intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xung đột môi trường trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai

Chia sẻ: ViMessi2711 ViMessi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

94
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài "Xung đột môi trường trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai" kiến nghị thực hiện một số giải pháp đi từ cơ chế, chính sách đến quy hoạch, nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý, khai thác tài nguyên nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xung đột môi trường trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai

Ngô Trà Mai<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 189(13): 107 - 113<br /> <br /> XUNG ĐỘT MÔI TRƯỜNG TRONG SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU<br /> VỰC SÔNG CHẢY ĐOẠN QUA TỈNH LÀO CAI<br /> Ngô Trà Mai*<br /> Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế luôn có những mâu thuẫn và xung đột. Sông Chảy, đoạn<br /> qua tỉnh Lào Cai, có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, thủy điện, khai thác khoáng<br /> sản. Sự phát triển của ngành nào ít nhiều cũng có những ảnh hưởng bất lợi đến sự tồn tại của các<br /> ngành khác gọi là tranh chấp và xung đột. Tiếp cận tổng thể và thông qua các phương pháp thu<br /> thập, phân tích, xử lý số liệu nhận dạng được ba xung đột chính: giữa thuỷ điện và thuỷ lợi; tích<br /> nước hồ chứa và khai thác khoáng sản; đắp đập ngăn sông và du lịch sinh thái. Cả ba dạng xung<br /> đột trên đều có nguyên nhân từ phân bố tài nguyên nước không đều theo không gian và thời gian,<br /> quy hoạch không đồng bộ, thiếu tính liên ngành trong quản lý. Để giảm thiểu và tiến tới giải quyết<br /> xung đột bài báo kiến nghị thực hiện một số giải pháp đi từ cơ chế, chính sách đến quy hoạch,<br /> nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý, khai thác TNN.<br /> Từ khóa: Tài nguyên nước, xung đột, thủy điện, thủy lợi, du lịch<br /> <br /> MỞ ĐẦU*<br /> Sử dụng tài nguyên để phát triển kinh tế luôn<br /> có những mâu thuẫn và xung đột. Mâu thuẫn<br /> là mức độ thấp, còn xung đột là mức độ cao<br /> có tính nghiêm trọng do quá trình khai thác<br /> tài nguyên không hợp lý, thiếu quy hoạch<br /> tổng thể và không tuân thủ định hướng phát<br /> triển bền vững [1]. Lào Cai là tỉnh miền núi<br /> phía Bắc Việt Nam, có nhiều điều kiện thuận<br /> lợi để phát triển du lịch, thủy điện, khai thác<br /> khoáng sản, trong đó phần lớn đều dựa vào<br /> điều kiện tự nhiên (địa hình, hệ sinh thái, dân<br /> tộc học...).<br /> Sông Chảy bắt nguồn từ Trung quốc và nhập<br /> vào sông Lô ở Phú Thọ. Đoạn chảy qua tỉnh<br /> Lào cai là phần thượng nguồn nên uốn khúc<br /> quanh co và lắm thác ghềnh, đây chính là yếu<br /> tố để xây dựng thủy điện. Sự phát triển của<br /> ngành nào ít nhiều cũng đều ảnh hưởng đến<br /> sự tồn tại của các ngành khác: tranh chấp về<br /> tài nguyên nước (TNN) khi xây dựng thủy<br /> điện làm thiếu nước cấp cho các cánh đồng và<br /> dân cư vùng hạ lưu, làm mất cơ hội khai thác<br /> cát sỏi lòng sông, ảnh hưởng đến phát triển du<br /> lịch sinh thái; khai thác cát sỏi làm giảm năng<br /> suất nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, tăng<br /> *<br /> <br /> Email: ngotramaimoitruong@gmail.com<br /> <br /> nguy cơ xói lở đường bờ, mất cơ hội du lịch...