BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN MINH LƢỢNG XỬ LÝ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC - TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN MINH LƢỢNG XỬ LÝ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC - TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TIẾN SĨ PHẠM QUANG HUY
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tác giải xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính về “Xử lý kỷ luật công chức
trong cơ quan hành chính nhà nước - từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực.
Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Lƣợng
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý
Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy Tiến sĩ Phạm
Quang Huy, người đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho em hoàn thành Luận văn này.
Tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý Thầy Cô
trong khoa Nhà nước và Pháp luật, khoa Sau đại học Học viện Hành chính
Quốc gia đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
cho đến khi thực hiện hoàn thành đề tài luận văn.
Tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Sở Nội vụ tỉnh Ninh
Thuận, Phòng Nội vụ các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Ninh Thuận, Uỷ
ban Kiểm tra tỉnh uỷ và huyện, thành uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ Ninh Thuận đã
không ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian
nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các
bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng, quý Thầy Cô giáo,
các nhà khoa học để bản thân nhận thức được sâu kỷ thêm và Luận văn được
hoàn thiện hơn, có thể đóng góp một phần nhỏ cho công tác XLKL công chức
trong thời gian tới.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn !
Ninh Thuận, tháng 02 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Minh Lƣợng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài luận văn ...................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ........................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................................... 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ................................................ 7
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT
CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC ........... 8
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, ý nghĩa và điều kiện bảo đảm thực hiện việc xử
lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính nhà nước ..................... 8
1.1.1. Khái niệm ...................................................................................... 8
1.1.2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật công chức .............................................. 15
1.1.3. Ý nghĩa của việc xử lý kỷ luật công chức ...................................... 21
1.1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện xử lý kỷ luật công chức trong cơ
quan hành chính nhà nước .................................................................... 23
1.2. Điều chỉnh pháp luật về xử lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành
chính nhà nước ................................................................................... 24
1.2.1. Nội dung và hình thức xử lý kỷ luật công chức ............................. 24
1.2.2. Thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức ............................................ 32
1.2.3. Quy trình xử lý kỷ luật công chức ................................................ 34
Chương 2: TÌNH HÌNH VI PHẠM KỶ LUẬT VÀ XỬ LÝ KỶ LUẬT
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC TẠI TỈNH NINH THUẬN ............................................................ 49
2.1. Tình hình vi phạm kỷ luật của công chức hành chính nhà nước tại tỉnh
Ninh Thuận giai đoạn từ 2010 đến 2016 ............................................. 49
2.2. Tình hình xử lý kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan hành chính
nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận ............................................................. 52
2.2.1. Kết quả xử lý kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan hành
chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn từ 2010 đến 2016 .......... 52
2.2.2. Những hạn chế trong công tác xử lý kỷ luật công chức hành chính
trong cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn từ
2010 đến 2016 ....................................................................................... 57
2.3. Nguyên nhân của hạn chế ................................................................... 75
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ LÝ KỶ LUẬT CÔNG
CHỨC HÀNH CHÍNH TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC TỪ THỰC TIẾN TỈNH NINH THUẬN....................................... 79
3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm kỷ luật
công chức hành chính trong cơ quan hành chính nhà nước ................. 79
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc xử lý kỷ luật công chức ........ 79
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về nội dung và hình thức kỷ luật ................ 81
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức ....... 88
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật công chức ........... 88
3.1.5. Hoàn thiện quy định pháp luật về các hệ quả khác khi công chức bị
xử lý kỷ luật ......................................................................................... 105
3.2. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm kỷ luật
công chức hành chính trong cơ quan hành chính nhà nước ............... 107
KẾT LUẬN ............................................................................................... 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 113
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND Uỷ ban nhân dân.
CB Cán bộ.
CC Công chức.
VC Viên chức
CBCC Cán bộ, công chức.
XLKL Xử lý kỷ luật.
PCTN Phòng, chống tham nhũng.
CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
BLHS Bộ luật Hình sự 2015.
Luật CBCC Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
Luật PCTN Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005.
Nghị định 97 Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính
phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công
chức.
Nghị định 35 Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17/03/2005 của Chính
phủ quy định về Xử lý kỷ luật Cán bộ, công chức.
Nghị định 107 Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính
phủ quy định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Nghị định 157 Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính
phủ quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ
quan, tổ chức đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ,
công vụ.
Nghị định 34 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ
quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức.
Nghị định 112 Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính
phủ về công chức xã, phường, thị trấn.
Nghị định 27 Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 của Chính phủ
quy định xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường,
hoàn trả của viên chức.
Nghị định 59 Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham
nhũng năm 2005.
Nghị định 211 Nghị định số 211/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử
lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do
mình quản lý, phụ trách.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực
kinh tế - xã hội, chính trị và ngoại giao... Kinh tế tăng trưởng cao và đều hàng
năm, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của Nhân dân được nâng lên, an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội đã được giữ vững, hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế từng bước được
nâng cao, đưa đất nước ta thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, toàn
diện về kinh tế - xã hội, bị bao vây cấm vận của thời kỳ thực hiện cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, duy ý chí; từ đó tạo đà cho sự phát
triển của đất nước trong giai đoạn tới.
Cùng với sự phát triển của đất nước, bộ máy nhà nước và đội ngũ
CBCC cũng từng bước được xây dựng, củng cố và kiện toàn; trình độ, năng
lực chuyên môn ngày càng được nâng lên, nhất là việc tiếp cận nền khoa học,
kỹ thuật tiến tiến, hiện đại, tinh hoa của nhân loại, đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế tri thức và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phục vụ cho sự
phát triển và hội nhập của đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, sự tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường đối với đội ngũ CBCC là không tránh khỏi; thậm chí trên một số lĩnh
vực rất nghiêm trọng; dẫn đến tình trạng một số CBCC thoái hóa, biến chất về
đạo đức, lối sống; vi phạm trong thực thi công vụ của CBCC ngày càng nhiều,
tính chất mức độ vi phạm ngày càng phức tạp, tinh vi và nghiêm trọng.
Trước thực trạng trên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XI của
Đảng một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã đánh giá: “Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
1
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, tuỳ tiện, vô nguyên tắc”.
Để tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, phòng ngừa và xử lý
nghiêm minh những hành vi vi phạm của CBCC; trong những năm gần đây,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về XLKL công
chức vi phạm. Đây là những cơ sở pháp lý để thực hiện XLKL CC vi phạm
trong thực thi công vụ
Tuy nhiên, việc XLKL CC vi phạm trong các cơ quan hành chính nhà
nước trong thời gian qua vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế; chưa đạt được mục
tiêu giáo dục, răn đe, phòng ngừa sai phạm; còn nặng về xử lý sự vụ. Bên
cạnh đó, qua nghiên cứu cho thấy, các văn bản quy phạm pháp luật về XLKL
CC vẫn còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ, còn có khoảng trống, còn nhiều
bất cập.
Để góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất của việc XLKL CC, những bất
cập trong pháp luật về XLKL CC và thực trạng tình hình XLKL CC trong cơ
quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua nên tác giả
đã chọn đề tài “ Xử lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính nhà
nước - từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn thạc sĩ của mình.
Với đề tài này tác giả mong muốn được đóng góp một phần nhỏ công
sức của mình trong việc đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện
các quy định pháp luật về XLKL CC và nâng cao hiệu quả việc XLKL CC
hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước, từng bước nâng cao chất
lượng đội ngũ CC, xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị tại tỉnh
Ninh Thuận nói riêng và trên cả nước nói chung ngày càng trong sạch, vững
mạnh.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Từ sau khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành cải cách nền hành chính nhà
nước, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu về XLKL CBCC. Các công
trình nghiên cứu trên được đăng tải trên một số sách, báo, tạp chí, luận án
nghiên cứu sinh như:
- Đề tài khoa học "Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm bồi thường vật
chất của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay" của Tiến sĩ Phạm Hồng Thái
và Thạc sĩ Lê Thiên Hương năm 2001. Đề tài đã góp phần làm rõ về mặt lý
luận và thực tiễn về trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm bồi thường vật chất
của CBCC, các mối liên hệ giữa trách nhiệm kỷ luật với các loại các loại trách
nhiệm pháp lý khác của CBCC; làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thủ tục
XLKL đối với CBCC trên cơ sở đáng giá pháp luật thực định.
- Luận văn thạc sĩ "Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức ở nước
ta hiện nay" của tác giả Phạm Văn Như năm 2001 (Học viện Hành chính
Quốc gia). Trên cơ sở làm rõ vấn đề lý luận về trách nhiệm kỷ luật của CBCC
trong hoạt động công vụ ở nước ta; nghiên cứu sâu vào trách nhiệm kỷ luật
của CBCC dưới góc độ là một loại trách nhiệm pháp lý; thông qua việc
nghiên cứu, chỉ ra những hạn chế, tồn tại về trách nhiệm kỷ luật của CBCC ở
nước ta hiện nay, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện trách nhiệm kỷ
luật của CBCC.
- Đề tài "Thời hiệu xử lý kỷ luật cán bộ, công chức" của tác giả Bùi Thị
Đào đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật số 9 năm 2007. Trên cơ sở
phân tích những bất cập về thời hiệu XLKL CBCC được quy định tại Điều 9
Nghị định 35, tác giả đã đưa ra những kiến nghị sửa đổi quy định, tách thời
hiệu XLKL thành thời hiệu và thời hạn XLKL cho phù hợp với thực tế.
- Đề tài "Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, viên chức Y tế - Biện pháp quan
trọng của quản lý nhà nước về Y tế" của tác giả Nguyễn Huy Quang đăng trên
3
Tạp chí Quản lý nhà nước số 145, tháng 2/2008. Từ việc phân tích thực trạng
việc XLKL đối với cán bộ, viên chức y tế vi phạm pháp luật từ đầu năm 1999
đến tháng 2/2008 và những bất cập của quy định pháp luật về XLKL CBCC,
tác giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm chấn chỉnh việc XLKL đối với
CBCC y tế vi phạm pháp luật.
- Đề tài "Vai trò của trách nhiệm kỷ luật hành chính trong quản lý cán
bộ, công chức" của tác giải Nguyễn Hữu Phúc đăng trên Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 8 năm 2009. Tác giả đã tập trung phân tích vai trò của trách
nhiệm kỷ luật hành chính trong quản lý CBCC ở các khía cạnh: nâng cao
năng lực, bảo đảm hiệu lực hiệu quả nền hành chính nhà nước; vai trò bảo vệ
pháp chế trong tổ chức quản lý, hoạt động của cơ quan nhà nước; vai trò xác
định hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp, tạo cơ sở, chuẩn mực cho
cách ứng xử của CBCC; vai trò giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa; vai trò
trừng phạt đối với CBCC.
- Luận án nghiên cứu sinh Tiến sĩ "Chế định trách nhiệm kỷ luật hành
chính trong pháp luật Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hữu Phúc năm 2010.
Luận án đã phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm kỷ luật hành chính
hiện nay cũng như thực trạng thực hiện chế định pháp luật trách nhiệm kỷ luật
hành chính; từ đó đưa ra những quan điểm, phương hướng hoàn thiện chế
định và những giải pháp khoa học, khả thi nhằm hoàn thiện chế định trên
trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Các công trình trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến công tác
XLKL, trách nhiệm của CBCC trong hệ thống pháp luật và thực tế tại một số
địa phương, đơn vị. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá
một cách đầy đủ, trực tiếp và toàn diện về XLKL CC trong cơ quan hành
chính nhà nước nói chung và tại tỉnh Ninh Thuận nói riêng.
4
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực công tác XLKL
CBCC, thông qua đề tài này tác giả không chỉ muốn tìm hiểu thực trạng về
tình hình XLKL trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận,
mà còn muốn góp phần tìm ra một số giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác XLKL, tăng cường quản lý, giáo dục, phòng ngừa vi phạm, nâng cao
chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức, xây dựng bộ máy nhà nước và toàn hệ
thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn trong thời gian đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Việc nghiên cứu đề tài luận văn nhằm mục đích góp phần hoàn thiện
quy định pháp luật về XLKL đối với CC trong các cơ quan hành chính nhà
nước; nâng cao hiệu quả việc XLKL CC trong cơ quan hành chính nhà nước
tỉnh Ninh Thuận nói riêng và cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung
giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về XLKL CC trong cơ quan hành
chính nhà nước.
- Đánh giá tình hình vi phạm kỷ luật và XLKL CC hành chính trong cơ
quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận.
- Đề ra các giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm kỷ luật CC hành chính
trong cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật về
XLKL CC và thực tiễn việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính Nhà
nước tại tỉnh Ninh Thuận.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: các cơ quan hành chính nhà nước
từ tỉnh đến 7 huyện/thành phố thuộc tỉnh Ninh Thuận.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2010 đến năm 2016.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CBCC và
XLKL CBCC, đảng viên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu: Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử
dụng phương pháp phân tích tài liệu để:
+ Nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến CC, XLKL CC,
trách nhiệm của CC, PCTN lãng phí...
+ Đọc và tìm hiểu các giáo trình, tài liệu có liên quan đến XLKL CC
như: Những vấn đề cơ bản về Luật Hành chính, Pháp luật về công vụ, CC,
Pháp luật Hành chính trong xu thế chuyển đổi của nền hành chính, Tổ chức
thực hiện quyền hành pháp, văn bản quy phạm pháp luật về XLKL CC, trách
nhiệm kỷ luật trong thực hiện nhiệm vụ, công cụ, trong phòng chống tham
nhũng, lãnh phí …
+ Phân tích các bài báo có liên quan của các nhà khoa học, các chuyên
gia đăng trên các Tạp chí, trang thông tin điện tử có liên quan.
+ Đọc và phân tích các tài liệu, báo cáo về công tác nội vụ, kỷ cương,
kỷ luật hành chính, cải cách thủ tục hành chính, PCTN, thanh tra hành chính,
công vụ của UBND tỉnh, Sở Nội vụ tỉnh Ninh Thuận, UBND 7 huyện/thành
phố trực thuộc tỉnh Ninh Thuận, Thanh tra tỉnh, Ban Nội chính tỉnh uỷ và các
báo cáo công tác hàng năm và chuyên đề về thi hành kỷ luật đảng của Uỷ ban
6
Kiểm tra tỉnh uỷ Ninh Thuận và Uỷ ban Kiểm tra các huyện/thành uỷ trực
thuộc Tỉnh uỷ Ninh Thuận từ năm 2010 đến năm 2016…
- Phương pháp so sánh: được sử dụng khi tìm hiểu sự khác biệt quy
định về XLKL CC giữa các văn bản pháp luật.
- Phương pháp lịch sử: để tìm hiểu quy định của pháp luật về XLKL
CC qua các giai đoạn.
- Phương pháp thống kê: để tìm hiểu việc áp dụng hình thức kỷ luật CC
thực tế ở địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những thông tin thu thập được từ luận văn sẽ góp phần làm phong
phú thêm hệ thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích lý luận về XLKL CC nói
riêng và XLKL đối với CBCC, viên chức nói chung.
- Là nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực
XLKL CBCC, viên chức.
- Phục vụ cho công tác quản lý, sử dụng CBCC nhằm nâng cao hiệu
quả và tính pháp chế trong hoạt động của bộ máy Nhà nước và toàn hệ thống
chính trị ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về XLKL CC trong cơ quan hành
chính nhà nước.
Chương 2: Tình hình vi phạm kỷ luật và XLKL CC hành chính trong
cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm kỷ luật CC hành chính
trong cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ XỬ LÝ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC
TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
Khi nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật, một nội dung quan
trọng luôn được đề cập, đó là xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên
chức vi phạm chế độ công vụ. Điều đó cho thấy, không phải cứ xây dựng, ban
hành pháp luật và tổ chức thực hiện là pháp luật sẽ được thực hiện một cách
nghiêm minh, đầy đủ mà phải có các hoạt động bảo vệ pháp luật thông qua
các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Vì vậy, Đảng ta nhấn mạnh “Đổi mới và
hoàn thiện quy trình xây dựng luật, ban hành và thực thi pháp luật, trong đó
chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành luật một
cách nghiêm minh” [28, tr.329]. XLKL là một trong những biện pháp quan
trọng của cưỡng chế nhà nước, áp dụng trong hoạt động công vụ, thực chất là
bảo vệ các giá trị của pháp luật khỏi bị vi phạm trong thực tiễn cuộc sống.
1.1. Khái niệm, nguyên tắc, ý nghĩa và điều kiện bảo đảm thực hiện
việc xử lý kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm công chức
CC là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc rất
nhiều vào quan niệm về hoạt động công vụ, vào chế độ chính trị và nền văn
hóa của mỗi quốc gia và phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể của từng
nước. Do đó, trên thế giới tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về CC. Cụ thể:
Theo pháp luật Hoa Kỳ, CC bao gồm tất cả những người được bổ
nhiệm vào các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp trong Chính phủ Hoa
Kỳ.
Ở Pháp, CC được coi là những người được bổ nhiệm giữ một công vụ
thường xuyên, được xếp vào một ngạch trong hệ thống cơ quan hành chính
8
của nhà nước hoặc trong các tổ chức dịch vụ công và các đơn vị sự nghiệp
trực thuộc cơ quan hành chính.
Ở Đức, CC được gọi là người nằm trong quan hệ công vụ nhà nước
trên cơ sở lời tuyên thệ trung thành với pháp nhân quản lý công và hoàn
thành theo sự ủy thác của pháp nhân đó chức năng pháp luật công.
Ở Nhật Bản, Điều 15 Hiến pháp hiện hành ghi nhận CC là công bộc
của toàn xã hội mà không phải của một bộ phận riêng nào. CC Nhật Bản bao
gồm: (1) những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy
hành chính của Chính phủ; (2) những người làm công tác chuyên môn
nghiệp vụ, quản lý trong bộ máy hành chính ở địa phương; (3) những người
thực thi công vụ tại các tổ chức dịch vụ công hoặc trong ngành lập pháp, tư
pháp.
Ở Việt Nam, qua các thời kỳ lịch sử khái niệm CC lại được định nghĩa
khác nhau, gắn liền với sự thay đổi của nền hành chính nhà nước. Khái niệm
CC được luật hóa lần đầu tiên tại Sắc lệnh số 76/SL ban hành Quy chế CC
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký vào
ngày 20/5/1950, theo đó, “CC Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm
vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối
cao của Chính phủ”. Tại Điều 1, Sắc lệnh khẳng định “Những công dân Việt
Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ chức vụ thường xuyên trong
cơ quan Chính Phủ, ở trong nước hay nước ngoài đều là CC theo quy chế
này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Sắc lệnh này đã xác
định rõ khái niệm CC mang tính khoa học phù hợp với một nền CC hiện đại
đang được thực hiện ở một số nước trên thế giới lúc bấy giờ. Tuy nhiên,
hoàn cảnh kháng chiến đã không cho phép triển khai thực hiện đầy đủ Sắc
lệnh này.
9
Sau đó, một thời gian khá dài (từ những năm đầu thập niên 60 tới
những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước) khái niệm CC đã không được
sử dụng thay vào đó là các khái niệm như: “CB, công nhân, viên chức nhà
nước”, “công nhân viên chức”, họ là tất cả những người trong biên chế làm
việc trong cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp của Nhà nước, của Đảng,
của các tổ chức chính trị - xã hội và các đơn vị kinh tế của Nhà nước. Giai
đoạn này không có sự rạch ròi giữa các khái niệm “CB”, “CC”, “VC”. Đây
là một trong những thiếu sót cơ bản của pháp luật hành chính lúc bấy giờ.
Đến năm 1991, Nghị định số 169/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban
hành ngày 25/5/1991 về CC nhà nước đã quy định khái niệm CC mang bản
chất như Sắc lệnh 76/SL năm 1950, theo Nghị đinh này thì: “CC Nhà nước
Việt Nam là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công
vụ thường xuyên trong một cơ sở Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở
trong nước hay nước ngoài , đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do
ngân sách nhà nước cấp”. Nghị định này đã tách bạch khái niệm “CC”,
không lẫn lộn với khái niệm “CB” hay “VC” như thời kỳ trước nữa.
Năm 1998, Pháp lệnh CBCC ra đời, đánh dấu một bước tiến đáng kể
trong sự nghiệp hoàn thiện pháp luật về CC. Tuy nhiên, Pháp lệnh này không
đưa ra định nghĩa “CC”, ngay cả trong Pháp lệnh CBCC được sửa đổi năm
2003 cũng không đưa ra định nghĩa này, mà thay vào đó, cả hai Pháp lệnh
này lại dùng phương pháp liệt kê các đối tượng là CC. Việc dùng phương
pháp liệt kê đã không bao hàm hết được các đối tượng là CC, mặt khác,
phương pháp liệt kê làm cho văn bản không khoa học, thể hiện sự “bất lực”
của người làm luật khi không thể đưa ra một khái niệm bao quát thế nào là
CC.
Vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên, năm 2008, Quốc hội khóa
XII ban hành Luật CBCC đã hoàn thiện khái niệm CC. Theo đó, khoản 2,
10
Điều 4 Luật CBCC quy định: “CC là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; đối với CC trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật”.
Theo định nghĩa này, CC có các dấu hiệu sau: (1) Là công dân Việt
Nam; (2) Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh; (3)
Công việc có tính chuyên nghiệp và thường xuyên; (4) Làm việc trong các cơ
quan nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập; (5) Trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước; riêng lương của CC trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì theo quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập.
Như vậy, so với pháp luật các nước thì khái niệm CC theo pháp luật
nước ta có điểm riêng biệt, đó là, CC nước ta không chỉ có những người làm
việc trong cơ quan hành chính mà còn bao gồm cả những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các tổ chức chính trị
như Đảng Cộng sản Việt Nam, hay tổ chức chính trị - xã hội như Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ…
11
So với pháp luật của nước ta qua các giai đoạn lịch sử thì khái niệm
CC được Luật CBCC đưa ra là tiến bộ hơn cả.
Thứ nhất, Luật CBCC đã đưa thuật ngữ “CC” ra thành một khái niệm
chứ không gọi đơn thuần là một thuật ngữ chung chung nữa.
Thứ hai, dựa vào khái niệm này chúng ta đã có sự phân biệt giữa CC,
CB và VC.
Theo đó, CC có nhiệm vụ vận hành quyền lực nhà nước, làm nhiệm vụ
quản lý, còn VC thì thực hiện chức năng xã hội, trực tiếp thực hiện nghiệp
vụ. CC được tuyển dụng, bổ nhiệm thuộc biên chế; còn viên chức thì được
tuyển dụng, ký hợp đồng làm việc. CC được hưởng lương từ ngân sách nhà
nước theo ngạch, bậc; đối với viên chức thì hưởng lương từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập, tương xứng với vị trí việc làm, chức danh nghề
nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được
giao.
Riêng với CB thì CB là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn,
bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
So với CB thì CC làm việc thường xuyên hơn theo biên chế và hoạt
động chuyên môn, nghiêp vụ. CB thì được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, còn
CC thì được tuyển dụng. CB làm việc có nhiệm kỳ còn CC thì không có
nhiệm kỳ mà họ làm việc theo chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ ba, Luật CBCC đã tách khái niệm “CC cấp xã” và “CB cấp xã”
thành các khái niệm khác nhau. Theo đó, CB cấp xã là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
12
chính trị - xã hội. Còn CC cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trong khi Pháp lệnh CBCC không
trực tiếp gọi đây là CBCC mà chỉ xếp cùng vào một nhóm để quy định biên
chế, lương… nên cơ chế quản lý và chế độ chính sách do Nhà nước ban hành
vẫn còn những hạn chế, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng.
1.1.1.2. Khái niệm xử lý kỷ luật công chức
Thuật ngữ “xử lý” được sử dụng khá phổ biến trong khoa học pháp lý
cũng như trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có một
văn bản pháp lý nào quy định về thuật ngữ này. Theo Từ điển Tiếng Việt phổ
thông thì “xử lý” là một động từ, nó có nhiều nghĩa ứng với từng sự vật, hiện
tượng cụ thể. Với nghĩa thứ nhất, “xử lý” là làm cho chịu những tác động vật
lí, hóa học nhất định để biến đổi hợp với mục đích. Ví dụ như: Xử lý hạt
giống bằng thuốc trừ sâu, Xử lý vết thương trước khi đưa tới bệnh viện…
Nghĩa thứ hai, “xử lý” là áp dụng vào cái gì đó những thao tác nhất
định để nghiên cứu, sử dụng. Ví dụ như: quá trình xử lý thông tin…
Nghĩa thứ ba, ứng với khoa học pháp lý thì “xử lý” là xem xét và giải
quyết về mặt tổ chức một vụ phạm lỗi nào đó. Ví dụ như: Xử lý nghiêm
minh những vụ vi phạm pháp luật…
Trong giới hạn bài viết này, từ “xử lý” sẽ được sử dụng với nghĩa thứ
ba, tức là, xem xét và giải quyết về mặt tổ chức một vụ vi phạm pháp luật.
Kỷ luật, dưới góc độ chung nhất, là tổng thể các quy định nhằm bảo vệ
trật tự, nề nếp hoạt động nội bộ của mọi cơ quan, tổ chức của Nhà nước và
của xã hội nói chung, cũng như sự tuân thủ nghiêm chỉnh của quy định đó.
Ở một định nghĩa khác kỷ luật là tổng thể nói chung những điều quy
định cần phải tuân theo để giữ gìn trật tự. Ví dụ như: kỷ luật nhà trường, kỷ
luật lao động, phạm kỷ luật…
13
Kỷ luật còn là các hình thức phạt đối với người vi phạm kỷ luật, tức là
các hình thức kỷ luật mà CC phải chịu, ví dụ như: hình thức kỷ luật cảnh cáo,
khiển trách, buộc thôi việc…
Kỷ luật có nhiều loại, ứng với mỗi chủ thể phải tuân thủ kỷ luật khác
nhau, chúng ta có thể phân chia theo khu vực áp dụng thành hai loại chính là
kỷ luật nhà nước (vi phạm các quy định pháp luật về kỷ luật, như kỷ luật CC
theo pháp luật về CB, CC; kỷ luật lao động theo pháp luật lao động…) và kỷ
luật xã hội (vi phạm các quy định về kỷ luật của các tổ chức xã hội).
Kỷ luật CC là một dạng của kỷ luật nhà nước. Kỷ luật nhà nước theo
nghĩa rộng là những yêu cầu của nhà nước đối với CC nhà nước mang tính
bắt buộc thực hiện và trật tự thực hiện những yêu cầu đó. Trong quản lý nhà
nước, kỷ luật được đề cập từ nhiều hướng. (1) Với ý nghĩa khách quan, kỷ
luật là toàn bộ các quy tắc hành vi trong hoạt động của CC do nhà nước ban
hành, chứa đựng các quy định về hành vi được thực hiện, cấm thực hiện và
về khuyến khích và xử phạt trong thực hiện hành vi. (2) Từ góc nhìn chủ
quan, kỷ luật là sự tuân thủ, sử dụng, thi hành, áp dụng đúng các quy tắc
hành vi đã ban hành. (3) Kỷ luật nhà nước liên hệ với kỷ luật của các tổ chức
mà CC nhà nước tham gia trên nguyên tắc trách nhiệm công vụ và ngoài
công vụ. Như vậy, nhà nước ban hành các quy tắc hành vi, còn CC phải hiểu
và chấp hành các quy tắc ấy. Kỷ luật là sự thống nhất giữa ban hành và thực
hiện. Có quy tắc thì mới có quy chuẩn để thực hiện. CC không tuân theo
những quy tắc, kỷ luật thì sẽ bị xem xét XLKL.
Vì pháp luật hiện hành không quy định về khái niệm XLKL nói chung
cũng như khái niệm XLKL CC nói riêng nên dựa vào phần lý luận nêu trên
về việc diễn giải các khái niệm ta có thể rút ra khái niệm cụ thể như sau:
XLKL CC là việc các chủ thể có thẩm quyền xem xét và giải quyết về
việc CC có hành vi vi phạm kỷ luật bằng cách buộc họ phải chịu những hình
14
thức kỷ luật do Nhà nước quy định. Đây là biện pháp pháp lý mang tính
cưỡng chế cao và là nội dung rất cơ bản trong việc thiết lập và duy trì kỷ luật
CC của các chủ thể có thẩm quyền khi thực hiện hoạt động quản lý của
mình. Việc XLKL CC đóng vai quan trọng trong việc duy trì trật tự, kỷ
cương, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý ở các đơn vị. Ngoài tác dụng
trừng phạt, việc XLKL CC còn có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa,
giáo dục những CC khác để họ thực hiện tốt kỷ luật CC.
