intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước

Chia sẻ: Uchiha Kin | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

129
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dưới đây là tài liệu Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. Tài liệu trình bày về khái niệm về mua bán nợ; xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. Mời các bạn tham khảo tài liệu để bổ sung thêm kiến thức về lĩnh vực này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước

  1. Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước. 1. Khái niệm về mua bán nợ: Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần  tài sản đặc biệt là các "khoản nợ phải thu" từ đối tượng này sang đối  tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại "quyền thu hồi nợ"  từ một "khoản nợ phải thu" của Bên bán nợ (chủ nợ) đối với Khách nợ  sang cho Bên mua nợ (ví dụ như DATC) để Bên mua nợ trở thành chủ nợ  mới của Bên Khách nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện  đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải  trả (của bên khách nợ).   Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có "khoản nợ phải thu" 1000$ đối với Bên B  (khách nợ) do phát sinh trong một quan hệ kinh tế giữa 2 bên. Đến nay,  Bên A cần thu hồi phần tài sản này để đầu tư vào một dự án khác nhưng  Bên B chưa thanh toán được do khó khăn về tài chính hoặc khoản nợ chưa  đến hạn. Và Bên A bán khoản nợ phải thu này cho DATC với giá 1000$,  đồng thời chuyển giao toàn bộ "quyền thu hồi nợ" cho DATC để DATC  trở thành chủ nợ mới của Bên B và khi đó Bên B có trách nhiệm thanh  toán 1000$ cho DATC mà không phải thanh toán cho Bên A nữa.  • DATC: Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Doanh nghiệp)  thuộc Bộ tài chính.  • VAMC: Công ty Quản lý và khai thác tài sản Việt Nam.
  2. 2. Xử lý nợ xấu nhìn từ kinh nghiệm các nước.    Trong thời lỳ khủng hoảng tài chính Châu Á những năm 1997 – 1998,  phần lớn các nước Đông Á đã lập các Công ty Quản lý tài sản (AMC) trực  thuộc Nhà nước nhằm thanh lý nợ xấu đồng thời với thực hiện tái cấu  trúc hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.    Chính phủ các nước Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã thành  lập các công ty quản lý tài sản tập trung (AMCs) để xử lý nợ, thu hồi và  cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Cụ thể: Indonesia thiết lập  Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng (IBRA), với Malaysia là Tổ chức xử lý nợ  quốc gia (DANAHARTA), Hàn Quốc lập Công ty Quản lý Tài sản  (KAMCO). Riêng Thái Lan ban đầu chỉ thành lập Cơ quan tái cấu trúc tài  chính (FRA) để xử lý các vấn đề của các công ty tài chính và đến năm  2001, Thái Lan mới thành lập Công ty Quản lý Tài sản (TAMC). Các công  ty này chỉ hoạt động trong một số năm nhất định.   ­ Đặc điểm chung của 4 công ty xử lý nợ nói trên là được Chính phủ tài  trợ vốn và tổ chức tập trung hơn việc sử dụng một mô hình chỉ dựa vào  ngân hàng. Điều này có lẽ là do tính chất đặc thù có hệ thống về các vấn  đề ngân hàng và quy mô nợ xấu.   ­ Chính phủ các nước nói trên áp dụng hình thức mua sỉ tất cả các khoản  cho vay có vấn đề và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng.    Mô hình AMCs mang tính khả thi cao do nhiều ngân hàng không đủ  nguồn lực để tự tái cấu trúc các khoản nợ xấu của mình thông qua các  đơn vị trực thuộc hay các công ty con của ngân hàng. Hơn nữa, cơ sở pháp 
  3. lý so với các chuẩn mực thế giới ở các nước này vẫn còn lạc hậu cũng  góp phần tạo ra sự cần thiết phải có AMCs.    (1) Malayxia: Các công ty xử lý nợ tập trung cũng có các quyền hạn đặc  biệt để cắt giảm các thủ tục pháp lý. Ví dụ, Tổ chức xử lý nợ quốc gia  Malaysia có quyền xử lý tất cả các khoản nợ xấu chuyển giao mà không  cần phải xin phép các chủ tài sản. TAMC của Thái Lan cũng sử dụng  quyền hạn của mình để buộc các con nợ phải ngồi vào bàn đàm phán cho  việc thanh toán các khoản nợ vay của mình…    (2)  Hàn Quốc: nước bị khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong những  năm 1997­1998, vai trò tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn  kinh tế (Chaebol) trong quá trình giải quyết một danh mục nợ xấu lớn là  rất rõ ràng, cho dù nhiệm vụ mấu chốt được đề ra ngay từ khi AMC được  thành lập là giải quyết nợ xấu càng sớm càng tốt.    (3) Indonesia: IBRA của Indonesia được thành lập ngay năm 1998 với  mục tiêu ban đầu là tập trung hơn vào tái cấu trúc doanh nghiệp. Tuy  nhiên, trước áp lực phải nhanh chóng thanh lý các khoản nợ xấu để tài trợ  cho một ngân sách ngày càng bị thâm hụt, Công ty IBRA đã phải bán các  khoản nợ xấu chưa được tái cấu trúc kể từ đầu năm 2002.    (4) Trung Quốc, sau 4 năm giành rất nhiều thời gian và nguồn lực cho  việc tái cấu trúc hàng trăm doanh nghiệp Nhà nước cỡ lớn (chiếm khoảng  1/3 tổng giá trị các khoản nợ xấu được 4 công ty quản lý tài sản mua) chủ  yếu thông qua nghiệp vụ biến các khoản nợ thành cổ phần tại các doanh  nghiệp này, 4 AMC của Trung Quốc sau đó đã tập trung hơn vào việc bán  và thanh lý các khoản nợ xấu thông qua các công cụ khác nhau...
