intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xử lý nợ xấu ở Việt Nam nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác

Chia sẻ: Lê Thị Mỹ Duyên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

71
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để xây dựng một hệ thống ngân hàng mạnh, Việt nam đã có những giải pháp tích cực như: cấp vốn thêm cho các ngân hàng thương mại nhà nước, sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần, từng bước nới lỏng hoạt động của các ngân hàng nước ngoài, áp dụng các chuẩn mực kế toán, xếp loại tín dụng, phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, cơ cấu, thành lập các công ty quản lý tài sản (AMC) để xử lý nợ xấu cho các ngân hàng thương mại… Nhưng nợ xấu và xử lý nợ xấu vẫn là vấn đề hết sức nan giải, cần phải có những giải pháp hữu hiệu hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xử lý nợ xấu ở Việt Nam nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tháng 12/2004<br /> <br /> <br /> HUỲNH THẾ DU*<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> XỬ LÝ NỢ XẤU Ở VIỆT NAM NHÌN TỪ MÔ HÌNH TRUNG<br /> QUỐC VÀ MỘT SỐ NỀN KINH TẾ KHÁC<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> GIỚI THIỆU<br /> <br /> Trong gần 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt nam đã có những thay đổi<br /> đáng kể và đóng vai trò hết sức quan trọng phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng như Trung Quốc, một<br /> trong những cải cách không mang lại hiệu quả như mong đợi nhiều nhất ở Việt nam là cải cách hệ<br /> thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng đã bộc lộ nhiều vấn đề, ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Để<br /> xây dựng một hệ thống ngân hàng mạnh, Việt nam đã có những giải pháp tích cực như: cấp vốn thêm<br /> cho các ngân hàng thương mại nhà nước, sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần, từng bước nới<br /> lỏng hoạt động của các ngân hàng nước ngoài, áp dụng các chuẩn mực kế toán, xếp loại tín dụng, phân<br /> loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, cơ cấu, thành lập các công ty quản lý tài sản (AMC) để xử lý nợ xấu cho<br /> các ngân hàng thương mại… Nhưng nợ xấu và xử lý nợ xấu vẫn là vấn đề hết sức nan giải, cần phải có<br /> những giải pháp hữu hiệu hơn.<br /> <br /> Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, đến cuối năm 2003, tỷ lệ nợ xấu (quá<br /> hạn) của các ngân hàng thương mại Việt Nam chiếm 4,74% trong tổng dư nợ cho vay gần 300.000 tỷ<br /> VNĐ (tương đương với 14.200 tỷ VNĐ). Con số này chưa kể khoản nợ tồn đọng 21.280 tỷ VNĐ trước<br /> ngày 01/01/2001 mới chỉ xử lý được 13.386 tỷ đồng. Nếu tính số chưa được xử lý cộng với số nợ tồn<br /> đọng nêu trên thì số nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại Việt Nam là 22.094 tỷ VNĐ (bằng<br /> 7,36% dư nợ và 3,4% GDP). Nhưng theo ý kiến của bà Susan Adams đại diện thường trú cao cấp của<br /> IMF tại Việt Nam và ông Klaus Rohland - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> *Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Châu Văn Thành - Giám đốc Đào tạo, thầy Nguyễn Xuân Thành - nguyên Phó<br /> giám đốc phụ trách nghiên cứu, tiến sỹ Vũ Thành Tự Anh - phụ trách nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế<br /> Fulbright đã giúp tôi hình thành ý tưởng và hỗ trợ thực hiện bài viết này. Xin cảm ơn các thành viên tham gia buổi<br /> thảo luận ngày 20/10/2004 tại Trường Fulbright đã góp ý cho tôi rất nhiều vấn đề bổ ích để tôi thực hiện bài viết<br /> này.