intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng và phát triển hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và góp phần phát triển bền vững các tổ chức hợp tác dùng nước

Chia sẻ: Thuỳ Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

87
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hệ thống thủy nông nội đồng với chức năng cơ bản là hệ thống điều tiết nước mặt ruộng, nó có ý nghĩa quyết định đến cách thức điều tiết nước trên các thửa ruộng và hiệu quả sử dụng nước,... Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt vấn đề.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng và phát triển hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và góp phần phát triển bền vững các tổ chức hợp tác dùng nước

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG THUỶ LỢI NỘI ĐỒNG PHỤC VỤ<br /> CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN<br /> BỀN VỮNG CÁC TỔ CHỨC HỢP TÁC DÙNG NƯỚC<br /> <br /> Đoàn Doãn Tuấn, Nguyễn Xuân Thịnh<br /> Trung tâm Tư vấn PIM, Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam<br /> Tóm tắt: Hệ thống thuỷ nông nội đồng với chức năng cơ bản là hệ thống điều tiết nước mặt ruộng, nó có ý<br /> nghĩa quyết định đến cách thức điều tiết nước trên các thửa ruộng và hiệu quả sử dụng nước, đặc biệt là khi<br /> thực hiện các chế độ tưới theo hướng tối ưu nhằm nâng cao năng suất và tiết kiệm nước tưới trong thâm canh,<br /> đa dạng hoá cây trồng. Vì vậy, nhu cầu phát triển hệ thống thuỷ nông nội đồng theo hướng hiện đại là nhu<br /> cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp và hội nhập quốc tế.<br /> Quá trình phát triển hệ thống thủy lợi nội đồng thường gắn liền với công tác kiến thiết đồng ruộng và phụ<br /> thuộc chủ yếu vào sự tham gia, đóng góp của người dân. Tuy nhiên, do sản xuất nông nghiệp hiện nay chủ yếu<br /> vẫn là độc canh cây lúa nên thu nhập của người dân rất thấp vì vậy mà đóng góp tài chính cho công tác này<br /> còn hạn chế. Bài viết này đề cập đến những tồn tại và định hướng cải tạo cấu trúc đồng ruộng, phát triển hệ<br /> thống thủy nông nội đồng phục vụ chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế<br /> đồng thời góp phần quan trọng vào việc phát tiển bền vững các tổ chức hợp tác dùng nước.<br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đang là một chủ trương lớn của Đảng và<br /> Nhà nước nhằm hình thành nền nông nghiệp hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường và điều<br /> kiện sinh thái từng vùng, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, thích ứng với tình hình biến đổi<br /> khí hậu (BĐKH) đồng thời tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của<br /> thương hiệu nông sản Việt Nam trong thời toàn cầu hóa.<br /> Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thời kỳ hội nhập mở ra cho người nông dân nhiều cơ hội<br /> mới, trong đó đáng kể nhất là (i) thị trường nông sản rộng mở, hàng hóa có thể bán ở hầu hết các<br /> nước trên thế giới và (ii) bà con sẽ có dịp tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới ngày<br /> càng nhiều hơn, nhanh hơn và sâu rộng hơn.<br /> Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng, nếu cứ duy trì một nền sản xuất nông nghiệp ở trình độ<br /> thấp, cách làm manh mún, tư tưởng tiểu nông,... thì có nguy cơ sẽ đẩy nền nông nghiệp đến mức<br /> không đủ sức cạnh tranh. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, phát triển nông nghiệp theo hướng tập<br /> trung, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn, nâng cao năng suất và chất lượng nông sản<br /> đang là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta. Để làm được điều đó trong điều kiện đất<br /> nông nghiệp ngày càng suy giảm do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá; nguồn nước ngày<br /> càng hạn chế do BĐKH, không cách nào khác là phải nâng cao hiệu quả sử dụng nước, sử dụng<br /> đất bằng cách phát triển hệ thống thuỷ nông nội đồng song song với việc dồn điền đổi thửa, kiến<br /> thiết lại đồng ruộng cho phù hợp với công tác cơ giới hoá để mở rộng sản xuất là xu hướng tất<br /> yếu và là sự vận động đúng quy luật.<br /> Trong tiến trình thực hiện mục tiêu đó, ngoài những yếu tố kỹ thuật đơn thuần còn phụ thuộc vào<br /> thể chế/chính sách đất đai, điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử và đặc biệt là sự tham gia, đóng góp<br /> của người dân luôn được coi là yếu tố quan trọng nhất bởi đây là những người có ảnh hưởng<br /> quyết định đến phương thức sản xuất đồng thời cũng là nguồn đầu tư chủ yếu cho xây dựng và<br /> trực tiếp tổ chức quản lý các hệ thống thuỷ nông nội đồng.<br /> 2. Quá trình kiến thiết đồng ruộng và phát triển hệ thống thuỷ lợi nội đồng<br /> 2.1. Mô hình đồng ruộng<br /> Mô hình đồng ruộng hiện nay ở hầu hết các địa phương là rất nhỏ lẻ và manh mún, thể hiện ở<br /> chỗ quy mô ruộng đất theo hộ gia đình và số mảnh ruộng do mỗi hộ sở hữu. Nguyên nhân sâu xa<br /> thường xuất hiện từ nhiều vấn đề, như lịch sử, địa hình, tăng trưởng dân số,... và phụ thuộc vào<br /> nhiều yếu tố như chính sách quản lý ruộng đất, nhu cầu sản xuất, mục đích sản xuất và thậm chí<br /> là do kế thừa (Bentley, 1987; Đoàn Doãn Tuấn, 2005). Trong đó, những nguyên nhân về lịch sử<br /> <br /> 1<br /> xuất hiện nhiều ở những nơi đất đai khan hiếm, lao động rẻ, sản xuất thực hiện chủ yếu bằng thủ<br /> công hoặc sử dụng trâu bò; sản xuất tự cung, tự cấp là chủ yếu và manh mún đất đai có thể là kết<br /> quả của nền sản xuất nhỏ lẻ này. Manh mún cũng có thể do điều kiện địa hình, những nơi có<br /> nhiều đồi núi hoặc ruộng bậc thang. Manh mún cũng có thể được giải thích bởi áp lực từ tăng<br /> trưởng dân số (Bentley 1987; Blarel. et al., 1992), nhất là những vùng nông dân có ít cơ hội tìm<br /> việc làm phi nông nghiệp. Một nguyên nhân khác là sự thừa kế đất đai, ở đó nông dân muốn chia<br /> cho con cái họ một lượng đất đai có chất đất tương đương.