Nói về kỷ luật, trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ tả khuynh, Lênin đã khẳng
định: "Những người Bônsêvích sẽ không giữ vững được chính quyền, tôi
không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không
được nữa, nếu Đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thực
sự" [62, t.41, tr.6].
Quan niệm của Hồ Chí Minh về kỷ luật: “Sức mạnh vô địch của Đảng
là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng
viên”. Bác luôn khẳng định: kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm
túc và tự giác”, ai ai cũng phải phục tùng kỷ luật và chịu các hình thức kỷ luật
nếu có khuyết điểm, sai lầm.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giữ gìn kỷ luật Đảng, xử lý CB đang tiếp tục được Đảng ta kế thừa và thực
hiện một cách nghiêm túc. Trải qua nhiều giai đoạn cách mạng, qua nhiều kỳ
Đại hội, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định quan điểm về kỷ luật đảng, đó là:
"Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên,
CC ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền để tham nhũng", đồng
thời nhấn mạnh: "Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử lý công
minh, chính xác, kịp thời" [30].
1.1.2. Nguyên tắc xử lý kỷ luật công chức
15
Bất kỳ hoạt động nào có tổ chức của con người đều phải được tiến
hành dựa trên những nguyên tắc nhất định, nó sẽ giúp hoạt động đó được tiến
hành tốt hơn, có hệ thống hơn. Hoạt động XLKL CC cũng vậy, cũng phải
tuân theo những nguyên tắc nhất định để tránh tùy tiện của những chủ thể có
thẩm quyền, nhằm bảo vệ lợi ích của CC, đồng thời để đảm bảo cho việc
XLKL CC được khách quan, đúng pháp luật và phát huy được tác dụng tích
cực của kỷ luật CC trong quản lý CC. Chính vì vậy, pháp luật về xử lý CC đã
quy định về các nguyên tắc XLKL CC. Nguyên tắc XLKL CC là những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình XLKL CC. Đòi hỏi những
chủ thể có thẩm quyền phải nắm rõ những nguyên tắc này, có như vậy mới
đảm bảo xử lý khách quan, công minh.
Nguyên tắc XLKL được quy định tại Điều 2, Nghị định 34 cụ thể như
sau:
Thứ nhất, việc XLKL phải khách quan, công bằng, nghiêm minh, đúng
pháp luật.
Đây là nguyên tắc quan trọng, góp phần bảo đảm việc tuân thủ pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật của CC. Nguyên tắc này đòi hỏi việc XLKL
CC phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, đặc
biệt là đảm bảo đúng thời hạn giải quyết, thủ tục gọn, tránh dây dưa kéo dài
gây tốn kém, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của CC.
Việc XLKL khách quan là quá trình XLKL phải được tiến hành dựa
trên cơ sở tôn trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ
cho mọi hoạt động, không được bóp méo, xuyên tạc sự thật. Đảm bảo nguyên
tắc khách quan mới giúp cho chủ thể có thẩm quyền xử lý đúng hành vi vi
phạm.
Tính công bằng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc bảo
đảm thiết chế dân chủ. Tính công bằng trước hết thể hiện ở chỗ quá trình
16
XLKL phải tránh các hiện tượng vì lợi ích của một cá nhân hoặc của một
nhóm người mà làm trái các quy định của pháp luật, như bao che hành vi vi
phạm, hay vì thù hằn cá nhân mà XLKL CC nặng hơn. Chính vì vậy, cùng
một hành vi vi phạm, cùng một điều kiện, hoàn cảnh phải được XLKL như
nhau, không bao che, thiên vị hay trù dập CC.
XLKL CC phải thật sự nghiêm minh, không “giơ cao đánh khẽ”, thực
hiện nguyên tắc này giúp đảm bảo quyền lực nhà nước, nhằm răn đe những
CC khác để họ không có hành vi vi phạm tương tự.
Việc XLKL phải đúng pháp luật, tức là mọi chủ thể phải tôn trọng và
tuân thủ các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về XLKL CC nói
riêng một cách tự giác, nghiêm minh, đầy đủ, triệt để, thống nhất…
Việc thực hiện nguyên tắc này không chỉ bảo vệ được quyền lợi của
CC vi phạm mà còn góp phần kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước một
cách hữu hiệu, ngăn chặn tình trạng tha hóa quyền lực nhà nước, xâm phạm
các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ hai, mỗi hành vi vi phạm pháp luật chỉ bị xử lý một hình thức kỷ
luật. Đây là một trong những nguyên tắc của việc áp dụng trách nhiệm pháp
lý nói chung (bao gồm cả trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm kỷ luật lao động). Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích của việc áp
dụng trách nhiệm kỷ luật CC chủ yếu là để giáo dục, thuyết phục chứ không
phải để trừng phạt CC và cũng nhằm mục đích bảo vệ CC.
Nếu CC có nhiều hành vi vi phạm pháp luật thì bị XLKL về từng hành
vi vi phạm và chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so với hình thức kỷ
luật áp dụng đối với hành vi vi phạm nặng nhất, trừ trường hợp có hành vi vi
phạm phải XLKL bằng hình thức buộc thôi việc.
Để tuân thủ nguyên tắc, các chủ thể có thẩm quyền XLKL phải có
những nhận định chính xác, xử lý một cách công bằng, nghiêm minh về
17
những hành vi vi phạm của CC. Trường hợp cần thiết, phải tiến hành điều tra
làm rõ vụ việc với từng hành vi, mức độ vi phạm cụ thể để đảm bảo rằng việc
XLKL phải tương xứng với hành vi, mức độ vi phạm đó.
Thứ ba, trường hợp CC tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật trong
thời gian đang thi hành quyết định kỷ luật thì bị áp dụng hình thức kỷ luật như
sau:
- Nếu có hành vi vi phạm pháp luật bị XLKL ở hình thức nhẹ hơn hoặc
bằng so với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng
hơn một mức so với hình thức kỷ luật đang thi hành.
Ví dụ: CC C đang thi hành hình thức kỷ luật cảnh cáo vì sử dụng giấy
tờ không hợp pháp để được dự thi nâng ngạch CC thì lại phải chịu hình thức
kỷ luật khiển trách vì thực hiện hành vi sử dụng tài sản công trái pháp luật.
Trong trường hợp này CC C phải chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức so
với hình thức kỷ luật cảnh cáo đang áp dụng là hình thức kỷ luật hạ bậc
lương.
- Nếu có hành vi vi phạm pháp luật bị XLKL ở hình thức nặng hơn so
với hình thức kỷ luật đang thi hành thì áp dụng hình thức kỷ luật nặng hơn
một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi vi phạm pháp luật
mới.
Ví dụ: CC D là CC giữ chức vụ lãnh đạo đang thi hành hình thức kỷ
luật cảnh cáo vì cấp giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện mà lại phải
chịu hình thức kỷ luật hạ bậc lương vì vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy
định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Trong trường hợp này CC D
phải chịu hình thức kỷ luật là giáng chức nặng hơn so với hình thức kỷ luật hạ
bậc lương áp dụng đối với hành vi vi phạm mới. Và quyết định kỷ luật đang
thi hành chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm quyết định kỷ luật đối với hành vi
vi phạm pháp luật mới có hiệu lực.
18
Thứ tư, thái độ tiếp thu, sửa chữa và chủ động khắc phục hậu quả của
CC có hành vi vi phạm pháp luật là yếu tố xem xét tăng nặng hoặc giảm nhẹ
khi áp dụng hình thức kỷ luật.
Điều này đóng vai trò quan trọng, bảo đảm công bằng, minh bạch trong
quá trình định hình thức kỷ luật. Việc XLKL CC nhằm mục đích giáo dục
CC, đồng thời góp phần phòng ngừa, đấu tranh và xử lý nghiêm minh những
hành vi vi phạm pháp luật của CC. Nếu như CC đã có những chuyển biến tích
cực về mặt nhận thức thì việc áp dụng hình thức kỷ luật quá nghiêm khắc
cũng không cần thiết nữa, lúc này CC sẽ được xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ
luật. Ngược lại, nếu như CC vẫn tỏ thái độ không tiếp thu, không hợp tác,
không sửa chữa khắc phục hậu quả thì việc áp dụng hình thức kỷ luật là cần
thiết.
Thứ năm, thời gian chưa xem xét XLKL đối với CC trong các trường
hợp quy định tại Điều 4 Nghị định 34 không tính vào thời hạn XLKL.
Tại Điều 4 Nghị định 34 quy định về các trường hợp chưa xem xét
XLKL CC, đó là: (1) đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ,
nghỉ việc riêng được người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cho phép, (2)
đang trong thời gian điều trị có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền, (3)
CC nữ đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi, (4) đang bị tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm
quyền điều tra, truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật.
Các trường hợp trên không tính vào thời hạn XLKL, vì đây là những
trường hợp chưa xem xét kỷ luật, thời hạn XLKL chỉ có 2 tháng, nếu chúng ta
tính các trường hợp này vào thời hạn XLKL thì trường hợp quá hạn XLKL sẽ
xảy ra.
Thứ sáu, không áp dụng hình thức xử phạt hành chính thay cho hình
thức kỷ luật.
19
Theo khoản 1, Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Tước
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt
động có thời hạn; d) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được
sử dụng để vi phạm hành chính; đ) Trục xuất.
Như vậy, không được áp dụng các hình thức xử phạt hành chính nói
trên để thay thế hình thức kỷ luật. Sở dĩ có nguyên tắc này là vì:
Chủ thể để áp dụng hình thức xử phạt hành chính khác với chủ thể áp
dụng hình thức kỷ luật. Hình thức xử phạt hành chính áp dụng cho những
người vi phạm pháp luật hành chính, tại khoản 1 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm
hành chính 2012 định nghĩa: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá
nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi
phạm hành chính”. Còn hình thức kỷ luật áp dụng cho CC vi phạm việc thực
hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp trong thi hành công vụ; những
việc CC không được làm quy định tại Luật CBCC, CC vi phạm pháp luật bị
Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật, CC vi phạm quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp
luật liên quan đến CC nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ý nghĩa của mỗi dạng trách nhiệm pháp lý là khác nhau nên không thể
thay thế cho nhau. Trách nhiệm hành chính được đặt ra khi các cá nhân, cơ
quan, tổ chức vi phạm hành chính, nhằm trừng trị, lên án đối với người vi
phạm cũng như thông qua đó giáo dục họ về mặt nhận thức để có định hướng
đúng đắn đối với giá trị xã hội được nhà nước ghi nhận và phòng ngừa vi
phạm pháp luật hành chính. Còn trách nhiệm kỷ luật đặt ra khi CC vi phạm kỷ
luật, là trách nhiệm luôn gắn với hành vi vi phạm kỷ luật, được áp dụng tại cơ
20
quan, đơn vị, tổ chức với mục đích nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, trật tự quản
lý, giáo dục CC vi phạm và phòng ngừa vi phạm.
Trách nhiệm kỷ luật có thể được áp dụng đồng thời với trách nhiệm
hành chính. Khi CC thực hiện một hành vi vi phạm kỷ luật mà hành vi này
đồng thời vi phạm pháp luật hành chính thì CC đó phải gánh chịu đồng thời
trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hành chính.
Thứ bảy, cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm
của CC trong quá trình XLKL.
Mục đích của các hình thức kỷ luật CC là nhằm giáo dục, răn đe CC vi
phạm kỷ luật, để họ nhận ra sai lầm và sửa chữa chứ không nhằm mục đích
trả thù hay trừng phạt.
Mặt khác, quyền bất khả xâm phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm của
con người là một trong những quyền quan trọng của con người được Hiến
pháp quy định, theo đó, tại khoản 1, Điều 20 Hiến pháp 2013 nước ta quy
định: mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo
hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Chính vì vậy, khi XLKL CC, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ
nguyên tắc này một cách triệt để, phải tôn trọng, không xúc phạm CC vi
phạm.
1.1.3. Ý nghĩa của việc xử lý kỷ luật công chức
Đối tượng của việc XLKL CC là CC có hành vi vi phạm kỷ luật, họ là
những người được đào tạo có hệ thống, có uy tín xã hội nhất định nhưng lại
có những hành vi hành xử không phù hợp dẫn đến phải chịu những hình thức
kỷ luật. Việc XLKL CC nhằm xử lý những hành vi vi phạm đó, nó có ý
nghĩa về nhiều mặt:
21
- Đối với các chủ thể có thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức:
Có thể nói, việc XLKL CC là "thước đo”, là cơ sở để tiến hành XLKL
đúng người, đúng hành vi vi phạm. Nếu việc XLKL CC không được pháp
luật quy định rõ ràng có thể dẫn tới trường hợp áp dụng tùy tiện, ảnh hưởng
đến quyền lợi của CC. Chính vì vậy, khi pháp luật quy định rõ các bước
trong việc XLKL giúp cho các chủ thể có thẩm quyền có cơ sở pháp lý làm
nền tảng để xem xét hành vi vi phạm của CC một cách chính xác.
Mặt khác, việc XLKL còn tạo điều kiện cho người có thẩm quyền xem
xét kỹ lưỡng hành vi vi phạm kỷ luật của CC trước khi ra quyết định cuối
cùng vì đã được sự giúp đỡ, tư vấn từ Hội đồng kỷ luật với nhiều thành viên,
nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Chính vì vậy, việc XLKL CC được pháp
luật quy định giúp cho các chủ thể có thẩm quyền dễ dàng hơn trong xử lý.
- Đối với công chức: Việc XLKL CC nhằm hướng đến những mục
đích sau:
Giúp CC vi phạm nhìn nhận lại hành vi của mình từ đó giúp CC nhận
thức được sai lầm, tìm ra hướng đúng đắn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao mà không vi phạm kỷ luật. Bên cạnh đó, việc XLKL còn giúp cho CC
nói lên tiếng nói bảo vệ mình cũng như có cơ hội để trình bày những nguyên
nhân, lý do vi phạm kỷ luật thông qua các bước kiểm điểm và họp tại Hội
đồng kỷ luật.
Thông qua việc XLKL được pháp luật quy định còn giúp cho việc bảo
vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của CC một cách tốt hơn, khi mà pháp luật
quy định vấn đề này chặt chẽ sẽ không còn cơ hội cho các chủ thể có thẩm
quyền sách nhiễu, bao che hay trù dập CC.
- Đối với Nhà nước:
Việc XLKL mang tính khách quan và khoa học sẽ giúp nhà nước xử lý
kịp thời sai phạm của CC, tránh những tổn thất do hành vi vi phạm pháp luật
22
gây ra. Thông qua đó, khôi phục nhanh chóng trật tự quản lý nội bộ của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị và tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan này.
1.1.4. Các điều kiện bảo đảm thực hiện xử lý kỷ luật công chức trong
cơ quan hành chính nhà nước
Để việc XLKL CC đạt được ý nghĩa, mục đích, hiệu quả theo yêu cầu,
nhất là trong việc giáo dục, phòng ngừa CC vi phạm pháp luật thì cần có các
yếu tố bảo đảm sau:
Thứ nhất, cần có sự quan tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị,
CBCC viên chức và toàn dân, nhất là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với công tác XLKL CC, quyết tâm của các cơ quan nhà nước cả về hoàn
thiện hệ thống pháp luật và kịp thời XLKL đới với CC có vi phạm một cách
nghiêm túc, đúng người, đúng hành vi lỗi phạm.
Thứ hai, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, cả về trách nhiệm kỷ
luật và quy định về XLKL CC để làm cơ sở cho CC thực hiện đúng trách
nhiệm của mình, đồng thời cấp có thẩm quyền có cơ sở trong việc xem xét
trách nhiệm kỷ luật và tiến hành XLKL CC vi phạm pháp luật một cách công
khai, minh bạch, không oan, sai.
Thứ ba, cần thường xuyên và có biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm của CC trong thực thi công vụ, chấp hành nghiêm túc quy
định của pháp luật về XLKL CC, giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật
trong thực thi công vụ. Mặc khác, CBCC và cơ quan có thẩm quyền XLKL
CC cần phát huy tốt trách nhiệm, công tâm trong việc XLKL CC vi phạm,
tránh tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm hoặc lợi dụng việc XLKL để
trù dập CC.
Thứ tư, cần thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
rộng rãi trong xã hội, trong đó có pháp luật về trách nhiệm kỷ luật và XLKL
CC nhằm nâng cao nhận thức và tăng cương vai trò giám sát của nhân dân và
23
toàn xã hội đối với CC trong thực thi công vụ và công tác XLKL CC của các
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về xử lý kỷ luật công chức trong cơ quan
hành chính nhà nƣớc
Pháp luật về XLKL CC là một bộ phận trong pháp luật về CC, do vậy,
việc nghiên cứu cơ sở pháp lý về XLKL CC phải gắn liền với pháp luật về
CC. Kế thừa và phát triển Pháp lệnh CBCC, cũng như việc ghi nhận một số
nội dung liên quan đến CBCC ở các nghị định hướng dẫn thi hành, tại kỳ họp
thứ 4 ngày 13/11/2008, Quốc hội khóa XII đã thống nhất ban hành Luật
CBCC, những nội dung liên quan đến XLKL CC được quy định tại Điều 7,
Điều 79 đến Điều 83. Hướng dẫn thi hành những quy định về XLKL đối với
CC theo quy định của Luật CBCC, Chính phủ ban hành Nghị định số
34/201/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định về XLKL đối với CC, đang có hiệu
lực thi hành.
Việc điều chỉnh XLKL đối với CC cấp xã thực hiện theo Nghị định
112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 về công chức xã, phường, thị trấn. Tuy
nhiên hầu hết nội dung phần XLKL CC cấp xã đều giống và dẫn chiếu áp
dụng theo Nghị định 34; do đó trong khuôn khổ đề tài, tác giả chủ yếu tập
trung phân tích phần điều chỉnh pháp luật theo Nghị định 34. Ngoài ra, trong
một số văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác cũng có quy định
về trách nhiệm kỷ luật và XLKL CC vi phạm, như Nghị định 107; Nghị định
157 và một số quy định chuyên ngành khác cũng đang có hiệu lực thi hành.
Để hiểu rõ hơn quy định pháp luật về XLKL CC, cần đi sâu phân tích một số
nội dung sau:
1.2.1. Nội dung và hình thức xử lý kỷ luật công chức
1.2.1.1. Về nội dung xử lý kỷ luật công chức
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 34 thì các hành vi CC bị XLKL
24
bao gồm: “Vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của
CC trong thi hành công vụ, những việc CC không được làm quy định trong
Luật CBCC. Vi phạm pháp luật bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp
luật. Vi phạm quy định về PCTN; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, bình
đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật
liên quan đến CC nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Để làm
rõ hơn mỗi loại hành vi vi phạm nêu trên, tác giả đi sâu tìm hiểu và phân tích
một số vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật như sau:
Thứ nhất, về nghĩa vụ của CC trong thi hành công vụ được quy định cụ
thể tại Điều 9 Luật CBCC, đó là: “Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Có ý thức tổ chức kỷ
luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước. Chủ động và phối hợp chặt
chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là
trái pháp luật thì phải báo cáo kịp thời bằng văn bản với người ra quyết định;
trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn
bản và người thi hành phải thi hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả
của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết
định...”. Khi thi hành công vụ, nếu CC vi phạm một trong những nghĩa vụ kể
trên, tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị XLKL.
Thứ hai, về đạo đức và văn hóa giao tiếp của CC được quy định tại
Luật CBCC, theo đó: “CBCC cần phải thực cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư trong hoạt động công vụ. Trong giao tiếp ở công sở, CBCC phải có thái
độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp cần phải chuẩn mực, rõ
25
ràng, mạch lạc. CBCC phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng,
khách quan, vô tư khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội
bộ. Khi thi hành công vụ, CBCC phải mang phù hiệu hoặc thẻ CC; có tác
phong lịch sự, giữ gìn uy tín cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp.
CBCC cần phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm
túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. CBCC
không được hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho nhân dân khi thi hành
công vụ”. Trong khi thi hành công vụ, nếu CC vi phạm việc thực hiện chuẩn
mực đạo đức và văn hóa giao tiếp kể trên thì có thể bị xem xét XLKL.
Thứ ba, về những việc CC không được làm, bao gồm: “Trốn tránh trách
nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc
hoặc tham gia đình công. Sử dụng tài sản của Nhà nước và Nhân dân trái
pháp luật. Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên
quan đến công vụ để vụ lợi. Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã
hội, tín ngưỡng tôn giáo dưới mọi hình thức. Không được tiết lộ thông tin liên
quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức. CC làm việc ở ngành, nghề có
liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi
có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc liên quan đến
ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong
nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài. Không
được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự
quy định tại Luật PCTN, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những
quy định khác theo quy định của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền”[46].
Thứ tư, vi phạm pháp luật bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực
pháp luật là việc CC vi phạm pháp luật đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự
và bị Tòa án tuyên án phạm vào một tội cụ thể theo quy định của BLHS, đồng
thời bản án có hiệu lực pháp luật.
26
Thứ năm, vi phạm pháp luật về PCTN; thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí; bình đẳng giới; phòng chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của
pháp luật liên quan đến CC nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự. Ví dụ: CC có một trong các hành vi như tham ô tài sản; lập, thẩm định,
phê duyệt phân bố và giao dự toán không đúng thẩm quyền, trình tự, nội dung
và thời gian, không đúng đối tượng, vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ [50];
vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính [45]; cưỡng bức
bán dâm... nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tùy theo
mức độ vi phạm mà CC đó có thể bị kỷ luật bằng một trong các hình thức kỷ
luật CC theo quy định.
1.2.1.2. Hình thức kỷ luật công chức
Hình thức kỷ luật CC được quy định tại khoản 1, Điều 79 Luật CBCC,
theo đó, CC vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong
những hình thức kỷ luật sau đây: Khiển trách; Cảnh cáo; Hạ bậc lương; Giáng
chức; Cách chức; Buộc thôi việc.
Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với CC giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý. Điều này là hợp lý, vì chỉ khi “có chức” thì mới có thể giáng
chức, cách chức còn “không có chức” thì không thể cách chức, giáng chức
được.
Nhằm hướng dẫn Luật CBCC, Nghị định 34 đã có quy định cụ thể hơn
về các hình thức XLKL đối với CC.
Luật CBCC và Nghị định 34 quy định về hình thức XLKL đối với CC
có một số điểm mới so với Nghị định 35. Theo Pháp lệnh CBCC và Nghị định
35 thì quy định 6 hình thức kỷ luật chung cho cả CB và CC, đó là: khiển
trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc. Còn theo
quy định của Luật CBCC và Nghị định 34 thì quy định riêng cụ thể:
27
Đối với CB, có 04 hình thức kỷ luật là: khiển trách, cảnh cáo, cách
chức và bãi nhiệm. Việc cách chức chỉ áp dụng đối với CB được phê chuẩn
giữ chức vụ theo nhiệm kỳ.
Đối với CC, có 04 hình thức kỷ luật đối với CC không giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý gồm: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, buộc thôi việc;
đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có 06 hình thức kỷ luật gồm: khiển
trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc.
Như vậy, Luật CBCC và Nghị định 34 đã quy định rõ các hình thức kỷ
luật phù hợp đối với CC không giữ và có giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Đồng
thời còn bổ sung thêm hình thức kỷ luật giáng chức, đây là hình thức kỷ luật
được bổ sung đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị xuống chức ở mức
thấp hơn khi chưa đến mức bị cách chức nhằm tạo điều kiện cho công chức
giữ chức vụ khi vi phạm kỷ luật tiếp tục phấn đấu, khắc phục sai phạm. Luật
CBCC còn bỏ đi hình thức kỷ luật hạ ngạch vì ngạch chỉ là sự phân loại thuần
túy mang tính chất chuyên môn, tuy nhiên, bỏ đi hình thức kỷ luật này vẫn
còn cần phải cân nhắc, vì có những trường hợp áp dụng hình thức kỷ luật hạ
ngạch hợp lý hơn.
- Hình thức kỷ luật khiển trách
Khiển trách là hình thức kỷ luật được sử dụng phổ biến và cũng là hình
thức kỷ luật ít nghiêm khắc nhất. Hình thức kỷ luật này chủ yếu mang tính
nhắc nhở và không có ảnh hưởng trực tiếp về mặt vật chất của CC.
Về mặt lý luận cũng như pháp lý có nhiều khái niệm khác nhau về hình
thức kỷ luật này. “Khiển trách” là phê phán và chê trách khuyết điểm (một
hình thức kỷ luật nhẹ hơn cảnh cáo). Luật CBCC và Nghị định 34 đã quy định
cụ thể các hành vi vi phạm nào là bị XLKL khiển trách. Hình thức kỷ luật
khiển trách áp dụng đối với CC có một trong các hành vi vi phạm pháp luật
sau đây:
28
Có thái độ hách dịch, cửa quyền hoặc gây khó khăn, phiền hà đối với
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong thi hành công vụ; không thực hiện
nhiệm vụ được giao mà không có lý do chính đáng; gây mất đoàn kết trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị; tự ý nghỉ việc, tổng số từ 03 đến dưới 05 ngày làm việc
trong một tháng; sử dụng tài sản công trái pháp luật; xác nhận giấy tờ pháp lý
cho người không đủ điều kiện;
Vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực
hiện tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; bình đẳng giới; phòng, chống
tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công tác.
Việc quy định các hành vi vi phạm cụ thể đã giúp cho CC nhận biết
được hành vi nào là vi phạm để có thể tránh tình trạng vi phạm cũng như giúp
các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý vi phạm biết được và phát hiện
hành vi vi phạm để xử lý kịp thời, đúng pháp luật.
- Hình thức kỷ luật cảnh cáo
Hình thức kỷ luật cảnh cáo là hình thức kỷ luật nặng hơn khiển trách, là
một trong những hình thức được áp dụng đối với CC vi phạm kỷ luật. “Cảnh
cáo” là báo cho biết phải từ bỏ thái độ hoặc việc làm sai trái, nếu không sẽ bị
xử trí, trừng phạt. Nghị định 34 đã quy định cụ thể các trường hợp vi phạm
pháp luật và phải chịu hình thức kỷ luật cảnh cáo cụ thể như sau:
Cấp giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện; sử dụng thông tin,
tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị để vụ lợi; không chấp hành quyết định
điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền; sử
dụng giấy tờ không hợp pháp để được tham gia đào tạo, bồi dưỡng; được dự
thi nâng ngạch CC; tự ý nghỉ việc, tổng số từ 05 đến dưới 07 ngày làm việc
trong một tháng; sử dụng trái phép chất ma túy bị cơ quan công an thông báo
về cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi CC đang công tác; bị phạt tù cho hưởng án
treo hoặc cải tạo không giam giữ đối với CC không giữ chức vụ lãnh đạo,
29
quản lý;
Vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động;
bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp
luật liên quan đến CC nhưng đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem
xét XLKL.
- Hình thức kỷ luật hạ bậc lương
Hình thức kỷ luật hạ bậc lương đã chính thức tác động trực tiếp đến
kinh tế của CC vi phạm, nó có tính chất nặng hơn hình thức kỷ luật cảnh cáo.
Tại Điều 11, Nghị định 34 quy định hình thức kỷ luật hạ bậc lương áp dụng
đối với CC có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
Không thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao mà không có lý do
chính đáng, gây ảnh hưởng đến công việc chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
lợi dụng vị trí công tác, cố ý làm trái pháp luật với mục đích vụ lợi;
Vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động;
bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp
luật liên quan đến CC.
Các hành vi trên nếu kỷ luật cảnh cáo thì không tương xứng với mức độ
vi phạm nhưng nếu buộc thôi việc thì quá khắt khe, việc quy định hình thức
kỷ luật hạ bậc lương là phù hợp nhất, nó tác động trực tiếp đến kinh tế của
CC.
- Hình thức kỷ luật giáng chức
“Giáng chức” là hình thức kỷ luật chỉ áp dụng đối với CC giữ chức vụ
quản lý, lãnh đạo và bị hạ chức xuống thấp hơn chức đang đương nhiệm. Đây
là hình thức kỷ luật mới được Luật CBCC quy định, trước đây Pháp lệnh
CBCC không có quy định hình thức kỷ luật này. Hình thức kỷ luật giáng chức
30
áp dụng đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có một trong các hành vi vi
phạm pháp luật cụ thể sau đây:
Không hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân công mà
không có lý do chính đáng, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng;
Vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng giới;
phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan
đến CC nhưng đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem xét XLKL;
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong phạm vi phụ trách mà không có biện pháp ngăn
chặn.