<br /> <br /> Những nội dung, nhận xét, bình luận trong bài nghiên cứu này chỉ là ý kiến riêng của tác giả mà không phải là<br /> công bố của Trường Fulbright.<br /> <br /> Bản quyền © 2004 Chương trinh Giảng dạy Kinh tế Fulbright.<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> thì nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15-20%1 (tương đương 45.000-60.000 tỷ VNĐ),<br /> chiếm từ 7-10% GDP Việt nam. Theo đánh giá của một số chuyên gia thì tỷ lệ nợ xấu lên đến 30%<br /> (Thomas 2003). Đây là con số lớn, nhưng so với Trung Quốc, nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập<br /> trung sang kinh tế thị trường trước Việt Nam gần một thập kỷ, thì con số này là không đáng kể. Vào<br /> thời điểm cuối năm 2003, nợ xấu của các ngân hàng Trung Quốc là 480 tỷ USD, chiếm 24,8% tổng dư nợ<br /> cho vay của hệ thống ngân hàng và 36% GDP (Herrero&Santabárbara 2004).<br /> <br /> Tỷ lệ nợ xấu cao của Trung Quốc và các nền kinh tế chuyển đổi chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp<br /> nhà nước mà nguyên nhân các doanh nghiệp này hoạt động không hiệu quả. Để giải quyết nợ xấu ở các<br /> ngân hàng (giải pháp xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh) 2, các nước áp dụng các mô hình xử lý nợ xấu<br /> khác nhau, có nước thành công, có nước không thành công. Trung Quốc đã và đang có những nỗ lực<br /> nhất định, nhưng việc xử lý nợ xấu ở các ngân hàng vẫn chưa đem lại kết quả như mong đợi.<br /> <br /> Với đặc điểm chuyển đổi nền kinh tế nói chung, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng gần<br /> tương tự như Trung Quốc, liệu trong một vài năm nữa, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng Việt Nam sẽ như<br /> thế nào? Ngay cả khi khối lượng nợ xấu không phát sinh thêm mà chỉ ở mức hiện tại thì những vấn đề<br /> rút ra cho Việt Nam từ Trung Quốc và một số mô hình xử lý nợ tiêu biểu trên thế giới (nhất là các nền<br /> kinh kế chuyển đổi) là gì? Đó chính là vấn đề được đặt ra trong bài nghiên cứu này.<br /> <br /> Để trả lời câu hỏi được đặt ra, bài viết sẽ đi tuần tự qua từng phần như sau: Phần thứ nhất là một sự so<br /> sánh giữa hệ thống ngân hàng Trung quốc và hệ thống ngân hàng Việt nam. Phần tiếp theo sẽ đánh giá<br /> thực trạng và những nguyên nhân gây ra nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt nam nói<br /> riêng, các nền kinh tế nói chung. Phần 3, đánh giá các mô hình xử lý nợ tiêu biểu, ưu điểm, nhược điểm,<br /> thành công và thất bại của nó. Phần 4 đánh giá việc lựa chọn mô hình và kết quả xử lý nợ xấu ở Trung<br /> Quốc và Việt nam. Phần 5 sẽ phân tích các nguyên nhân chính dẫn đến việc xử lý nợ xấu ở Trung Quốc<br /> và Việt nam chưa đạt được kết quả như mong đợi. Cuối cùng là các kết luận và đề xuất chính sách đối<br /> với việc xử lý nợ xấu tại các ngân hàng Việt nam.<br /> <br /> 1. Hệ thống ngân hàng Việt Nam - bản sao của mô hình Trung Quốc?<br /> <br /> Nhìn lại quá trình hình thành, phát triển và những việc mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đã và đang<br /> trải qua cho chúng ta thấy rằng, Hệ thống ngân hàng Việt Nam gần như là bản sao của hệ thống ngân<br /> hàng Trung Quốc. Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày 01/12/1948 (Trước thời<br /> điểm quốc khánh Trung Quốc), trên cơ sở hợp nhất các ngân hàng Bắc Hải, Hoa Bắc và Tây Bắc. Ngân<br /> hàng Nhân dân Trung Hoa trực thuộc Bộ Tài chính và hoạt động theo mô hình hệ thống ngân hàng một<br /> cấp (monobank), vừa làm nhiệm vụ phát hành tiền, vừa cung ứng tín dụng cho nền kinh tế. Để thực<br /> hiện chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, một số ngân hàng chuyên doanh được thành lập và sau<br /> này trở thành bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Trung Quốc Đến tháng 09/1983, Hội<br /> đồng Nhà nước Trung Quốc đã quyết định để cho Ngân hàng Nhân Dân Trung Hoa hoạt động như<br /> Ngân hàng Trung ương. Điều này có nghĩa là hệ thống ngân hàng hai cấp ở Trung Quốc chính thức<br /> được thành lập. Trong thập niên 80, bốn ngân hàng chuyên doanh, sau này trở thành bốn ngân hàng<br /> thương mại quốc doanh lớn nhất Trung Quốc có vai trò rất lớn gồm: Ngân hàng Trung Quốc (Bank of<br /> China - BOC), Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc (Construction China Bank - CCB), Ngân hàng Công<br /> thương Trung Quốc (Industrial and Commercial Bank of China - ICBC) và Ngân hàng Nông nghiệp<br /> Trung Quốc (Agriculture Bank of China - ABC). Các ngân hàng này có nhiệm vụ cấp phát vốn cho<br /> những khu vực chuyên biệt (gần với tên gọi của chúng) và có quan hệ (phụ thuộc) rất chặt chẽ với<br /> Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa. Cũng trong thời gian này, các hợp tác xã tín dụng, ngân hàng khu<br /> <br /> <br /> 1 Bà Susan Adams và ông Klaus Rohland trả lời phòng vấn của phóng viên hãng Reuter trong hội nghị “Đầu tư tại<br /> Việt Nam” ngày 17-18/08/2004<br /> 2 Để xử lý nợ xấu ở một hệ thống tài chính nào đó, có hai việc phải làm song song đó là xử lý các khoản nợ xấu đã<br /> <br /> phát sinh và ngăn chặn các khoản nợ xấu mới phát sinh. Trong bài nghiên cứu này, chỉ tập trung xem xét vế thứ<br /> nhất.<br /> <br /> <br /> Trang 2/26<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> vực, ngân hàng cổ phần bắt đầu được thành lập và hoạt động. Các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được<br /> tham gia theo hình thức liên doanh, thành lập chi nhánh hoặc thành lập ngân hàng 100% vốn nước<br /> ngoài. Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa năm 1995 đã khẳng định lại vai trò ngân hàng trung ương<br /> của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa. Đồng thời trong giai đoạn này, các ngân hàng chính sách cũng<br /> được thành lập nhằm tách bạch tín dụng chỉ định và tín dụng thương mại. Năm 1998, trước yêu cầu của<br /> việc xử lý nợ xấu, Chính phủ Trung Quốc đã rót 5 tỷ USD để thành lập 4 Công ty Quản lý tài sản với<br /> nhiệm vụ xử lý nợ cho 4 ngân hàng thương mại quốc doanh của Trung Quốc. Trong kỳ họp đầu tiên<br /> của Quốc hội khoá 10 (năm 2003) của Trung Quốc đã quyết định tách chức năng giám sát của Ngân<br /> hàng Nhân dân Trung Hoa để thành lập Uỷ ban giám sát ngân hàng Trung Quốc. Tháng 8/2004, lần<br /> đầu tiên một ngân hàng thương mại quốc doanh dược cổ phần hoá. Đó chính là Ngân hàng Trung<br /> Quốc. Hiện nay, các ngân hàng thương mại quốc doanh Trung Quốc vẫn chiếm lĩnh thị phần chủ yếu<br /> với 62%. Trong khi các loại hình khác như 123 Ngân hàng khu vực, ngân hàng cổ phần chiếm 21,5%,<br /> 36.000 hợp tác xã tín dụng chiếm 11,4%, 157 chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm 1,2% thị phần<br /> (Herrero&Santabárbara 2004) và (Pei&Shirai 2004).<br /> <br /> Đối với hệ thống ngân hàng Việt nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập vào ngày<br /> 06/05/1951. Tuy là thời điểm sau quốc khánh, nhưng là thời điểm trước khi giải phóng Miền bắc 1954.