  4.     (5) Thái Lan: Cũng như các nước Đông Nam Á khác, Thái Lan thực  hiện xử lý nợ xấu bằng 03 giải pháp cơ bản.     Các giải pháp này bao gồm bơm vốn trực tiếp, công ty quản lý tài sản  AMC (Asset Management Company) và trung gian tái cơ cấu nợ CDRC  (Corporate Debt Restructuring Committee), trong đó AMC là một trong  những giải pháp mà Thái Lan đã áp dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng  hoảng cho đến nay.   ­ Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã gây nhiều tác động nặng  nề lên hệ thống tài chính ở Thái Lan, đặc biệt là khu vực ngân hàng. Nợ  xấu của khu vực ngân hàng liên tục gia tăng, cuối năm 1997 đạt mức cao  kỷ lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng đã tạo áp lực cho Chính phủ phải  nhanh chóng đưa ra những giải pháp kịp thời kiểm soát vấn đề này.   ­ Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan dựa trên các AMC có thể chia  thành 02 thời kỳ: phân tán và tập trung, trong đó mô hình phân tán có sự  tham gia của cả AMC sở hữu nhà nước (hỗ trợ bởi Quỹ Phát triển các  Định chế tài chính­FIDF) và các AMC sở hữu bởi ngân hàng tư nhân được  áp dụng lần lượt năm 1998 và 1999; còn mô hình AMC tập trung dựa trên  sự thành lập của Công ty quản lý tài sản Thái Lan (Thai Asset  Management Corporation – TAMC) vào năm 2001. Ba cơ chế AMC có  nhiều điểm khác nhau ở nguồn gốc tổ chức, điều khoản và điều kiện các  tài sản chuyển giao (xem Bảng 1). Thái Lan chỉ thực sự giải quyết nợ xấu  thành công theo mô hình AMC tập trung áp dụng trong giai đoạn sau  khủng hoảng. Bảng 1: Đặc điểm của 3 cơ chế AMC   Phân tán và định  Phân tán và định  Tập trung và định  hướng thị trường hướng nhà nước hướng nhà nước
  5. Số AMC 12 AMC hoạt động 4 AMC thuộc 5 ngân  1: Thai Asset  hàng sở hữu nhà  Management  nước (BAM, PAM,  Corporation (TAMC) SAM, và Radhanasin  AMC) Sở hữu Các ngân hàng tư  Quỹ Phát triển các  Bộ Tài chính nhân Định chế tài chính  (FIDF) Năm thành lập 8/1998 1998 (BBC), 1999  2001 ­ nay (UOBR), 2000 (KTB),  và 2002 (BMB và  SCIB) Mục tiêu / động Nguồn nhân lực xử Giải quyết nợ xấu và Xử lý nợ xấu, tránh  cơ thành lập lý nợ xấu ở các cơ  cơ cấu lại nguồn vốn các thủ tục pháp lý và  quan không đủ và  ngân hàng tòa án để tránh sự can  thiệp về chính trị Cơ sở hoạt  Nợ xấu của các  FIDF đảm bảo các  TAMC phát hành trái  động ngân hàng mẹ  trái phiếu được phát  phiếu (có sự bảo đảm  được chuyển sang  ra để mua lại nợ xấu  của FIDF) để tạo  AMC con từ các ngân hàng nhà  nguồn vốn mua nợ  nước xấu của các TCTD.  Nguyên tắc giải quyết  tài sản xấu là Chia sẻ  lời – lỗ giữa TAMC và  các TCTD Định giá  Trung bình 53% Không có tiêu chí lựa  Dựa trên giá trị của tài  chuyển giao tài  chọn và định giá cụ  sản bảo đảm (33,2%) sản trung bình  thể. Ở mức 33% cho  (% của giá trị  BAM, và giá thực tế  ban đầu hoặc  cho SAM và PAM giá trị sổ sách) Nợ xấu được  Rất nhỏ Đáng kể (52% cho  Tất cả tài sản từ mức  chuyển (% tổng  KTB) dưới chuẩn trở xuống,  dư nợ) với tổng giá trị là  784,4 tỷ Baht Tái cơ cấu tài  Tái cơ cấu chậm Không xác định 73,46% tính đến tháng  sản (% nợ xấu  6/2003