<br /> đã và đang là những tranh chấp tồn tại trên<br /> lưu vực sông Chảy. Các mâu thuẫn này cần<br /> được nhận dạng, phân tích nhằm tìm ra<br /> nguyên do để giải quyết, hạn chế xung đột.<br /> Có những mâu thuẫn lâu dài và khó giải quyết<br /> như mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo<br /> vệ môi trường, nhưng cũng có những mâu<br /> thuẫn có thể giải quyết với sự đồng lòng của<br /> các bên.<br /> Tuy nhiên để xem xét được tất cả các xung<br /> đột môi trường (XĐMT) cần có sự tham gia<br /> của các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực, thời<br /> gian nghiên cứu dài và nguồn kinh phí lớn. Vì<br /> vậy, trên cơ sở tổng hợp hệ thống tài liệu đã<br /> có, xử lý dữ liệu, mục tiêu của bài báo tập<br /> trung phân tích XĐTM giữa các ngành kinh tế<br /> có liên quan nhiều đến TNN lưu vực sông<br /> Chảy là: thủy điện, cấp nước tưới tiêu, khai<br /> thác khoáng sản, du lịch và đề xuất một số<br /> biện pháp giảm thiểu, đảm bảo phát triển hài<br /> hòa giữa lợi ích của các bên.<br /> TIẾP CẬN VẤN ĐỀ VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Có nhiều cách tiếp cận đối với việc nhận diện,<br /> phân tích và giảm thiểu XĐMT. Tuy nhiên<br /> quan điểm tiếp cận tổng thể được sử dụng<br /> chính trong nghiên cứu: các XĐMT được<br /> 107<br /> <br /> Ngô Trà Mai<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> xem xét trong các mối quan hệ của các ngành<br /> kinh tế và trong vùng không gian lãnh thổ là<br /> lưu vực sông Chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai.<br /> Hệ thống tài liệu sử dụng chủ yếu là các số<br /> liệu thống kê từ Niên giám thống kê của tỉnh<br /> trong 10 năm qua; các quy hoạch phát triển<br /> kinh tế - xã hội, TNN, khai thác khoáng sản<br /> và 17 tình huống XĐMT trong cơ sở dữ liệu<br /> của Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc<br /> (UNDP) tại Việt Nam, nhằm xác định các loại<br /> XĐMT [2, 3, 4]. Nhận dạng xung đột dựa<br /> theo Environmental Conflict Resolution<br /> (WRDC, 1992) [5]. Đầu tiên, qua các phương<br /> tiện thông tin đại chúng, các báo cáo môi<br /> trường và tình hình thực tế tại địa phương,<br /> một loạt các XĐMT được xác định [6, 9].<br /> Sau đó, lựa chọn những xung đột nổi bật, đại<br /> diện để phân tích. Thông qua bước này 03<br /> xung đột chính được nhận diện đều liên quan<br /> đến thủy điện là: thủy điện và thủy lợi; tích<br /> nước hồ chứa và khai thác khoáng sản; đắp<br /> đập ngăn sông và du lịch sinh thái.