<br /> Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lúc bấy giờ là Ngân hàng Quốc gia, hoạt động theo mô hình ngân hàng<br /> một cấp. Để thực hiện nhiệm vụ cấp phát vốn cho nền kinh tế, các ngân hàng chuyên doanh lần lượt ra<br /> đời. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập năm 1957, Ngân hàng Nông nghiệp và<br /> Ngân hàng Ngoại thương được thành lập năm 1962, Ngân hàng Công thương Việt Nam được thành lập<br /> vào năm 1990. Năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chính thức hoạt động theo mô hình ngân<br /> hàng 2 cấp sau khi Hội đồng Nhà nước Việt Nam ban hành các pháp lệnh ngân hàng năm 1989 - thời<br /> điểm hệ thống các hợp tác xã tín dụng bị đổ bể. Chính điều này, khác với hệ thống ngân hàng Trung<br /> Quốc, các hợp tác tín dụng được đổi tên thành Quỹ tín dụng Nhân dân. Từ năm 1990, các ngân hàng cổ<br /> phần bắt đầu được thành lập, các ngân hàng nước ngoài được tham gia dưới hình thức thành lập chi<br /> nhánh hoặc liên doanh với các ngân hàng trong nước. Năm 1996, Ngân hàng người nghèo và sau đó đổi<br /> thành Ngân hàng chính sách được thành lập. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997, khẳng<br /> định lại vai trò Ngân hàng Trung ương của Ngân hàng Nhà nước Việt nam. Năm 2000, bốn công ty<br /> quản lý tài sản được thành lập để làm nhiệm vụ xử lý nợ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh,<br /> nhưng với mức vốn điều lệ chỉ 30 tỷ đồng. Một con số hoàn toàn không tương xứng với số nợ hơn<br /> 21.000 tỷ đồng vào cuối năm 2000. Ngoài ra, còn có một công ty quản lý tài sản thuộc ngân hàng thương<br /> mại cổ phần, nhưng mức vốn điều lệ chỉ có 3 tỷ đồng. Cũng giống như hệ thống ngân hàng Trung<br /> Quốc, 5 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh vẫn chiếm thị phần chi phối với 75%, 37 ngân hàng<br /> thương mại cổ phần chiếm 11%, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm 12%, các quỹ tín dụng nhân<br /> dân chỉ chiếm khoảng 1,5%3. Hơi khác với hệ thống ngân hàng Trung Quốc, hiện nay, Việt Nam chưa<br /> có ngân hàng 100%4 vốn nước ngoài và các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam chiếm một thị phần rất<br /> đáng kể, tới 12%, trong khi ở Trung Quốc chỉ có 1,2%.<br /> <br /> Hệ thống ngân hàng Việt Nam và Trung Quốc có một điểm khác biệt nữa là quy mô so với nền kinh tế.<br /> Vào cuối năm 2003, tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Trung Quốc lên đến 1.963 tỷ USD, bằng 165%<br /> tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trong khi tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ khoảng 20<br /> tỷ USD, bằng 50% GDP. Một con số còn khiêm tốn. Tuy nhiên, với mức độ tăng trưởng tín dụng trên<br /> 25% trong những năm qua, thì chỉ trong một thời gian ngắn nữa, dư nợ cho vay sẽ vượt quá GDP. Tốc<br /> độ tăng trưởng tín dụng cao như vậy đã được IMF, WB khuyến cáo là nóng, không có lợi cho việc ổn<br /> định kinh tế vĩ mô và phát triển dài hạn.<br /> <br /> Quá trình phát triển và cơ cấu hệ thống ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam có thể tóm tắt theo hộp<br /> dưới đây.<br /> <br /> <br /> 3Nguồn Ngân hàng Nhà nước Việt nam, IMF và tính toán của tác giả<br /> 4Theo Hiệp định thương mại Việt nam Hoa kỳ (BTA), đến năm 2010, các ngân hàng 100% vốn của Hoa Kỳ mới<br /> được phép thành lập và hoạt động tại Việt nam.