<br /> Ở miền Bắc, trong thời kỳ sản xuất tập trung, từ những năm đầu thập kỷ 60 đến những năm cuối<br /> thập kỷ 80, chương trình hoàn chỉnh thuỷ nông nội đồng và phong trào cơ giới hoá trong nông<br /> nghiệp đã xây dựng được mô hình đồng ruộng với các thửa có chiều rộng phổ biến từ 20 đến 50<br /> m và chiều dài lên tới 100 và thậm chí vài trăm mét. Cứ hai thửa lớn nằm cạnh nhau theo chiều<br /> dài của thửa hợp thành một lô có bờ thửa nhỏ ở giữa và hai kênh tưới tiêu kết hợp ở hai bên<br /> (Đặng Thế Phong và Fontenelle JP, 1996). Như vậy, tình trạng manh mún ruộng đất ở miền Bắc<br /> trong thời kỳ này đã được xoá bỏ. Kích thước các thửa đáp ứng được nhu cầu hiện đại hoá nông<br /> nghiệp trong đó có cơ giới hóa, đồng thời các hệ thống thuỷ nông nội đồng cũng được xây dựng<br /> tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo được yêu cầu sản xuất.<br /> Tuy nhiên, khi ”Khoán 10” và Nghị định 64 của Chính phủ ra đời, với cách làm cơ bản là “có<br /> ruộng tốt, ruộng xấu; có gần, có xa; có cao, có thấp” phần nào đã tạo sự công bằng trong việc<br /> giao đất cho nhân dân sản xuất ổn định lâu dài nhưng đồng thời cũng là thủ phạm khiến ruộng<br /> đất nước ta, vốn đã được quy hoạch tương đối hoàn chỉnh trước đó, bị chia nhỏ ra, ước tính trung<br /> bình một hộ có từ 7 đến 8 mảnh, cá biệt như ở huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, một hộ dân sở<br /> hữu 21 thửa ruộng và ở Vĩnh Phúc có hộ sở hữu tới 47 thửa ruộng với diện tích chỉ vẻn vẹn vài<br /> chục mét vuông/thửa (Hùng và cộng sự, 2004; WB, 2003; xem Hình 1).<br /> a. Trước ”khoán 10” b. Sau ”khoán 10”<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ghi chú Kênh tiêu<br /> Kênh tưới Kênh nội đồng<br /> Hình 1: Mô hình đồng ruộng ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ (Đoàn Doãn Tuấn, 2005)<br /> Ở khu vực các tỉnh phía Nam, sự manh mún của ruộng đất ít có hoặc không quá nghiêm trọng,<br /> tính trung bình một hộ ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có khoảng hơn 2 mảnh ruộng. Đó là do<br /> việc phân chia ruộng đất không quá chú trọng đến tính công bằng về chất đất, địa hình, khoảng<br /> cách; hơn nữa việc giao đất cho các hộ nông dân dường như được thực hiện dựa trên tình trạng<br /> đất đai mà hộ có trước ngày thống nhất đất nước năm 1975 (Do và Iyer, 2003; Luong và Unger,<br /> 1999; Marsh và MacAulay, 2002; Ravallion và Van de Walle, 2003).<br /> 2.2. Xây dựng và phát triển hệ thống thuỷ lợi nội đồng<br /> (i) Hạ tầng hệ thống: Bên cạnh các chính sách phát triển nông nghiệp, hàng năm một nguồn vốn<br /> lớn được nhà nước ưu tiên dành cho đầu tư phát triển các công trình thuỷ lợi, nhờ đó cho đến nay<br /> đã xây dựng được nhiều hệ thống thủy lợi lớn nhỏ trên khắp cả nước. Trong số này, theo ước<br /> tính của các địa phương, mức đóng góp của dân đối với việc xây dựng công trình trung bình<br /> <br /> 2<br /> khoảng 15%-20% (Cục Thuỷ lợi, 2007).<br /> Tuy nhiên, dù chịu tác động của các chính sách phân chia ruộng đất như đã đề cập ở trên, điển<br /> hình là ở khu vực Bắc và Trung Bộ, nhưng hệ thống thuỷ nông hoặc không được điều chỉnh theo<br /> mô hình đồng ruộng mới do khối lượng và chi phí lớn hoặc là có được xây dựng nhưng không<br /> theo một quy hoạch đồng bộ. Chẳng hạn, một khảo sát thực địa được tiến hành tại hệ thống thuỷ<br /> nông Phù Sa-Đồng Mô (Hà Tây cũ) vào năm 2007 cho thấy, khoảng cách trung bình giữa hai<br /> kênh nội đồng liên tiếp lên tới 225 m; kích thước mặt cắt ngang trung bình bxh=(0,63x0,23) m,<br /> độ dốc i=4,5*10-3 và chiều dài là 118 m, có nhiều cỏ mọc ngăn cản dòng chảy. Với các thông số<br /> kỹ thuật trên, các kênh nội đồng không đáp ứng được nhu cầu tưới, tiêu trực tiếp và kịp thời cho<br /> từng thửa ruộng nên phải áp dụng phương pháp tưới tràn (V.T. Hải, Đ.T. Phong, 2007).<br /> Ở khu vực miền núi, ngoài những tác động chung về mặt chính sách như những vùng khác còn<br /> chịu ảnh hưởng của điều kiện địa hình nên các cánh đồng và diện tích từng thửa ruộng thường rất<br /> nhỏ, nằm phân tán trong các thung lũng; cấu trúc đồng ruộng được thiết kế theo dạng bậc thang.<br /> Vì thế, đặc điểm hệ thống thuỷ nông ở vùng này thường nhỏ với chỉ một cấp kênh chạy song<br /> song với đường đồng mức và phụ trách tưới cho khoảng 10-30 ha, thậm chí là 1-3 ha, theo hình<br /> thức tràn từ ruộng cao xuống ruộng thấp (Hình 2).<br /> Khu vực Nam Bộ, tuy ruộng đất không hoặc ít manh mún nhưng hệ thống kênh mương nội đồng<br /> lại quá thiếu, ước tính mới chỉ đáp ứng được khoảng 20% so với yêu cầu (Đoàn Doãn Tuấn,<br /> 2007) vì thế vẫn phải tưới theo hình thức tràn từ ruộng này sang ruộng kia (Hình 3). Bên cạnh<br /> đó, hệ thống thủy lợi nội đồng đã xây dựng trước đây với mục đích chủ yếu là phục vụ sản xuất<br /> nông nghiệp (trồng lúa), nay do chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thủy lợi phục vụ đa mục tiêu theo<br /> từng vùng sinh thái nên bộc lộ nhiều khiếm khuyết, như hệ mật độ kênh mương rất thấp, hệ<br /> thống công trình ngăn cách vùng sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản nhiều nơi chưa có,<br /> kênh tạo nguồn ngọt và mặn cho vùng nuôi trồng thủy sản còn thiếu (Lê Sâm và cộng sự, 2006).