Theo khoản 3, Điều 23 Nghị định 34 thì trường hợp CC giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý mà không còn chức vụ lãnh đạo thấp hơn chức vụ đang giữ
nếu có hành vi vi phạm pháp luật bị xem xét ở hình thức kỷ luật giáng chức
thì giáng xuống không còn chức vụ.
- Hình thức kỷ luật cách chức
“Cách chức” là không cho giữ chức vụ đang làm nữa. Tại Điều 13 Nghị
định 34 quy định hình thức kỷ luật cách chức áp dụng đối với CC giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được bổ nhiệm chức vụ; không
hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân công mà không có lý do
chính đáng, để xảy ra hậu quả rất nghiêm trọng; bị phạt tù cho hưởng án treo
hoặc cải tạo không giam giữ;
Vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng giới;
phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan
đến CC.
31
Việc áp dụng hình thức kỷ luật cách chức đối với CC giữ các chức danh
tư pháp được thực hiện theo quy định của Nghị định này và quy định của
pháp luật chuyên ngành.
- Hình thức kỷ luật buộc thôi việc
Đây là hình thức kỷ luật nặng nhất, lúc này CC không còn được tiếp tục
làm việc trong các cơ quan nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập nữa. Do
đó, pháp luật quy định rất chặt chẽ về hình thức kỷ luật này.
Tại khoản 3 Điều 79 Luật CBCC quy định về trường hợp đặc biệt là khi
CC bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị
buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Tại Điều 14, Nghị định 34 quy định cụ thể các trường hợp áp dụng hình
thức kỷ luật buộc thôi việc đối với CC có một trong các hành vi vi phạm pháp
luật sau đây:
Bị phạt tù mà không được hưởng án treo; sử dụng giấy tờ không hợp
pháp để được tuyển dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị; nghiện ma túy có xác
nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền; tự ý nghỉ việc, tổng số từ 07 ngày làm
việc trở lên trong một tháng hoặc từ 20 ngày làm việc trở lên trong một năm
mà đã được cơ quan sử dụng CC thông báo bằng văn bản 03 lần liên tiếp;
Vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao
động; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên
quan đến CC.
Các hành vi vi phạm trên đây là đặc biệt nghiêm trọng, CC không còn
xứng đáng để được giữ nhiệm vụ trong các đơn vị nữa.
1.2.2. Thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức
32
Thẩm quyền là phương tiện để các chủ thể thực hiện một công việc nào
đó trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Do đó, việc xác định thẩm
quyền có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội, giúp các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình từ
đó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tập thể.
Thẩm quyền XLKL CC là phạm vi quyền hạn của các chủ thể có thẩm
quyền trong việc xem xét, giải quyết các hành vi vi phạm kỷ luật của CC. Chỉ
những chủ thể được Nhà nước thông qua pháp luật trao quyền thay mặt cho
Nhà nước XLKL CC thì mới có quyền tiến hành XLKL CC. Điều này làm
cho việc xử lý được thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo về thẩm quyền.
Để làm được điều đó các chủ thể có thẩm quyền phải nắm rõ các quy định của
pháp luật để thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Thẩm quyền XLKL CC được quy định tại Điều 15 Nghị định 34, cụ
thể:
Thứ nhất, đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành XLKL và quyết định
hình thức kỷ luật.
CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý không thể tự mình kỷ luật mình được
mà phải có chủ thể khác tiến hành XLKL, đó là người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm để đảm bảo tính khách quan, công
bằng.
Thứ hai, đối với CC không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng
đầu cơ quan quản lý hoặc người đứng đầu cơ quan được phân cấp quản lý CC
tiến hành XLKL và quyết định hình thức kỷ luật.
Điều này phù hợp với nghĩa vụ được quy định đối với CB, CC là người
đứng đầu. Nghĩa vụ này được quy định cụ thể tại khoản 4, Điều 10 Luật
CBCC như sau: CBCC là người đứng đầu có nghĩa vụ xử lý kịp thời, nghiêm
33
minh CB, CC thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có
thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân.
Thứ ba, đối với CC biệt phái, người đứng đầu cơ quan nơi CC được cử
đến biệt phái tiến hành XLKL, quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ,
quyết định kỷ luật về cơ quan quản lý CC biệt phái.
Đối với CC được cử biệt phái có điểm đặc thù hơn so với CC thông
thường khác, họ phải chịu sự quản lý của hai cơ quan, một là cơ quan nơi họ
được biệt phái đến, một là cơ quan cử biệt phái. Chính vì vậy, việc XLKL CC
biệt phái cũng có nét đặc thù, cơ quan nơi CC được biệt phái đến XLKL
nhưng phải gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan quản lý CC biệt phái để
cơ quan này theo dõi, vì CC biệt phái vẫn thuộc biên chế của cơ quan này.
Thứ tư, đối với CC đã chuyển công tác mới phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật mà còn trong thời hiệu quy định, thì người đứng đầu cơ quan
quản lý CC trước đây tiến hành XLKL, quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ
sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan đang quản lý CC. Nếu cơ quan, tổ chức, đơn
vị trước đây đã giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách thì những người có
trách nhiệm liên quan phải bàn giao hồ sơ để cơ quan đang quản lý CC thực
hiện việc XLKL.
Quy định này là hợp lý, không những tránh tình trạng hành vi vi phạm
kỷ luật của CC trước khi chuyển công tác không được xử lý mà còn đảm bảo
cho việc không chồng chéo thẩm quyền xử lý của các cơ quan liên quan, tạo
sự nhịp nhàng trong giải quyết kỷ luật.
1.2.3. Quy trình xử lý kỷ luật công chức
Quy trình XLKL CC được phân thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn
đều mang một ý nghĩa khác nhau. Việc phân thành các giai đoạn trên thực tế
còn có nhiều quan điểm. Tác giả phân tích theo quan điểm là quy trình XLKL
CC trải qua 5 giai đoạn: Giai đoạn đầu tiên là phát hiện vi phạm và khởi
34
xướng việc xử lý, giai đoạn thứ 2 là chuẩn bị xử lý, giai đoạn thứ 3 là xem xét
ở Hội đồng kỷ luật, giai đoạn thứ 4 là ra quyết định kỷ luật, giai đoạn cuối
cùng là khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện.
Quy trình XLKL CC được quy định tại Luật CBCC và Nghị định 34.
1.2.3.1. Giai đoạn phát hiện vi phạm và khởi xướng việc xử lý
Đây là giai đoạn mở đầu cho trình tự XLKL CC, cơ sở pháp lý của giai
đoạn này giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xác định được các bước cần
tiến hành khi phát hiện ra hành vi vi phạm kỷ luật của CC. Thông qua đó,
xem xét hành vi này còn thời hiệu XLKL hay không? Hoặc trường hợp này có
rơi vào các trường hợp chưa xem xét XLKL hay không? Mặt khác, có cần
thiết phải tạm đình chỉ công tác của CC vi phạm hay không? Đây là tất cả các
vấn đề mà cơ quan có thẩm quyền cần xem xét trong giai đoạn này. Cơ sở
pháp lý của giai đoạn này được quy định cụ thể như sau:
- Về thời hiệu xử lý kỷ luật công chức
Việc quy định về thời hiệu XLKL là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi
của CC bị kỷ luật cũng như tăng cường trách nhiệm của người có thẩm quyền
trong việc phát hiện và xử lý vi phạm. Nếu như pháp luật không có quy định
về thời hiệu thì có thể dẫn đến trường hợp XLKL về một hành vi phát sinh từ
nhiều năm trước, hiệu quả của nó và các vấn đề có liên quan đã có nhiều biến
đổi dẫn đến việc giải quyết sẽ gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, hoạt động
XLKL đòi hỏi phải nhanh nhạy, kịp thời, vì ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau
hành vi này có thể xem là vi phạm và bị XLKL nhưng giai đoạn khác lại
không xem đó là hành vi vi phạm và không cần phải xử lý. Do vậy, việc
XLKL chỉ có thể được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Thời
hiệu XLKL CC là khoảng thời gian pháp luật cho phép XLKL CC.
Khoản 1, Điều 80 Luật CBCC quy định thời hiệu XLKL là thời hạn do
Luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì CB, CC có hành vi vi phạm
35
không bị xem xét XLKL. Thời hiệu XLKL là 24 tháng, kể từ thời điểm có
hành vi vi phạm.
Như vậy, Luật CBCC đã quy định về thời hiệu hợp lý hơn, đó là
khoảng thời gian mà người có thẩm quyền có quyền XLKL CC, còn hết
khoảng thời gian này thì CC không bị XLKL nữa.
Quy định này buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải có
nghĩa vụ thông báo bằng văn bản về việc xem xét XLKL CC do mình quản lý,
sử dụng có hành vi vi phạm. Do đó, khi phát hiện hành vi vi phạm của CC,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm, quản lý,
phân cấp quản lý CC hoặc người đứng đầu cơ quan nơi CC cử đến biệt phái
phải ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét XLKL. Thông báo phải nêu
rõ thời điểm CC có hành vi vi phạm pháp luật, thời điểm phát hiện CC có
hành vi vi phạm pháp luật và thời hạn XLKL.
- Về các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật công chức
Điều 4 Nghị định 34 quy định các trường hợp nếu phát hiện CC có
hành vi vi phạm trong khoảng thời gian này thì chưa xem xét XLKL:
CC đang trong thời gian nghỉ hàng năm, nghỉ theo chế độ, nghỉ việc
riêng được người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cho phép; đang trong
thời gian điều trị có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền; CC nữ đang
trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
đang bị tạm giữ, tạm giam chờ kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra,
truy tố, xét xử về hành vi vi phạm pháp luật.
Đây là quy định mang tính nhân văn của pháp luật, vừa hợp tình và hợp
lý, bởi lẽ, việc XLKL sẽ không khả quan khi CC đang có khoảng thời gian
nghỉ được pháp luật cho phép, mặt khác, khi CC đang ốm đau, CC nữ đang
mang thai mà lại XLKL họ trong lúc này không những không đem lại hiệu
quả mà còn gây áp lực cho họ dẫn đến những trường hợp xấu có thể xảy ra.
36
Bên cạnh đó, trong những trường hợp này CC có hành vi vi phạm kỷ luật
đang có khoảng thời gian không ở cơ quan, đơn vị nên việc triệu tập CC để
viết bản kiểm điểm gặp khó khăn. Chính vì vậy, pháp luật quy định các
trường hợp chưa xem xét XLKL CC trong các trường hợp trên là hoàn toàn
phù hợp.
Thời gian chưa xem xét XLKL đối với CC trong các trường hợp này
cũng không tính vào thời hạn XLKL.
- Về các trường hợp công chức được miễn trách nhiệm kỷ luật
Theo Điều 5 Nghị định 34, CC được miễn trách nhiệm kỷ luật nếu
thuộc một trong các trường hợp sau:
CC được cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng mất năng lực
hành vi dân sự khi vi phạm pháp luật. Khi CC phải chấp hành quyết định của
cấp trên theo khoản 5 Điều 9 Luật CBCC. CC được cấp có thẩm quyền xác
nhận vi phạm pháp luật trong tình thế bất khả kháng khi thi hành công vụ.
- Về việc tạm đình chỉ công tác của công chức vi phạm kỷ luật
Đây là nội dung mang tính pháp lý cần chú ý trong giai đoạn phát hiện
vi phạm và khởi xướng việc XLKL.
Điều 81 Luật CBCC quy định cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý CC có
thể ra quyết định tạm đình chỉ công tác trong thời gian xem xét, XLKL CC,
nếu để CC đó tiếp tục làm việc có thể gây khó khăn cho việc xem xét, xử lý.
Thời hạn tạm đình chỉ công tác không quá 15 ngày, trường hợp cần thiết có
thể kéo dài thêm nhưng tối đa không quá 15 ngày; nếu CC bị tạm giữ, tạm
giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử thì thời gian tạm giữ, tạm
giam được tính là thời gian nghỉ việc có lý do; hết thời hạn tạm đình chỉ công
tác nếu CC không bị XLKL thì được tiếp tục bố trí làm việc ở vị trí cũ.
Trong thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam để
phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, CC được hưởng lương theo quy
37
định của Chính phủ. Nghị định 34 có Điều 24 quy định cụ thể về chế độ,
chính sách đối với CC đang trong thời gian tạm giữ, tạm giam và tạm đình chỉ
công tác.
1.2.3.2. Giai đoạn chuẩn bị xử lý kỷ luật công chức
Giai đoạn này nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiến hành
XLKL CC tốt hơn, tránh tình trạng xử lý qua loa, không đúng hành vi vi
phạm. Trên thực tế, việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật hiện hành về
chuẩn bị XLKL CC đã góp phần thiết thực vào việc nâng cao hiệu quả XLKL,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CC.
Ngoài việc xem xét thời hạn XLKL CC giai đoạn này công việc quan
trọng của chủ thể có thẩm quyền còn có việc tổ chức họp kiểm điểm cho CC
có vi phạm pháp luật để CC nhận ra hành vi vi phạm pháp luật của mình và tự
nhận hình thức kỷ luật mà mình cho là hợp lý. Đây là quy định cần thiết, là
yếu tố mà sau này Hội đồng kỷ luật có thể sử dụng để xem xét hình thức kỷ
luật hợp lý. Mặt khác, nhiệm vụ quan trọng nữa của giai đoạn này là việc
thành lập Hội đồng kỷ luật. Nội dung cụ thể mà pháp luật quy định về giai
đoạn này như sau:
- Thời hạn xem xét kỷ luật công chức
Quy định về thời hạn XLKL CC là rất cần thiết, nó ràng buộc trách
nhiệm xử lý của các chủ thể có thẩm quyền phải xử lý hành vi vi phạm trong
một khoảng thời gian nhất định. Tăng cường trách nhiệm của các chủ thể có
thẩm quyền trong quá trình XLKL CC.
Đây là khái niệm mới được quy định ở Luật CBCC, theo đó, tại khoản
2, Điều 80 Luật này quy định thời hạn XLKL đối với CB, CC là khoảng thời
gian từ khi phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật của CB, CC đến khi có quyết
định XLKL của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Thời hạn XLKL không quá
02 tháng; trường hợp vụ việc có những tình tiết phức tạp cần có thời gian
38
thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn XLKL có thể kéo dài
nhưng tối đa không quá 04 tháng. Trường hợp cá nhân đã bị khởi tố, truy tố
hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự, nhưng sau
đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm có
dấu hiệu vi phạm kỷ luật thì bị XLKL; trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra
quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người ra quyết định phải gửi
quyết định và hồ sơ vụ việc cho cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền
XLKL.
- Tổ chức họp kiểm điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật
Đây là công việc không thể bỏ qua khi xem xét XLKL CC, việc này
giúp xem xét thái độ cũng như mức độ nhận thức sai lầm của CC. Mặt khác,
đây cũng là cơ hội để CC có thể nói lên suy nghĩ về hành vi của mình. Dựa
vào các yếu tố đó, chủ thể có thẩm quyền có thể xem xét XLKL CC đúng đắn,
hợp tình, hợp lý. Pháp luật về XLKL CC quy định vấn đề này cụ thể như sau:
Thứ nhất, người đứng đầu cơ quan sử dụng CC chịu trách nhiệm tổ
chức cuộc họp để CC có hành vi vi phạm pháp luật tự kiểm điểm và nhận
hình thức kỷ luật. Việc tổ chức cuộc họp kiểm điểm được tiến hành đối với
các trường hợp có thành lập Hội đồng kỷ luật và không thành lập Hội đồng kỷ
luật quy định tại Điều 17 Nghị định 34.
Việc tổ chức cuộc họp kiểm điểm được tiến hành như sau:
Trường hợp cơ quan sử dụng CC có đơn vị công tác cấu thành thì tổ
chức cuộc họp kiểm điểm với thành phần dự họp là toàn thể CC của đơn vị
công tác cấu thành. Biên bản cuộc họp kiểm điểm ở đơn vị công tác cấu thành
được gửi đến người đứng đầu cơ quan sử dụng CC. Cuộc họp kiểm điểm của
cơ quan sử dụng CC có hành vi vi phạm pháp luật được tổ chức với thành
phần dự họp là đại diện lãnh đạo chính quyền, cấp ủy và công đoàn của cơ
quan sử dụng CC;
39
Trường hợp cơ quan sử dụng CC không có đơn vị công tác cấu thành
thì tổ chức cuộc họp kiểm điểm với thành phần dự họp là toàn thể CC của cơ
quan sử dụng CC.
Thứ hai, đối với người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu có
hành vi vi phạm pháp luật thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của
cơ quan sử dụng CC có trách nhiệm tổ chức họp kiểm điểm và quyết định
thành phần dự họp.
Thứ ba, CC có hành vi vi phạm pháp luật phải làm bản tự kiểm điểm,
trong đó có tự nhận hình thức kỷ luật. Trường hợp CC có hành vi vi phạm
pháp luật không làm bản kiểm điểm hoặc vắng mặt sau 02 lần gửi giấy triệu
tập mà không có lý do chính đáng, đến lần thứ 03 sau khi đã gửi giấy triệu
tập, nếu CC vẫn vắng mặt thì cuộc họp kiểm điểm vẫn được tiến hành.
Thứ tư, nội dung các cuộc họp kiểm điểm CC có hành vi vi phạm phải
được lập thành biên bản. Biên bản các cuộc họp kiểm điểm phải có kiến nghị
áp dụng hình thức kỷ luật đối với CC có hành vi vi phạm pháp luật. Trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc cuộc họp kiểm điểm, biên bản
cuộc họp kiểm điểm của cơ quan sử dụng CC được gửi đến Chủ tịch Hội
đồng kỷ luật trong trường hợp thành lập Hội đồng kỷ luật hoặc người có thẩm
quyền XLKL trong trường hợp không thành lập Hội đồng kỷ luật để xem xét
theo thẩm quyền quy định tại Nghị định 34.
- Thành lập Hội đồng kỷ luật
Việc thành lập Hội đồng kỷ luật phải tuân theo quy định tại Nghị định
34 về XLKL CC.
Thứ nhất, về thẩm quyền thành lập hội đồng kỷ luật: Những người có
thẩm quyền XLKL quy định tại Điều 15 Nghị định 34 quyết định thành lập
Hội đồng kỷ luật để tư vấn về việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với CC có
40
hành vi vi phạm pháp luật, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 17
Nghị định 34 quy định các trường hợp không thành lập Hội đồng kỷ luật.
Thứ hai, các trường hợp sau đây không thành lập Hội đồng kỷ luật:
CC có hành vi vi phạm pháp luật bị phạt tù mà không được hưởng án
treo.
Trong trường hợp này, CC có hành vi vi phạm pháp luật và hành vi này
đã được xem xét bởi Tòa án, là cơ quan có thẩm quyền xét xử duy nhất ở
nước ta. Những quyết định của Tòa án được đưa ra bởi những thủ tục tố tụng
chặt chẽ, tuân theo pháp luật tố tụng. Tòa án cũng làm việc theo chế độ tập
thể như Hội đồng kỷ luật. Do vậy, việc xem xét hành vi vi phạm pháp luật của
CC ở Tòa án đã đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội
nên nếu cũng là hành vi đó mà xem xét ở Hội đồng kỷ luật nữa là không cần
thiết, mất thời gian, công sức. Chính vì vậy, Nghị định 34 đã quy định trường
hợp này không cần thành lập Hội đồng kỷ luật là hợp lý.
CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị xem xét XLKL khi đã có kết luận
về hành vi vi phạm pháp luật của cấp ủy, tổ chức Đảng theo quy định phân
cấp quản lý CBCC của Ban Chấp hành Trung ương.
Trong trường hợp này, hành vi vi phạm của CC cũng đã được xem xét
bởi tổ chức khác là cấp ủy, tổ chức Đảng. Việc xem xét lại ở Hội đồng kỷ luật
cũng không còn cần thiết nữa.
Thứ ba, về thành phần của Hội đồng kỷ luật, Điều 18 Nghị định 34 quy
định:
- Đối với CC không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có hành vi vi phạm
pháp luật, Hội đồng kỷ luật có 05 thành viên, bao gồm: Chủ tịch Hội đồng là
người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan quản lý CC hoặc
cơ quan được phân cấp quản lý CC; một Ủy viên Hội đồng là đại diện Ban
Chấp hành công đoàn của cơ quan quản lý CC hoặc cơ quan được phân cấp
41
quản lý CC; một Ủy viên Hội đồng là đại diện của đơn vị công tác có CC bị
xem xét XLKL, ủy viên Hội đồng này do người đứng đầu của đơn vị công tác
đó lựa chọn và cử ra; một Ủy viên Hội đồng là người trực tiếp quản lý hành
chính và chuyên môn, nghiệp vụ của CC bị xem xét XLKL; một Ủy viên
kiêm Thư ký Hội đồng là người phụ trách bộ phận tham mưu về công tác tổ
chức, CB của cơ quan, tổ chức, đơn vị có CC bị xem xét XLKL.
- Đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có hành vi vi phạm pháp
luật, Hội đồng kỷ luật có 05 thành viên, bao gồm: Chủ tịch Hội đồng là người
đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan quản lý CC hoặc cơ quan
được phân cấp quản lý CC; một Ủy viên Hội đồng là người đứng đầu hoặc
cấp phó của người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan sử dụng
CC; một Ủy viên Hội đồng là đại diện cấp ủy của cơ quan quản lý CC hoặc cơ
quan được phân cấp quản lý CC; một Ủy viên Hội đồng là đại diện Ban Chấp
hành công đoàn của cơ quan quản lý CC hoặc cơ quan được phân cấp quản lý
CC; một Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng là người phụ trách bộ phận tham
mưu về công tác tổ chức, CB của cơ quan quản lý CC hoặc cơ quan được
phân cấp quản lý CC.
Để đảm bảo tính khách quan, khoản 3, Điều 18 Nghị định 34 quy định:
“Không được cử người có quan hệ gia đình như cha, mẹ, con được pháp luật
thừa nhận; vợ, chồng, anh, chị, em ruột; chị, em dâu; anh, em rể hoặc người
có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của CC bị xem xét XLKL tham
gia thành viên Hội đồng kỷ luật”.
- Tổ chức họp Hội đồng kỷ luật
Thứ nhất, về nguyên tắc làm việc của Hội đồng kỷ luật:
Hoạt động của Hội đồng kỷ luật phải tuân theo những nguyên tắc sau:
42
Hội đồng kỷ luật họp khi có đủ 03 thành viên trở lên tham dự, trong đó
có Chủ tịch Hội đồng và Thư ký Hội đồng. Hội đồng kỷ luật kiến nghị áp
dụng hình thức kỷ luật thông qua bỏ phiếu kín.
Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo quyết định của Hội đồng kỷ luật
phải được đưa ra bởi tập thể có 3 thành viên trở lên.
Chủ tịch Hội đồng và Thư ký Hội đồng là những thành viên quan trọng,
họ không thể vắng mặt trong cuộc họp Hội đồng.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín đảm bảo tính khách quan, mục đích của
nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tự do thể hiện ý chí của thành viên, không bị
sự tác động từ các chủ thể khác, để có sự khách quan trong việc lựa chọn họ.
Việc họp Hội đồng kỷ luật phải được lập thành biên bản ghi ý kiến của
các thành viên dự họp và kết quả bỏ phiếu kiến nghị hình thức kỷ luật áp dụng
đối với CC có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai, về công tác chuẩn bị họp:
Chậm nhất là 07 ngày làm việc trước cuộc họp của Hội đồng kỷ luật,
giấy triệu tập họp phải được gửi tới CC có hành vi vi phạm pháp luật. CC có
hành vi vi phạm pháp luật vắng mặt phải có lý do chính đáng. Trường hợp CC
có hành vi vi phạm pháp luật vắng mặt sau 02 lần gửi giấy triệu tập thì đến
lần thứ 3 sau khi đã gửi giấy triệu tập, nếu CC đó vẫn vắng mặt thì Hội đồng
kỷ luật vẫn họp xem xét và kiến nghị hình thức kỷ luật;
Hội đồng kỷ luật có thể mời thêm đại diện của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội nơi CC có hành vi vi phạm pháp luật đang công tác dự họp.
Người được mời dự họp có quyền phát biểu ý kiến và đề xuất hình thức kỷ
luật nhưng không được bỏ phiếu về hình thức kỷ luật. Ủy viên kiêm Thư ký
Hội đồng kỷ luật có nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu, hồ sơ liên quan đến việc
XLKL, ghi biên bản cuộc họp của Hội đồng kỷ luật. Hồ sơ XLKL trình Hội
đồng kỷ luật gồm có bản tự kiểm điểm, trích ngang sơ yếu lý lịch của CC có
43
hành vi vi phạm pháp luật, biên bản cuộc họp kiểm điểm của cơ quan sử dụng
CC và các tài liệu khác có liên quan.
Thứ ba, về trình tự họp
Hội đồng kỷ luật họp với trình tự thống nhất như sau:
Chủ tịch Hội đồng kỷ luật tuyên bố lý do, giới thiệu các thành viên
tham dự; Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng kỷ luật đọc trích ngang sơ yếu lý
lịch của CC có hành vi vi phạm pháp luật và các tài liệu khác có liên quan;
CC có hành vi vi phạm pháp luật đọc bản tự kiểm điểm, nếu CC có hành vi vi
phạm pháp luật vắng mặt thì Thư ký Hội đồng kỷ luật đọc thay, nếu CC có
hành vi vi phạm pháp luật không làm bản tự kiểm điểm thì Hội đồng kỷ luật
tiến hành các trình tự còn lại của cuộc họp quy định tại khoản này; Ủy viên
kiêm Thư ký Hội đồng kỷ luật đọc biên bản cuộc họp kiểm điểm; Các thành
viên Hội đồng kỷ luật và người tham dự cuộc họp phát biểu ý kiến; CC có
hành vi vi phạm pháp luật phát biểu ý kiến; nếu CC có hành vi vi phạm pháp
luật không phát biểu ý kiến hoặc vắng mặt thì Hội đồng kỷ luật tiến hành các
trình tự còn lại của cuộc họp quy định tại khoản này; Hội đồng kỷ luật bỏ
phiếu kín kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật; Chủ tịch Hội đồng kỷ luật công
bố kết quả bỏ phiếu kín và thông qua biên bản cuộc họp; Chủ tịch Hội đồng
kỷ luật và Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng kỷ luật ký vào biên bản cuộc họp.
Trường hợp nhiều CC trong cùng cơ quan, tổ chức, đơn vị có hành vi vi
phạm pháp luật thì Hội đồng kỷ luật họp để tiến hành xem xét XLKL đối với
từng CC.
Thứ tư, Hội đồng kỷ luật gửi kiến nghị hình thức kỷ luật và biên bản
cuộc họp đến người có thẩm quyền. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày kết thúc cuộc họp, Hội đồng kỷ luật phải có kiến nghị việc XLKL bằng
văn bản (kèm theo biên bản họp Hội đồng kỷ luật và hồ sơ XLKL) gửi người
có thẩm quyền XLKL.
44
- Các trường hợp tăng nặng, giảm nhẹ hình thức kỷ luật
Trong giai đoạn này, việc xem xét XLKL CC cũng cần căn cứ vào quy
định tại khoản 4, Điều 2 Nghị định 34 về xem xét thái độ tiếp thu, sửa chữa và
chủ động khắc phục hậu quả của CC vi phạm để xem xét tăng nặng hoặc giảm
nhẹ khi áp dụng hình thức kỷ luật.
1.2.3.3. Giai đoạn ra quyết định kỷ luật công chức
Đây là bước giải quyết kỷ luật quan trọng, việc xem xét ở Hội đồng kỷ
luật được quyết định ở bước này, sau khi Hội đồng kỷ luật có kiến nghị việc
XLKL thì phải gửi cho người có thẩm quyền XLKL để ra quyết định kỷ luật,
việc ra quyết định kỷ luật cần phải tuân theo những trình tự luật định vì nó
ảnh hưởng đến quyền lợi của CC bị XLKL. Việc ra quyết định xử lý không
đúng trình tự có thể ảnh hưởng đến hiệu lực của quyết định.