<br /> <br /> <br /> Trang 3/26<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> <br /> <br /> Hộp 1:<br /> <br /> CÁC MỐC LỊCH SỬ CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG<br /> TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM<br /> <br /> TT CÁC MỐC LỊCH SỬ TRUNG QUỐC VIỆT NAM<br /> <br /> <br /> 1 1948-83 1951-90<br /> Hệ thống ngân hàng 1 cấp<br /> <br /> 2 Thành lập các ngân hàng chuyên doanh 1980s 1990s<br /> <br /> 3 NA 1997<br /> Thử nghiệm mô hình HTX tín dụng<br /> <br /> 4 Thành lập ngân hàng chính sách 1995 1996<br /> <br /> 5 Cơ cấu lại Ngân hàng Trung ương 1998<br /> <br /> 6 Thành lập các AMC 1999 2000<br /> <br /> 7 Thành lập uỷ ban giám sát ngân hàng 2003<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỊ PHẦN<br /> THEO HÌNH THỨC SỞ HỮU<br /> <br /> <br /> <br /> Trung Quốc Việt nam<br /> Loại hình tổ chức<br /> TT<br /> Số lượng Thị phần Số lượng Thị phần<br /> <br /> <br /> 1 Ngân hàng thương mại nhà nước 4 61% 5 75%<br /> <br /> 2 Ngân hàng chính sách 3 NA 1 NA<br /> <br /> 3 Ngân hàng khu vực, cổ phần 123 21.5% 37 11%<br /> <br /> 4 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 157 1.2% 27 12%<br /> <br /> 5 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 7 NA 0 0<br /> <br /> 6 Ngân hàng Liên doanh 7 NA 4 NA<br /> <br /> 7 Hợp tác xã tín dụng 36 11.4% 898 1.5%<br /> <br /> 8 Công ty quản lý tài sản 4 6<br /> <br /> <br /> NA: Không có số liệu<br /> <br /> Nguồn: Herrero&Santabárbara 2004, Ngân hàng Nhà nước Việt nam, IMF và ước tính của tác giả.<br /> <br /> Trang 4/26<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> 2. Nợ xấu và quá trình phát sinh nợ xấu ở Trung Quốc và Việt nam<br /> <br /> Khối lượng nợ xấu ở các ngân hàng Trung Quốc và Việt Nam<br /> <br /> Việc phân loại nợ có nhiều tiêu chí khác nhau. Theo chuẩn chung thì một khoản nợ được xem là xấu<br /> khi không còn khả năng thu hồi, bất kể nó là khoản mới cho vay hay đã cho vay từ lâu (không phân<br /> theo thời gian mà phân theo bản chất nợ). Tiêu chí này đang dần được áp dụng tại Trung Quốc và Việt<br /> nam. Tuy nhiên, phân loại nợ theo thời gian vẫn là tiêu chí đang được áp dụng tại Trung quốc và Việt<br /> nam. Trong bài Viết này, xin tạm dùng định nghĩa nợ xấu là các khoản nợ không thu hồi được đúng<br /> thời hạn. Khối lượng nợ xấu tính đến thời điểm cuối năm 2003 của các Ngân hàng Trung Quốc và Việt<br /> Nam như sau:<br /> <br /> TT Chỉ tiêu Thời gian Tỷ USD % Dư nợ %GDP<br /> <br /> <br /> I Trung Quốc<br /> <br /> <br /> 1 NHTM quốc doanh 12/2003 232 20 17<br /> <br /> <br /> 2 NH cổ phần 03/2004 23 7 2<br /> <br /> <br /> 3 NH chính sách 06/2003 19 18 1<br /> <br /> <br /> 4 03/2004 60 30 4<br /> Hợp tác xã tín dụng<br /> Tổng hệ thống ngân hàng 12/2003 373 19 28<br /> <br /> <br /> 5 Các AMCs 12/2003 107 0 8<br /> <br /> <br /> Tổng hệ thống tài chính 03/2004 480 0 36<br /> <br /> <br /> II Việt nam<br /> <br /> <br /> Các ngân hàng VN 12/2003 1,5-6 7-30 3,7-15<br /> <br /> <br /> Ngân hàng ĐT&PTVN(Nợ dưới<br /> <br /> chuẩn)5 12/2003 1,2 33,5<br /> <br /> <br /> Nguồn: Herrero&Santabárbara 2004, Ngân hàng Nhà nước Việt nam, IMF và ước tính của tác giả.<br /> <br /> <br /> Những nguyên nhân phát sinh nợ xấu<br /> <br /> Đối với một nền kinh tế, một hệ thống tài chính ngân hàng, nợ xấu phát sinh tập trung chủ yếu vào các<br /> nguyên nhân chính sau:<br /> <br /> Các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Vấn đề ở đây là sự việc kéo dài trong nhiều năm,<br /> các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Thua lỗ kéo dài dẫn đến việc<br /> <br /> <br /> 5Theo báo cáo kiểm toán do Ernst & Young thực hiện, ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tổng dư nợ<br /> không đạt tiêu chuẩn chiếm 67%, nợ dưới chuẩn 33,5% trong 52.860 tỷ đồng dư nợ cho vay vào cuối năm 2003.