<br /> <br /> Kênh MR<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 2: Mô hình đồng ruộng khu vực miền núi Hình 3: Mô hình đồng ruộng khu vực Nam Bộ<br /> (ii) Tổ chức quản lý, khai thác: Cơ cấu đặc trưng của tổ chức quản lý hệ thống thuỷ nông bao<br /> gồm công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi quản lý hệ thống công trình chính và các hợp<br /> tác xã dịch vụ nông nghiệp/tổ chức thuỷ nông cơ sở quản lý mạng lưới kênh mương nội đồng.<br /> Hiện nay, hình thức tổ chức bộ máy quản lý đã được đa dạng hoá. Đối với một số hệ thống có<br /> diện tích tưới tiêu lớn bao trùm nhiều tỉnh, thành được thành lập công ty KTCTTL trực thuộc Bộ<br /> NN và PTNT như hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải, hệ thống thuỷ nông Dầu Tiếng; đối với các<br /> hệ thống thuỷ nông nhỏ phục vụ cho một số huyện trong tỉnh thì thành lập công ty KTCTTL trực<br /> thuộc sở NN và PTNT hoặc xí nghiệp thuỷ nông huyện. Có tỉnh thành lập công ty KTCTTL cấp<br /> tỉnh còn bên dưới là các trạm thuỷ nông, v.v. Các doanh nghiệp nhà nước này chủ yếu làm nhiệm<br /> vụ quản lý đến cống đầu kênh của TCDN theo thông tư số 65/2009/TT-BNNPTNT, hướng dẫn<br /> tổ chức hoạt động và phân cấp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.<br /> (iii) Sự tham gia của cộng đồng: Bênh cạnh việc sắp xếp về cơ cấu tổ chức, chủ trương chung<br /> của Nhà nước là huy động tối đa sự tham gia, đóng góp của người dân vào quá trình phát triển<br /> thuỷ nông. Theo đó, nhiều cách tiếp cận liên quan đến quản lý nước đã được nghiên cứu và ứng<br /> <br /> 3<br /> dụng vào thực tế từ những năm 70 như Huy động sự tham gia của người dân (Farmer<br /> Involvement) gần đây được phát triển thành quản lý nước có sự tham gia của cộng đồng (PIM).<br /> Sự tham gia của người dân trong phát triển thủy nông nội đồng hầu hết được thông qua các HTX<br /> hoặc các tổ chức thuộc cộng đồng thôn xóm với những hình thức tổ chức khác nhau qua các thời<br /> kỳ, như HTX cấp thôn được hình thành từ đầu những năm 1960, HTX toàn xã tồn tại trong giai<br /> đoạn 1970-1985 và chuyển thành HTXNN tổng hợp toàn xã từ 1986-1991 sau đó tan rã và được<br /> tái thành lập vào 1996-1997. Bộ phận sâu sát nhất với người sử dụng nước và chịu trách nhiệm<br /> trực tiếp trong quản lý thuỷ nông mặt ruộng là cộng đồng thôn xóm. Trong đó, Ban dân chính<br /> thôn giữ vai trò chính trong mọi hoạt động quản lý thuỷ nông và tất cả các thành viên trong cộng<br /> đồng là những người tham gia vào việc nạo vét, tu bổ hàng năm kênh mương nội đồng (Đoàn<br /> Doãn Tuấn, 2005).<br /> Thời bao cấp (trước1986) HTXNN được coi là thành phần kinh tế Nhà nước nên công tác thủy<br /> nông, đại diện điển hình là đội thủy lợi 202, được hỗ trợ theo kế hoạch và người dân tham gia<br /> duy tu, bảo dưỡng bằng công lao động hoặc tiền mặt. Trong thời kỳ đổi mớ, cùng với việc xóa<br /> bỏ cơ chế sản xuất tập trung và tiếp đến là bãi bỏ chính sách nghĩa vụ công ích (năm 2004) thì<br /> vai trò của người dân trong phát triển thủy lợi nội đồng không còn được thực hiện thông qua kế<br /> hoạch và đóng góp lao động công ích như trước. Vì vậy, để khôi phục và phát huy sự tham gia<br /> của người dân trong công tác này, Bộ NN và PTNT đã ban hành khung chiến lược PIM và thông<br /> tư số 75/2004/TT-BNN ngày 20/12/2004 về việc củng cố, thành lập và phát triển các tổ chức hợp<br /> tác dùng nước, nhờ đó công tác thuỷ nông cơ sở đã được các địa phương quan tâm nhiều hơn,<br /> vai trò của cộng đồng thôn, xóm ngày càng hồi phục và mở rộng trong sản xuất. Thực tiễn đang<br /> diễn ra ở một số nơi về việc chuyển đổi HTX từ qui mô toàn xã sang qui mô thôn, xóm hay các<br /> hợp tác tổ chức dùng nước ở cơ sở hiện nay là bằng chứng thuyết phục quan trọng cho điều đó.<br /> Nhờ vậy, tham gia vào công tác quản lý các hệ thống thuỷ lợi trên toàn quốc hiện nay ngoài 130<br /> doanh nghiệp nhà nước còn có khoảng 13.273 tổ chức quản lý của nông dân mà trong số này có<br /> 11.249 HTX nông nghiệp, 958 tổ chức hợp tác xã dùng nước và 1.039 tổ (đội) thuỷ nông (N.X.<br /> Tiệp, 2008).<br /> 3. Những vấn đề cơ bản tồn tại ở các mô hình đồng ruộng<br /> 3.1. Tình trạng manh mún ruộng đất<br /> Không thể phủ nhận những gì mà Khoán 10 đã làm được, trong đó đáng kể nhất là nó đã đi tiên<br /> phong đột phá, vực dậy tiềm năng vốn đang “ngủ lười” của nền nông nghiệp Việt Nam trong giai<br /> đoạn chuyển đổi từ nền sản xuất nông nghiệp theo cơ chế tập trung, bao cấp do HTX nông<br /> nghiệp quản lý, sang cơ chế mới với việc lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, tạo động lực<br /> thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp phát triển, góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống<br /> nhân dân. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó là tình trạng manh mún đất đai đã gây ra rất nhiều ảnh<br /> hưởng nghịch chiều, có tác động không nhỏ đến các khâu trong quá trình sản xuất nông nghiệp<br /> và hệ thống tưới tiêu cho cây trồng.<br /> Tác động tích cực đầu tiên mà bản thân nguyên nhân gây manh mún cho thấy là nó bảo đảm tính<br /> công bằng trong xã hội bởi vì thời cơ để các hộ nông thôn phát triển kinh tế là như nhau do họ<br /> đều được sử dụng phương tiện sản xuất quan trọng là đất đai như nhau. Có thể đây cũng là một<br /> trong những nguyên nhân giúp nước ta thành công trong xoá đói giảm nghèo.