Quy định của pháp luật về giai đoạn này như sau:
Bước 1: Ra quyết định kỷ luật
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản kiến
nghị của Hội đồng kỷ luật trong trường hợp thành lập Hội đồng kỷ luật hoặc
biên bản cuộc họp kiểm điểm của cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 16 Nghị định 34 trong trường hợp không thành lập Hội đồng kỷ
luật thì người có thẩm quyền XLKL ra quyết định kỷ luật hoặc kết luận CC
không vi phạm pháp luật.
Trường hợp có tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền XLKL quyết
định kéo dài thời hạn XLKL theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 34
và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Quyết định kỷ luật phải ghi rõ thời điểm có hiệu lực thi hành. Điều này
là thật sự cần thiết, bởi vì xác định được thời điểm có hiệu lực thì mới xác
định thời điểm chấm dứt hiệu lực của quyết định kỷ luật. Đồng thời, việc này
sẽ giúp cho việc thực thi hình thức kỷ luật được chính xác.
45
Sau 12 tháng kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực, nếu CC không
tiếp tục có hành vi vi phạm đến mức phải XLKL thì quyết định kỷ luật chấm
dứt hiệu lực mà không cần phải có văn bản về việc chấm dứt hiệu lực. Điều
này sẽ khuyến khích việc CC không vi phạm thêm kỷ luật và tránh được tình
trạng rườm rà của thủ tục.
Bước 2: Chuyển quyết định XLKL CC để thi hành và lưu trữ hồ sơ kỷ
luật.
Sau khi người có thẩm quyền ra quyết định XLKL, quyết định này phải
được gửi cho CC có hành vi vi phạm để thi hành khi có hiệu lực. Các tài liệu
liên quan đến việc XLKL và quyết định kỷ luật phải được lưu giữ trong hồ sơ
CC. Hình thức kỷ luật phải ghi vào lý lịch của CC.
1.2.3.4. Giai đoạn khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện kỷ luật công chức
Theo nghĩa rộng, “khiếu kiện hành chính” là việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức khiếu nại đến cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi
kiện tại Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị
quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm.
Luật CBCC chỉ mới quy định về quyền khiếu nại mà chưa quy định về
quyền khởi kiện của CC, đây là thiếu sót của luật, tuy nhiên, quyền khởi kiện
của CC đã được Luật Tố tụng hành chính quy định chặt chẽ.
- Quyền khiếu nại của công chức
Điều 47, Luật Khiếu nại quy định, khiếu nại quyết định kỷ luật là việc
CBCC theo thủ tục do Luật Khiếu nại quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định kỷ luật CBCC khi có căn cứ cho
rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Như vậy, khi CC có căn cứ cho rằng quyết định kỷ luật CC trái pháp
luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khiếu nại
46
lên cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
- Quyền khởi kiện của công chức
Quyền khởi kiện của CC bị giới hạn lại ở chỗ, CC chỉ được khởi kiện
đối với quyết định kỷ luật buộc thôi việc còn các hình thức kỷ luật khác thì
không được khởi kiện. Khoản 1, Điều 115 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy
định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định
hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong
trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với
người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định
của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết
nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.
1.2.4. Các hệ quả khác khi công chức bị xử lý kỷ luật
CC có hành vi vi phạm kỷ luật, ngoài việc áp dụng một trong các hình
thức kỷ luật thì CC còn phải chịu một trong các hệ quả theo quy định tại Điều
82 Luật CBCC như sau:
Một là, CC bị khiển trách hoặc cảnh cáo thì thời gian nâng lương bị kéo
dài 06 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực; nếu bị giáng chức,
cách chức thì thời gian nâng lương kéo dài 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ
luật có hiệu lực.
Hai là, CC bị kỷ luật từ khiển trách đến cách chức thì không thực hiện
việc nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm trong thời hạn 12 tháng, kể từ
ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực.
Ba là, CC đang trong thời gian bị xem xét kỷ luật, đang bị điều tra, truy
tố, xét xử thì không được ứng cử, đề cử, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển,
biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng, thi nâng ngạch, giải quyết nghỉ hưu hoặc thôi
việc.
47
Bốn là, CC bị kỷ luật cách chức do tham nhũng thì không được bổ
nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý.
Như vậy, các văn bản pháp luật hiện hành phần nào đã xác định tương
đối đầy đủ về các hình thức - biện pháp trách nhiệm kỷ luật, thể hiện được
những bước tiến đáng kể so với các văn bản luật và dưới luật trước đây của
Nhà nước ta về vấn đề này.
Tiểu kết Chương 1
Việc xây dựng pháp luật về XLKL CC nói riêng và XLKL CBCC, viên
chức nói chung của nước ta dựa trên nền tảng khoa học Chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm xuyên suốt
của Đảng ta từ khi mới thành lập cho đến nay. Pháp luật về XLKL CC của
nước ta trải qua nhiều giai đoạn, từ những bước đầu còn mang tính sơ lược,
khái quát, đến nay các văn bản pháp luật hiện hành cơ bản đã xác định tương
đối đầy đủ về các nguyên tắc XLKL CC, nội dung, hình thức, thẩm quyền và
quy trình XLKL CC, thể hiện được những bước tiến đáng kể so với các văn
bản luật và dưới luật trước đây của Nhà nước ta về vấn đề này. Tuy nhiên
trong thực tế quá trình thực hiện bên cạnh sự thuận lợi, kết qảu đạt được, thì
vẫn còn không ít những tồn tại, hạn chế, kể cả những bất cập của pháp luật về
XLKL CC cần phải được xem xét, làm rõ để có biện pháp khắc phục trong
thời gian tới.
48
Chương 2
TÌNH HÌNH VI PHẠM KỶ LUẬT VÀ XỬ LÝ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TẠI
TỈNH NINH THUẬN
2.1. Tình hình vi phạm kỷ luật của công chức hành chính nhà nƣớc
tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn từ 2010 đến 2016
Ninh thuận là tỉnh duyên hải Nam Miền trung, bắc giáp tỉnh Khánh
Hòa, nam giáp tỉnh Bình Thuận, tây giáp tỉnh Lâm Đồng và đông giáp Biển đông; có tổng diện tích tự nhiên là 3.355,3 km2, với dân số 595.850 người; có
07 đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh, gồm Thành phố Phan Rang – Tháp
Chàm, 6 huyện: Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn, Thuận Nam, Thuận Bắc,
Bác Ái. 65 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn, trong đó có 47 xã, 15
phường và 03 thị trấn.
Tương tự như nhiều địa phương khác trên cả nước, căn cứ quy định của
Luật Tổ chức chính quyền địa phương cơ quan hành chính nhà nước tỉnh
Ninh Thuận được tổ chức 3 cấp, gồm: cấp tỉnh, cấp huyện/thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) và cấp xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã).
Cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh gồm có UBND tỉnh và 18 cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh. Cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
được tổ chức theo quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014
của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Cụ thể gồm: Sở Nội vụ; Sở Tư pháp; Sở
Kế hoạch và Đầu tư; Sở Tài chính; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Sở Giao thông vận tải; Sở Xây dựng; Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở
Thông tin và Truyền thông; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Giáo dục và Đào
49
tạo; Sở Y tế; Thanh tra tỉnh; Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; ngoài ra do
đáp ứng các tiêu chí theo quy định nên có thành lập Ban Dân tộc thuộc
UBND tỉnh.
Cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện gồm có UBND 6 huyện/thành
phố thuộc và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện. Cơ quan
chuyên môn cấp huyện được tổ chức theo quy định tại Nghị định số
37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có tổng
cộng 90 phòng. Cụ thể: các cơ quan cả 07 huyện/thành phố đều có, gồm:
Phòng Nội vụ, Phòng Tư pháp, Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng Tài
nguyên và Môi trường, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Văn
hóa và Thông tin, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Y tế, Thanh tra, Văn
phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; 3 cơ quan chỉ có 06 huyện có,
gồm: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Kinh tế và Hạ tầng,
Phòng Dân tộc; và 2 cơ quan chỉ thành phố có, gồm: Phòng Kinh tế và Phòng
Quản lý đô thị.
Cơ quan hành chính nhà nước cấp xã gồm UBND 65 xã, phường, thị
trấn.
Biên chế CC thuộc các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận
nằm trong tổng số biên chế CC toàn tỉnh được cơ quan có thẩm quyền giao
hàng năm. Theo đó tại hai thời điểm năm 2010 và năm 2016 CC thuộc các cơ
quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận như sau:
- Tổng số CC được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận tại thời điểm năm 2010 là 2.447 người/2.679
định biên (biên chế cấp có thẩm quyền được giao). Trong đó, CC thuộc các cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh là 1.180 người/1.186 định biên; cấp huyện
là 618 người/621 định biên; cấp xã là 649 người/872 định biên.
50
- Tổng số CC được tuyển dụng vào làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận tại thời điểm năm 2016 là 2.516 người/2.720
định biên. Trong đó, CC thuộc các cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh là
1.186 người/1.223 định biên; cấp huyện là 621 người/625 định biên; cấp xã là
709 người/872 định biên.
Tình trạng vi phạm kỷ luật của một bộ phận CC nói chung và CC tỏng
các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng trong những năm qua diễn biến
phức tạp, với số lượng ngày càng nhiều, hình thức biểu hiện đa dạng không
chỉ tại tỉnh Ninh Thuận mà trên phạm vi cả nước; đây thật sự là một rào cản
trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016 tổng số CC vi phạm pháp
luật trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp tại tỉnh Ninh Thuận phải
XLKL là 178 người. Trong đó, CC bị XLKL công tác tại các cơ quan hành
chính nhà nước cấp tỉnh là 50 người; CC bị XLKL công tác tại các cơ quan
hành chính nhà nước cấp huyện 42 người và CC bị XLKL công tác tại các cơ
quan hành chính nhà nước cấp xã là 86 người.
Những lý do khiến CC vi phạm kỷ luật chủ yếu liên quan đến các vấn
đề như: chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, phẩm chất đạo đức, thực
hiện công tác an sinh xã hội, quản lý đất đai, thu chi ngân sách, chấp hành kỷ
luật, kỷ cương của đơn vị, những việc CC không được làm theo quy định của
Luật CBCC, vấn đề tham nhũng, v.v..
Vấn đề tham nhũng trong đội ngũ CC là một vấn đang được dư luận
quan tâm. Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) thì Việt Nam
thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng, (Theo tiêu chí của TI, thang
điểm là 10; những nước có điểm dưới 3 được coi là tham nhũng nghiêm
trọng). Những năm gần đây, chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam được
xếp như sau: năm 2007 đạt 2,6 điểm, xếp thứ 123/179 quốc gia và vùng lãnh
51
thổ được xếp hạng; năm 2008 đạt 2,7 điểm, xếp thứ 121/180; năm 2009 đạt
2,7 điểm, xếp thứ 120/180; năm 2010 đạt 2,7 điểm, xếp thứ 116/178; năm
2011 đạt 2,9 điểm, xếp thứ 112/182; từ năm 2012 đến 2015 đạt 3,1 điểm; năm
2016 tăng nhẹ lên 3,5 điểm, xếp thứ 113/176. Đây được coi như là chỉ báo
tích cực đối với các nỗ lực phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua. Tuy
nhiên, xét trên thang điểm từ 0 - 10 của CPI (trong đó điểm 0 là rất tham
nhũng và điểm 10 là rất trong sạch), vấn đề tham nhũng trong khu vực công ở
Việt Nam vẫn được coi là rất nghiêm trọng. Kết quả này cũng khẳng định
đánh giá của Đảng và Nhà nước ta về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam.
Theo đánh giá của TI, ở châu Á, tình hình tham nhũng ở Việt Nam
nghiêm trọng hơn so với Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei, Malaysia,
Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... nhưng ít nghiêm trọng hơn Mông Cổ,
Philippines, Lào, Nepal, Campuchia, Myanmar... Tóm lại, tình hình tham
nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng, với những biểu hiện vừa tinh vi, phức tạp,
vừa trắng trợn, lộ liễu, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, có
những điểm giống và khác nhau so với tình hình tham nhũng ở các nước
khác, nhưng đặc điểm nổi bật là tính phổ biến. Trước đây, tham nhũng chủ
yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, nhưng ngày nay đã lan sang các lĩnh
vực vốn được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã
hội, nhân đạo, từ thiện, phòng, chống dịch bệnh,v.v..
2.2. Tình hình xử lý kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan
hành chính nhà nƣớc tại tỉnh Ninh Thuận
2.2.1. Kết quả xử lý kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan
hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn từ 2010 đến 2016
Vấn đề XLKL CC trong các cơ quan hành chính nhà nước là một vấn
đề đã và đang được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn thể nhân
dân ta. Nhìn chung, trong những năm qua, ý thức chấp hành kỷ luật của CC
52
trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận đã được nâng lên.
Tuy nhiên, hoạt động công vụ của một bộ phận CC chưa được quản lý và
kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; các sai phạm, tiêu cực về tác phong, lề lối làm
việc của CC đã và đang làm giảm sức sáng tạo, chất lượng trong hoạt động
công vụ phục vụ người dân. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu
kém về năng lực và trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu người dân,
tham nhũng, tiêu cực vẫn tồn tại trong đội ngũ CC, làm ảnh hưởng đến lòng
tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Ở nhiều nơi, vẫn còn xảy ra tình
trạng CC vi phạm kỷ luật.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016 các cấp có thẩm quyền
thuộc các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận đã xem xét XLKL
178 công chức vi phạm pháp luật. Trong đó, XLKL bằng hình thức khiển
trách 61 trường hợp; cảnh cáo 45 trường hợp; hạ bậc lương 17 trường hợp;
giáng chức 15 trường hợp; cách chức 19 trường hợp và buộc thôi việc 21
trường hợp.
Về thẩm quyền XLKL: Việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính
nhà nước tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua bảo đảm đúng quy định của
pháp luật về thẩm quyền XLKL và quy định về phân cấp quản lý cán bộ, công
chức tại tỉnh Ninh Thuận. Trong đó Chủ tịch UBND tỉnh XLKL 25 trường
hợp; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh XLKL 43 trường hợp và
UBND cấp huyện XLKL 110 trường hợp.
Về trình tự thủ thực hiện việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính
nhà nước tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua cơ bản tuân thủ đúng quy định
của Luật CBCC, Nghị định 34, Nghị định 112 và các quy định khác của pháp
luật về CC và XLKL CC. Có thể nêu ra một ví dụ cụ thể trong việc XLKL CC
đúng quy định pháp luật tại một cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh
Thuận như sau:
53
Năm 2014, Sở N, phát hiện ông C, CC phòng T, thuộc Sở N có hành vi
vi phạm pháp luật trong việc lợi dụng chức vụ nhận tiền của các đối tượng
liên hệ công việc trái pháp luật vì mục đích vụ lợi.
Theo quy định hiện hành thì Sở N là cơ quan quản lý ông C; do đó căn
cứ quy định tại khoản 2, Điều 15 Nghị định 34 thì việc XLKL ông C thuộc
thẩm quyền của Giám đốc Sở N. Căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 6 Nghị
định 34, Giám đốc Sở N có thông báo bằng văn bản về việc xem xét XLKL
đối với ông C.
Thực hiện thông báo của Giám đốc Sở N, căn cứ Điều 16 Nghị định 34,
Trưởng phòng T - người đứng đầu cơ quan công tác cấu thành thuộc Sở N tổ
chức cuộc họp Phòng T để kiểm điểm đối với ông C, thành phần dự họp là
toàn thể CC của phòng T. Sau khi ông C trình bày bản tự kiểm điểm, tự nhận
hình thức kỷ luật, cuộc họp phân tích và tiến hành bỏ phiếu kín biểu quyết đề
nghị áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông C. Phòng T có biên bản họp kiểm
điểm và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo gởi lên Giám đốc Sở N.
Sở N - cơ quan sử dụng ông C tổ chức họp kiểm điểm ông C, với thành
phần dự họp gồm Phó Giám đốc Sở N – Chủ trì cuộc họp, Bí thư đảng uỷ Sở
N, Chủ tịch Công đoàn cơ sở cơ quan Sở N và ông C. Qua kiểm điểm, cuộc
họp tiến hành bỏ phiếu kín biểu quyết áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông
C. Cuộc họp có biên bản và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo gởi
lên Giám đốc Sở N.
Căn cứ khoản 1, Điều 17 và khoản 2 Điều 18, Nghị định 34, Giám đốc
Sở N ban hành quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật đối với ông C có 5
thành viên, gồm: Phó Giám đốc Sở N (làm Chủ tịch Hội đồng), Chủ tịch
Công đoàn cơ sở cơ quan Sở N, Trưởng phòng T, 01 CC công tác tại phòng
T, Trưởng phòng Tổ chức thuộc Sở N kiêm thư ký. Hội đồng kỷ luật tiến
hành họp theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 19 Nghị định 34. Sau khi các
54
thành viên Hội đồng kỷ luật và ông C phát biểu ý kiến, Hội đồng kỷ luật tiến
hành bỏ phiếu kín kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật, kết quả 5/5 nhất trí đề
nghị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo đối với ông C. Hội đồng kỷ luật có
biên bản họp và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật gởi lên Giám đốc Sở N.
Qua xem xét kiến nghị của Hội đồng kỷ luật, Giám đốc Sở N ra quyết
định XLKL cảnh cáo đối với ông C theo quy định tại Điều 20 Nghị định 34.
Nhìn chung, trong những năm qua đội ngũ CC nước ta nói chung và
trong các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận nói riêng đã từng
bước được nâng cao và phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước
đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của nền công vụ phục vụ nhân dân.
Kỷ luật trong đội ngũ CC hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước
tại tỉnh Ninh Thuận từng bước được nâng cao, các trường hợp vi phạm kỷ luật
đa số được xử lý nhanh chống và kịp thời nhằm răn đe, giáo dục hạn chế tình
trạng vi phạm kỷ luật. Công tác XLKL luôn được tăng cường và chú trọng,
phần lớn các CC có phẩm chất đạo đức tốt, năng động, sáng tạo và có nhiều
thành tích trong công việc. Phần lớn các trường hợp vi phạm được xem xét,
xử lý một cách nghiêm minh, chấp hành nghiêm chỉnh những chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có thể kể đến những kết quả
đạt được chủ yếu sau:
Thứ nhất, đa số các trường hợp CC vi phạm kỷ luật được xem xét xử lý
một cách nghiêm minh và đúng pháp luật. Đa số CC tuân thủ kỷ luật và chấp
hành nghiêm chỉnh những quy định, kỷ cương cũng như phép tắc của đơn vị
và tuân thủ pháp luật.
Thứ hai, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên tổ
chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ CC nhằm nâng cao
nghiệp vụ công tác, phần lớn CC nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc.
55
Thứ ba, hệ thống văn bản pháp luật về XLKL CC tương đối hoàn
chỉnh, phục vụ có hiệu quả cho công tác XLKL, đa số các cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền XLKL CC trong tỉnh đã áp dụng có hiệu quả các quy
định tại Luật CBCC; Nghị định 34; Nghị định112, Nghị định 157; Nghị định
107 và các quy định khác của pháp luật kiên quan đến trách nhiệm kỷ luật của
CC và XLKL CC.
Thứ tư, đa số CC có tư tưởng vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có ý
thức tôn trọng và chấp hành kỷ cương, kỷ luật, luôn cần cù, chịu khó học hỏi
để nâng cao trình độ mọi mặt và có tư duy sáng tạo, yêu nghề và có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ khá cao.
Thứ năm, việc XLKL được thực hiện đúng nguyên tắc, nội dung, hình
thức, thẩm quyền cũng như thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật. Có quan tâm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công
tác XLKL cho đội ngũ CBCC làm công tác XLKL CC; nâng cao khả năng,
kiến thức cho CC về khả năng nắm bắt, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm.
Nội dung XLKL được người có thẩm quyền nắm bắt và vận dụng một cách có
hiệu quả.
Thứ sáu, phần lớn những người có thẩm quyền XLKL trong các các cơ
quan hành chính nhà nước đều có đủ năng lực để thực hiện việc XLKL, có
trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ XLKL CC; hầu hết các trường hợp
CC vi phạm kỷ luật đã được các cấp có thẩm quyền XLKL có tình, hợp lý,
đúng nguyên tắc XLKL CC theo quy định pháp luật, nên không có trường
hợp nào khiếu nại, khởi kiện quyết định kỷ luật sau khi bị XLKL.
Thứ bảy, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đại bộ
phận CC hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, công tác tư
tưởng của đội ngũ CC luôn ổn định và có sự phát triển rõ nét, luôn phát huy
tinh thần đoàn kết và vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
56
2.2.2. Những hạn chế trong công tác xử lý kỷ luật công chức hành
chính trong cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận giai đoạn
từ 2010 đến 2016
Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc XLKL CC hành chính trong
các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua
cũng còn không ít những khó khăn, hạn chế, sai sót cần được xem xét, phân
tích làm rõ để có hướng sửa chữa, khắc phục trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, hiện nay, tình hình vi phạm kỷ luật của đội ngũ CC trong các
cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận vẫn còn xảy ra với những
mức độ, tính chất ngày càng phức tạp, việc chấp hành kỷ luật của một bộ
phận CC chưa nghiêm túc, kỷ luật, kỷ cương ở một số nơi vẫn còn lỏng lẽo,
chưa được nề nếp.
Thứ hai, nhận thức về hoạt động công vụ của đội ngũ CC và cơ chế
quản lý CC chưa đổi mới kịp thời với những thay đổi về nhiệm vụ của Nhà
nước trong cải cách nền hành chính Quốc gia và trong thực thi công vụ. Tư
duy về các hoạt động công vụ của một bộ phận CC vẫn mang dấu ấn của thời
kỳ kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong nhiều lĩnh vực, hoạt
động công vụ của CC còn tình trạng vi phạm về chất lượng, đạo đức và kỷ
luật, kỷ cương hành chính. Việc đánh giá, phân loại CC chưa bảo đảm khoa
học, khách quan dẫn đến việc tuyển dụng, bố trí, quy hoạch, đánh giá và đào
tạo, bồi dưỡng CC chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra, ảnh hưởng đến
việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CC.
Thứ ba, thực trạng tổ chức tuyển dụng, sử dụng và quản lý CC còn
chậm đổi mới, chưa phù hợp với điều kiện trong tình hình mới; chưa phát huy
được tài năng , sức sáng tạo của CC. Hoạt động công vụ của một bộ phận CC
hiện nay chưa được quản lý và kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; các sai phạm
và hành vi tiêu cực về tác phong, lề lối làm việc của CC đã và đang làm giảm
57
sức sáng tạo, chất lượng trong hoạt động công vụ trong các cơ quan hành
chính nhà nước. Các biểu hiện về thiếu tinh thần trách nhiệm , yếu kém về
năng lực và trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu người dân vẫn tồn tại
trong một bộ phận CC, làm ảnh hưởng đến lòng tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, một bộ phận CC còn tình trạng sa sút về phẩm chất đạo đức,
tinh thần trách nhiệm kém, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hách dịch, sách
nhiễu nhân dân, tư tưởng cục bộ, bè phái, ý thức kỷ luật ở nhiều nơi còn
buông lỏng để xảy ra tình trạng CC đi muộn, về sớm, một số trường hợp còn
đánh bạc, rượu chè, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, “vô cảm”
trước những yêu cầu bức xúc chính đáng của nhân dân và xã hội.
Thứ năm, hệ thống pháp luật về XLKL CC tuy đã có bước hoàn thiện
những vẫn còn phức tạp, nằm rãi rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau,
một số quy định còn chung chung, nhất là quy định về trách nhiệm kỷ luật đối
với CC trên nhiều lĩnh vực chưa được cụ thể, rõ ràng, trong nhiều trường hợp
khó quy trách nhiệm cá nhân đối với những khuyết điểm, sai phạm của cơ
quan, đơn vị. Một số trường hợp còn gặp khó khăn về việc áp dụng thời hiệu
XLKL CC. Các hình thức XLKL CC còn ở mức độ nhẹ nên chưa có tính răn
đe cao.
Thứ sáu, thực tế cho thấy, hành vi vi phạm của CC rất tinh vi, có sự liên
kết giữa các đối tượng với nhau, nhất là người lãnh đạo. Khi phát hiện một
đối tượng vi phạm thường kéo theo nhiều đối tượng có liên quan có hành vi
che dấu, móc nối trong quá trình vi phạm nên việc phát hiện hành vi vi phạm
gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ bảy, chất lượng của một bộ phận CC hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của nhân dân và nhiệm vụ trong tình hình mới. Mặc dù công tác
đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng, số lượng CC qua các khoá đào tạo, bồi
58
dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng, nhất là trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ còn hạn chế. Bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng chất lượng thật sự
đang là vấn đề đáng lo ngại.
Thứ tám, một bộ phận CC còn thiếu trách nhiệm, chưa thực hiện tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao, thiếu kiểm tra, đôn đốc để xảy ra tham
nhũng, lãng phí. Ở một số nơi, tình hình vi phạm kỷ luật của CC vẫn còn xảy
ra và với mức độ, tính chất vi phạm ngày càng phức tạp, tinh vi. Một số CC
không chịu tu dưỡng, rèn luyện. Vì vậy, việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật ở
một số cơ quan hành chính nhà nước còn chưa nghiêm túc.
Thứ chín, việc XLKL CC hành chính trong các cơ quan hành chính nhà
nước tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua đối với một số trường hợp chưa
thực hiện đúng quy định pháp luật. Cụ thể như sau:
Một là, chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về nguyên tắc
XLKL nghiêm minh, đúng pháp luật đối với công chức vi phạm. Ví dụ một số
trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp 1: Năm 2011 tổ chức đảng có thẩm quyền thuộc Tỉnh ủy
Ninh Thuận tiến hành kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm theo thẩm
quyền, kết luận ông C, Giám đốc Trung tâm T (đơn vị sự nghiệp công lập),
thuộc Sở K thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện các dự án dẫn đến một số
dự án chậm tiến độ, không phát huy hiệu quả; cố ý làm trái nguyên tắc tài
chính trong việc quản lý, sử dụng nguồn vốn các dự án của đơn vị vì vụ lợi cá
nhân và tập thể, vi phạm nghiêm trọng Luật Kế toán và Luật PCTN gây thất
thoát ngân sách nhà nước 312.725.200 đồng. Các cấp có thẩm quyền XLKL
cách chức về Đảng và hành chính đối với ông C.
Theo qui định tại khoản 4, Điều 3 Luật PCTN thì: một trong những
hành vi tham nhũng là: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi”. Do đó, theo kết luận trên, ông C với vai trò là
59
Giám đốc Trung tâm T cố ý làm trái nguyên tắc tài chính trong việc quản lý,
sử dụng nguồn vốn các dự án của đơn vị vì vụ lợi được xác định là hành vi
tham nhũng.
Theo quy định tại khoản 7, Điều 10 Nghị định 157 thì một trong những
trường hợp phải xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu là: “Để cấp phó và
cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý tham nhũng, lãng phí”. Tuy
nhiên, các cấp có thẩm quyền không xem xét xử lý trách nhiệm đối với Giám
đốc Sở K là chưa đúng quy định về nguyên tắc nghiêm minh, đúng pháp luật
trong XLKL CC.
Trường hợp 2: Qua công tác quản lý theo dõi cán bộ, ngày 20/03/2016,
Sở N có công văn chỉ đạo Chi cục P thuộc Sở N kiểm điểm ông H - Chi cục
trưởng Chi cục P vì đã ký quyết định cử CC thuộc Chi cục P đi học lớp cao
cấp lý luận chính trị tại Thành phố Hồ Chí Minh mà không thông qua đơn vị
chủ quản là Sở N và không hoàn thành việc xây dựng một kế hoạch do Giám
đốc Sở N giao sau 3 lần đôn đốc, nhắc nhở.
Ngày 30/3/2016 Chi cục P tiến hành họp kiểm điểm ông H và kết quả
biểu quyết nhất trí 8/8 đề nghị không kỷ luật.