  6. được chuyển) Lợi ích từ việc  Không đáng kể do  Đáng kể vì cho phép  Đáng kể vì các ngân  chuyển nợ xấu chuyển nợ xấu  các ngân hàng đáp  hàng có thể tách tài  không thực sự tách  ứng nhu cầu cơ cấu  sản xấu khỏi bảng cân  nợ xấu khỏi bảng  lại nguồn vốn đối. Lời­lỗ được chia  cân đối của các  sẻ theo sự sắp xếp  ngân hàng. Các  giữa TAMC và các tổ  ngân hàng phải duy  chức tài chính trì mức an toàn vốn  cho cả nợ xấu hiện  có và các AMC,  khiến cho tài sản  cần đáp ứng tăng  gấp đôi AMC phân tán – kết hợp giữa định hướng nhà nước và định hướng  thị trường    ­ Mô hình AMC phân tán được áp dụng theo cách mỗi ngân hàng thành  lập AMC riêng và nợ xấu của các ngân hàng sẽ được chuyển sang những  AMC đó. Đối với khu vực nhà nước, các AMC sau khi thành lập sẽ phát  hành trái phiếu (có sự đảm bảo của FIDF) để mua nợ xấu từ các ngân  hàng sở hữu nó, trái phiếu không bán hết sẽ được FIDF mua lại, còn nợ  xấu sẽ được bán ra ngoài thị trường cho các nhà đầu tư trong và ngoài  nước. Nhưng đối với khu vực tư nhân, sau khi nợ xấu được chuyển  xuống các AMC trực thuộc theo giá thị trường hoặc giá trị sổ sách ròng,  ngân hàng sẽ thuê các công ty quản lý tài sản nước ngoài thực hiện quản  lý các tài sản của AMC với mức phí từ 2 – 5% trên giá trị tài sản ròng.   ­ Tuy nhiên, giải quyết nợ xấu thông qua mô hình AMC phân tán đã  không thành công khi nợ xấu ở các AMC của ngân hàng tư nhân gần như  không xử lý được, thậm chí mức an toàn vốn mà các ngân hàng phải duy  trì đã tăng lên gấp đôi. Còn ở các ngân hàng nhà nước, mục tiêu chủ yếu 
  7. của chuyển hóa tài sản là cơ cấu lại nguồn vốn ngân hàng chứ không  trọng tâm vào tối đa hóa giá trị hoàn lại của các khoản nợ xấu. AMC tập trung – theo định hướng nhà nước Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên  Thai Asset Management Corporation (TAMC) với cơ chế hoạt động khá  hệ thống: ­ Cơ sở pháp lý: TAMC hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý là Nghị định  TAMC (TAMC Emergency Decree B.E. 2544) với mục đích duy nhất là xử  lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD. ­ Cơ chế hoạt động: Hội đồng thành viên của TAMC bao gồm ủy ban  kiểm toán và các thành viên bên ngoài. Nguồn vốn hoạt động của TAMC  chủ yếu từ phát hành trái phiếu chiếm 96%, còn lại 0,4% là hỗ trợ từ  Chính phủ. TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có thời hạn 10 năm với  sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển giao sẽ định  giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc  chia sẻ lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh  lời thì ngân hàng bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ  xấu tạo lỗ thì ngân hàng đó sẽ phải chịu 20% khoản lỗ ấy. ­ Giải pháp xử lý: Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang TAMC  quản lý xuất phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với  các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện  tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên  nguyên tắc chia sẻ lời­lỗ. Đối với các khoản vay mà TAMC nhận thấy  còn khả năng trả nợ, TAMC đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại  diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt 
  8. động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Các  giải pháp điển hình lần lượt được thực hiện khá toàn diện theo thứ tự ưu  tiên như sau: + Đối với các khoản vay thuộc ngành bất động sản: TAMC đã phối hợp  chặt chẽ với Cơ quan Nhà ở Quốc Gia (National Housing Authority) để  chọn lọc các dự án còn nhiều tiềm năng và cơ quan này sẽ hỗ trợ phát  triển và quản lý bán dự án; riêng vấn đề nguồn vốn đầu tư cho dự án,  TAMC làm việc với hai TCTD là BankThai và Ngân hàng Tiết kiệm Chính  phủ (Government Saving Bank) để cung cấp tài chính cho các dự án trên  phát triển, hoàn thiện và bán ra thị trường trong thời gian ngắn nhất có  thể. + Đối với