<br /> <br /> 189(13): 107 - 113<br /> <br /> Việc phân tích các xung đột dựa theo<br /> Chandrasekharan D., 1996 [7]. Các xung đột<br /> được phân tích theo các hướng là bản chất,<br /> các nhóm liên quan và đối tượng chịu ảnh<br /> hưởng. Giải quyết xung đột được tham khảo<br /> và đề tài cấp Bộ “Các giải pháp giải quyết<br /> mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước ở<br /> vùng Tây Nguyên” do Viện Chiến lược phát<br /> triển- Bộ Kế hoạch đầu tư thực hiện giai đoạn<br /> 2015-2017 có điều chỉnh để phù hợp với vùng<br /> nghiên cứu [8].<br /> TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG<br /> CHẢY VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC SỬ DỤNG<br /> Tài nguyên nước mặt<br /> Sông Chảy là phụ lưu cấp 1 của sông Lô, Đông<br /> Bắc Việt Nam (Hình 1). Dòng chính bắt nguồn<br /> từ đèo Hà Tao, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà<br /> Giang, theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua<br /> các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Phú<br /> Thọ sau đó và đổ vào sông Lô tại Đoan Hùng.<br /> <br /> Hình 1. Lưu vực sông Chảy<br /> <br /> Sông Chảy có diện tích lưu vực là Flv = 6.500 km², trong đó phần diện tích trong nước là 4.580<br /> km² chiếm 70,5% diện tích, phần còn lại thuộc Trung Quốc. Chiều dài sông là L = 319km, đoạn<br /> chảy qua tỉnh Lào Cai dài 124km, lòng sông sâu, hẹp, dốc lớn, nhiều thác ghềnh. Lưu lượng nước<br /> mùa lũ khoảng 1.670m3/s, mùa kiệt khoảng 17,6m3/s. Lưu lượng lớn nhất và nhỏ nhất (Qmax,<br /> Qmin) tại các trạm thủy văn trên sông Chảy được trình bày tại bảng 1.<br /> Bảng 1. Thống kê đặc trưng dòng chảy trạm thủy văn trên sông Chảy [3]<br /> Trạm<br /> Bảo Yên<br /> Cốc Ly<br /> Vĩnh Yên<br /> <br /> 108<br /> <br /> F(km2)<br /> 4300<br /> 3480<br /> 138<br /> <br /> Qmax (m3/s)<br /> 3250<br /> 2700<br /> 374<br /> <br /> Qmin (m3/s)<br /> 18,8<br /> 10,9<br /> 0,96<br /> <br /> Ngô Trà Mai<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Khai thác và sử dụng TNN mặt<br /> Nhu cầu sử dụng nước trên sông Chảy đoạn qua<br /> tỉnh Lào Cai có thể chia thành hai nhóm gồm:<br /> (a) Sử dụng làm tiêu hao lượng nước như tưới<br /> nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt và công<br /> nghiệp: Lưu vực chủ yếu tiêu hao nguồn nước<br /> cho tưới, nhu cầu nước sinh hoạt không lớn<br /> do tỷ lệ dân ở đô thị khoảng trên 20% và chỉ<br /> tập trung ở thành phố Lào Cai, sử dụng nước<br /> ngầm là chủ yếu, năng lực cấp khoảng 6070%. Công nghiệp chủ yếu là khai khoáng –<br /> chế biến khoáng sản; nông lâm sản, thực<br /> phẩm; sản xuất phân bón tại 2 KCN là Tằng<br /> Loỏng và Bắc Duyên Hải. Tuy nhiên lượng<br /> nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp không<br /> đáng kể so với tưới nông nghiệp, nên nghiên<br /> cứu này tập chung phân tích vào thủy lợi.