Ngày 18/4/2017 Giám đốc Sở N ban hành quyết định thành lập Hội
đồng kỷ luật do Phó Giám đốc Sở N làm Chủ tịch hối đồng để xem xét tư vấn
XLKL đối với ông H theo quy định tại Nghị định 34. Tuy nhiên, Hội đồng kỷ
luật không họp để xem xét tư vấn XLKL đối với ông H. Đồng thời, qua xem
xét về thời gian nghỉ hưu của ông H là vào ngày 01/11/2016, nên Giám đốc
Sở N không tiếp tục yêu cầu xem xét XLKL đối với ông H. Sau đó Giám đốc
Sở N có văn bản đề nghị và được UBND tỉnh quyết định cho ông H nghỉ hưu
vào ngày 01/11/2016 mag không XLKL ông H theo quy định.
60
Việc Giám đốc Sở N không XLKL đối với ông H trong khi đã xác định
ông H đã có hành vi vi phạm là không thực hiện đúng pháp luật quy định về
nguyên tắc XLKL nghiêm minh, đúng pháp luật đối với CC vi phạm.
Trường hợp 3: Qua công tác kiểm tra của Đảng, ngày 22/9/2016 Ban
Thường vụ huyện ủy P quyết định thi hành kỷ luật về Đảng bằng hình thức
cách chức bí thư chi bộ đối với ông L, Bí thư chi bộ, Trưởng phòng V, huyện
P do vi phạm về nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, không tổ chức sinh hoạt
chi bộ 5 tháng liên tục; đồng thời ngày 10/10/2016 Ban Thường vụ huyện ủy
P có văn bản chỉ đạo UBND huyện P XLKL về chính quyền đối với ông L
theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/11/2016 UBND huyện P có văn bản trả lời Ban Thường vụ
huyện ủy P: sau khi nghiên cứu Nghị định 34 thì các điều khoản áp dụng đối
với hành vi vi phạm “nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng” không có quy định
cụ thể, rõ ràng. Do đó UBND huyện chưa thể tổ chức xem xét XLKL về
chính quyền đối với ông L.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4, Điều 8 Luật CBCC quy định về
“Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân” phải:
“Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước”; đồng thời tại khoản 1, Điều 79 Luật CBCC quy
định: “Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một
trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ
bậc lương; d) Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc thôi việc”. Hướng dẫn thực
hiện Luật CBCC về XLKL đối với CC, tại khoản 3, Điều 3 Nghị định 34 quy
định về các hành vi CC bị xử XLKL: “Vi phạm quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng
giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên
61
quan đến công chức nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Căn cứ các điều khoản quy định nêu trên cho thấy, việc UBND huyện P viện
dẫn Nghị định 34 về các điều khoản áp dụng đối với hành vi vi phạm “nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt đảng” không có quy định cụ thể, rõ ràng để không
XLKL ông L là chưa thực hiện đúng pháp luật quy định về nguyên tắc XLKL
nghiêm minh, đúng pháp luật đối với CC vi phạm.
Hai là, chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về áp dụng hình
thức kỷ luật. Ví dụ một số trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp 1: Năm 2013, qua điều tra, truy tố xét xử, Toà án kết án bà
A, kế toán đơn vị T, trực thuộc Sở Y phạm tội tham ô tài sản với số tiền
1.304.871.665 đồng của Bệnh viện, xử phạt 16 năm tù. Đồng thời xác định
ông P, Giám đốc đơn vị T có hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng nhưng không vì mục đích vụ lợi, kịp thời phát hiện trình báo và giúp
cho cơ quan chức năng làm rõ vụ án nên không xử lý hình sự.
Trên cơ sở Bản án của Tòa án, Giám đốc Sở Y đã chủ trì cuộc họp đơn
vị T để kiểm điểm XLKL ông P theo quy định tại khoản 2, Điều 16 Nghị định
107, kiến nghị XLKL ông P bằng hình thức khiển trách. Qua xem xét kết quả
kiểm điểm và tư vấn của Hội đồng kỷ luật, Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định
lý xử kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với ông P theo thẩm quyền (theo
quy định phân cấp quản lý CB, CC tại Tỉnh Ninh Thuân).
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định 107 thì: “Hình thức cách chức
được áp dụng trong trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ, việc tham nhũng đặc biệt nghiêm
trọng…”; đồng thời tại điểm d, khoản 2, Điều 3 Nghị định 107 quy định:
“Tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng là vụ, việc mà trong đó người có hành vi
tham nhũng bị phạt tù từ 15 năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình”. Bà A
62
bị phạt tù 16 năm được xác định là tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ
theo quy định trên thì lẽ ra phải XLKL ông P bằng hình thức cách chức.
Tuy nhiên, tại điểm b, khoản 3, Điều 11 Nghị định 107 cũng quy định
“Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để
xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách
được giảm nhẹ một mức kỷ luật nếu thuộc một trong các trường hợp sau:…
báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về hành vi tham nhũng”.
Theo Bản án của Toà án xác định ông P “kịp thời phát hiện trình báo và giúp
cho cơ quan chức năng làm rõ vụ án nên không xử lý hình sự”; do đó theo
quy định trên thì ông P được giảm nhẹ một mức kỷ luật từ cách chức xuống
còn cảnh cáo (vì theo Nghị định 107 nêu trên quy định có 3 hình thức kỷ luật:
khiển trách, cảnh cáo, cách chức). Do đó việc áp dụng hình thức khiển trách
để XLKL ông P là không đúng quy định pháp luật về áp dụng hình thức kỷ
luật trong việc XLKL CC.
Trường hợp 2: Ngày 09/6/2016, qua kết quả công tác kiểm tra, tổ chức
đảng có thẩm quyền thuộc Thành phố R có thông báo kết luận và đề nghị xem
xét, XLKL vi phạm đối với ông Q, CC Tư pháp - Hộ tịch, thuộc UBND
Phường M, Thành phố R. Sau khi thực hiện các quy trình XLKL theo quy
định tại Nghị định 112, ngày 18/7/2016 UBND thành phố R ban hành quyết
định kỷ luật ông Q bằng hình thức buộc thôi việc, với lý do: Là CC Tư pháp –
Hộ tịch của phường, ông Q hiểu rõ về quy trình xin phép xây dựng, sửa chữa
nhà ở, biết rõ việc xây dựng nhà ở, công trình trên đất nông nghiệp là vi phạm
pháp luật về đất đai, xây dựng, nhưng vẫn cố tình gửi đơn xin sửa chữa nhà ở
đến UBND phường M, nơi không có thẩm quyền giải quyết, dẫn đến Phó Chủ
tịch phường xác nhận đơn xin sửa chữa nhà ở không đúng thẩm quyền, sai
quy định và bị XLKL.
63
Qua xem xét lý do XLKL nêu trên cho thấy, ông Q có 02 hành vi vi
phạm: một là hành vi xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp đã hết thời hiệu xử
lý vi phạm hành chính (vì trong quyết định không ghi nội dung xử lý hành vi
xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp); hai là hành vi cố tình gửi đơn xin sửa
chữa nhà ở đến nơi không có thẩm quyền.
Về hậu quả được xác định trong quyết định là dẫn đến Phó Chủ tịch
phường xác nhận không đúng thẩm quyền là chưa chính xác, vì trách nhiệm
thuộc Phó Chủ tịch phường.
Căn cứ hành vi vi phạm nêu trên của ông Q mà XLKL với hình thức
buộc thôi việc là chưa thỏa đáng, vì không thuộc một trong các hành vi áp
dụng hình thức buộc thôi việc quy định tại khoản 1, 2, 3, 4, Điều 14 Nghị
định 34. Đồng thời, qua đối chiếu quy định pháp luật cho thấy, với hành vi
trên ông Q đã vi phạm khoản 4, Điều 8 Luật CBCC quy định về nghĩa vụ của
CC phải “Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước”; nhưng nếu áp dụng khoản 5 Điều 39 Nghị
định 112 quy định: “Vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
kỷ luật lao động; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của
pháp luật liên quan đến CC” để XLKL ông Q cũng chưa phù hợp, vì với 02
hành vi được xác định như trên cho thấy vi phạm của ông Q chưa đến mức là
đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy pháp luật về XLKL CC chưa quy định, hướng dẫn cụ thể để xác
định về mức độ hành vi vi phạm của CC như thế nào là nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; nhưng với hành vi vi phạm nêu trên của
ông Q chưa dẫn đến hậu quả chết người, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng
hay hậu quả nào đặc biệt nghiêm trọng. Do đó theo tác giả mức độ hành vi vi
phạm Luật CBCC của ông Q được xac định ở mức độ nghiêm trọng, ảnh
64
hưởng đến công tác quản lý đất đai, xây dựng tại địa phương, vì thời điểm xây
dựng nhà ở trên đất nông nghiệp của ông Q xảy ra đã lâu, trước thời điểm xin
sửa chữa nhà, hết thời gian xử phạt vi phạm hành chính; việc ông xin sửa
chữa nhà là do nhu cầu thực tế về nhà ở cũ đã hư hỏng, còn việc cố tình gởi
đơn đến nơi không có thẩm quyền tuy có sai, nhưng việc xác nhận hay không
là trách nhiệm của người xác nhận.
Từ những phân tích trên cho thấy, thiết nghĩ trường hợp này nên áp
dụng khoản 3, Điều 36, Nghị định 112 quy định: “Vi phạm ở mức độ nghiêm
trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn
mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức, không
thể khắc phục được hậu quả” để XLKL ông Q bằng hình thức hạ bậc lương là
phù hợp và thoả đáng.
Ba là, thực hiện không đúng pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật công
chức đối với nhiều trường hợp, cụ thể:
- Xử lý kỷ luật công chức không đúng quy định pháp luật về thời hiệu
xử lý kỷ luật công chức theo quy định của pháp luật. Ví dụ trường hợp cụ thể
sau:
Ngày 26/12/2012 UBND huyện N tiến hành thanh tra, kết luận vào
ngày 10/3/2010 ông A, Phó Trưởng phòng T, có hành vi vi phạm trong việc
xác nhận không đúng thực tế khi kiểm kê hiện trạng, xác định diện tích đất
trái quy định của pháp luật để bồi cho hộ ông G với số tiền 458.874.000đ,
thực hiện giải phóng mặt bằng xây dựng Dự án khu nuôi tôm công nghiệp
huyện N, tạo sơ hở để ông G chiếm đoạt tiền của Nhà nước; đồng thời yêu
cầu kiểm điểm XLKL ông A. Vụ việc được chuyển cho các cơ quan tố tụng
điều tra, truy tố, xét xử ngày 28/11/2014 kết án ông G phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản 458.874.000đ, phạt 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo.
65
Trên cơ sở Bản án của Toà án, UBND huyện N tiến hành các bước xem
xét, XLKL ông A theo quy định tại các Điều 15, 16, 17, 18, 19, 20 Nghị định
34. Ngày 25/02/2015 Chủ tịch UBND huyện N ra Quyết định XLKL đối với
ông A bằng hình thức khiển trách, thời hạn 01 năm, lý do: “xác nhận giấy tờ
pháp lý cho người không đủ điều kiện”.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 80 Luật CBCC thì: “Thời hiệu XLKL
là thời hạn do Luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì CBCC có hành vi
vi phạm không bị xem xét XLKL. Thời hiệu XLKL là 24 tháng, kể từ thời
điểm CC có hành vi vi phạm”. Theo kết luận thanh tra và bản án có hiệu lực
pháp luật thì hành vi vi phạm của ông A thực hiện vào ngày 10/3/2010, đến
ngày 26/12/2012 mới có kết luận bằng văn bản về hành vi vi phạm, như vậy
thời gian là 33 tháng 16 ngày; nên trường hợp trên đã quá thời hiệu XLKL
theo quy định của pháp luật. Do đó việc Chủ tich UBND huyện N xem xét và
ra quyết định XLKL ông A về hành vi trên là không đúng quy định pháp luật
về thời hiệu XLKL CC.
- Thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm kỷ
luật đối với công chức vi phạm pháp luật. Ví dụ trường hợp cụ thể sau:
Năm 2016, qua công tác thanh tra nội bộ, Sở Y đã phát hiện tại Trung
tâm K, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Y có sai phạm về quản lý tài
chính, lập 20 chứng từ khống với số tiền là 87.960.000đ, có yếu tố cấu thành
tội phạm; chuyển hồ sơ sang các cơ quan tố tụng khởi tố, truy tố và xét xử kết
án ông P, kế toán Trung tâm K phạm tội “tham ô tài sản” với số tiền là
87.960.000đ, xử phạt ông P 2 năm tù. Đồng thời Bản án cũng xác định Ông T,
Giám đốc Trung tâm K không biết việc ông P lập chứng từ khống để chiếm
đoạt tài sản; hành vi của ông T là thiếu trách nhiệm nhưng xét thấy tính chất,
mức độ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; Hội đồng xét xử kiến
nghị Sở Y xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
66
Căn cứ Bản án có hiệu lực pháp luật và quy định tại khoản 2, Điều 16
Nghị định 107, Giám đốc Sở Y tổ chức cuộc họp kiểm điểm trách nhiệm của
ông T, Giám đốc Trung tâm K. Qua kiểm điểm Trung tâm K kiến nghị XLKL
khiển trách đối với ông T.
Qua xem xét, Ban Chỉ đạo PCTN Sở Y đã thống nhất căn cứ Bản án
của Toà án xác định ông T không biết việc ông P lập chứng từ khống để
chiếm đoạt tài sản và căn cứ khoản 3, Điều 1 Nghị định 211, đề nghị không
XLKL ông T. Trên cơ sở đó Giám đốc Sở Y nhất trí đề nghị UBND tỉnh
không XLKL ông T và UBND tỉnh không XLKL ông T theo đề nghị.
Tuy nhiên, việc áp dụng như trên là không đúng quy định của pháp
luật, vì theo quy định tại khoản 1, Điều 11, Nghị định 107 thì: “Người đứng
đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được loại trừ trách
nhiệm trong trường hợp họ không thể biết hoặc đã áp dụng các biện pháp cần
thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng hoặc họ đã chủ động phát
hiện và xử lý hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành".
Trong trường hợp này không thể xác định ông T “không thể biết”, vì với trách
nhiệm là người đứng đầu đơn vị, quản lý tài sản, tài chính đơn vị, là chủ tài
khoản của đơn vị, trực tiếp ký các chứng từ chi, trong đó có các chứng từ
khống do ông P lập thì ông T phải biết việc này. Còn việc ông T không biết
việc ông P lập chứng từ khống để chiếm đoạt là do ông T thiếu trách nhiệm,
buông lỏng trong quản lý tài chính của đơn vị, chứ không phải việc làm này
ông T “không thể biết”. Do vậy việc căn cứ vào điều khoản này để loại trừ
trách nhiệm, không XLKL ông T là chưa đúng quy định của pháp luật.
- Thực hiện không đúng pháp luật về thời hạn xử lý kỷ luật công chức.
Đơn cử một số trường hợp sau:
Qua công tác điều tra, Công an huyện H kết luận ông Q - CC Tư pháp –
Hộ tịch xã X, huyện H vi phạm pháp luật trong việc tham mưu cho Chủ tịch
67
UBND xã X cấp một số giấy khai sinh, chứng nhận kết hôn sai quy định;
đồng thời kiến nghị cấp có thẩm quyền XLKL ông Q theo quy định pháp luật.
Trên cơ sở kết luận điều tra của Công an huyện H, ngày 16/9/2011 UBND
huyện H có văn bản giao UBND xã X tiến hành XLKL ông Q theo quy định.
Sau khi tiến hành quy trình xem xét XLKL, ngày 30/12/2011 UBND huyện H
ra quyết định XLKL ông Q bằng hình thức khiển trách.
Qua xem xét giải quyết đơn thư tố cáo của công dân có liên quan, do
cho rằng UBND huyện H XLKL ông Q bằng hình thức khiển trách là chưa
tương xứng với tính chất, mức độ sai phạm của ông Q, nên UBND tỉnh có văn
bản yêu cầu UBND huyện H tiến hành XLKL lại đối với ông Q cho đúng với
tính chất, mức độ sai phạm.
Sau khi tiến hành theo quy trình, ngày 17/12/2012 UBND huyện H ban
hành quyết định XLKL ông Q bằng hình thức cảnh cáo cũng với nội dung
như cũ, thay thế cho quyết định XLKL khiển trách ông Q ban hành ngày
30/12/2011.
Như vậy, nếu tính từ ngày UBND huyện có văn bản thông báo về việc
kiểm điểm XLKL ông Q (ngày 16/9/2011) đến ngày có quyết định XLKL ông
Q (lần 2 ngày 27/12/2012) là hơn 15 tháng. Theo Điều 32 Nghị định 112 quy
định: “Thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật đối với công chức cấp xã được thực
hiện theo quy định tại Điều 6 và Điều 7 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP”; đồng
thời tại khoản 1, 2, Điều 7 Nghị định 34 quy định: “1. Thời hạn xử lý kỷ luật
tối đa là 02 tháng, kể từ ngày phát hiện công chức có hành vi vi phạm pháp
luật cho đến ngày cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định xử lý
kỷ luật. 2. Trường hợp vụ việc có liên quan đến nhiều người, có tang vật,
phương tiện cần giám định hoặc những tình tiết phức tạp khác thì người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xử lý kỷ luật ra quyết định kéo
dài thời hạn xử lý kỷ luật theo quy định tại Khoản 2 Điều 80 Luật Cán bộ,
68
công chức”. Dó đó việc UBND huyện H ngày 17/12/2012 ra quyết định
XLKL ông Q cũng với hành vi vi phạm như quyết định cũ là không đúng quy
định của pháp luật về thời hạn XLKL CC.
Ngoài ra, qua khảo sát thực tế việc XLKL CC hành chính trong các cơ
quan hành chính nhà nước tại Tỉnh Ninh Thuận thời gian qua cho thấy, nhiều
trường hợp cấp có thẩm quyền không ra thông báo bằng văn bản về việc
XLKL CC để xác định rõ thời điểm CC có hành vi vi phạm pháp luật, thời
điểm phát hiện CC có hành vi vi phạm pháp luật và thời hạn XLKL theo quy
định tại khoản 2, Điều 6 Nghị định 34 hoặc Điều 32 Nghị định 112. Một số
trường hợp khác thì tuy có thông báo, nhưng sau khi hết thời hạn 2 tháng,
không ra quyết định kéo dài thời hạn XLKL CC theo quy định tại khoản 2,
Điều Nghị định 34.
- Việc tổ chức kiểm điểm đối với một số công chức có hành vi vi phạm
chưa đúng quy định pháp luật. Đơn cử như trường hợp cụ thể sau:
Thực hiện kết luận thanh tra của Chủ tịch UBND thành phố R về việc
quản lý, sử dụng đất và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được
phê duyệt; việc quản lý và sử dụng đất công ích tại địa bàn phường T, thuộc
thành phố R, trong đó yêu cầu UBND phường T tổ chức kiểm điểm, kiến nghị
áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông P, CC địa chính phường T có hành vi vi
phạm trong quản lý đất công ích. Ngày 06/03/2013 UBND phường T tổ chức
kiểm điểm ông P, thành phần dự họp kiểm điểm gồm: Chủ tịch UBND
phường, Phó Chủ tịch UBND phường, Trưởng Công an phường, Chỉ huy
trưởng Quân sự phường và ông P.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 41 Nghị định 112 thì: “Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tổ chức cuộc họp để công chức có
hành vi vi phạm pháp luật tự kiểm điểm và nhận hình thức kỷ luật. Thành
phần dự họp gồm đại diện lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, đại diện tổ chức
69
chính trị - xã hội có liên quan và toàn thể công chức của Ủy ban nhân dân
cấp xã. Biên bản cuộc họp kiểm điểm được gửi đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện”. Dó đó việc UBND phường T tổ chức họp kiểm điểm ông P chỉ
với thành phần như trên là không đầy đủ theo quy định tại khoản 1, Điều 41
Nghị định 112.
Ngoài trường hợp như nêu trên, qua khảo sát thực tế việc XLKL CC tại
các cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh Ninh Thuận cho thấy còn nhiều
trường hợp khác khi tổ chức kiểm điểm CC có hành vi vi phạm pháp luật để
XLKL thành phần dự họp không đúng theo quy định của pháp luật, nhất là
việc XLKL đối với CC cấp xã.
- Việc thành lập Hội đồng kỷ luật để tư vấn việc xử lý kỷ luật đối với
một số công chức không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ một số trường
hợp cụ thể sau:
Trường hợp 1: Qua công tác quản lý CC, UBND xã V, thuộc huyện P
có thông báo về việc xem xét, kỷ luật đối với ông B, CC Tư pháp - Hộ tịch xã
V do vi phạm nghiêm trọng về đạo đức, lối sống, kỷ cương, kỷ luật hành
chính. Đồng thời Chủ tịch UBND xã V ban hành Quyết định thành lập Hội
đồng kỷ luật xã V để xem xét, kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông
B gồm 5 thành viên, do Chủ tịch UBND xã làm Chủ tịch Hội đồng, các thành
viên gồm: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, Trưởng Công an xã, Chủ tịch
Công đoàn xã, CC Văn phòng - thống kê xã. Sau khi Hội đồng kỷ luật của xã
họp, xem xét và kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật của UBND xã V, Chủ
tịch UBND huyện P ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với ông B.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 42 Nghị định 112 về thẩm quyền
thành lập Hội đồng kỷ luật CC cấp xã thì: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật để tư vấn về việc áp dụng hình
thức kỷ luật đối với công chức có hành vi vi phạm pháp luật, trừ trường hợp
70
quy định tại khoản 2 Điều này (không thành lập Hội đồng kỷ luật CC có hành
vi vi phạm pháp luật bị phạt tù mà không được hưởng án treo)”.
Đồng thời tại khoản 1, Điều 43 Nghị định 112 quy định về thành phần
Hội đồng kỷ luật CC cấp xã: “Hội đồng kỷ luật công chức cấp xã có 05 thành
viên, bao gồm:
a) Chủ tịch Hội đồng là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp huyện;
b) Một ủy viên Hội đồng là đại diện lãnh đạo Liên đoàn lao động cấp
huyện;
c) Một ủy viên Hội đồng là đại diện lãnh đạo của Ủy ban nhân dân cấp
xã có công chức bị xem xét xử lý kỷ luật;
d) Một ủy viên Hội đồng là đại diện lãnh đạo Phòng chuyên môn cấp
huyện trực tiếp quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ của công chức cấp xã bị
xem xét xử lý kỷ luật hoặc đại diện lãnh đạo Ban Chỉ huy Quân sự cấp huyện
trong trường hợp công chức vi phạm là Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã, đại
diện lãnh đạo Công an huyện trong trường hợp công chức vi phạm là Trưởng
Công an xã;
đ) Một ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng là đại diện lãnh đạo Phòng Nội
vụ cấp huyện”.
Do đó, việc Chủ tịch UBND xã V quyết định thành lập Hội đồng kỷ
luật với những thành phần như trên là không đúng quy định của pháp luật về
thẩm quyền thành lập và thành phần Hội đồng kỷ luật. Đồng thời Chủ tịch
UBND huyện P không quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật để tư vấn về
việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với ông B mà chỉ trên cơ sở kiến nghị của
UBND xã V rồi ra quyết định XLKL ông B là không đúng quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục về XLKL CC.
71
Trường hơp 2: trường hợp xem xét, XLKL khiển trách ông N, Trưởng
Ban Quản lý các công trình hạ tầng huyện A vi phạm trong việc thực hiện các
bước đầu tư xây dựng công trình. Sau khi Ban quản lý các công trình hạ tầng
huyện tổ chức họp kiểm điểm ông N, kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật,
ngày 19/12/2016 Chủ tịch UBND huyện B ban hành quyết định thành lập Hội
đồng kỷ luật 5 người gồm: Chủ tịch UBND huyện (Chủ tịch Hội đồng),
Trưởng phòng Nội vụ, Chủ tịch Công đoàn khối UBND huyện, Phó trưởng
ban Quản lý các công trình hạ tầng huyện, cán bộ kỷ thuật Ban Quản lý các
công trình hạ tầng huyện.
Ông N là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trực thuộc
UBND huyện, nên theo khoản 4, Điều 11 Nghi định 06/2010/NĐ-CP ngày
25/01/2010 của Chính phủ quy định những người là CC thì ông N được xác
định là CC. Do đó việc xem xét XLKL ông N áp dụng Luật CBCC và Nghị
định 34 để thực hiện.
Ông N giữ chức vụ Trưởng Ban quản lý các công trình hạ tầng huyện,
là CC lãnh đạo, quản lý, nên thành phần Hội đồng kỷ luật phải căn cứ theo
quy định tại khoản 2, Điều 18 Nghị định 34. Theo đó: “Đối với công chức giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý có hành vi vi phạm pháp luật, Hội đồng kỷ luật có
05 thành viên, bao gồm:
a) Chủ tịch Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng
đầu cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công
chức;
b) Một Ủy viên Hội đồng là người đứng đầu hoặc cấp phó của người
đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan sử dụng công chức;
c) Một Ủy viên Hội đồng là đại diện cấp ủy của cơ quan quản lý công
chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức;
72
d) Một Ủy viên Hội đồng là đại diện Ban Chấp hành công đoàn của cơ
quan quản lý công chức hoặc cơ quan được phân cấp quản lý công chức;
đ) Một Ủy viên kiêm Thư ký Hội đồng là người phụ trách bộ phận
tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan quản lý cong chức hoặc cơ
quan được phân cấp quản lý công chức”.
Tuy nhiên, Chủ tịch UBND huyện A quyết định thành lập Hội đồng kỷ
luật với thành phần như trên là thiếu đại diện cấp ủy của cơ quan quản lý CC
hoặc cơ quan được phân cấp quản lý CC; nhưng lại thừa một người thuộc Ban
Quản lý các công trình hạ tầng huyện, không đúng với quy định tại khoản 2,
Điều 18 Nghị định 34.
Trường hợp 3: qua công tác kiểm tra Đảng, Ban Thường vụ huyện ủy B
kết luận ông T, Trưởng phòng G, thuộc UBND huyện B vi phạm về quản lý,
sử dụng kinh phí thực hiện các chính sách hỗ trợ giáo dục trên địa bàn huyện,
thi hành kỷ luật Đảng đối với ông T bằng hình thức cảnh cáo; đồng thời có
văn bản chỉ đạo UBND huyện B XLKL về chính quyền bằng hình thức cảnh
cáo đối với ông T.
Chủ tịch UBND huyện B quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật, tiến
hành họp xem xét, biểu quyết tư vấn việc áp dụng hình thức kỷ luật, kiến nghị
và Chủ tịch UBND huyện B ra quyết định XLKL cảnh cáo đối với ông T.
Tại điểm b, khoản 2, Điều 17 Nghị định 34 quy định một trong các
trường hợp không thành lập Hội đồng kỷ luật là: “Công chức giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý bị xem xét xử lý kỷ luật khi đã có kết luận về hành vi vi
phạm pháp luật của cấp ủy, tổ chức Đảng theo quy định phân cấp quản lý cán
bộ, công chức của Ban Chấp hành Trung ương”. Ông T là CC giữ chức vụ
lãnh đạo, quan lý bị XLKL khi đã có kết luận về hành vi vi phạm pháp luật
của Ban Thường vụ huyện ủy; do đó căn cứ theo quy định trên thì không phải
thành lập Hội đồng kỷ luật.
73
Lẽ ra sau khi tổ chức kiểm điểm ông T tại Phòng G, gởi biên bản lên
Chủ tịch UBND huyện B ra quyết định kỷ luật ông T bằng hình thức cảnh cáo
theo kết luận và chỉ đạo của Ban thường vụ huyện ủy. Tuy nhiên, Chủ tịch
UBND huyện B lại ra quyết định thành lập Hội đồng kỷ luật, họp Hội đồng
xem xét, biểu quyết hình thức kỷ luật, kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật đối
với ông T là không đúng quy định.
Do pháp luật quy định về vấn đến này chưa được cụ thể, rõ ràng, cách
hiểu còn chưa thống nhất, tuỳ nghi; quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó
khăn, pháp luật chỉ quy định không thành lập Hội đồng kỷ luật, còn việc thực
hiện kết luận, chỉ đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng như thế nào thì chưa có hướng
dẫn cụ thể, nhất là việc chỉ đạo hay đề nghị cụ thể áp dụng hình thức kỷ luật
đối với CC vi phạm. Do đó qua khảo sát cho thấy, trên thực tế sai sót này đều
xảy ra ở hầu hết ở các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền XLKL
CC thuộc cấp tỉnh và cấp huyện.