<br /> Ngoài ra, khi sở hữu nhiều mảnh ruộng nhỏ lẻ nằm rải rác khắp nơi sẽ làm tăng mức độ an toàn<br /> lương thực cho các hộ nông dân. Các nghiên cứu về tình trạng manh mún ruộng đất đều chỉ ra<br /> rằng chính tình trạng đó cho phép nông dân có thể đa dạng hoá hoạt động trồng trọt với nhiều<br /> loại hoặc nhiều giống cây trồng khác nhau trên các thửa ruộng của mình và qua đó tránh được<br /> những rủi ro do yếu tố thị trường, điều kiện khí hậu, tình trạng sâu bệnh,... gây ra. Ngược lại khi<br /> chỉ có một mảnh ruộng lớn, họ không thể trồng nhiều loại cây trồng hay nhiều giống có thời vụ<br /> khác nhau được do phải tuân thủ lịch canh tác chung của cả khu.<br /> Tuy vậy, nhược điểm của tình trạng manh mún ruộng đất đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất với<br /> <br /> <br /> 4<br /> nhiều lý do. Một là diện tích canh tác vốn đã rất hạn chế lại lãng phí nhiều do phải dành để làm<br /> nhiều bờ thửa. Nhiều ước tính (L T M Lan, 2001; C T Quang, 2001; Đ T Anh, 2004) đã cho thấy<br /> nếu số thửa giảm đi chỉ còn một nửa thì sẽ tiết kiệm được từ 4 đến 8% quĩ đất1. Hai là chi phí<br /> lao động tăng do cần nhiều thời gian đi lại, vận chuyển vật tư cũng như sản phẩm thu hoạch. Ba<br /> là, do diện tích mỗi mảnh nhỏ nên mức đầu tư thấp dẫn đến năng xuất cây trồng thấp. Theo Đ T<br /> Anh, (Đ T Anh, 2004) tổng mức đầu tư có thể tăng 7 đến 8% và năng xuất lúa, ngô tăng 4% sau<br /> khi dồn điền đổi thửa2. Bốn là, tình trạng manh mún ruộng đất đã hạn chế khả năng cơ giới hoá<br /> trong sản xuất nông nghiệp.<br /> 3.2. Hệ thống thuỷ lợi nội đồng<br /> Khó khăn liên quan đến quản lý thuỷ nông và cung cấp dịch vụ tưới tiêu được phân thành ba nhóm chính<br /> là (i) Công trình, (ii) thể chế/quản lý và (iii) vấn đề tài chính.<br /> (i) Về mặt công trình: có thể nói rằng, chính sách phân chia ruộng đất không kèm theo quy<br /> hoạch, hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông nội đồng là nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng hệ thống<br /> thuỷ lợi nội đồng ở các vùng hoặc là thiếu (như các tỉnh Nam Bộ) hoặc yếu (khu vực Bắc Bộ) và<br /> thậm chí ở nhiều nơi là vừa thiếu, vừa yếu do kênh mương nội đồng chủ yếu là kênh đất, làm<br /> nhiệm vụ tưới tiêu kết hợp, không có cống điều tiết, hệ thống bờ lô, bờ thửa thiếu, không đáp<br /> ứng được nhu cầu giữ và ngăn nước đã tạo ra nhiều mâu thuẫn giữa các hộ nông dân có ruộng<br /> liền kề nhau do hình thành hình thức tưới tràn từ ruộng của chủ nọ sang ruộng của chủ kia<br /> (Blarel và cộng sự 1992; Lan 2001). Nhìn chung, những tồn tại chủ yếu về mặt công trình bao<br /> gồm;<br /> - Hệ thống được đầu tư không đầy đủ, thường chỉ quan tâm đến công trình đầu mối mà ít chú ý<br /> đến hệ thống kênh và các công trình mặt ruộng (tại Tây Ninh, ước tính mới đảm bảo khoảng<br /> 20%). Những nơi có kênh thì thường làm nhiệm vụ tưới tiêu kết hợp gây khó khăn cho quản lý<br /> vận hành, giảm hiệu quả khai thác hệ thống;<br /> - Các công trình điều tiết thiếu hoặc xuống cấp như không có cánh cống, thiếu công trình đo<br /> đạc, khống chế, kiểm soát lưu lượng, cống vượt cấp quá nhiều;<br /> - Bờ vùng, bờ thửa chưa hoàn chỉnh, khả năng giữ nước mặt ruộng kém;<br /> Những nguyên nhân trên khiến diện tích cuối kênh thường không được cấp nước ổn định, diện<br /> tích tưới của các hệ thống thường chỉ đạt dưới 60% so với năng lực thiết kế (xem Bảng 1).<br /> Bảng 1: Diện tích được tưới ở một số hệ thống thuỷ nông<br /> Hệ thống Cầu Sơn- Yên Lập Kẻ Gỗ Phú Ninh Đá Bàn Dầu Tiêng (thuộc<br /> Chỉ tiêu Cấm Sơn dự án VWRAP)<br /> Diện tích tưới (%) 54 55 42 47 80 67<br /> Nguồn: Dự án VWRAP, 2006.<br /> (ii) Thể chế/quản lý<br /> - Chưa phân cấp rõ ràng trong quản lý khai thác công trình kênh, đặc biệt các kênh liên xã, dẫn<br /> đến chất lượng dịch vụ tưới tiêu thấp;<br /> - Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp thủy nông với các tổ chức dùng nước chưa chặt chẽ, chưa<br /> có sự ràng buộc lẫn nhau. Nhiều doanh nghiệp không ký được hợp đồng tưới tiêu, việc hỗ trợ kỹ<br /> thuật cho các tổ chức hợp tác dùng nước và các hộ sử dụng nước chưa làm được;<br /> - Do hạn chế về mặt công trình, đặc biệt là các công trình điều tiết và đo đạc gây khó khăn cho<br /> <br /> <br /> 1<br /> Việc tiết kiệm được đất khi dồn điền đổi thửa là đương nhiên nhưng số liệu này có thể đã được ước tính quá lớn. Vì chiều rộng<br /> của bờ thửa là rất nhỏ, khó có thể chiếm tới 8 % chiều rộng của một thửa .<br /> 2<br /> Theo chúng tôi, nhận định trên cần kiểm định lại vì mức độ đầu tư cho một đơn vị diện tích có thể không có mối quan hệ trực<br /> tiếp nào với diện tích thửa ruộng, trừ trường hợp thửa đó nhỏ đến mức nông dân không muốn đầu tư sản xuất. Nói cách khác,<br /> mức đầu tư và năng xuất sản lượng theo thống kê có tăng nhưng có thể do một yếu tố khách quan nào đó.<br /> <br /> <br /> 5<br /> công tác vận hành;<br /> - Trình độ của cán bộ quản lý thủy nông còn thấp, ít được đào tạo, thậm chí là chưa qua trường<br /> lớp, nên năng lực, kỹ năng kỹ thuật và quản lý yếu kém. Chủ yếu vận hành, quản lý theo kinh<br /> nghiệm nên chưa sát với thực tế;<br /> - Thiếu sự tuyên truyền vận động nhân dân trong quá trình thành lập, xây dựng tổ thuỷ nông, tổ<br /> đường nước nên nhiều nông dân chưa ý thức đầy đủ sự cần thiết của tổ thuỷ nông, chưa thật sự<br /> xem tổ chức này là đại diện quyền làm chủ của mình;<br /> - Thiếu nhận thức về quyền sử dụng nước và nghĩa vụ đóng góp kinh phí cho dịch vụ và bảo vệ<br /> công trình thuỷ lợi. Chưa có chế tài cụ thể xử lý vi phạm, tranh chấp trong các trường hợp dân<br /> xâm hại bờ kênh, tự mở cống lấy nước; xả rác, rơm rạ, chai lọ của thuốc sâu hoặc thuốc bảo vệ<br /> thực vật xuống kênh;<br /> - Việc phối hợp giữa các xã đầu kênh và cuối kênh không thực hiện được. Các xã đầu kênh,<br /> thuận lợi về nước thường không tham gia vào quá trình điều tiết và nạo vét, duy tu bảo dưỡng<br /> công trình; các xã cuối kênh thiếu nước thường phải huy động nguồn lực để nạo vét kênh cũng<br /> như cánh cống để dẫn nước về địa bàn mình3.