các khoản nợ trong khu vực sản xuất: TAMC tập trung giải  quyết vấn đề nợ xấu của 13 nhóm mục tiêu của Chính phủ, trong đó đặt  trọng tâm vào các ngành thiết yếu phát triển kinh tế cũng như mang lại  những cơ hội việc làm và giá trị kinh tế cao. Ưu tiên đầu tiên là ngành  công nghiệp sắt thép. TAMC làm việc với Viện Sắt Thép Thái Lan (Iron  and Steel Institute of Thailand) đưa ra các giải pháp phù hợp như hỗ trợ  (tài chính, tư vấn kỹ thuật) để các doanh nghiệp trong tình trạng khó trả  nợ sáp nhập với nhau để tăng quy mô, nguồn lực và phát triển sản xuất. + Đối với các doanh nghiệp vay nợ đang giao dịch trên Sàn Chứng khoán  Thái Lan (Stock Exchange of Thailand – SET), TAMC phối hợp với SET  để phát triển các kế hoạch tái cơ cấu và khôi phục lại giá trị cổ phiếu  một số doanh nghiệp dẫn đầu ngành, qua đó sẽ có hiệu ứng tích cực cho  các doanh nghiệp nhỏ hơn thuộc ngành đó.
  9. Trong khi AMC phân tán hầu như chỉ xử lý được nợ xấu với tỷ lệ rất nhỏ  thì với AMC tập trung, tính đến tháng 6/2003, số nợ xấu được TAMC  giải quyết là 784,4 tỷ Baht, đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ  xấu của hệ thống ngân hàng Thái Lan giảm rõ rệt xuống 12,9% năm 2003,  10% năm 2004 và tiếp tục giảm dần ở mức ổn định qua các quý từ năm  2005 đến nay (xem Bảng 2). Bảng 2: Tỷ lệ nợ xấu (%/tổng dư nợ) của hệ thống ngân hàng Thái  Lan (giai đoạn 2005 – 2011) Nguồn: Ngân hàng trung ương Thái Lan (BoT)    Kinh nghiệm xử lý nợ xấu thông qua công ty quản lý tài sản AMC ở  Thái Lan thực sự là một bài học hữu ích cho Việt Nam trong quá trình tái  cơ cấu hệ thống ngân hàng,đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu đang dần leo  thang. * Đánh giá.     Nhìn chung, các khoản nợ tại các quốc gia trong khu vực Đông Á  thường có chung một đặc tính là được đảm bảo bằng bất động sản. Vì  vậy, các điều luật về tịch biên tài sản không mang tính hiện thực cao 
  10. (trong giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra) đã cản trở  ngân hàng tịch thu tài sản đảm bảo khi các khoản nợ không được trả đúng  hạn. Thực tế quá trình giải quyết khủng hoảng nợ xấu diễn ra tại  Indonesia cho thấy IBRA đã được quyền tịch biên tài sản của các chủ thể  đi vay không hợp tác mà không cần đến các giấy tờ cần thiết từ phía toà  án.    Các AMC trong khu vực châu Á thường xuyên công bố tình hình hoạt  động và kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các bản báo cáo tháng,  quý, trong đó nêu rõ các quy trình và phương pháp xử lý nợ xấu. Chính phủ các nước trong khu vực châu Á cũng đã thành lập các cơ quan  chuyên trách theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động của các AMC thông  qua các tiêu chí như: Mức độ phục hồi của nợ xấu, số lượng và chất  lượng các khoản vay được tái cấu trúc…    Hầu hết hoạt động của các AMC đều tạo ra các khoản lỗ, vì vậy việc  chia sẻ thiệt hại phát sinh từ các hoạt động của AMC là điều rất đáng  được quan tâm. Các AMC trong khu vực Đông Á đều được tài trợ từ các  nguồn vốn của Chính phủ hoặc dưới các hình thức phát hành công cụ nợ  của chính các AMC này.    ­  Chính phủ Indonesia đã phát hành trái phiếu để hỗ trợ cho thanh  khoản của ngân hàng Trung ương và chương trình đảm bảo an toàn cho  người gửi tiền; tài trợ cho quá trình tái cấu trúc toàn bộ hệ thống ngân  hàng cũng như việc mua lại nợ xấu của IBRA. Trong khi đó, tại Hàn  Quốc, Thái Lan và Malaysia, tài trợ trực tiếp từ Chính phủ là không đáng  kể, chỉ chiếm từ 0,4% đến 20% tổng nguồn vốn cần thiết.