Trường hợp 4: tại điểm g, khoản 2, Điều 19 Nghị định 34 quy định:
“Hội đồng kỷ luật bỏ phiếu kín kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật” với ý
nghĩa để việc biểu quyết bảo đảm được bí mật, khách quan, không chịu tác
động bởi tình trạng ngại va chạm, sợ mất lòng khi biểu quyết, từ đó có thể ảnh
hưởng đến kết quả biểu quyết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi xem
xét XLKL, trong phiếu biểu quyết XLKL của Hội đồng kỷ luật tại huyện N lại
yêu cầu thành viên Hội đồng kỷ luật phải “ký và ghi họ tên” vào phiếu là
không đảm bảo được yếu tố “kín”, do đó không đúng quy định.
- Chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật về công tác quản lý, lưu
giữ hồ sơ xử lý kỷ luật công chức:
Theo quy định tại khoản 4, Điều 20 Nghị định 34, thì: “Các tài liệu liên
quan đến việc XLKL và quyết định kỷ luật phải được lưu giữ trong hồ sơ
CC”. Tuy nhiên, trên thực tế thì một số cơ quan hành chính nhà nước tại tỉnh
74
Ninh Thuận còn hạn chế, thiếu sót việc quản lý, lưu giữ hồ sơ XLKL CC,
thậm chí một số trường hợp đã thất lạc hết các tài liệu liên quan, chỉ còn lại
mỗi quyết định kỷ luật.
Nói tóm lại, việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính nhà nước tại
tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả tích cực,
nhưng cũng còn không ít những khó khăn, hạn chế và sai sót cần có những
biện pháp cụ thể để khắc phục trong thơi gian tới.
2.3. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế trong việc XLKL CC trong các cơ quan hành chính nhà
nước tại tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
bao gồm cả nguyên nhân chủ quan cũng như nguyên nhân khách quan, có thể
kể đến những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, một số CC lãnh đạo còn buông lỏng vai trò lãnh đạo, quản
lý, thiếu sự kiểm tra, giám sát, nên chưa kịp thời phát hiện nhắc nhở, lưu ý,
cảnh báo những thiếu sót, khuyết điểm của CC để kịp thời sửa chữa, khắc
phục. Một số CC là lãnh đạo các cấp có thẩm quyền XLKL CC chưa quan
tâm đúng mức đến công tác xem xét, XLKL CC, còn có biểu hiện “khoán
trắng” cho cơ quan tham mưu về công tác này. Bên cạnh đó, tâm lý nể nang,
ngại va chạm, bao che, sợ liên quan đến trách nhiệm của người lãnh đạo,
quản lý và sợ mất thành tích của cơ quan, đơn vị, địa phương do mình lãnh
đạo, quản lý nên cũng hạn chế đến kết quả việc XLKL CC.
Thứ hai, với sự ra đời của Luật CBCC và từng bước hoàn thiện hệ
thống các quy định của pháp luật về CBCC nói chung và về XLKL CC nói
riêng đã tạo cơ sở xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
của CC, góp phần xây dựng đội ngũ CC ngày càng nâng cao chất lượng về
mọi mặt. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về XLKL CC cũng còn nhiều sơ hở,
bất cập, là điều kiện để phát sinh những vi phạm về đạo đức, phẩm chất, vi
75
phạm kỷ luật của đội ngũ CC; gây những khó khăn nhất định trong việc
XLKL CC vi phạm pháp luật.
Thứ ba, việc tổ chức học tập, quán triệt những quy định pháp luật nói
chung và pháp luật về XLKL CC nói riêng chưa được quan tâm đúng mức;
trình độ, năng lực của một bộ phận CC còn hạn chế, dẫn đến tác phong tùy
tiện, ý thức kỷ luật kém, hiệu quả công tác hạn chế. Kinh nghiệm, trình độ,
kiến thức giữa các CC là không đồng đều. Một bộ phận CC còn thiếu tính tự
giác; người đứng đầu còn chưa gương mẫu cũng như thiếu nhận thức về trách
nhiệm, quyền hạn của mình. Một số CC lãnh đạo, quản lý còn hạn chế về
năng lực điều hành, quản lý nhưng chưa được thay thế nên dẫn đến tạo cơ hội
cho CC vi phạm kỷ luật. Trong khi đó thì chưa coi trọng việc biểu dương,
khen thưởng những CC chấp hành tốt kỷ luật, kịp thời sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm, phấn đấu vươn lên; phê phán những trường hợp cố tình vi phạm
hoặc không chấp hành nghiêm kỷ luật hoặc chậm sửa chữa, khắc phục.
Thứ tư, nhận thức pháp luật và năng lực chuyên môn của một số CC
chuyên môn làm công tác XLKL CC còn hạn chế, nhưng chưa chịu khó tìm
hiểu, nghiên cứu sâu kỷ quy định của pháp luật về XLKL CC nên trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, công vụ còn nhiều sai sót. Trong khí đó thì việc bồi
dưỡng nghiệp vụ về công tác xem xét, XLKL CC tuy có tổ chức, nhưng chưa
được quan tâm đúng mức, chưa thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn
chuyên đề về công tác XLKL CC cho đội ngũ CC chuyên môn làm công tác
XLKL CC thuộc các cơ quan nội vụ, tổ chức thuộc các ngành, các cấp để
tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ công tác XLKL
CC vi phạm pháp luật.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa
được thực hiện nghiêm túc, chậm đổi mới về nội dung, hình thức và phương
pháp thực hiện; chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân để nâng cao
76
nhận thức và ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc giám sát quá trình
thực thi công vụ của CC nói chung và việc thực hiện pháp luật về XLKL CC
của các cơ quan có thẩm quyền nói riêng, góp phần nâng cao trách nhiệm của
CC trong thực thi công vụ và chất lượng, hiệu quả cũng như việc đảm bảo
công khai, minh bạch của các cơ quan có thẩm quyền trong XLKL CC. Trong
khi đó thì hiện nay đa số các cơ quan có thẩm quyền xem việc XLKL CC như
là việc xử lý nội bộ, thậm chí nhiều trường hợp không muốn công khai, minh
bạch.
Thứ sáu, công tác thanh tra, kiểm tra việc xem xét, XLKL CC của các
cơ quan có thẩm quyền còn hạn chế, chưa thường xuyên, thâm chí có nơi
chưa được kiểm tra, thanh tra lần nào, nên dẫn đến tình trạng có những hạn
chế, sai sót giống nhau tại một nơi diễn ra trong thời gian dài mà không sửa
chữa, khắc phục. Bên cạnh đó chưa kịp thời biểu dương, khen thưởng những
nơi làm tốt công tác XLKL CC vi phạm; đồng thời cũng không kịp thời nhắc
nhở, chấn chỉnh, kiểm điểm, xử lý những nơi, những người làm không tốt,
làm qua loa, đại khái trong việc XLKL CC, nhất là những biểu hiện, hành vi
trù dập hoặc bao che, dấu diếm hành vi vi phạm, không xem xét XLKL CC
theo đúng quy định pháp luật.
Thứ bảy, mặt dù các chính sách về tiền lương và thu nhập của đội ngũ
CC trong thời gian qua luôn được sự quan tâm, cải cách và điều chỉnh của
Đảng và Nhà nước theo hướng ngày càng được nâng cao nhưng vẫn không
theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội và mặt bằng thu nhập xã hội; tiền
lương của một bộ phận CC chưa đảm bảo cuộc sống ổn định của bản thân và
gia đình họ, nhất là gia đình có nhiều người phụ thuộc. Đó cũng là trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ
CC, làm cản trở công tác xây dựng và phát triển đội ngũ CC và bộ máy Nhà
nước.
77
Tiểu kết chương 2
Tỉnh Ninh Thuận được tái lập từ năm 1992, bên cạnh việc tăng cường
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, phát triển kinh tế - xã hội
của một tỉnh còn nhiều khó khăn khi mới được tái lập, cơ quan hành chính
nhà nước các cấp trong tỉnh từng bước được củng cố và kiện toàn, hoàn thiện,
cả về tổ chức bộ máy và chuyên môn nghiệp vụ, trong đó có công tác xem xét
XLKL CC. Việc XLKL CC tại các cơ quan hành chính nhà nước tỉnh Ninh
Thuận trong những năm qua đã có những bước tiến bộ đáng kể, việc thực hiện
pháp luật trong XLKL từng bước được chặt chẽ và phù hợp. Việc XLKL CC
có hành vi vi phạm pháp luật cơ bản được kịp thời, khách quan, công bằng,
nghiêm minh và đúng pháp luật, có tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa vi
phạm đối với CC trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Điều đó chắc
chắn góp phần rất quan trọng vào việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của CC,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trong thời kỳ mới, thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc XLKL CC tại các cơ quan hành
chính nhà nước tỉnh Ninh Thuận trong những năm qua cũng còn không ít hạn
chế, sai sót. Ngoài nguyên nhân chủ quan của CBCC, nhất là CBCC có trách
nhiệm trong thực hiện công tác xem xét, XLKL CC; cũng còn có nguyên
nhân khách quan xuất phát từ những bất cập trong quy định của pháp luật về
XLKL CC. Tuy đã có bước tiến đáng kể so với trước đây, nhưng quy định
pháp luật về XLKL CC của nước ta hiện nay vẫn còn không ít bất cập, sơ hở,
khó khăn trong thực hiện đã được tác giả nêu ra trong chương này. Đó cũng
chính là cơ sở để tác giả nghiên cứu đề ra những giải pháp khắc phục những
tồn tại, hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật và việc thực hiện pháp
luật về XLKL CC nhằm nâng cao hiệu quả công tác XLKL CC trong gian tới.
78
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XỬ LÝ KỶ LUẬT CÔNG CHỨC HÀNH
CHÍNH TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TỪ THỰC
TIẾN TỈNH NINH THUẬN
Để đạt được hiệu quả cao trong XLKL CC hành chính trong các cơ
quan hành chính nhà nước cũng như để khắc phục những hạn chế, yếu kém
trong quá trình thực hiện cần phải có những biện pháp cụ thể. Trong khuôn
khổ đề tài luận văn này, tác giải nêu ra một số giải pháp cụ thể sau:
3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý vi
phạm kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan hành chính nhà nƣớc
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là vấn đề được Ðảng
và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt, nhất là hiện nay chúng ta đang
tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Chính vì vậy, hoàn thiện pháp luật về XLKL CC
cũng không ngoại lệ, cần phải quy định lại những vấn đề đang gặp phải
vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật vào thực tế.
Pháp luật nước ta hiện nay có Luật CBCC và Nghị định 34 quy định
về chế định kỷ luật CC (Nghị định 112 về XLKL CC cấp xã như trình bày ở
trên cơ bản giống và dẫn chiếu Nghị định 34), đây là những văn bản thể hiện
bước hoàn thiện trong việc tạo cơ sở pháp lý cho XLKL CC. Tuy nhiên,
những văn bản này vẫn còn những điểm chưa phù hợp, còn tạo ra sự lúng
túng cho người áp dụng. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả XLKL CC
thì trước hết cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những văn bản này. Pháp luật
về XLKL CC nên được sửa đổi, bổ sung cụ thể ở những điểm sau:
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc xử lý kỷ luật công chức
Nguyên tắc XLKL CC là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xuyên
suốt cho toàn bộ quá trình XLKL CC, chính vì vậy, pháp luật cần phải quy
79
định về vấn đề này một cách ngắn gọn, xúc tích, chính xác, khoa học và hợp
lý thể hiện tính nhất quán. Pháp luật cần sửa đổi một số vấn đề về nguyên tắc
XLKL CC như sau:
Thứ nhất, quy định về các nguyên tắc XLKL tại Điều 2 Nghị định 34
nói chung là hợp lý, tuy nhiên, quy định tại khoản 5 cần phải xem xét lại.
Khoản 5, Điều 2 Nghị định 34 quy định “Thời gian chưa xem xét XLKL đối
với CC trong các trường hợp quy định tại Điều 4 Nghị định này không tính
vào thời hạn XLKL”. Đây là quy định không mang tính tư tưởng chỉ đạo mà
chỉ đơn thuần là quy định về ngoại lệ của cách tính thời hạn XLKL. Do đó,
xét thấy sẽ hợp lý hơn nếu quy định tại khoản 5, Điều 2 Nghị định 34 không
nằm trong quy định về nguyên tắc XLKL mà nằm trong Điều 80 Luật CBCC
và Điều 7 Nghị định 34 về thời hạn XLKL CC.
Thứ hai, về nguyên tắc tăng nặng trách nhiệm được quy định tại khoản
2, Điều 2 Nghị định 34 vẫn còn có điểm chưa thật sự hợp lý và công bằng.
Ví dụ: Trường hợp CC A (là CC giữ chức vụ lãnh đạo) thực hiện 3
hành vi vi phạm cùng một lúc, hành vi thứ nhất là tự ý nghỉ việc 4 ngày trong
một tháng, hành vi thứ hai là cấp giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều
kiện, hành vi thứ ba là lợi dụng vị trí công tác, cố ý làm trái pháp luật với
mục đích vụ lợi. Cơ quan quản lý CC A phát hiện được hành vi thứ nhất và
hành vi thứ ba của A và tiến hành XLKL. Hành vi thứ nhất của A bị XLKL
khiển trách, hành vi thứ ba bị XLKL hạ bậc lương, áp dụng nguyên tắc tăng
nặng trách nhiệm tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 34 CC A bị kỷ luật hình thức
giáng chức. Sau đó 1 tháng, hành vi thứ hai của CC A cũng bị phát hiện và
vẫn còn trong thời hiệu XLKL nên cơ quan quản lý CC A cũng tiến hành
XLKL, hành vi thứ hai của CC A bị XLKL cảnh cáo. Áp dụng nguyên tắc
tăng nặng tại khoản 2, Điều 2 Nghị định 34 vì CC A đang chịu hình thức kỷ
80
luật giáng chức là nặng nhất nên chịu hình thức kỷ luật nặng hơn một mức là
hình thức kỷ luật cách chức.
Nếu cả 3 hành vi của CC bị phát hiện cùng một lúc thì khi này cơ quan
quản lý CC A cũng tiến hành XLKL và áp dụng nguyên tắc tăng nặng thì CC
A sẽ chịu hình thức kỷ luật giáng chức.
Như vậy, qua ví dụ trên thì quy định về nguyên tắc tăng nặng trách
nhiệm là chưa chặt chẽ, hợp lý, cần quy định thêm những ngoại lệ của
nguyên tắc tăng nặng trách nhiệm kỷ luật để đảm bảo công bằng khi xem xét
kỷ luật.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về nội dung và hình thức kỷ luật
3.1.2.1. Về nội dung xử lý kỷ luật công chức
Trong hoạt động lập pháp, việc sử dụng phương pháp liệt kê để quy
định các điều luật thường được sử dụng cho những điều luật có nội dung hẹp,
dễ dàng liệt kê được mà không bị bỏ sót những nội dung cần thiết. Tuy
nhiên, đây là phương pháp gặp nhiều bất cập khi việc liệt kê là không thể đối
với những điều luật có nội dung đồ sộ, dễ bị bỏ sót những nội dung cần thiết.
Nghị định 34 quy định theo phương pháp liệt kê các hành vi vi phạm tương
ứng với các hình thức kỷ luật. Tuy nhiên, như đã nói, việc sử dụng kỹ thuật
liệt kê ẩn chứa nhiều bất hợp lý. Cụ thể:
Thứ nhất, phương pháp này không liệt kê hết được các hành vi vi
phạm kỷ luật. Ví dụ: hành vi đánh bạc chưa đến mức xử lý hình sự, bạo hành
gia đình của CC cũng là một trong những hành vi vi phạm đạo đức nghiêm
trọng và trên thực tế các hành vi này vẫn bị XLKL. Tuy nhiên, chiếu theo
các quy định của Nghị định 34 về các hình thức kỷ luật thì các hành vi này
không bị xử lý bằng hình thức kỷ luật cụ thể nào.
Tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 34 quy định hành vi bị XLKL là vi
phạm việc thực hiện nghĩa vụ, đạo đức và văn hóa giao tiếp của CC trong thi
81
hành công vụ; những việc CC không được làm quy định tại Luật CBCC. Nếu
xem hành vi đánh bạc chưa đến mức xử lý hình sự và bạo hành gia đình là
vi phạm đạo đức thì các hành vi này sẽ bị xử lý bằng hình thức kỷ luật nào
thì không được Nghị định 34 nêu rõ. Nếu chiếu theo các điều khoản cuối
cùng của các điều luật quy định về các hình thức kỷ luật thì các hành vi đánh
bạc, bạo hành gia đình không phải là hành vi vi phạm quy định của pháp luật
về phòng, chống tham nhũng; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; không
phải là hành vi vi phạm kỷ luật lao động; bình đẳng giới; phòng, chống tệ
nạn mại dâm và càng không phải là các hành vi vi phạm quy định khác của
pháp luật liên quan đến công chức.
Chính vì vậy, Nghị định 34 đã bỏ sót các hành vi vi phạm kỷ luật dẫn
đến trên thực tế việc áp dụng các quy định này thường mang tính tùy nghi và
cảm tính.
Thứ hai, vì không liệt kê được hết các hành vi vi phạm kỷ luật nên
Nghị định 34 đã gộp tất cả các hành vi chưa được liệt kê vào điều khoản cuối
cùng và quy định một cách chung chung. Cụ thể, Khoản 8 Điều 10 quy định
CC vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống
tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; bình đẳng
giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên
quan đến CC nhưng đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem xét XLKL
sẽ chịu hình thức kỷ luật cảnh cáo. Cũng là hành vi trên nhưng ở mức độ rất
nghiêm trọng sẽ bị hình thức kỷ luật giáng chức hoặc cách chức phụ thuộc
vào thái độ thành khẩn khai báo của CC (khoản 2, Điều 12 và điểm d, khoản
1 Điều 13), còn ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng sẽ bị kỷ luật buộc thôi việc
(khoản 5, Điều 14). Tuy nhiên, trong cả Nghị định 34 và các quy định khác
của pháp luật không có quy định nào đưa ra căn cứ để xác định thế nào là
mức độ nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Chính vì
82
vậy, khi áp dụng các quy định này trên thực tế rất khó khăn và áp dụng mang
tính chất tùy nghi, dễ bị lạm quyền. Hơn nữa, mức độ rất nghiêm trọng chỉ
được áp dụng đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo quản lý vì chỉ có họ mới bị
hình thức kỷ luật giáng chức hoặc cách chức, vậy đối với CC không giữ chức
vụ lãnh đạo quản lý khi vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng sẽ xử lý như thế
nào? Đây vẫn là câu hỏi chưa được pháp luật “trả lời”.
Thứ ba, một số hành vi vi phạm chưa được quy định thật sự rõ ràng,
cụ thể dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau ảnh hưởng đến việc xem xét,
quyết định hình thức kỷ luật chính xác. Cụ thể, hành vi tự ý nghỉ việc thì số
ngày tự ý nghỉ việc trong 1 tháng sẽ được xác định như thế nào cho công
bằng và hợp lý? Một tháng ở đây là tháng theo lịch công tác hay chỉ cần 30
ngày được xác định trong khoảng thời gian nào đó. Hay việc CC nghỉ liên
tục trong 4 ngày làm việc nhưng rơi vào 2 tháng thì có bị XLKL không? Ví
dụ 2: trong tháng 5/2013 CC A tự ý nghỉ việc ngày 21/5 và ngày 22/5 và
trong tháng 6/2014 CC A nghỉ ngày 1/6 và ngày 2/6. Như vậy, chỉ trong
vòng chưa đầy nửa tháng (mới chỉ 12 ngày) mà CC A đã tự ý nghỉ việc tới 4
ngày nhưng không bị XLKL vì CC A chưa nghỉ quá 2 ngày trong một tháng.
Rõ ràng hành vi của A là nghiêm trọng nhưng lại không có cơ chế để xử lý,
đây là “kẽ hở” của pháp luật mà trên thực tế một số CC đã lợi dụng “kẽ hở”
này để “lách luật”.
Mặc dù Nghị định 34 đã sử dụng phương pháp liệt kê để quy định các
hành vi vi phạm kỷ luật như phân tích ở trên là ẩn chứa nhiều điểm bất hợp
lý nhưng việc sử dụng phương pháp khái quát hóa điều luật về các hành vi vi
phạm là khó có thể thực hiện. Chính vì vậy, Nghị định 34 nên bổ sung các
hành vi vi phạm kỷ luật trên thực tế vào các điều luật, để khi CC thực hiện
hành vi đó, các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở pháp lý để áp dụng. Tuy
nhiên, các khái niệm như “mức độ nghiêm trọng”, “mức độ rất nghiêm
83
trọng”,“mức độ đặc biệt nghiêm trọng” thì cần phải đưa ra những dấu hiệu
cơ bản để làm “thước đo” chuẩn mực giúp việc áp dụng quy định liên quan
trên thực tế dễ dàng hơn.
Về căn cứ bị kỷ luật dựa trên số ngày tự ý nghỉ việc trong một tháng
như ví dụ 2 phân tích ở trên thì vẫn chưa đảm bảo công bằng hợp lý khi rõ
ràng hành vi trong ví dụ này có phần nghiêm trọng hơn mà không bị XLKL.
Căn cứ này sẽ hợp lý hơn nếu dựa trên số ngày tự ý nghỉ việc nhưng được
tính trong vòng 30 ngày kể từ ngày nghỉ đầu tiên. Xét ví dụ 2, nếu áp dụng
quy định này thì hành vi tự ý nghỉ việc của CC sẽ bị XLKL. Chúng ta sẽ tính
số ngày tự ý nghỉ việc trong vòng 30 ngày, tức là từ ngày 21/5 là ngày đầu
tiên CC A tự ý nghỉ việc. Như vậy, CC A đã tự ý nghỉ việc 4 ngày trong
vòng 30 ngày kể từ ngày 21/5 đến ngày 21/6 nên CC A sẽ bị XLKL cảnh
cáo. Quy định như vậy sẽ không bỏ sót các hành vi vi phạm, bên cạnh đó còn
đảm bảo tính khách quan, công bằng.
3.1.2.2. Về các hình thức kỷ luật công chức
Thứ nhất, về hình thức kỷ luật buộc thôi việc:
Theo khoản 4 Điều 14 Nghị định 34 thì CC bị kỷ luật hình thức buộc
thôi việc nếu “tự ý nghỉ việc, tổng số từ 7 ngày làm việc trở lên trong một
tháng hoặc 20 ngày làm việc trở lên trong một năm mà đã được cơ quan sử
dụng CC thông báo bằng văn bản 3 lần liên tiếp”. Quy định này tồn tại một
số bất cập sau:
Căn cứ áp dụng kỷ luật này dựa vào số ngày tự ý nghỉ việc như trên là
không thuyết phục, ví dụ: trường hợp nếu CC A nghỉ 5 hoặc 6 ngày làm việc
cuối cùng trong một tháng (giả sử là từ ngày 23 đến ngày 27 hoặc 28/4/2017)
và tiếp tục nghỉ 5 hoặc 6 ngày làm việc đầu tiên của tháng tiếp theo (giả sử là
từ ngày 1 đến ngày 5 hoặc ngày 6/5/2017) thì CC sẽ bị XLKL cảnh cáo đối
với việc tự ý nghỉ việc của tháng trước, còn đối với việc tiếp tục nghỉ 5 hoặc
84
6 ngày làm việc đầu tiên của tháng tiếp theo thì sẽ bị kỷ luật khiển trách vì
trong số những ngày nghỉ chắc chắn có 2 ngày nghỉ là thứ bảy và chủ nhật.
Áp dụng khoản 2, Điều 2 Nghị định 34: “Nếu CC có nhiều hành vi vi phạm
pháp luật thì bị XLKL về từng hành vi vi phạm và chịu hình thức kỷ luật
nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật áp dụng đối với hành vi vi phạm
nặng nhất, trừ trường hợp có hành vi vi phạm phải XLKL bằng hình thức
buộc thôi việc". Kết quả là CC phải chịu hình thức kỷ luật hạ bậc lương, tăng
nặng hơn một mức so với hình thức kỷ luật cảnh cáo. Điều này vẫn chưa
công bằng đối với CC tự ý nghỉ việc 7 ngày trong một tháng vì họ sẽ chịu
hình thức kỷ luật buộc thôi việc.
Do đó cần quy định căn cứ vào số ngày tự ý nghỉ việc trong vòng 30
ngày kể từ ngày nghỉ đầu tiên như đã trình bày ở trên. Khi đó, xét ví dụ, CC
A sẽ bị XLKL buộc thôi việc khi tự ý nghỉ việc 10 hoặc 12 ngày trong vòng
30 ngày kể từ ngày 23/4 đến ngày 23/5.
Bên cạnh đó, CC bị kỷ luật buộc thôi việc do tự ý nghỉ việc từ 7 ngày
trở lên trong một tháng hoặc 20 ngày trong một năm thì phải kèm theo điều
kiện là có thủ tục “thông báo bằng văn bản 3 lần liên tiếp”. Nếu CC tự ý nghỉ
việc đúng thời hạn có thể bị XLKL buộc thôi việc nhưng chỉ cần thiếu thủ
tục thông báo bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền hoặc có thông báo
nhưng không đủ 3 lần liên tiếp thì không bị XLKL buộc thôi việc. Đây là
quy định thiên về thủ tục, nói cách khác, dùng thủ tục để quyết định nội
dung, bản chất vụ việc là không đúng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Mặt
khác, nếu không thực hiện đúng thủ tục này thì hậu quả pháp lý ra sao?
Thông báo 3 lần thì mỗi lần cách nhau thời gian bao lâu? Đây vẫn là những
vấn đề chưa được giải đáp. Thủ tục này có thể tạo ra tình trạng bao che trong
việc XLKL CC khi cơ quan có thẩm quyền cố tình không gửi thông báo hoặc
85
gây khó khăn cho CC khi cơ quan có thẩm quyền cố tình thông báo gấp gáp,
không đủ thời gian để CC có thể tiếp nhận.
Do vậy, về thủ tục “thông báo bằng văn bản 3 lần liên tiếp”, thiết nghĩ,
đây là quy định thiên về thủ tục nên có thể bỏ qua. Bản chất của thủ tục này
không liên quan đến mức độ nghiêm trọng của hành vi CC tự ý nghỉ việc quá
7 ngày trong một tháng hoặc 20 ngày trong một năm hay nói cách khác là
không nên để thủ tục này quyết định có hay không hình thức kỷ luật buộc
thôi việc.
Tuy nhiên, thủ tục này vẫn được Nghị định 34 áp dụng nên việc bỏ
qua thủ tục này là không dễ dàng. Nếu vậy, cần quy định một cách rõ ràng
hơn về thủ tục này để việc áp dụng trên thực tế dễ dàng hơn. Cụ thể, khoảng
thời gian hợp lý để thông báo 3 lần là bao lâu? Vấn đề này cần được quy
định một cách chi tiết bằng thông tư để trên thực tế áp dụng một cách thống
nhất.
Thứ hai, về việc bỏ hình thức kỷ luật hạ ngạch:
Luật CBCC đã bỏ hình thức kỷ luật hạ ngạch đối với CC so với Pháp
lệnh CBCC, vì ngạch chỉ là sự phân loại thuần túy mang tính chất chuyên
môn, tuy nhiên, bỏ đi hình thức kỷ luật này vẫn còn cần phải cân nhắc, vì có
những trường hợp nếu áp dụng hình thức kỷ luật hạ ngạch thì sẽ hợp lý hơn,
ví dụ: khoản 4, Điều 10 Nghị định 34 quy định hình thức kỷ luật cảnh cáo áp
dụng đối với trường hợp sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được tham gia
đào tạo, bồi dưỡng; được dự thi nâng ngạch CC. Tại sao trường hợp này
không bị hạ ngạch mà chỉ bị cảnh cáo? Thiết nghĩ, trường hợp này áp dụng
hình thức kỷ luật hạ ngạch là phù hợp hơn cả, bởi vì, mức độ nghiêm khắc
của hình thức kỷ luật hạ ngạch sẽ tương xứng với mức độ nghiêm trọng của
hành vi sử dụng giấy tờ không hợp pháp để tham gia đào tạo, bồi dưỡng hay
thi nâng ngạch hơn là hình thức kỷ luật cảnh cáo, từ đó, sẽ răn đe được CC
86
hơn. Vì vậy thiết nghĩ không nên bỏ đi hình thức kỷ luật hạ ngạch. Có nhiều
hình thức kỷ luật thì dễ dàng hơn trong việc phân cấp mức độ nghiêm trọng
của hành vi.