<br /> (iii) Tài chính, thu nhập và đa dạng hoá cây trồng<br /> - Thiếu công khai về tài chính, dân không rõ các khoản thu chi của thủy nông cơ sở càng không<br /> rõ các khoản thu chi của Công ty Quản lý khai thác công trình thủy lợi. Điều này dẫn đến một<br /> mặt thiếu tin tưởng vào các tổ chức quản lý tưới, mặt khác do dịch vụ tưới tiêu chưa tốt nên họ<br /> luôn không thoả mãn với dịch vụ được cung cấp.<br /> - Nhiều nơi cơ chế, chính sách của địa phương cứng nhắc nên cho dù người dân sẵn sàng đóng<br /> góp cho thuỷ lợi nội đồng (những nơi thiếu nước) cũng không được.<br /> - Thu nhập từ độc canh cây lúa của người nông dân trung bình khoảng 82.000<br /> đồng/người.tháng, tức là nếu chỉ dựa vào canh tác lúa thì toàn bộ nông dân ở vùng nông thôn có<br /> mức sống dưới nghèo4 (Đoàn Doãn Tuấn, 2005), nên người dân không muốn và không có tiền<br /> đóng góp cho vận hành, bảo dưỡng cũng như phát triển hệ thống thủy nông nội đồng. Do vậy,<br /> nguồn thu từ dịch vụ thuỷ nông của các tổ chức TNCS hạn chế, không khuyến khích được tinh<br /> thần trách nhiệm của thuỷ nông viên, một số nơi không có thuỷ nông viên/tổ thuỷ nông.<br /> Với những tồn tại nêu trên đã tạo ra nhiều bức xúc đối với một bộ phận nông dân trong quá trình<br /> sản xuất đồng thời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của các TCDN. Vì<br /> vậy, từ những năm 2000, việc dồn điền đổi thửa, quy hoạch lại đồng ruộng phục vụ chuyển đổi<br /> mô hình sản xuất nông nghiệp đã diễn ra ở nhiều nơi và mang lại hiệu quả tốt, nhiều hộ nông dân<br /> đạt thu nhập hơn 50 triệu đ/năm nhờ áp dụng sáng tạo các hệ thống canh tác mới thay vì độc<br /> canh cây lúa. Đây cũng chính là những tiền đề quan trọng khi định hướng quy hoạch đồng ruộng<br /> phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp trong tương lai.<br /> 4. Định hướng phát triển thủy lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng<br /> 4.1. Nguyên tắc<br /> Quy hoạch hệ thống tuỷ lợi nội đồng thực hiện song song với củng cố các tổ chức hợp tác dùng<br /> nước và dồn điền đổi thửa là nguyên tắc cơ bản của việc quy hoạch đồng ruộng theo hướng hiện<br /> đại hoá, theo đó kết cấu của công trình mặt ruộng phải tạo điều kiện chủ động tưới tiêu đáp ứng<br /> nhu cầu cây trồng và thuận lợi trong canh tác. Tức là việc tưới tiêu và canh tác được độc lập; chủ<br /> ruộng thực hiện việc tưới tiêu, canh tác trên thửa ruộng của họ mà không làm cản trở việc canh<br /> <br /> <br /> 3<br /> Tại phú Ninh lượng nước thực cấp 30000m3/ha.vụ so với định mức 10.000/ ha.vụ<br /> Tại Xã Cẩm Thăng, Kẻ Gỗ, mỗi thôn phải huy động 40-80 người/đợt tưới, đi săn dẫn nước từ cống đầu kênh về thôn.<br /> 4<br /> Theo quyết định 143/2001/QĐ-TTg, chuẩn nghèo trong giai đoạn từ 2001-2005 đối với các hộ nông dân vùng đồng bằng là thu<br /> nhập bình quân thấp hơn 100.000 đồng/người/tháng.<br /> <br /> <br /> 6<br /> tác trên các thửa ruộng liền kề. Kiến thiết đồng ruộng các thửa ruộng với diện tích 0,3-1,0 ha có<br /> nguồn tưới tiêu chủ động và hệ thống đường nội đồng đảm bảo đưa máy móc cơ giới xuồng<br /> ruộng (Hình 4).<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 30 m<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 100 m<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 4: Mô hình khu đồng ruộng tương lai<br /> 4.2. Nội dung và trình tự thực hiện<br /> Phát triển thuỷ nông nội đồng cần thực hiện theo các nội dung cơ bản và trình tự dưới đây.<br /> Bước 1. Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và xác định các vấn đề cần giải quyết<br /> Cần đánh giá được các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực xã hội, hiện trạng và quá trình phát triển<br /> sản xuất nông nghiệp; những hạn chế cơ bản ở các hệ thống thuỷ nông nội đồng hiện tại và giải<br /> pháp điều chỉnh phù hợp với cơ cấu cây trồng và mô hình sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn<br /> tiếp theo; đánh giá tác động trực tiếp của phát triển các công trình nội đồng và của việc củng cố<br /> các tổ chức quản lý khai thác các công trình đó.<br /> Bước 2: Quy hoạch hệ thống thực hiện song song với củng cố các tổ chức hợp tác dùng nước và<br /> dồn điền đổi thửa<br /> Xây dựng và củng cố các TCDN song song với khâu quy hoạch hệ thống là nhằm phát huy sự<br /> tham gia của cộng đồng trong giai đoạn thiết kế hệ thống, đảm bảo các hệ thống được xây dựng<br /> thực sự phù hợp với nhu cầu sản xuất của người dân. Việc xây dựng và củng cố các tổ chức dùng<br /> nước bao gồm các nội dung cơ bản là (i) tổ chức bộ máy, (ii) bổ nhiệm các thành viên và (iii)<br /> soạn thảo điều lệ tổ chức.<br /> Bước 3: Thiết kế và xây dựng<br /> Hệ thống thủy nông nội đồng được người dân đầu tư và trực tiếp quản lý khai, phục vụ sản xuất<br /> nông nghiệp của người dân nên sự tham gia của họ trong thiết kế và xây dựng cần được phát huy<br /> nhằm tạo ra sự thuận lợi trong quản lý và khai thác hệ thống.