoạch đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng
và đánh giá chất lượng đảng viên năm 2002, số 31-KH/TU, lưu tại Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Bắc Giang
66. Tỉnh ủy Bắc Giang (2008), Kế hoạch nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán ộ đảng viên, số 30-
KH/TU, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
67. Tỉnh ủy Bắc Giang (2008), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, Tập 2 (1975 -
2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
68. Tỉnh ủy Bắc Giang (2013), áo cáo sơ kết hơn 02 năm thực hiện Đề án số
02-ĐA/TU ngày 29-4-2011 của an Thường vụ Tỉnh ủy về “Nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015”, số 185-
BC/TU, lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
103
69. Tỉnh ủy Bắc Giang (2014), Báo cáo tổng kết công tác lãnh đạo của Tỉnh ủy
năm 2013; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu năm 2014, số 230-BC/TU, lưu
tại Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
70. Tỉnh ủy Bắc Giang (2014), Báo cáo kết quả thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU
ngày 29-4-2011 của an Thường vụ Tỉnh ủy về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giai đoạn 2011 - 2015”, lưu tại Văn phòng Tỉnh
ủy Bắc Giang
71. Tỉnh ủy Bắc Giang (2015), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh khóa XVII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII (Dự thảo), lưu tại
Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Giang
72. Ngô Đức Tính (cb) (2003), Xây dựng Đảng về tổ chức, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội
73. Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1999), Xây
dựng Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
104
PHỤ LỤC
105