  11.    ­  Tại Trung Quốc, nguồn vốn được Chính phủ cung cấp không những  chỉ chiếm khoảng 3% giá trị nợ xấu được chuyển giao mà chỉ một phần  trong nguồn tài trợ này là tiền mặt, còn lại tồn tại dưới dạng nhà xưởng,  vật dụng và các tài sản khác sở hữu bởi các ngân hàng trước đó.    Phát hành trái phiếu AMC là phương pháp được Chính phủ các nước  khu vực Đông Á sử dụng để tạo vốn cho các AMC. Tại Hàn Quốc và Thái  Lan, trái phiếu AMC chiếm hơn 90% tổng nguồn tài trợ cho AMC; con số  này vào khoảng 60% tại Trung Quốc và Malaysia.     Sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc nâng cao vai trò của AMC trong  suốt quá trình giải quyết nợ xấu của toàn hệ thống luôn là công cụ hỗ trợ  đắc lực cho việc đẩy nhanh tiến độ chuyển giao nợ xấu từ các ngân hàng  sang các AMC.    * Phương pháp định giá của AMC trong việc mua nợ xấu từ ngân hàng  đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với tiến độ chuyển giao nợ xấu. Có 2  phương pháp định giá đã được các AMC trong khu vực Đông Á sử dụng:       ­ Phương pháp 1: định giá theo giá trị sổ sách và định giá theo giá trị  phù hợp.  Phương pháp 2: Phần lớn AMC tại các quốc gia khác trong khu vực  Đông Á áp dụng phương pháp định giá nợ xấu theo giá trị phù hợp.  Tại Thái Lan, Hàn Quốc và Malaysia, giá mua trung bình dao động  từ khoảng 1/3 đến 1/2 giá trị sổ sách của khoản nợ xẩu.    Sau khi xác nhận mua và nhận chuyển giao nợ xấu từ các ngân hàng,  nhiệm vụ còn lại của các AMC là tổ chức bán các khoản nợ xấu này tuỳ  theo đặc điểm của từng danh mục nợ xấu, mục tiêu và nhiệm vụ của 
  12. AMC trong từng thời kỳ hay các nhân tố khác mà kỹ thuật xử lý các  khoản nợ xấu này được các AMC chọn lựa.   *  Tại các quốc gia trên thế giới, có nhiều loại mô hình công ty mua bán  nợ: ­ Công ty do Nhà nước góp vốn hoặc công ty do tư nhân góp vốn.  ­ Đối với các công ty mua bán nợ tư nhân, một số hoạt động độc lập, một  số khác là công ty con của các ngân hàng hoặc đơn vị hoạt động trực  thuộc ngân hàng. Các công ty xử lý nợ của Nhà nước thường hoạt động  khá hiệu quả khi vấn đề nợ xấu mang tính hệ thống và khung pháp lý đối  với việc xử lý nợ vẫn còn yếu.    Chẳng hạn có những lúc trên thị trường, các khoản nợ xấu không có  người mua thì công ty xử lý nợ của Nhà nước có thể là nơi tiêu thụ các  khoản nợ xấu nói trên, và khi khung pháp lý cho việc xử lý nợ xấu chưa  được “khỏe” thì công ty xử lý nợ của Nhà nước có thể giúp rút ngắn được  quy trình xử lý nợ. Hơn nữa, việc Chính phủ mua lại các khoản nợ xấu  của ngân hàng thông qua các công ty xử lý nợ của Nhà nước có thể tạo ra  cơ hội cho Chính phủ áp đặt các điều kiện giúp các ngân hàng tái cấu trúc  lại vấn đề tài chính và cơ cấu hoạt động của mình.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2