<br /> Khai thác và sử dụng nước cho tưới: lưu vực<br /> có chức năng tưới cho khoảng 11.700 ha diện<br /> tích đất nông nghiệp. Khoảng 200 diện tích<br /> đất trồng màu, cây công nghiệp, đất hoang,<br /> đất trồng tạp... chưa có điều kiện cung cấp<br /> nước, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Tỉnh<br /> Lào Cai không có công ty quản lý khai thác<br /> thủy lợi, toàn bộ các công trình đều giao cho<br /> chính quyền cơ sở đảm nhận, hoạt động theo<br /> QĐ 837, đáp ứng được khoảng 60-70% nhu<br /> cầu tưới. Tuy nhiên, các công trình thuỷ lợi<br /> chưa phát huy hết năng lực do nhiều nguyên<br /> <br /> 189(13): 107 - 113<br /> <br /> nhân, trong đó chủ đạo là do hệ thống kênh<br /> dẫn chưa đầy đủ hoặc xuống cấp, tỷ lệ tổn<br /> thất lớn, chưa có quy trình vận hành hệ thống<br /> dẫn đến lãng phí nước.<br /> (b) Sử dụng không tiêu hao nước như thủy<br /> điện, giao thông thủy, khai thác cát – sỏi:<br /> Theo Bộ Công thương, sông Chảy đoạn qua<br /> tỉnh Lào Cai được quy hoạch các thủy điện sau:<br /> Khi 5 nhà máy thủy điện trên sông Chảy đi<br /> vào hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ với<br /> nhau về chế độ vận hành điều tiết hồ chứa<br /> phát điện, tích nước vào mùa kiệt và xả nước<br /> vào mùa lũ.<br /> Khai thác khoáng sản: Lào Cai là một tỉnh có<br /> tiềm năng khoáng sản lớn nhất cả nước, đặc<br /> biệt cát – sỏi làm vật liệu xây dựng, phân bố<br /> chủ đạo trong lòng sông và tại các bãi bồi ven<br /> sông Hồng – sông Chảy (Hình 3). Tại Quyết<br /> định số 3788/QĐ-UBND ngày 31/10/2016<br /> của UBND tỉnh Lào Cai phê duyệt quy<br /> hoạch phát triển vật liệu xây dựng tỉnh Lào<br /> Cai thể hiện các vị trí khai thác cát trên sông<br /> Chảy với tổng công suất 100.000m3 trong<br /> giai đoạn 2016 – 2020. Trên địa bàn ven<br /> sông Chảy đã hình thành một số cơ sở khai<br /> thác cát cung cấp sản xuất vật liệu xây dựng,<br /> ví dụ: điểm mỏ do Công ty Cổ phần Đức<br /> Duy, Doanh nghiệp Thuận Ngân và một số các<br /> doanh nghiệp khác.<br /> <br /> Hình 2. Sơ đồ bậc thang thủy điện trên sông Chảy đoạn qua tỉnh Lào Cai<br /> <br /> 109<br /> <br /> Ngô Trà Mai<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 189(13): 107 - 113<br /> <br /> Dọc theo bờ sông Chảy, là các địa danh du lịch như: hang Tiên, thác nước Tà Lâm; Miếu Cây<br /> gạo, đền Trung Đô; những cánh rừng gỗ nghiến, trai cổ thụ. Đồng thời trên hai bờ sông còn có<br /> các bản làng, thôn xóm với những ngôi nhà sàn của đồng bào dân tộc Mông, Dao, Giáy. Chợ<br /> Bắc Hà, chợ Cốc Ly, là những khu chợ từ lâu đã làm nên bản sắc của các dân tộc ở Lào Cai.<br /> Đây là những địa danh đều có thể du lịch bằng đường sông tạo nên những nét riêng cho du lịch<br /> của tỉnh.<br /> <br /> Hình 3. Khu vực có hoạt động công nghiệp và khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Lào Cai [2]<br /> <br /> XĐMT TRONG SỬ DỤNG TNN MẶT LƯU<br /> VỰC SÔNG CHẢY<br /> Những XĐMT chủ yếu<br /> TNN mặt trên lưu vực sông Chảy đang chịu<br /> những áp lực do phát triển kinh tế, xã hội, gia<br /> tăng dân số, làm phát sinh mâu thuẫn trong sử<br /> dụng và bảo vệ TNN. Kết quả nghiên cứu v<br /> cho thấy những mâu thuẫn chính gồm:<br /> - Xung