Thứ ba, về hình thức kỷ luật giáng chức:
Điều này cũng cần phải làm rõ hơn trong các văn bản hướng dẫn. Luật
CBCC giải thích: “Giáng chức là việc CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị hạ
xuống chức vụ thấp hơn”. Với quy định này Luật chưa trù liệu hết các hệ quả
pháp lý đối với trường hợp giáng chức. Trường hợp CC giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý bị giáng chức sẽ bị hạ xuống mấy cấp chức vụ? Hơn nữa, khi các
chức vụ, lãnh đạo quản lý trong một cơ quan nhà nước đã được bố trí đầy đủ
và đúng định mức theo quy định của pháp luật thì bố trí công vụ đối với CC
lãnh đạo bị giáng chức như thế nào?
Bên cạnh đó, nếu CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nhưng chỉ là cấp
phó thì giáng chức đến chức vụ nào? Ví dụ, giáng chức phó trưởng phòng một
phòng thuộc sở thì có thể xuống chức vụ trưởng phòng thuộc UBND cấp
huyện được không?
Dó đó, Luật CBCC cần quy định: “Trong trường hợp CC giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý bị kỷ luật giáng chức không bố trí được chức vụ thấp hơn
do đã bố trí đủ thì không bố trí nữa, nhưng người bị kỷ luật vẫn được hưởng
phụ cấp chức vụ lãnh đạo cho đến hết nhiệm kỳ". Về mặt kỹ thuật xử lý, cần
quy định, trước tiên cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giáng chức; sau đó
ra quyết định cho chức vụ mới và được bảo lưu phụ cấp chức vụ lãnh đạo
(phụ cấp của chức vụ sau khi bị giáng chức).
Bên cạnh đó, nếu CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nhưng chỉ là cấp
phó thì giáng chức đến chức vụ nào như nêu thì Chính phủ nên đưa ra quy
định không có hình thức kỷ luật giáng chức đối với chức vụ cấp phó thấp nhất
87
trong hệ thống cơ quan hành chính sẽ hợp lý hơn mặc dù gây ra sự bất bình
trong xử lý khi cấp trưởng thì có giáng chức còn cấp phó thì không.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý kỷ luật công chức
Tại khoản 3, Điều 15 Nghị định 34 quy định: “Đối với CC biệt phái,
người đứng đầu cơ quan nơi CC được cử đến biệt phái tiến hành XLKL,
quyết định hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ, quyết định kỷ luật về cơ quan quản
lý CC biệt phái”. Nghị định 27 quy định về XLKL viên chức có quy định vấn
đề tương tự tại khoản 3, Điều 14 như sau: “Đối với viên chức biệt phái, người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi viên chức được cử đến biệt phái tiến
hành xem xét XLKL, đề nghị hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ XLKL về đơn vị
sự nghiệp công lập cử viên chức biệt phái để ra quyết định kỷ luật theo thẩm
quyền.” Xét thấy quy định tại khoản 3, Điều 14 Nghị định 27 là hợp lý hơn
cả. Bản chất của việc biệt phái là việc CC của cơ quan, tổ chức, đơn vị này
được cử đến làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm
vụ, đây là công việc mang tính tạm thời. Chính vì vậy, CC được cử biệt phái
vẫn thuộc sự quản lý của cơ quan cử biệt phái và chính cơ quan này mới là cơ
quan có thẩm quyền kỷ luật CC. Còn cơ quan nơi CC được cử biệt phái đến
không phải là cơ quan quản lý CC mà là cơ quan nơi CC thực hiện nhiệm vụ,
do vậy, sẽ hợp lý hơn nếu cơ quan này tiến hành xem xét kỷ luật, đề nghị hình
thức kỷ luật còn việc quyết định hình thức kỷ luật là do cơ quan quản lý CC
quyết định.
Do đó khoản 3 Điều 15 Nghị định 34 cần sửa đổi theo hướng “Đối với
CC biệt phái, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi viên chức được cử
đến biệt phái tiến hành xem xét XLKL, đề nghị hình thức kỷ luật và gửi hồ sơ
XLKL về cơ quan quản lý CC biệt phái”. Quy định như vậy sẽ hợp tình, hợp
lý hơn, đảm bảo sự quản lý CC chặt chẽ hơn.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về quy trình xử lý kỷ luật công chức
88
3.1.4.1. Về thời hiệu xử lý kỷ luật công chức
Nhìn chung, quy định về thời hiệu XLKL CC là cần thiết, tuy nhiên,
Luật CBCC cũng như Nghị định 34 vẫn còn một số bất cập, thiếu sót, việc
tính thời hiệu trong nhiều trường hợp vẫn còn gặp khó khăn vì luật quy định
chưa thật sự hợp lý, cần sửa đổi, bổ sung để cho phù hợp. Cụ thể:
Thứ nhất, hành vi vi phạm của CC có dấu hiệu của tội phạm nên đã bị
khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình
sự nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án mà hành
vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm kỷ luật nên phải xem xét XLKL. Trường hợp
này, nếu thời điểm cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền XLKL nhận được
hồ sơ vụ việc do người ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án chuyển
sang chưa quá 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm thì việc XLKL
không có vấn đề gì phải bàn; nhưng nếu đã quá 24 tháng kể từ thời điểm có
hành vi vi phạm xảy ra thì việc XLKL có được tiến hành hay không? Tình
huống này chưa được quy định rõ trong Điều 80 Luật CBCC cũng khoản 1,
Điều 6 Nghị định 34.
Mặc khác, trong trường hợp hành vi vi phạm của CC là hành vi tội
phạm và bị tòa kết án. Khi xác định hành vi vi phạm của CC có dấu hiệu tội
phạm thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền XLKL phải chờ kết luận
cuối cùng của cơ quan tố tụng hình sự mới có thể tiến hành XLKL. Vì vậy,
nếu quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự kéo dài do tính chất phức tạp của
vụ việc thì không ít trường hợp khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật thì đã quá 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm. Nếu thời
hiệu XLKL được quy định như Điều 80 của Luật CBCC hiện nay thì trường
hợp này cũng không thể XLKL CBCC được. Tuy nhiên, việc không XLKL
như vậy là vừa không hợp lý, vừa không phù hợp với chính các quy định
trong Luật. Khoản 3 Điều 79 Luật CBCC quy định “CC bị tòa kết án phạt tù
89
mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật” cho thấy khi CC phạm tội bị Toà án
phạt tù không cho hưởng án treo thì phải bị kỷ luật bằng hình thức cao nhất
với những hậu quả thực tế rất nặng nề. Vậy nên, nếu thời hiệu XLKL luôn là
24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm pháp luật thì có thể xảy ra 2
trường hợp áp dụng pháp luật khác nhau: Một là, khi bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực mà chưa quá 24 tháng kể từ thời điểm có hành vi vi phạm
pháp luật thì CC vừa bị phạt tù, vừa bị buộc thôi việc. Hai là, nếu đã qua 24
tháng thì CC chỉ bị phạt tù mà thôi.
Sự khác nhau về hậu quả pháp lý này không phải do lỗi của cơ quan, tổ
chức, đơn vị có thẩm quyền chậm trễ thực hiện nhiệm vụ. Trong nhiều trường
hợp, quá trình truy cứu trách nhiệm kéo dài phản ánh phần nào tính chất phức
tạp của vụ việc, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Vì vậy, nếu chỉ vì
việc truy cứu trách nhiệm hình sự kéo dài mà dẫn đến việc không XLKL có
thể mâu thuẫn với nguyên lý chung là hành vi vi phạm có mức độ nguy hiểm
càng cao cho xã hội thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý càng dài. Hơn
nữa, quy định này có thể tạo kẽ hở cho người vi phạm pháp luật lợi dụng.
Chẳng hạn, CC bị Tòa án kết án cố tình kháng cáo ngay cả khi họ thấy rằng
bản án, quyết định sơ thẩm hoàn toàn đúng đắn, buộc Tòa án phải giải quyết
lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm chỉ với mục đích kéo dài thời gian để hết thời
hiệu XLKL [23].
Để giải quyết vấn đề phân tích trên thì thời hiệu XLKL được quy định
ở Điều 6 Nghị định 34 cần bổ sung ngoại lệ về trường hợp hành vi vi phạm
của CC là hành vi phạm tội thời gian tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét nên
tính vào thời hiệu xử lý lỷ luật CC. Nhiều văn bản pháp luật khác đã quy định
về vấn đề này, ví dụ như Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định tại
90
điểm c, khoản 1 Điều 6: Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét
được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ hai, nếu căn cứ vào quy định về thời hiệu XLKL như Luật CBCC
và Nghị định 34 thì trong trường hợp hành vi vi phạm kỷ luật được thực hiện
liên tục, kéo dài thời hiệu XLKL sẽ được tính như thế nào? Căn cứ để tính là
bắt đầu từ ngày vi phạm đầu tiên hay cuối cùng? Vì từ ngày đầu tiên đến ngày
cuối cùng cũng đều là ngày thực hiện hành vi vi phạm. Nếu tính ngày đầu tiên
thì thời hiệu sẽ bị rút ngắn lại, có lợi cho CC thực hiện hành vi vi phạm. Nếu
tính là ngày cuối cùng thì thời hiệu sẽ dài hơn, có lợi cho chủ thể có thẩm
quyền XLKL.
Ví dụ: Từ khi được bổ nhiệm giữ chức Giám đốc Sở T (tháng 10/2014),
bà Y thường xuyên ký các văn bản, giấy tờ không đúng thẩm quyền liên quan
đến hoạt động của đơn vị. Đến tháng 12/2016, đơn vị mới phát hiện ra hành vi
vi phạm của bà Y (lúc này, bà Y mới chấm dứt hành vi vi phạm của mình).
Như vậy, nếu tính từ thời điểm bà Y bắt đầu vi phạm đến thời điểm phát hiện
thì đã quá 24 tháng, nhưng nếu tính từ thời điểm bà Y chấm dứt hành vi vi
phạm đến thời điểm bị phát hiện thì chưa quá 24 tháng.
Trường hợp khác: trong lúc làm quy trình bổ nhiệm ông K giữ chức
Phó Giám dốc Sở, ông K đã sử dụng Bằng tốt nghiệp giả để hoàn thiện hồ sơ
đề nghị bổ nhiệm của mình. 03 năm sau, hành vi của ông K mới bị phát hiện
(lúc này, ông K vẫn đang trong nhiệm kỳ giữ chức vụ). Như vậy, nếu áp dụng
thời hiệu XLKL theo cách tính từ ngày thực hiện hành vi thì không thể XLKL
bằng hình thức cách chức theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 13 Nghị
định 34 đối với ông K được.
Rõ ràng trường hợp này pháp luật XLKL CC đã không quy định nên
trên thực tế người có thẩm quyền lúng túng trong việc XLKL do không có căn
91
cứ pháp lý để áp dụng một cách chính xác nên thường áp dụng một cách tùy
nghi, theo cảm tính.
Ở đây, theo tác giả có thể tham khảo quy định của pháp luật hình sự về
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội liên tục,
phạm tội kéo dài và pháp luật hành chính về hành vi vi phạm liên tục, kéo
dài để quy định thời hiệu XLKL đối với CC trong trường hợp họ có hành vi vi
phạm liên tục, vi phạm kéo dài. Theo đó, đối với hành vi vi phạm liên tục,
thời hiệu XLKL là thời điểm khi người vi phạm thực hiện hành vi cuối cùng.
Đối với vi phạm kéo dài, thời hiệu XLKL tính từ thời điểm hành vi đó chấm
dứt hoặc là ngày cơ quan có thẩm quyền phát hiện ra vi phạm đó, không phụ
thuộc vào việc vi phạm đó được thực hiện từ ngày nào.
Thứ ba, về thời hiệu trong trường hợp XLKL lại. Theo quy định tại
khoản 7, Điều 23 Nghị định 34 thì: “Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo kết luận việc XLKL CC tiến hành
không đúng quy định về áp dụng hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục và thẩm
quyền XLKL thì người đứng đầu cơ quan đã ký quyết định kỷ luật phải ra
quyết định hủy bỏ quyết định XLKL; đồng thời cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền XLKL phải tiến hành xem xét XLKL CC theo đúng quy định tại
Nghị định này”
Theo quy định trên, khi có căn cứ để cho rằng quyết định XLKL là trái
pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì CC
có thể khiếu nại quyết định đó đến người ra quyết định XLKL hoặc khởi kiện
vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Khi
đó, cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ thực hiện việc giải quyết
yêu cầu của CC theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Tuy nhiên, ở đây
xảy ra hai trường hợp, nếu quá trình giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại khẳng định cơ quan ra quyết định XLKL đã làm
92
đúng các quy định của pháp luật thì không có vấn đề gì đặt ra, nhưng nếu cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại kết luận việc XLKL CC tiến hành
không đúng quy định về nội dung, hình thức, quy trình xử lý và tuyên hủy
hoặc yêu cầu người có thẩm quyền ký quyết định kỷ luật phải ra quyết định
hủy bỏ quyết định XLKL và tổ chức lại việc xem xét XLKL CC thì thời hiệu
XLKL lại tính từ khi nào? Khoản 7, Điều 23 Nghị định 34 chỉ quy định “…cơ
quan có thẩm quyền XLKL phải tiến hành xem xét XLKL CC theo đúng quy
định tại Nghị định này”. Điều này sẽ đồng nghĩa với việc thời hiệu XLKL sẽ
được tính từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm. Khi đó, việc XLKL sẽ không
thể thực hiện được vì có thể đã quá 24 tháng, kể từ thời điểm hành vi vi phạm
xảy ra.
Để khắc phục bất cập này, theo tác giả Luật CBCC và Nghị định 34 cần
bổ sung quy định về thời hiệu XLKL như sau: “Trường hợp phải tiến hành
xem xét lại việc kỷ luật CC theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền về
giải quyết khiếu nại thì thời hiệu xem xét XLKL được tính từ thời điểm kết
luận của cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có hiệu lực”.
Thứ tư, việc quy định thời hiệu XLKL CC là cần thiết, nhằm nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan quản lý CC, phải tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, kịp thời phát hiện hành vi vi phạm của CC để XLKL, góp phần nâng
cao chất lượng thực thi công vụ của CC và đẩy mạnh cải cách nền hành chính
Nhà nước. Tuy nhiên, trong điều kiện của nước ta hiện nay, khi mà cơ chế
kiểm soát quyền lực vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao; công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát, nhất là trong nội bộ còn nhiều hạn chế, hầu hết các vụ
việc sai phạm không phải tự nội bộ phát hiện, mà chủ yếu thông qua yếu tố
bên ngoài, như: dư luận, phản ánh của nhân dân, đơn thư khiếu nại, tố cáo,
thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay thanh tra của cấp trên,
thông qua các cơ quan tố tụng … thì việc quy định thời hiệu XLKL CC 24
93
tháng là quá ngắn, không đủ thời gian để phát hiện không ít các vụ việc vi
phạm trong phạm vi thời hiệu XLKL. Nếu quá thời hiệu thì đương nhiên CC
không còn chịu trách nhiệm kỷ luật với hành vi vi phạm của mình nữa. Hơn
nữa, việc quy định thời hiệu chung đối với tất cả các hành vi và mức độ vi
phạm khác nhau như vậy là không hợp lý, vì trên thực tế thì có những hành vi
vi phạm của CC phải chịu trách nhiệm kỷ luật hoàn toàn không phụ thuộc vào
thời gian như sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận không hợp pháp;
hoặc một số hành vi vi phạm về an ninh, quốc phòng, vi phạm pháp luật rất
nghiêm trọng, tuy đã hết thời hiệu XLKL theo quy định nhưng để lại hậu quả
khó khắc phục, ảnh hưởng đến uy tín lâu dài, nếu không XLKL thì giảm tính
giáo dục, răng đe của pháp luật về XLKL CC.
Để nâng cao trách nhiệm kỷ luật của CC trong thực thi công vụ, đồng
thời vừa bảo đảm được trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc
tăng cường quản lý CC và có đủ điều kiện về thời gian để phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật của CC, giảm thiểu tình trạng hết thời hiệu XLKL CC, nhất là
đối với những hành vi vi phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; tuy
chưa có nghiên cứu thật khoa học để làm cơ sở, nhưng ở đây theo tác giả, có
thể tham khảo quy định của pháp luật hình sự về thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng; đồng thời trên cơ sở tham khảo Điều 3 Quy định số 102-
QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về XLKL đảng viên vi phạm, theo
đó thời hiệu XLKL đảng viên là: “5 năm đối với những hành vi vi phạm đến
mức phải kỷ luật bằng hình thức khiển trách; 10 năm đối với những hành vi vi
phạm đến mức phải kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức; không
áp dụng thời hiệu XLKL đối với những hành vi vi phạm đến mức phải kỷ luật
bằng hình thức khai trừ; vi phạm về chính trị nội bộ, về an ninh, quốc phòng,
đối ngoại có xâm phạm đến lợi ích quốc gia và việc sử sử dụng văn bằng,
94
chứng chỉ, chứng nhận không hợp pháp”, tác giả đề nghị Luật CBCC và Nghị
định 34 sửa đổi quy định về thời hiệu XLKL CC như sau: 5 năm đối với
những hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải áp dụng hình thức kỷ luật
khiển trách; 10 năm đối với những hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải áp
dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức hoặc cách chức;
không áp dụng thời hiệu XLKL đối với những hành vi vi phạm đến mức phải
áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc hoặc bị phạt tù mà không được
hưởng án treo.
3.1.4.2. Về các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật công chức
Tại khoản 1, Điều 4 Nghị định 34 quy định thời gian mà CC nữ đang
trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì
chưa xem xét XLKL. Quy định này không chặt chẽ, thể hiện ở điểm sau: thời
gian nghỉ thai sản của CC nữ đã bao gồm một phần thời gian mang thai và
một phần thời gian nuôi con.
Quy định về thời gian nghỉ thai sản cũng đã được các văn bản pháp luật
khác quy định như tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật lao động 2012 quy định lao
động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Đây chính là khoảng
thời gian lao động nữ được nghỉ thai sản, thời gian này bao gồm khoảng thời
gian người lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 đến lúc sinh con được 4
tháng.
Như vậy, quy định như Nghị định 34 là thiếu khoa học, quy định như
vậy sẽ gây khó khăn, phức tạp khi tính toán.
Do vậy cần quy định lại khoản 3, Điều 4 Nghị định 34 về trường hợp
CC nữ đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi chưa xem xét XLKL CC một cách khoa học và chính xác hơn, đó
là bỏ đi cụm từ “nghỉ thai sản” trong quy định này. Tức là, quy định lại như
sau: “thời gian CC nữ đang trong thời gian mang thai, đang nuôi con dưới 12
95
tháng tuổi thì không tính vào thời hạn XLKL”. Việc quy định lại nội dung này
là rất quan trọng để từ đây có thể dẫn chiếu quy định các trường hợp không
tính vào thời hạn XLKL CC.
3.1.4.3. Về các trường hợp miễn trách nhiệm kỷ luật công chức
Tại khoản 3, Điều 5 Nghị định 34 quy định nếu CC rơi vào trường hợp
được cấp có thẩm quyền xác nhận vi phạm pháp luật trong tình thế bất khả
kháng khi thi hành công vụ thì sẽ được miễn trách nhiệm kỷ luật. Tuy nhiên,
việc luật không giải thích thế nào là tình thế bất khả kháng khiến việc áp dụng
quy định này trên thực tế gặp nhiều khó khăn.
Theo khoản 1, Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015 thì sự kiện bất khả kháng
là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không
thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng
cho phép.
Pháp luật về XLKL CC cũng nên quy định khái niệm sự kiện bất khả
kháng như Bộ luật Dân sự.
Mặt khác, pháp luật về XLKL CC chỉ quy định miễn trách nhiệm cho
mỗi sự kiện bất khả kháng, vậy nếu CC rơi vào sự kiện bất ngờ và tình thế cấp
thiết thì sẽ không được miễn trách nhiệm kỷ luật. Điều này là không công
bằng. Điều 20 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi gây
hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc
không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự”. Tương tự, khoản 1 Điều 20 Bộ luật Hình sự 2015 cũng quy
định hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không là tội phạm. Luật Xử
lý vi phạm hành chính 2012 cũng quy định việc thực hiện hành vi vi phạm
hành chính trong tình thế cấp thiết, do sự kiện bất ngờ thì không xử phạt vi
phạm hành chính. Như vậy, ngay cả trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành
chính cũng được miễn đối với người thực hiện hành vi trong tình thế cấp thiết
96
hoặc do sự kiện bất ngờ mà trách nhiệm kỷ luật lại không được miễn, điều
này là bất hợp lý. Như vậy, quy định tại khoản 3, Điều 5 Nghị định 34 cần bổ
sung thêm các trường hợp miễn trách nhiệm kỷ luật để đảm bảo công bằng
khi XLKL CC.
3.1.4.4. Về việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác đối với công
chức vi phạm
Nhìn chung, Luật CBCC và Nghị định 34 đã quy định cụ thể về vấn đề
này. Tuy nhiên, việc không đưa ra khái niệm thế nào là “tạm đình chỉ công
tác”, căn cứ để áp dụng chưa thực sự rõ ràng đó là trường hợp xét thấy nếu
CC tiếp tục làm việc thì sẽ gây khó khăn, bất lợi cho việc xem xét, xử lý dẫn
đến trên thực tế đã áp dụng tùy tiện biện pháp này. Điển hình là vụ việc tạm
đình chỉ chức vụ Cục trưởng Cục Đường sắt gần đây mà báo chí đưa tin. Theo
đó, ngày 25/4/2014, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng đã có
quyết định về việc tạm đình chỉ chức vụ đối với ông Nguyễn Hữu Thắng -
Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam. Theo như Luật CBCC và Nghị định 34
thì chỉ có biện pháp tạm đình chỉ công tác chứ không có biện pháp tạm đình
chỉ chức vụ. Đây là hai khái niệm có nội hàm hoàn toàn khác nhau. Tạm đình
chỉ công tác là tạm ngưng công vụ của CC trong một khoảng thời gian nhất
định, còn tạm đình chỉ chức vụ là tạm ngưng giữ chức vụ một khoảng thời
gian nhất định chứ không phải là tạm ngưng công vụ của CC. Việc áp dụng
tùy tiện các khái niệm này có thể là do sự hiểu biết không đầy đủ về pháp luật
của các chủ thể liên quan nhưng cũng một phần do pháp luật thiếu sót trong
khâu đưa ra các khái niệm. Chính vì vậy, việc đưa ra khái niệm thế nào là
biện pháp tạm đình chỉ công tác là cần thiết.
Trong giai đoạn phát hiện vi phạm và khởi xướng việc xử lý thì vấn đề
pháp lý cần hoàn thiện là việc làm rõ nội hàm khái niệm tạm đình chỉ công tác
để việc áp dụng pháp luật trên thực tế dễ dàng hơn.
97
Thuật ngữ “tạm đình chỉ” được sử dụng nhiều trong các văn bản pháp
lý nhưng lại chưa có văn bản nào định nghĩa về thuật ngữ này. Theo từ điển
Tiếng Việt, “tạm” là (làm việc gì) chỉ trong một thời gian nào đó khi có điều
kiện thì sẽ thay đổi, còn “đình chỉ” là ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại
trong một thời gian hay vĩnh viễn.
Như vậy, từ phân tích trên, theo tác giả, pháp luật về XLKL CC có thể
định nghĩa “tạm đình chỉ công tác” là tạm ngưng việc thực hiện công vụ trong
một thời gian nhất định để phục vụ cho hoạt động XLKL trong Điều 7 Luật
CBCC về giải thích từ ngữ.
3.1.4.5. Về thời hạn xử lý kỷ luật công chức
Cách tính thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 80 Luật CBCC cũng
có nhiều điểm đáng bàn.
Thứ nhất, nếu hành vi vi phạm đơn thuần là hành vi vi phạm kỷ luật thì
việc xem xét kỷ luật là công việc chủ yếu của cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền XLKL. Lúc này, thời hạn XLKL tính từ khi phát hiện hành vi vi
phạm pháp luật đến khi có quyết định XLKL là hoàn toàn xác đáng. Tuy
nhiên, nếu hành vi vi phạm của CBCC có dấu hiệu tội phạm nên đã bị khởi tố,
truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự nhưng
sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm
có dấu hiệu vi phạm kỷ luật nên phải xem xét XLK thì việc xem xét kỷ luật
CBCC không còn là quyền chủ động hoàn toàn của cơ quan, tổ chức, đơn vị
có thẩm quyền XLKL nữa. Hơn nữa khi hành vi vi phạm bị đưa ra xem xét
theo thủ tục tố tụng hình sự thì thường quá trình này chiếm khá nhiều thời
gian trước khi được chuyển sang cho cơ quan có thẩm quyền XLKL. Không ít
trường hợp khi cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền XLKL nhận được hồ
sơ hoặc nhận được bản án, quyết định của Tòa án thì đã quá thời hạn 2 tháng
(thậm chí là 4 tháng) kể từ khi phát hiện hành vi vi phạm. Vì Điều 80 Luật
98
CBCC không có quy định ngoại lệ nên những trường hợp như vậy sẽ không
được phép tiến hành việc XLKL. Lẽ dĩ nhiên, việc không xem xét XLKL
trong trường hợp này là không hợp lý [23].
Do vậy, trường hợp nếu hành vi vi phạm của CC có dấu hiệu tội phạm
mà cơ quan có thẩm quyền XLKL nhận được hồ sơ hoặc nhận được bản án,
quyết định của Tòa án thì nên quy định một số ngoại lệ về thời hạn XLKL CC
tính từ thời điểm cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền kỷ luật CC nhận
được hồ sơ vụ việc do cơ quan tố tụng hình sự chuyển sang hoặc bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, trường hợp hành vi vi phạm của CC do cơ quan quản lý CC
phát hiện và xem xét XLKL thì quy định thời hạn XLKL như quy định hiện
nay là phù hợp. Tuy nhiên, nếu cấp uỷ, tổ chức đảng theo quy định phân cấp
quản lý CBCC của Ban Chấp hành Trung ương kết luận về hành vi vi phạm
pháp luật đối với đảng viên là CC lãnh đạo, quản lý và tiến hành xem xét thi
hành kỷ luật về Đảng trước, sau đó mới chỉ đạo hoặc đề nghị cấp có thẩm
quyền XLKL về hành chính theo quy định [1] thì thời hạn XLKL CC tính từ
khi có kết luận của cấp ủy, tổ chức đảng hay từ khi có văn bản chỉ đạo hoặc
đề nghị của cấp uỷ, tổ chức đảng. Vì theo quy định hiện nay của Đảng không
quy định về thời hạn thi hành kỷ luật Đảng, nên quá trình xem xét thi hành kỷ
luật của các tổ chức đảng có thẩm quyền sau khi có kết luận về hành vi vi
phạm đến khi XLKL có thể kéo dài hơn 2 tháng (thậm chí là hơn 4 tháng);
sau đó mới có văn bản chỉ đạo hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền XLKL
CC về hành chính. Trong trường hợp này, nếu thời hạn XLKL CC tính từ thời
điểm có văn bản chỉ đạo hoặc đề nghị XLKL thì còn thời hạn XLKL, nên
người có thẩm quyền sẽ xem xét XLKL theo quy định tại Nghị định 34;
nhưng nếu thời hạn XLKL CC tính từ thời điểm có kết luận của cấp uỷ, tổ
chức đảng, thì hết thời hạn XLKL, nên không XLKL CC vi phạm, trường hợp
99
này đương nhiên là không hợp lý, đồng thời không đồng bộ với XLKL Đảng
theo quan điểm chỉ đạo của Đảng.
Vậy nên trường hợp CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý bị xem xét
XLKL khi đã có kết luận về hành vi vi phạm pháp luật của cấp ủy, tổ chức
đảng có thẩm quyền theo quy định của Đảng, thì pháp luật nên quy định thời
hạn XLKL CC tính từ ngày cấp uỷ, tổ chức đảng có thẩm quyền theo quy
định của Đảng có văn bản chỉ đạo hoặc đề nghị XLKL về hành chính.