<br /> <br /> <br /> <br /> 7<br /> Bước 4: Quản lý<br /> Các nội dung cơ bản cần quan tâm là (i) Quản lý vận hành và duy tu bảo dưỡng; (ii) Cách tính<br /> phí thủy lợi phí và (iii) Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương đối với tổ chức thủy nông cơ sở.<br /> Bước 5: Đánh giá<br /> Giám sát và phân tích nhằm đánh giá các kết quả dự án trước và sau khi phát triển có sự tham gia<br /> là cơ sở để điều chỉnh về mặt công trình và tổ chức quản lý để phát huy hiệu quả của các hệ<br /> thống thủy nông nội đồng.<br /> 4.3. Một số bài học chuyển đổi mô hình sản xuất đã áp dụng trong thực tế<br /> (1) Mô hình chuyển đổi từ SXNN sang nuôi trồng thuỷ sản-thuỷ cầm tại xã Thanh Hương, Thanh<br /> Liêm, Hà Nam<br /> Tại xã Thanh Hương, mô hình chuyển đổi diện tích trũng trồng lúa cho năng suất không ổn định<br /> sang trồng lúa kết hợp nuôi trồng thuỷ sản và thuỷ cầm đã được thực hiện trên khu ruộng có diện<br /> tích 7,5 ha (Hình 5).<br /> Trước khi chuyển đổi, khu ruộng được chia thành 6 lô ruộng với tổng cộng khoảng trên 200<br /> thửa. Sau khi chuyển đổi, toàn bộ khu ruộng được chia thành 22 thửa với diện tích trung bình là<br /> 3410 m2 có khả năng chủ động trong cấp thóat nước trực tiếp từ kênh.<br /> Trên khu ruộng đã được chuyển đổi, 22 hộ dân đã xây dựng thửa ruộng theo hai cách khác nhau<br /> là mô hình độc lập và mô hình ghép ruộng.<br /> g<br /> Trµn<br /> Nh©m<br /> Kªnh<br /> <br /> <br /> 2 3<br /> 1<br /> 5<br /> 4<br /> 7<br /> Quèc lé<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 6 8<br /> 9 11<br /> Khu d©n c−<br /> Khu d©n c−<br /> Bê thö<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 10<br /> 12<br /> 1A<br /> a<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 13<br /> 14<br /> 15<br /> 16<br /> B¾c<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 17<br /> Êp<br /> Kªnh<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 19<br /> § −êng<br /> § −êng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 18<br /> ®¹c<br /> giao th<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 22<br /> 21<br /> 20<br /> «ng né<br /> i ®ång<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 0 50 100 m<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> a . T r− í c c h u y Ó n ® æ i b. S au chuyÓn ®æi<br /> <br /> <br /> Hình 5: Sơ đồ bố trí lô thửa tại khu chuyển đổi thôn Lác Nội và thôn Tâng<br /> Ghi chú: Bờ thửa trong giai đoạn trước chuyển đổi ở hình trên chỉ là giả định để minh hoạ cho cách thức chia lô<br /> thửa. Trên thực tế, bờ thửa trong giai đoạn này rất dày đặc và không thể thể hiện trên hình vẽ được.<br /> <br /> • Mô hình lúa, cá kết hợp chăn nuôi thuỷ cầm độc lập<br /> Mô hình này được áp dụng tại các thửa từ số 16 đến số 22 trong (Hình 5) nơi các thửa có diện<br /> tích tương đối lớn (0.3-0.5 ha). Chủ hộ của những thửa này đã tiến hành xây nhà tạm phục vụ<br /> cho sản xuất, đào ao thả cá, xây chuồng nuôi vịt, đắp sân chơi cho vịt, đắp bờ bảo vệ cá,... và<br /> dành diện tích còn lại cho trồng lúa.<br /> Thu nhập từ mô hình này khoảng gần 150 tr.đồng/ha.năm, lãi gần 60 tr.đồng/ha.năm (Bảng 2).<br /> <br /> <br /> 8<br /> Bảng 2. Hạch toán kinh tế mô hình lúa-cá-vịt độc lập<br /> TT Kinh doanh Chi (tr.đ) Thu (tr. đ) Lãi (tr.đ)<br /> Đồng %<br /> 1 Trồng lúa 7 11 4 6,7<br /> 2 Nuôi cá 14 44 30 50,6<br /> 3 Nuôi vịt lấy trứng 68 93 25 42,7<br /> Cộng 89 148 59 100,0<br /> <br /> • Mô hình ghép ruộng<br /> Hai hoặc bốn hộ có ruộng liền kề nhau tự nguyện ghép ruộng lại thành thửa lớn và cùng nhau<br /> đào rạch nuôi cá và đắp bờ. Đó là những thửa ruộng có kích thước nhỏ, hẹp và dài. Để khắc phục<br /> những khó khăn về diện tích và kích thước, những hộ này đã cùng nhau hợp tác lại để ghép<br /> ruộng nhằm có đựơc diện tích phù hợp của mô hình lúa-cá-vịt.<br /> Các hộ ghép ruộng đã cùng nhau đào hai rạch ở hai bên khu ruộng sâu khoảng 1,5 m so với mặt<br /> ruộng và rộng khoảng 5 m để nuôi cá và lấy đất đắp thành bờ thửa. Hai rạch nuôi cá này do các<br /> hộ luân phiên nhau khai thác và diện tích còn lại được trồng lúa.<br /> Cách ghép thửa để tạo thành mô hình hợp tác này tuy khắc phục được những khó khăn về diện<br /> tích thửa hạn chế, về chiều dài của thửa quá lớn,... nhưng mô hình tập thể này cho hiệu quả kinh<br /> tế thấp hơn so với mô hình độc lập. Thu nhập từ cá hầu như không đáng kể, thu nhập chính mà<br /> các hộ này nhận được vẫn là từ trồng hai vụ lúa.<br /> (2) Mô hình chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang thâm canh lúa chất lượng cao và rau màu xã<br /> Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nam Định<br /> Mô hình chuyển đổi được thực hiện trên khu ruộng có diện tích 60 ha của Xóm 2, thôn Thái<br /> Học.<br /> A . T r−íc chuyÓn ®æi B . S au chuyÓn ®æi<br /> 1. § Êt m ¹ 1. § Êt ba vô<br /> X ãm § « L−¬ng 2. K hu ruéng gÇn X ãm § « L−¬ng 2. K hu lóa ®Æc s¶n<br /> 3. K hu ruéng xa 2'. K hu lóa cao s¶n<br /> K. N<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> K. N<br /> inh H<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> inh H<br /> ¶<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ¶<br /> i<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> i<br /> Xãm<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Xãm<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1 1<br /> Th ¸ i<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Th ¸ i<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Êp 3<br /> Êp 3 K. c<br /> K. c<br /> K. Gi©<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> K. Gi©<br /> Hä