đột trong sử dụng nước giữa thuỷ điện<br /> và thuỷ lợi: Do quá trình tích nước phát điện<br /> tại hồ chứa, làm hạ thấp mực nước, gây khó<br /> khăn cho hoạt động của các trạm bơm lân<br /> cận. Đặc biệt tích nước vào mùa khô sẽ gây<br /> hạ thấp mực nước, dẫn đến các công trình như<br /> cống, trạm bơm không hoạt động được, đồng<br /> nghĩa với việc thiếu nước tưới, gây chết hoa<br /> màu- cây lương thực... vùng hạ du. Một số<br /> xung đột này tại Lào Cai đã được đề cập trên<br /> các trang báo mạng: Thi công thủy điện Nậm<br /> Toóng phá hỏng công trình thủy lợi và cấp<br /> nước sạch của người dân; Thủy điện chồng<br /> lên nhau, xé toạc dòng Tà Lơi, cho thấy xung<br /> đột này đã, đang tồn tại [9].<br /> 110<br /> <br /> - Xung đột giữa tích nước hồ chứa thủy điện<br /> và khai thác khoáng sản: Trong quá trình xây<br /> dựng hồ chứa thủy điện, hoạt động tích nước<br /> lòng hồ làm mất đi cơ hội khai thác khoáng<br /> sản. Nếu không kịp khai thác hoặc tận thu<br /> trước khi xây dựng các nhà máy thủy điện,<br /> toàn bộ vật liệu này sẽ bị nhận chìm. Một số<br /> mỏ khoáng sản được cấp phép nhưng chưa<br /> hết thời hạn khai thác phải tạm dừng để phục<br /> vụ phát triển thủy điện đã gây ra tranh chấp,<br /> không đồng thuận trong quá trình bồi thường<br /> giải phóng mặt bằng. Tổn thất về kinh tế xảy<br /> ra đối với tất cả các bên. XĐMT ảnh hưởng<br /> đến mối quan hệ giữa các nhóm cộng đồng<br /> dân cư, gây căng thẳng và làm xấu đi mối<br /> quan hệ giữa các doanh nghiệp.<br /> - Xung đột trong việc đắp đập ngăn sông làm<br /> mất đi cơ hội du lịch sinh thái cảnh quan vùng<br /> sông Chảy: Giai đoạn chưa có hoạt động thủy<br /> điện (trước năm 2010), trung bình mỗi năm<br /> có khoảng 8000-9000 du khách lựa chọn<br /> tham quan bằng đường thủy, chủ yếu theo 02<br /> tuyến Bảo Nhai - Trung Đô, Cốc Ly - Bảo<br /> Nhai và ngược lại. Tuy nhiên từ khi Thủy<br /> <br /> Ngô Trà Mai<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> điện Bắc Hà, Vĩnh Hà chặn dòng, lượng<br /> khách đặt tuyến này giảm đáng kể, một phần<br /> do hạ thấp mực nước tàu thuyền đi lại khó<br /> khăn, một phần do lo ngại về an toàn khi có<br /> hoạt động xả lũ. Các đơn vị kinh doanh vận<br /> tải du lịch đang ngày càng thu hẹp dần, một<br /> số bị xóa xổ gây ra những mâu thuẫn giữa 02<br /> ngành kinh tế cùng sử dụng TNN.<br /> Cơ hội trải nghiệm vùng sông nước, hít thở<br /> bầu không khí trong lành, thưởng ngoạn<br /> phong cảnh bình yên của vùng cao sẽ được<br /> thay thế bằng các tuyến du lịch đường bộ<br /> cũng làm giảm đi tính đa dạng trong du lịch.<br /> Đồng thời, hoạt động giải phóng mặt bằng,<br /> phát quang thực vật để xây dựng thủy điện<br /> cũng làm giảm đáng kể diện tích đất rừng,<br /> cảnh quan khu vực bị thay đổi từ dạng tự<br /> nhiên sang nhân sinh là một yếu tố bất lợi đối<br /> với du lịch của tỉnh vốn dựa chủ yếu vào tài<br /> nguyên rừng.