<br /> <br /> <br /> Trang 5/26<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> không thể hoàn trả được các khoản công nợ, nhất là các khoản nợ vay ngân hàng. Đây là loại nợ khó xử<br /> lý nhất và nó bị tồn đọng trong nhiều năm, bản chất là đã mất vốn, không còn tài sản tương ứng với các<br /> khoản nợ này. Đây cũng chính là nguyên nhân chính trong việc phát sinh nợ xấu ở các nước kém phát<br /> triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Các khoản nợ này thường tập trung vào các doanh nghiệp nhà<br /> nước hoặc các đối tượng doanh nghiệp được chính phủ ưu tiên.<br /> <br /> Mối quan hệ ràng buộc giữa chính phủ và các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước trong các nền<br /> kinh tế chuyển đổi: Chính sự trợ giúp của chính phủ đã tạo ra tâm lý ỷ lại “không trưởng thành” được<br /> của các doanh nghiệp nhà nước. János Kornai đã mô tả mối quan hệ ràng buộc này trong quyển sách<br /> “Hệ thống Xã hội chủ nghĩa” đã được dịch giả Nguyễn Quang A dịch sang tiếng Việt do Nhà xuất bản<br /> Văn hoá – Thông tin xuất bản năm 2002 như sau:<br /> <br /> Hộp 2:<br /> <br /> SỰ PHỤ THUỘC DỌC CỦA XÍ NGHIỆP<br /> <br /> 1. Gia nhập: Nhìn chung bộ máy quan liêu vẫn quyết định về việc thành lập mới các doanh<br /> nghiệp độc lập thuộc sở hữu công cộng. Bộ máy quan liêu thậm chí còn quyết định việc<br /> cấp phép thành lập các doanh nghiệp tư nhân và có cho phép cạnh tranh nhập khẩu<br /> không.<br /> <br /> 2. Rút lui: Bộ máy quan liêu quyết định khi nào giải thể một doanh nghiệp thuộc sở hữu công<br /> cộng. Việc này có quan hệ mật thiết thiết với hiện tượng ràng buộc ngân sách mềm.<br /> <br /> 3. Sáp nhập và tách: Cơ hội khởi xướng việc sáp nhập hay tách các xí nghiệp tăng lên, nhưng<br /> bộ máy quan liêu vẫn có quyền phán quyết cuối cùng.<br /> <br /> 4. Bổ nhiệm lãnh đạo: Bộ máy quan liêu hoặc quyết định trực tiếp hoặc có ảnh hưởng mang<br /> tính quyết định đến việc bổ nhiệm, chọn hay chuẩn y sự lựa chọn.<br /> <br /> 5. Đầu ra và đầu vào: Sự can thiệp của bộ máy quan liêu có thể là sự hỗ trợ hiệu quả khi có<br /> khó khăn mua một nguyên liệu đầu vào nào đó. Sự can thiệp này về đầu vào nhiều khi<br /> dẫn đến sự can thiệp không chính thức về đầu ra. Sự xoá bỏ kiểm soát đã làm tăng vai trò<br /> của của những hợp đồng tự nguyện trong các mối quan hệ giữa người bán và người mua.<br /> <br /> 6. Xuất nhập khẩu và trao đổi ngoại hối: Vai trò của doanh nghiệp sản xuất đã tăng đáng kể<br /> trong các giao dịch xuất nhập khẩu. Nhưng thậm chí cả khi doanh nghiệp được phép<br /> chính thức tham gia hoạt động ngoại thương, mà không phải nhờ vả đến một doanh<br /> nghiệp chuyên làm ngoại thương khác, thì các cơ quan cấp cao vẫn can thiệp bằng nhiều<br /> cách khác nhau như: việc quy định các mặt hàng xuất khẩu, thúc ép xí nghiệp hoàn thành<br /> các đơn hàng nhất định, ưu tiên một số thị trường và loại trừ các thị trường khác. Về nhập<br /> khẩu, hạn ngạch được thiết lập hoặc mỗi hợp đồng phải đi kèm với một thủ tục cấp phép.<br /> Cùng với tất cả các điều này, vẫn còn sự tập trung hoá chặt chẽ liên tục trong quản lý<br /> ngoại hối.<br /> <br /> 7. Sự lựa chọn công nghệ và phát triển sản phẩm: Các cơ quan cấp cao thường can thiệp vào việc<br /> lựa chọn công nghệ của doanh nghiệp cũng như việc lựa chọn các sản phẩm mới. Từ việc<br /> trợ cấp, các phương tiện tín dụng, đến giấy phép nhập khẩu… thường đều gắn bó với lựa<br /> chọn này.