c<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hä c<br /> y N hÊ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> y N hÊ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2 2<br /> t<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> t<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> p2 p2<br /> h cÊ h cÊ<br /> Kªn Kªn<br /> 3 2'<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 6: Lô thửa và kênh mương tại khu ruộng đội 2 xã Nghĩa Hồng<br /> Trước chuyển đổi, đất của xóm 2 được phân thành ba khu là khu đất mạ, khu đồng gần và khu<br /> đồng xa (Hình 6). Mỗi hộ dân trong đội thường có ba thửa nằm trên ba khu đất này. Việc tưới<br /> <br /> 9<br /> tiêu được thực hiện thông qua các kênh tưới tiêu kết hợp. Vì ruộng đất manh mún, xen kẹp nên<br /> việc phát triển cây rau màu rất hạn chế do các khó khăn của việc tưới tiêu không chủ động cũng<br /> như nhu cầu nước khác nhau giữa các loại cây trồng gây ra.<br /> Để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đất của xóm 2 được qui hoạch lại thành hai khu là khu đa canh<br /> (khu đất ba vụ) và khu chuyên lúa nằm ở phía Nam bao gồm tiểu khu lúa đặc sản và tiểu khu lúa<br /> cao sản. Sau khi dồn điền đổi thửa, hầu hết các hộ được nhận hai thửa ruộng trong đó một thửa<br /> nằm trên khu đa canh và một thửa nằm hoặc trên khu lúa đặc sản hoặc trên khu lúa cao sản.<br /> Ngoài ra trạm bơm nhỏ và hệ thống kênh mặt ruộng được xây dựng phục vụ cấp thoát nước chủ<br /> động cho từng thửa thuộc khu đất 3 vụ phục vụ mở rộng phát triển cây rau xuất khẩu (Hình 6).<br /> Như vậy, ngoài việc giảm số thửa/hộ, đội 2 còn tạo được hai khu chuyên canh là khu đất ba vụ<br /> (lúa luân canh với cây trồng hàng hoá) và khu chuyên lúa.<br /> Trên những khu ruộng chuyển đổi, thu nhập của nông dân đã tăng lên rõ rệt và nhiều khu ruộng<br /> đã đạt doanh thu trên 50-70 triệu đồng/ha/năm (Bảng 3).<br /> Bảng 3: Doanh thu 1 năm của 1 ha có trồng cà chua nhót xuất khẩu<br /> TT Vụ sản xuất Năng suất (tấn/ha) Đơn giá (đ/kg) Thành tiền (đ)<br /> 1 Lúa vụ chiêm 8,0 2.300 18.400.000<br /> 2 Lúa vụ mùa 5,5 2.300 12.650.000<br /> 3 Cà chua 37,0 700 25.900.000<br /> Tổng doanh thu 56.950.000<br /> (3) Quy hoạch chuyển đổi từ lúa sang nuôi trông thuỷ sản ven biển (Ninh Bình)<br /> Khu vực chuyển đổi thuộc địa phận xã Kim Đông là xã thuộc vùng bãi bồi ven biển phía Nam<br /> huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.<br /> Trước chuyển đổi (2001), hầu hết diện tích được dùng cho canh tác lúa. Vì vậy, mô hình đồng<br /> ruộng và hệ thống thuỷ nông được thiết kế tương đối hoàn chỉnh phù hợp cho canh tác lúa với<br /> những thửa ruộng có kích thước khoảng 12x350m có khả năng tưới, tiêu trực tiếp từ các kênh<br /> cấp II và đều được tiếp giáp với đường giao thông nội đồng (Hình 7).<br /> S«<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> S«ng<br /> ng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> h1 t−íi<br /> BM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> in<br /> §¸<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> M<br /> 10<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> nh<br /> y<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> B ×<br /> Cè<br /> ng §ª<br /> Cµ<br /> Ma Kim CT3<br /> BM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> i<br /> u t−í §«ng<br /> ng<br /> 10<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> S« Bê thöa<br /> '<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> XC<br /> BM<br /> 10<br /> BM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> '<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> 1300-3000 m<br /> 9<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> XC<br /> BM<br /> 9'<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BM<br /> BM8<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> BM8<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> XC<br /> 9<br /> BM7<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> N⇪<br /> '<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> 5 C<br /> C X<br /> X 0 0.25 0.5 km<br /> 2<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 200-500 m<br /> inh<br /> hM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Kªnh chÝnh<br /> B×n<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Kªnh cÊp II<br /> Kªnh x−¬ng c¸<br /> §ª<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tr¹m b¬m<br /> S«n<br /> g tiªu Cèng tiªu<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 7: Hệ thống thuỷ nông nội đồng trong giai đoạn trước 2001<br /> Sau chuyển đổi (từ 2005), 100% diện tích được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản, mô hình đồng<br /> ruộng và hệ thống thuỷ lợi của xã Kim Đông cũng được thay đổi cho phù hợp (Hình 8). Các thửa<br /> ruộng được kiến thiết lại đảm bảo tính chất của đầm nuôi, kích thước trung bình khoảng 100x40-<br /> 50 m. Đồng thời các hệ thống cấp thoát nước cũng được điều chỉnh như sau.<br /> Thứ nhất, chuyển các cống CT8, CT6 và CT3 thành cống tưới, tiêu kết hợp (lấy nước mặn trong<br /> <br /> <br /> 10<br /> quá trình tưới và là cống tiêu đầu mối trong quá trình tiêu);<br /> Thứ hai, bổ sung thêm cống điều tiết tại đầu và cuối các kênh cấp hai; đào mới hệ thống kênh<br /> cấp III, xây mới cống điều tiết trên kênh cấp III, nạo vét và mở rộng hệ thống kênh xương cá;<br /> Thứ ba, nông dân tự đầu tư xây mới các cống tưới/tiêu của đầm nuôi.