Thứ ba, trường hợp qua thanh tra kết luận về hành vi vi phạm của CC,
nhưng sau đó do có yếu tố liên quan nên kết luận được cấp có thẩm quyền
tiến hành thanh tra lại theo quy định, thời gian thanh tra lại kéo dài hơn 2
tháng so với kết luận thanh tra lần đầu, thì thời hạn tính như thế nào? Vì theo
quy định tại khoản 1, Điều 7 Nghị định 34 thì: “Thời hạn XLKL tối đa là 02
tháng, kể từ ngày phát hiện CC có hành vi vi phạm pháp luật cho đến ngày cơ
quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định XLKL”; sau khi có kết
luận thanh tra (lần đầu) thì hành vi vi phạm của CC đã được phát hiện. Tuy
nhiên, nếu thời hạn XLKL bắt đầu tính từ khi có kết luận thanh tra lần đầu,
nhưng phải chờ kết luận thanh tra lại mới có cơ sở để xem xét XLKL CC thì
quá thời hạn luật định; nhưng nếu tiến hành xem xét XLKL trong thời hạn 2
tháng (trước khi có kết luận thanh tra lại) thì chưa đủ cơ sở để xem xét,
XLKL, vì kết luận thanh tra lại có thể thay đổi so với kết quả thanh tra lần
đầu. Điều này cũng chưa được làm rõ trong quy định của pháp luật.
Do đó, pháp luật nên quy định trường hợp sau khi có kết luận thanh tra
về hành vi vi phạm của CC, trong thời hạn XLKL theo quy định (2 tháng,
hoặc 4 tháng nếu có kéo dài), nếu cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh tra
lại vụ việc có liên quan, thì thời hạn XLKL được tính từ khi có kết luận thanh
tra lại đến khi có quyết định XLKL của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3.1.4.6. Về tổ chức kiểm điểm công chức vi phạm
100
Theo quy định tại khoản 4, Điều 16 Nghị định 34 thì: “Biên bản các
cuộc họp kiểm điểm phải có kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật đối với CC
có hành vi vi phạm pháp luật”; tuy nhiên, văn bản pháp luật không quy định
cách thức biểu quyết tại cuộc họp như thế nào có được kết quả kiến nghị áp
dụng hình thức kỷ luật, do đó dể dẫn đến tình trạng thực hiện tuỳ nghi, cách
thực hiện không thống nhất; từ đó có thể dẫn đến kết quả kiến nghị áp dụng
hình thức kỷ luật sẽ có mức độ chính xác, khách quan khác nhau, do bị tác
động, ảnh hưởng bởi tâm lý ngại va chạm, sợ mất lòng trong việc biểu quyết
bằng giơ tay, hay bởi ý chí chủ quan của chủ trì cuộc họp nếu không thực hiện
biểu quyết bằng phiếu kín.
Do vậy pháp luật cần bổ sung quy định cuộc họp kiểm điểm CC vi
phạm phải biểu quyết bằng phiếu kín để kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật
đối với CC vi phạm pháp luật.
3.1.4.7. Về thành lập Hội đồng kỷ luật
Tại điểm b, khoản 2, Điều 17 Nghị định 34 quy định: “CC giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý bị xem xét XLKL khi đã có kết luận về hành vi vi phạm
pháp luật của cấp ủy, tổ chức đảng theo quy định phân cấp quản lý CBCC của
Ban Chấp hành Trung ương”.
Tuy nhiên, hiện nay Ban Chấp hành Trung ương không có quy định
phân cấp quản lý CBCC mà do Bộ Chính trị quy định phân cấp quản lý
CBCC; trên cơ sở đó giao cho Cấp ủy cấp dưới quy định CBCC do cấp mình
quản lý và phân cấp cho cấp dưới quản lý. Hơn nữa, theo quy định của Đảng
thì ngoài cấp ủy, còn nhiều tổ chức đảng khác cũng có thẩm quyền kiểm tra,
kết luận đối với đảng viên là CBCC, nhưng không có thẩm quyền quản lý
CBCC như: ủy ban kiểm tra, ban đảng các cấp uỷ (trừ CBCC thuộc nội bộ cơ
quan).
101
Ngoài ra, kết luận về hành vi vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng có thể
đối với CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý do cấp ủy cấp mình quản lý, nhưng
cũng có thể kết luận đối với CBCC do cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới quản lý,
theo nguyên tắc cấp trên có thẩm quyền kiểm tra, kết luận đối với tổ chức
đảng và đảng viên cấp dưới quản lý, kể cả dưới nhiều cấp.
Đối với các kết luận này có phải là cơ sở để không thành lập Hội đồng
kỷ luật hay không thì vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Do vậy mà cách hiểu và
thực hiện nội dung này còn tuy nghi, cảm tính, thiếu thống nhất.
Do đó, để thống nhất cách hiểu và thực hiện hiệu quả nội dung quy
định này, cần sửa đổi quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 17 Nghị định 34 về
không thành lập hội đồng kỷ luật như sau: “CC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
bị xem xét xử lý kỷ luật khi đã có kết luận về hành vi vi phạm pháp luật của
cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền theo quy định của Đảng”.
3.1.4.8. Về nguyên tắc họp Hội đồng kỷ luật:
Thứ nhất, một trong những nguyên tắc làm việc của Hội đồng kỷ luật
được quy định tại khoản 3 Điều 17 Nghị định 34 là “Hội đồng kỷ luật họp khi
có đủ 03 thành viên trở lên tham dự, trong đó có Chủ tịch Hội đồng và Thư ký
Hội đồng”. Có thể thấy rằng, quy định như Nghị định 34 sẽ khắc phục được
tình trạng kéo dài thời hạn họp Hội đồng kỷ luật vì không có đầy đủ các thành
viên tham dự. Tuy nhiên, mặt hạn chế của quy định này là không nhỏ, việc
họp khi chỉ có 3 thành viên trong đó 2 thành phần bắt buộc sẽ dẫn đến tình
trạng sau:
Một là, tính khách quan, công bằng trong việc xem xét kỷ luật CC sẽ
không được đảm bảo. Mỗi thành viên trong Hội đồng kỷ luật đều có vai trò
nhất định trong việc đánh giá, xem xét toàn diện về hành vi vi phạm của CC.
Đơn cử, nếu vắng mặt đại diện ban chấp hành công đoàn trong hội đồng kỷ
luật thì việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của CC sẽ không được thể hiện. Khi
102
đó, tính khách quan, công bằng sẽ phụ thuộc nhiều vào sự tích cực và trách
nhiệm của những thành viên khác trong hội đồng.
Hai là, quy định nguyên tắc “hội đồng kỷ luật họp khi có 3 thành viên
trở lên” đã có sự mâu thuẫn trong việc đảm bảo nguyên tắc tiếp theo là “Hội
đồng kỷ luật kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật thông qua bỏ phiếu kín”.
Hội đồng kỷ luật họp khi có đủ 3 thành viên trở lên tham dự, như vậy, có thể
là 3, 4 hoặc 5 thành viên họp Hội đồng kỷ luật. Trong trường hợp hội đồng có
4 thành viên họp thì nguyên tắc bỏ phiếu kín sẽ được thực hiện như thế nào?
Kéo theo đó là kết quả cuối cùng sẽ thế nào nếu hai bên biểu quyết ngang
nhau. Nghị định 34 cũng không có bất kỳ quy định nào để giải quyết trường
hợp này.
Chính vì vậy, nên quy định lại giống như khoản 2 Điều 12 Nghị định
35 là “Hội đồng kỷ luật chỉ họp khi có đầy đủ các thành viên”. Quy định này
mặc dù có thể kéo dài thời hạn họp Hội đồng, tuy nhiên, đây là quy định đảm
bảo tính khách quan, công bằng. Mặt khác, mỗi thành viên trong Hội đồng
đều có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nên nếu vắng một trong năm người thì
kết quả kỷ luật sẽ không được đảm bảo. Bên cạnh đó, quy định họp khi đầy
đủ 5 thành viên của Hội đồng sẽ không mâu thuẫn với quy định “Hội đồng kỷ
luật kỷ luật kiến nghị áp dụng hình thức kỷ luật thông qua bỏ phiếu kín” và
không có tình trạng bỏ phiếu ngang bằng nhau.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định 34 thì “Trường
hợp nhiều CC trong cùng cơ quan, tổ chức, đơn vị có hành vi vi phạm pháp
luật thì Hội đồng kỷ luật họp để tiến hành xem xét XLKL đối với từng CC”.
Quy định này vẫn còn chưa rõ ràng dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp
luật khác nhau, cụ thể, quy định này có thể hiểu theo hai hướng, đối với
trường hợp trên sẽ thành lập một Hội đồng XLKL cho tất cả các trường hợp
hay mỗi trường hợp sẽ thành lập hội đồng riêng? Trong trường hợp này nên
103
hiểu theo cách thứ hai là có hội đồng riêng cho từng trường hợp CC vi phạm.
Vì thành phần Hội đồng kỷ luật phải có người trực tiếp quản lý hành chính và
chuyên môn, nghiệp vụ của CC bị xem xét kỷ luật, nếu thành lập một hội
đồng kỷ luật cho tất cả các CC thì khó đảm bảo được thành phần này trong
hội đồng.
Chính vì vậy, sẽ là hợp lý nếu thành lập Hội đồng kỷ luật riêng để
XLKL từng CC trong trường hợp nhiều CC trong cùng cơ quan có hành vi vi
phạm.
3.1.4.9. Về giải quyết khiếu nại kỷ luật
Tuy đã có Luật Khiếu nại năm 2011 và Chính phủ ban hành Nghị định
số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 Quy định chi tiết một số điều của Luật
Khiếu nại, trong đó có quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại các quyết
định kỷ luật, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật của CC trong cơ
quan Nhà nước, nhưng mới chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, gây khó
khăn cho việc áp dụng chúng vào đời sống thực tế, nhiều vụ việc không có đủ
cơ sở để giải quyết hoặc không được giải quyết dứt điểm (thiếu các văn bản
pháp luật hướng dẫn chi tiết việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ
luật CC trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước). Do đó cần có
hướng dẫn cụ thể để thực hiện quy định này.
3.1.4.10. Về vai trò của Toà hành chính trong việc xét xử các quyết
định xử lý kỷ luật công chức
Hoạt động của Tòa hành chính trong việc giải quyết các vụ án hành
chính, trong đó có những vụ án xét xử các khiếu kiện hành chính liên quan
đến các quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với CC thời gian qua ít mang lại
hiệu quả. Vì vậy, cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa hành chính
và bồi dưỡng, đạo tạo kiến thức về quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ thẩm phán hành chính, có như vậy mới tạo ra cơ chế đảm bảo
104
tính đúng đắn của quyết định kỷ luật, đó là việc hoạt động có hiệu quả của
Tòa hành chính.
Trong thời gian tới cần nghiên cứu bổ sung thẩm quyền, hoàn thiện
thiết chế Toà Hành chính để có khả năng trở thành chủ thể thứ hai (ngoài cơ
quan, tổ chức quản lý CC) được quyền xem xét áp dụng hình thức XLKL
hành chính đối với CC khi có hành vi vi phạm qui tắc công vụ.
Hoàn thiện vai trò của Toà Hành chính trong việc áp dụng hình thức
XLKL hành chính đối với CC hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng tại
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 là: “Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo, bảo đảm
mọi quyết định và hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và có
thể bị khởi kiện trước toà án”.
3.1.5. Hoàn thiện quy định pháp luật về các hệ quả khác khi công
chức bị xử lý kỷ luật
Quy định pháp luật về kéo dài thời hạn nâng lương đối với CC bị
XLKL còn một số bất cập cần xem xét sửa đổi như sau:
Thứ nhất, khoản 1, Điều 82 của Luật CBCC quy định: “CBCC bị khiển
trách hoặc cảnh cáo thì thời gian nâng lương bị kéo dài 6 tháng, kể từ ngày
quyết định kỷ luật có hiệu lực, nếu bị giáng chức, cách chức thì thời gian nâng
lương kéo dài 12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực”. Việc kéo
dài thời gian nâng lương được hiểu như hậu quả bất lợi mang tính chất kinh tế
bổ sung mà CBCC vi phạm kỷ luật phải gánh chịu khi bị áp dụng hình thức
kỷ luật nhất định. Để đảm bảo công bằng thì lẽ dĩ nhiên các CBCC bị kỷ luật
cùng một hình thức sẽ bị áp dụng hậu quả mang tính bổ sung như nhau. Tức
là cả CBCC bị khiển trách, cảnh cáo đều bị kéo dài thời gian nâng lương 12
tháng so với thời hạn nâng lương khi không có vi phạm kỷ luật. Song, quy
105
định nói trên có thể gây ra cách hiểu hoàn toàn khác. Lý do là thời gian nâng
lương bị kéo dài (06 tháng hoặc 12 tháng) được quy định là tính từ ngày quyết
định kỷ luật có hiệu lực pháp luật. Có thể diễn giải cách hiểu này như sau: Giả
sử một CC bị cách chức, nếu thời điểm quyết định cách chức có hiệu lực
trùng với thời điểm đến hạn nâng lương bình thường thì CC đó phải đợi 12
tháng nữa mới được nâng lương; nếu thời điểm quyết định cách chức có hiệu
lực xảy ra trước kỳ hạn nâng lương 4 tháng thì CC đó phải đợi 8 tháng sau kì
hạn nâng lương bình thường mới được nâng lương; nếu thời điểm quyết định
cách chức có hiệu lực xảy ra trước kỳ hạn nâng lương quá 12 tháng thì đến kỳ
hạn nâng lương bình thường, CC đó vẫn được nâng lương (vì đã quá 12 tháng
kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực). Cách hiểu này rất phù hợp với nội
dung được thể hiện trong khoản 1, Điều 82 Luật CBCC nhưng rõ ràng không
đúng với tinh thần của Luật [23].
Thứ hai, theo quy định tại khoản 1, Điều 82 Luật CBCC thì: “CBCC bị
khiển trách hoặc cảnh cáo thì thời gian nâng lương bị kéo dài 06 tháng, kể từ
ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực”. Quy định như vậy vô hình dung đánh
đồng giữa hình thức kỷ luật khiển trách và cảnh cáo.
Để khắc phục bất cập như phân tích trên, quy định khoản 1, Điều 82
Luật CBCC nên được sửa đổi như sau: “CBCC bị khiển trách thì thời gian
nâng lương bị kéo dài 6 tháng; bị cảnh cáo thì thời gian nâng lương bị kéo dài
9 tháng; nếu bị giáng chức, cách chức thì thời gian nâng lương bị kéo dài 12
tháng. Kỳ hạn nâng lương bị kéo dài là kỳ hạn trong đó quyết định kỷ luật có
hiệu lực”. Điều đó có nghĩa là trong mọi trường hợp thời gian kéo dài đều là
khoảng thời gian được cộng thêm vào kỳ hạn nâng lương bình thường, việc
xác định thời điểm có hiệu lực của quyết định kỷ luật chỉ để xác định việc kéo
dài thời gian nâng lương được thực hiện trong kỳ hạn nâng lương nào. Ví dụ,
nếu việc XLKL CBCC được bắt đầu từ kỳ nâng lương trước nhưng đến kỳ
106
nâng lương sau quyết định kỷ luật mới có hiệu lực thì thời gian nâng lương bị
kéo dài ở kỳ nâng lương sau.
3.2. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm
kỷ luật công chức hành chính trong cơ quan hành chính nhà nƣớc
Để việc thực hiện pháp luật trong XLKL CC đạt yêu cầu, hiệu quả,
ngoài việc bổ sung, sửa đổi khắc phục những bất cập để hoàn thiện các quy
định pháp luật về XLKL CC, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp trong
thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm kỷ luật CC hành chính, đó là:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò trách
nhiệm của người có thẩm quyền đối với công tác XLKL CC. Thực hiện nhất
quán quan điểm và quy định của Đảng là mọi CBCC, đảng viên vi phạm thì
phải XLKL công minh, chính xác, kịp thời; một mặt để giữ nghiêm kỷ cương,
kỷ luật trong Đảng và cơ quan hành chính nhà nước; mặt khác nhằm giáo dục,
phòng ngừa hành vi vi phạm của CBCC, đảng viên, làm trong sạch bộ máy
Nhà nước và nội bộ Đảng. Bên cạnh đó, người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước các cấp, song song với việc tăng cường công tác giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật và tăng cường công tác quản lý đối với CC thuộc quyền
quản lý, giảm thiểu tình trạng vi phạm pháp luật; mặt khác cần phải quan tâm
đúng mức, thực hiện nghiêm túc và đúng quy định pháp luật trong XLKL CC
thuộc thẩm quyền.
Thứ hai, thường xuyên phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật cho CC, nhất là CC trực tiếp làm công tác XLKL CC. Ý thức pháp
luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động xây dựng, ban hành và thực
hiện pháp luật. Khi CC có ý thức pháp luật cao, nhận thức đầy đủ và sâu sắc
pháp luật XLKL CC và các pháp luật có liên quan, có kinh nghiệm trong công
tác XLKL, có khả năng nhạy bén, nhanh chóng trong phát hiện các hành vi vi
phạm, lựa chọn đúng chế tài và áp dụng vào từng trường hợp cụ thể phù hợp
107
với quy định của pháp luật thì việc áp dụng pháp luật trong XLKL CC đạt
được chất lượng, hiệu quả.
Thứ ba, thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CC
nhằm đảm bảo cho CC có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Bảo đảm sự nghiêm minh trong thực thi pháp luật và
củng cố niềm tin của nhân dân vào đội ngũ CC trong các cơ quan hành chính
nhà nước. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện công tác quản
lý CC và phong trào thi đua, khen thưởng tại đơn vị. Bên cạnh đó cần nâng
cao nhận thức cho đội ngũ CC trong các cơ quan hành chính nhà nước, trước
hết là người đứng đầu về vị trí, ý nghĩa, mục đích, tác dụng của việc chấp
hành kỷ luật để họ chủ động, tự giác chấp hành.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả các hoạt động ngăn chặn, phòng chống, đẩy
lùi các biểu hiện tiêu cực trong mỗi đơn vị. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị phải gương mẫu chấp hành và quản lý chặt chẽ đội ngũ CC trong cơ
quan, đơn vị.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát việc XLKL CC.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đối với CC của cơ quan, đơn
vị, tổ chức và người đứng đầu cơ quan. Theo dõi, đôn đốc và kiểm tra hoạt
động của CC có ý nghĩa quan trọng trong việc kịp thời, phát hiện, ngăn chặn
hành vi vi phạm của CC trong thực thi công vụ và thực hiện công tác XLKL
CC, đồng thời tăng tính công khai, minh bạch của việc XLKL CC.
Chủ thể có quyền kiểm tra, giám sát việc XLKL đối với CC trước tiên
đó là cơ quan có quyền quản lý theo phân cấp quản lý CBCC của Đảng và
Nhà nước. Việc giám sát XLKL CC còn được tiến hành bởi chính cơ quan
XLKL CC theo thẩm quyền.
Ngoài ra, các tổ chức xã hội cũng có quyền giám sát việc XLKL của
các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền XLKL CC. Vai trò của các chủ
108
thể này khá quan trọng, nó giúp cho việc XLKL CC khách quan hơn, đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh đó, vai trò giám sát của nhân
dân cũng cần được đề cao trong việc phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm kỷ
luật của CC.
Bên cạnh đó cần thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa công tác thanh tra,
kiểm tra hành chính với công tác kiểm tra của Đảng để thực hiện hiệu quả,
đồng bộ, kịp thời giữa XLKL CC với thi hành kỷ luật Đảng.
Thứ sáu, tăng cường công tác thi đua, khen thưởng trong đội ngũ CC.
Công tác thi đua, khen thưởng ngày càng trở thành một trong những công cụ
hỗ trợ đắc lực trong quản lý Nhà nước; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng
không những góp phần tạo ra động lực cho phong trào mà qua đó, những
nhân tố tích cực được phát hiện và khen thưởng kịp thời sẽ tác động không
nhỏ động viên tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt tình, sự say mê sáng tạo của
CC dẫn đến việc hoàn thành nhiệm vụ công tác đạt chất lượng cao, đem lại
nhiều ích lợi cho xã hội. Qua đó, giảm thiểu được tình trạng vi phạm kỷ luật
của CC, tạo niềm tin vững chắc cho họ yên tâm công tác.
Thứ bảy, Nhà nước nghiên cứu từng bước cải cách chế độ tiền lương
cho đội ngũ CC hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng
và trong toàn bộ hệ thống chính trị nói chung để góp phần ổn định tư tưởng
CBCC, yên tâm công tác, hạn chế tối đa tệ nạn tiêu cực, tham nhũng, tận
tâm, tận lực trong thực thi công vụ, phục vụ nhân dân.
Tiểu kết Chương 3
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là yêu cầu tất yếu, khách quan trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những
giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về XLKL CC tác giả đã nêu ra tuy
có thể là chưa đầy đủ, nhưng nếu quan tâm, kịp thời sửa đổi, bổ sung sẽ góp
phần đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động thực hiện
109
pháp luật trong việc xem xét, XLKL CC trong các cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng và CC trong bộ máy nhà nước nói chung từ Trung ương đến
cơ sở.
Bên cạnh những giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật về XLKL
CC, các cơ quan hành chính tỉnh Ninh Thuận nói riêng và trên cả nước nói
chung cũng cần thực hiện đồng bộ những giải pháp khắc nâng cao hiệu quả
trong việc thực hiện pháp luật về XLKL CC, từng bước nâng cao trách nhiệm,
chất lượng, hiệu quả trong công tác xem xét, XLKL CC; góp phần xây dựng
nền công vụ hiện đại trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước.
110
KẾT LUẬN
Thực tế ở nước ta hiện nay, nhất là thời kỳ đổi mới, mở cửa, hội nhập,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình CC
không tuân thủ kỷ luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật là rất nghiêm
trọng, đến mức báo động, kể cả một số CC có chức, có quyền là đảng viên.
Điều đó đã và đang làm giảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, làm
mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Để đạt được mục đích
duy trì hoạt động của các tổ chức, cơ quan có nề nếp, kỷ cương, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, cần phải thực hiện nghiêm minh việc
XLKL CC trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Ở phương diện tích
cực, những quy định về XLKL giúp CC nhận biết những hành vi nào vi phạm
để tránh và nhằm phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm của CC trong hoạt
động công vụ; ở phương diện thứ hai, khi CC vi phạm thì phải XLKL kịp
thời, nghiêm minh, đúng người, đúng lỗi phạm.
XLKL CC là vấn đề quan trọng, nhạy cảm, không chỉ ảnh hưởng trực
tiếp tới quyền, lợi ích của họ mà đôi khi còn ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh
của cơ quan hành chính nhà nước có CC vi phạm. Nếu việc XLKL đối với CC
được thực hiện nghiêm minh, đúng pháp luật, cộng với hệ thống pháp luật đầy
đủ, khoa học sẽ góp phần ngăn ngừa hành vi vi phạm, nâng cao chất lượng
đội ngũ CC, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hành chính
của cơ quan Nhà nước.
Nếu việc XLKL đối với CC được thực hiện nghiêm minh, đúng pháp
luật, cộng với hệ thống pháp luật đầy đủ, khoa học sẽ góp phần ngăn ngừa
hành vi vi phạm, nâng cao chất lượng đội ngũ CC, đồng thời nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động hành chính của cơ quan Nhà nước.
Đề nghị các cấp thẩm quyền sớm hoàn thiện pháp luật về XLKL CC để
tạo cơ sở pháp lý; đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp khác để nâng cao
111
hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về XLKL CC, góp phần xây dựng và
phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn !
112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2016), Quy định số 30-QĐ/TW
ngày 26/7/2016 thi hành Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng về
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (2016), Nghị quyết hội nghị lần
thứ 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
3. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
4. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Quy định số 181-QĐ/TW
ngày 30/3/2013 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
5. Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Quy định số 102-QĐ/TW
ngày 15/11/2017 xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
6. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Nghị định
71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan.
7. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Nghị định số
97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 quy định về xử lý kỷ kuật và trách
nhiệm vật chất đối với CC.
8. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định số
107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định xử lý trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
113
9. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định số
118/2006/NĐ-CP ngày 10/10/2006 về việc xử lý trách nhiệm vật chất đối
với CB, CC.
10. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định
số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 về tuyển dụng, sử dụng, quản lý công
chức.
11. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị định
số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định chế độ trách nhiệm đối
với người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị của Nhà nước trong thi hành
nhiệm vụ, công vụ.
12. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định
số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định những người là công chức.
13. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nghị định
số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 quy định về xử lý kỷ luật công chức.
14. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị định
số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 quy định xử lý kỷ luật công chức và
trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của công chức.
15. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị định
số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 Quy định chi tiết một số điều của
Luật Khiếu nại.
16. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nghị định
số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 về công chức xã, phường, thị trấn.
17. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị định
số 211/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định
xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy
ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
114
18. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định
số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
19. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định
số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
20. Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1950), Sắc lệnh về
Quy chế CC.
21. Lương Thanh Cường (2007), "Một số vấn đề về pháp luật kỷ luật đối với
CB, CC", Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật, số 3 (2007).
22. Nguyễn Thị Dung (2014), “Chìa khóa sàng lọc công bộc”, Đại đoàn kết,
Hà Nội.
23. Trần Văn Duy, Nguyễn Thị Hạnh (2014), “Một số bất cập trong quy định
của Luật Cán bộ, công chức về xử lý kỷ luật cán bô, công chức”, Trang
web Người bảo vệ quyền lợi của Trung tâm Tư vấn pháp luật thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
24. Bùi Thị Đào (2007), "Thời hiệu xử lý kỷ luật cán bô, công chức", Tạp chí
Nhà nước và Pháp Luật, số 9, tr. 45-47.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Điều lệ Đảng khóa XII.
31. Nguyễn Hoàng Giáp (2012), “Thấm nhuần tư tưởng V.I. Lê nin về xây
dựng Đảng”, Nhân dân, Hà Nội.
32. Nguyễn Cao Hiếu (2017), “Một số bất cập về thời hiệu XLKL các chức
danh lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp nhà nước và người đại diện
phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
Hà Nội.
33. Học Viện Hành chính Quốc gia (2003), Giáo trình Hành chính công, Nxb.
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
34. Học Viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình Luật Hành chính và
Tài phán hành chính Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
35. Hội đồng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1979),
Nghị định số 217-CP ngày 08/6/1979 ban hành bản Quy định về chế độ
trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ
nhân dân của cán bộ, nhân viên và cơ quan Nhà nước.
36. Hoàng Minh Hội (2016), “Thực hiện pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị của Nhà nước trong công tác cán bộ và
quản lý cán bộ, công chức thuộc quyền và một số kiến nghị”, Tạp chí
khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 32 số 3 (2016), tr. 36-43.
37. Hồ Chí Minh (2006), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Cao Vũ Minh, Đặng Đình Thành (2014), “Quy định pháp luật về xử lý
công chức có hành vi tham nhũng, những bất cập và hướng hoàn thiện”,
Trang thông tin điện tử của Ban Nội chính Trung ương, Hà Nội.
116
39. Phạm Văn Như (2001), "Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức ở
nước ta hiện nay", Luận văn Thạc sĩ Quản lý nhà nước, Học viện Hành
chính Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn Hữu Phúc (2009), "Vai trò của trách nhiệm kỷ luật hành chính
trong quản lý cán bộ, công chức", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8, tr.
12-15.
41. Nguyễn Hữu Phúc (2010), "Chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính
trong pháp luật Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Luật học, Học Viện Khoa học
xã hội, Hà Nội.
42. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình
sự.
43. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Dân
sự.
44. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Phòng,
chống tham nhũng.
45. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bình
đẳng giới.
46. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật cán bộ,
công chức.
47. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Viên
chức.
48. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Thanh
tra.
49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu
nại.
50. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ luật Lao
động.
117
51. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí.
52. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo
hiểm xã hội.
53. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ Luật
Hình sự.
54. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tố tụng
hành chính.
55. Nguyễn Huy Quang , (2008) "XLKL đối với cán bộ, công chức Y tế -
Biện pháp quan trọng của quản lý nhà nước về Y tế", Tạp chí Quản lý nhà
nước, số 145, tr. 35-38.
56. Phạm Hồng Thái, Lê Thiên Hương (2001), "Trách nhiệm kỷ luật và trách
nhiệm bồi thường vật chất của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay", Đề
tài khoa học, Học Viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
57. Tô Quang Thu (2014), “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”,
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sưc chiến đấu của Đảng trong điều kiện
một đảng cầm quyền, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
58. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(1998), Pháp lệnh cán bộ, công chức.
59. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2000), Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
60. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2003), Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
61. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2003), Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm.
62. V.I Lê-nin (1978), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
118