<br /> <br /> 8. Giá cả: Phi điều tiết từng phần được thực hiện trong việc định giá. Một dải rộng giá cả vẫn<br /> được quy định bởi các cơ quan có thẩm quyền, tuy vậy họ vẫn can thiệp vào việc quy định<br /> các mức giá, mà trên danh nghĩa người bán và người mua tự do quyết định. Các phương<br /> pháp tính toán được quy định, mức lãi được cố định và nếu mức giá được coi là cao một<br /> cách vô lý thì họ phản đối.<br /> <br /> 9. Việc làm và lương: Những giới hạn nhiều loại khác nhau ngăn cản việc thoả thuận tự do về<br /> <br /> <br /> Trang 6/26<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> lương giữa xí nghiệp sử dụng lao động và người lao động. Thường xuyên có sự can thiệp<br /> về việc làm thông qua các quy định chính thức hay không chính thức về các giới hạn trên<br /> và giới hạn dưới về việc làm.<br /> <br /> 10. Thuế và trợ cấp: Trên danh nghĩa, hệ thống thuế có hiệu lực thống nhất cho các doanh<br /> nghiệp. Trên thực tế, thì việc định mức thuế riêng cho một ngành hay cho một doanh<br /> nghiệp cụ thể là rất phổ biến và ngoài ra người ta còn có những nhượng bộ riêng lẻ về<br /> thực hiện nghĩa vụ thuế - cả về số thuế lẫn thời hạn nộp thuế.<br /> <br /> 11. Tín dụng và thanh toán nợ: Các đặc điểm của chế độ quan liêu vẫn tiếp tục chi phối hoạt<br /> động của ngành ngân hàng. Quan hệ giữa một ngân hàng và một xí nghiệp không phải là<br /> quan hệ thương mại theo chiều ngang, trong đó ngân hàng quan tâm đến chính lợi nhuận<br /> của mình, mà nó hoạt động như một ngành của chế độ quan liêu nhằm duy trì sự kiểm<br /> soát đối với doanh nghiệp.<br /> <br /> 12. Đầu tư: Phi điều tiết từng phần xảy ra trong việc quyết định đầu tư. Ở tất cả các nền kinh<br /> tế xã hội chủ nghĩa cải cách, có thể thấy sự gia tăng đáng kể tỷ trọng các khoản đầu tư mà<br /> doanh nghiệp có thể quyết định độc lập và nguồn tài chính chủ yếu là các khoản trích lại<br /> từ lợi nhuận. Tỷ trọng các khoản đầu tư không hoàn lại từ ngân sách giảm xuống, và vai<br /> trò của tín dụng ngân hàng tăng lên. Cho dù các khoản đầu tư từ nguồn tài chính tự có của<br /> doanh nghiệp tăng lên đáng kể, nhưng mức độ phi tập trung hoá thực tế khiêm tốn hơn<br /> thế nhiều. Các dự án lớn đòi hỏi sự tài trợ thêm ngoài các nguồn tài chính tự có của xí<br /> nghiệp. Điều này mở ra khả năng can thiệp đối với quyết định đầu tư từ các tổ chức tài<br /> chính nhà nước cung cấp vốn, từ ngân sách nhà nước hoặc từ hệ thống ngân hàng được<br /> tập trung hoá chặt chẽ.<br /> <br /> <br /> Những chính sách không hiệu quả hoặc nhà nước thay đổi chính sách tác động đến một số ngành, một số doanh<br /> nghiệp. Như chính sách đóng cửa rừng những năm cuối thập niên 90 đã ảnh hưởng không ít đến một số<br /> doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chế biến lâm sản. Chính sách xây dựng các nhà máy<br /> đường, chính sách dữ trữ cà phê... Sự thay đổi hoặc áp dụng các chính sách không hiệu quả nhiều khi<br /> gây ra những khối lượng nợ xấu rất lớn cho các ngân hàng6. Điều này cũng thường xảy ra đối với các<br /> nền kinh tế chuyển đổi. Vì quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm không tránh khỏi những điều bất<br /> hợp lý mà không thể lường đoán trước được.