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BM<br /> 10<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> S«<br /> S«ng<br /> t−íi<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ng<br /> h1<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> §¸<br /> in<br /> M<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> y<br /> nh<br /> B×<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BM<br /> §ª<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 10<br /> Cè CT3<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> '<br /> Cµ ng<br /> <br /> <br /> BM<br /> M íi<br /> g t−<br /> <br /> <br /> 10<br /> au «n<br /> S<br /> <br /> <br /> '<br /> 110 m<br /> XC<br /> X C21<br /> B<br /> BM<br /> M9<br /> 9<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> XC<br /> X C32<br /> B<br /> BM<br /> M99<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BM<br /> ' '<br /> B<br /> BM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 9<br /> M8<br /> B<br /> BM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> C43<br /> M8<br /> <br /> <br /> <br /> 8<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> XC<br /> BM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> X<br /> 8''<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> N⇪<br /> M7<br /> 7<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CT8 2<br /> C<br /> 4<br /> 5 X<br /> C<br /> X 0 0.25 0.5 km<br /> 200-500 m<br /> 2<br /> inh<br /> hM<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Kªnh chÝnh<br /> B×n<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Kªnh cÊp II<br /> Kªnh x−¬ng c¸<br /> §ª<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Kªnh cÊp III B¬ thöa<br /> S«n Cèng ®Çu mèi Cèng t−íi/tiªu cña thöa<br /> g tiª<br /> CT6 u<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 8: Hệ thồng thuỷ nông sau khi đã chuyển đổi<br /> Với mô hình này, hiệu quả kinh tế đạt được từ 90-175 triệu đồng/ha/năm (Đ.D. Tuấn, 2005).<br /> Bảng 4: Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi trồng thủy sản ven biển<br /> TT Các chi phí (đ) Nuôi thâm canh Bán thâm canh<br /> 1 Chi phí ban đầu 156.000.000 83.500.000<br /> 2 Chi phí hàng năm 83.000.000 35.000.000<br /> 3 Doanh thu 175.000.000 90.000.000<br /> <br /> Kết luận<br /> Từ những thông tin mô tả trong các phần trên có thể đưa ra một số kết luận như dưới đây;<br /> (i) phát triển hệ thống thuỷ lợi nội đồng là một vấn đề phức tạp, không thể chỉ giải quyết bằng kỹ<br /> thuật đơn thuần cũng như không thể giao hết trách nhiệm cho ngân sách địa phương và đóng góp<br /> của riêng người nông dân5 mà đòi hỏi phải có sự tham gia của cả cộng đồng, bao gồm cả những<br /> đối tượng không phải là nông dân nhưng có nhu cầu sử dụng nước, từ việc xây dựng các chính<br /> sách về đất đai cho đến sự đồng thuận của người dân trong việc dồn điền, đổi thửa, quy hoạch lại<br /> đồng ruộng, xây dựng và quản lý các hệ thống thủy nông nội đồng phù hợp với mục tiêu và yêu<br /> cầu mới của sản xuất;<br /> (ii) nếu chỉ dựa vào độc canh cây lúa và/hoặc phương thức sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp thì thu<br /> nhập của người nông dân là rất thấp nên những đóng góp tài chính của người dân cho việc xây<br /> dựng hệ thống thủy lợi nội đồng và phát triển bền vững các TCDN là không đáng kể;<br /> (iii) các mô hình chuyển đổi từ độc canh cây lúa sang đa canh lúa kết hợp với cây trồng cạn hoặc<br /> kết hợp giữa lúa với nuôi trồng thủy sản, thủy cầm,... có khả năng nâng cao hiệu quả kinh tế, xã<br /> hội nhờ vậy mà người dân có điều kiện tốt hơn để tham gia đóng góp nhiều hơn cho việc phát<br /> triển hệ thống thuỷ lợi nội đồng, ngược lại phát triển thuỷ lợi nội đồng cũng là để phục vụ hình<br /> thức sản xuất mới có nhu cầu cấp, thoát nước hoàn toàn khác với trước đây;<br /> <br /> <br /> 5<br /> Theo quyết định số 66/2000/QĐ-TTg, ngày 13/6/2000 của Thủ tướng Chính Phủ thì vốn đầu tư xây dựng và kiên cố kênh<br /> mương nội đồng chủ yếu thuộc trách nhiệm của Ngân sách địa phương và đóng góp của người dân.<br /> <br /> <br /> 11<br /> (iv) xây dựng hệ thống thủy nông nội đồng kết hợp với củng cố và phát triển TCDN còn góp<br /> phần khai thác có hiệu quả nguồn nước, tiết kiệm nước tưới,... vì thế có ý nghĩa không chỉ đối<br /> với sản xuất nông nghiệp mà còn tác động tích cực đến nhiều đối tượng sử dụng nước khác trong<br /> bối cảnh chúng ta đang tìm kiếm giải pháp đối phó với tình trạng nguồn nước ngày càng suy<br /> giảm do tác động của BĐKH đang diễn ra.<br /> <br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> 1. Đoàn Doãn Tuấn, 1998, Vai trò cộng đồng thôn xóm trong quản lý tưới tiêu ở Đông Nam<br /> Á-Trường hợp nghiên cứu Việt Nam và Nhật Bản. Luận văn tiến sỹ, Đại học tổng hợp<br /> Tsukuba, Nhật Bản<br /> 2. Đoàn Doãn Tuấn, 2005, Hiện đại hoá hệ thống thuỷ lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi cơ cấu<br /> cây trồng vật nuôi vùng ĐBSH, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ.<br /> 3. Sally P. Marsh, T. Gordon MacAulay và Phạm Văn Hùng, 2007, Phát triển nông nghiệp và<br /> chính sách đất đai ở Việt Nam; 272 trang<br /> 4. Trần Đình Thiên, 2008, Về chính sách phát triển Nông nghiệp và Nông thôn trong quá trình<br /> công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam<br /> 5. Trung tâm PIM, 2006, Báo cáo thực địa “đánh giá hiện trạng quản lý khai thác công trình<br /> thuỷ lợi và mô hình thủy nông cơ sở tại các khu mẫu dự án VWRAP”.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 12<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
19=>1