<br /> <br /> Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng. Do phản ứng dây chuyền, các doanh nghiệp tạm thời mất khả<br /> năng thanh khoản không đủ tiền để trả các khoản nợ vay. Các khoản nợ xấu phát sinh do nguyên nhân<br /> này là tương đối dễ xử lý và có thể xử lý trong một thời gian ngắn vì cơ bản các khoản nợ vẫn được cấn<br /> đối bằng các tài sản nằm bên trái bản cân đối chứ không phải là những khoản phải thu hay chi phí chờ<br /> phân bổ không bao giờ thực hiện được. Về bản chất kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp vẫn có khả năng<br /> phục hồi và hoạt động kinh doanh có hiệu quả.<br /> <br /> Đối với các nền kinh tế chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường, dù có chuyển<br /> đổi ngay hay làm từng bước một thì các doanh nghiệp nhà nước vẫn là khách hàng chính và là đối<br /> tượng gây ra nợ xấu cho các ngân hàng thương mại nhà nước nhiều nhất. Những khoản nợ xấu này<br /> chiếm tỷ lệ chủ yếu trong nợ xấu của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây cũng chính là sự<br /> khác biệt rất lớn trong việc xử lý nợ xấu của các nền kinh tế chuyển đổi và các nền kinh tế thị trường rơi<br /> vào khủng hoảng nói chung, xử lý nợ của hệ thống tiết kiệm ở Hoa Kỳ vào cuối thập niên 80 nói riêng.<br /> <br /> <br /> <br /> 6Tổng khối lượng đầu tư cho chương trình mía đường của Việt nam gần 700 triệu USD. Nợ khoanh cho các doanh<br /> nghiệp cà phê gần 1.000 tỷ đồng.<br /> <br /> <br /> Trang 7/26<br /> Xử lý nợ xấu ở Việt Nam: Nhìn từ mô hình Trung Quốc và một số nền kinh tế khác________________<br /> <br /> Đối với Trung Quốc và Việt nam, nợ xấu phát sinh chủ yếu là do nguyên nhân thứ nhất và thứ hai, tức<br /> là do các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và do sự thay đổi chính sách hoặc chính sách không<br /> thành công. Để thấy rõ vấn đề này, chúng ta cùng xem xét con nợ của các ngân hàng thương mại quốc<br /> doanh Trung quốc và Việt Nam là ai?<br /> <br /> Đối với Trung Quốc, đến cuối năm 2001, Trung Quốc còn 174.000 doanh nghiệp nhà nước, với tổng tài<br /> sản khoảng 2.032 tỷ USD, tổng nợ 1.186 tỷ USD, vốn chủ sở hữu 749 tỷ USD. Như vậy tỷ lệ nợ/vốn chủ<br /> sở hữu bằng 158%. Trong đó có 51,2% doanh nghiệp thua lỗ, số tài sản không luân chuyển (unhealthy<br /> asset) của các doanh nghiệp địa phương chiếm 15% tổng tài sản của các doanh nghiệp này (tương<br /> đương 186 tỷ USD)(Mako&Zhang 2003). Tổng dư nợ của các doanh nghiệp nhà nước trong các ngân<br /> hàng thương mại chiếm 75% (Unteroberdoester 2004) 7. Nợ xấu của các ngân hàng thương mại quốc<br /> doanh Trung Quốc chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (Pei&Shirrai 2004).<br /> <br /> Đối với Việt nam, đến cuối năm 2003, cả nước còn khoảng 4.800 doanh nghiệp nhà nước, tổng số vốn<br /> được đánh giá lại khoảng 189.000 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp sở hữu 40 tỷ đồng, song số<br /> doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 47%, đa số do địa phương quản lý. Tổng số nợ phải thu,<br /> phải trả là gần 300.000 tỷ đồng, trong đó khoản phải trả là 207.789 tỉ đồng mà các khoản nợ phải trả chủ<br /> yếu là vay ngân hàng (NH) và các tổ chức tín dụng (chiếm khoảng 76% nợ phải trả) 8. Thực tế trong 3<br /> năm qua, tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước chỉ ở mức 10%. Tỷ lệ lợi<br /> nhuận trên vốn là 10,8%. Số doanh nghiệp có lãi chiếm 77%, nhưng chỉ khoảng 40% trong số đó có mức<br /> lãi cao hơn lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại 9. Nếu loại trừ các doanh nghiệp có<br /> những lợi thế riêng biệt như bưu chính viễn thông, điện, khai khoáng, tài chính ngân hàng… và sử<br /> dụng suất chiết khấu hợp lý10 thì số doanh nghiệp có NPV
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1