<br /> Ngoài các xung đột chính nêu ở trên một số<br /> các mâu thuẫn khác cũng tồn tại trong quá<br /> trình sử dụng TNN lưu vực sông Chảy, tuy<br /> nhiên ở mức độ không lớn: giữa thủy điện và<br /> thủy điện, các thủy điện bậc thang trên không<br /> tuân thủ quy trình vận hành liên hồ chứa, gây<br /> thiếu nước cho thủy điện bậc thang dưới; quá<br /> trình khai thác khoáng sản làm nhiễm bẩn<br /> nguồn nước gây tốn kém cho chi phí xử lý<br /> nước cấp, giảm năng suất và chất lượng hoa<br /> màu – cây nông nghiệp được tưới; giải phóng<br /> mặt bằng để xây dựng công trình thủy điện<br /> gây mâu thuẫn với người dân bản địa khi<br /> chiếm đất rừng, mất đất canh tác, giảm sinh<br /> kế của người dân bản địa....<br /> Những nguyên nhân chính gây ra XĐMT<br /> Có nhiều nguyên nhân gây ra các mâu thuẫn khi<br /> sử dụng TNN sông Chảy, nhưng có thể tóm gọn<br /> lại trong 5 nguyên nhân chính sau đây:<br /> - Quy hoạch chưa đồng bộ: Năm 2014 UBND<br /> tỉnh Lào Cai đã ra quyết định số 169/QĐUBND phê duyệt Quy hoạch TNN dựa trên<br /> cơ sở các quy hoạch ngành: thủy lợi, thủy<br /> điện, khai thác khoáng sản và phát triển kinh<br /> tế xã hội [3]. Mặc dù đã có sự phân chia<br /> <br /> 189(13): 107 - 113<br /> <br /> nguồn TNN nhưng có thể thấy rõ Lào Cai vẫn<br /> chủ trương ưu tiên công nghiệp nặng và chưa<br /> có quản lý tổng hợp theo từng lưu vực sông,<br /> đặc biệt là 2 con sông chính là sông Hồng và<br /> sông Chảy. Quản lý TTN được phân chia theo<br /> địa giới hành chính cũng gây nhiều khó khăn,<br /> đồng thời lưu vực sông Chảy đến nay chưa có<br /> “chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể”<br /> hay Ban quản lý lưu vực sông (như một số<br /> sông Đồng Nai, sông Cầu, Nhuệ - Đáy...) nên<br /> đã tạo ra nhiều khó khăn cho các nhà quản lý<br /> khi giải quyết các vấn đề đầu tư và bảo vệ<br /> môi trường.<br /> - Sự phân bố về TNN không đồng đều giữa<br /> các mùa trong năm, giữa các khu vực, gây<br /> XĐMT trong sử dụng. Xây dựng hồ chứa, bể<br /> điều tiết để tích nước trong mùa khô, xả lũ<br /> trong mùa mưa là nguyên nhân chính của hầu<br /> hết các mâu thuẫn giữa thượng nguồn và hạ<br /> nguồn. Sự phân bố dân cư ở các tỉnh miền núi<br /> trong đó có Lào Cai vẫn thuận theo tự nhiên,<br /> kéo theo sự phân bố đất đai canh tác, các<br /> công trình hạ tầng chưa hợp lý cũng làm cho<br /> các mâu thuẫn bộc lộ ngày càng rõ nét hơn.<br /> - Chưa có quy trình vận hành liên hồ chứa<br /> cho tất các các công trình thủy điện trên lưu<br /> vực sông Chảy. Các quy trình vận hành chủ<br /> yếu được xây dựng trên cơ sở các quy định và<br /> hướng dẫn của các cơ quan quản lý để được<br /> phép đưa công trình vào vận hành, vì vậy dẫn<br /> đến các xung đột giữa lợi ích về năng lượng<br /> và các ngành kinh tế khác.<br /> - Lào Cai là một tỉnh miền núi, điều kiện kinh<br /> tế - xã hội, dân tộc học, nhận thức còn nhiều<br /> khó khăn. Năng lực của đội ngũ những người<br /> làm quy hoạch, vận hành khai thác thủy lợi,<br /> thủy điện thấp, không được đào tạo bài bản<br /> hay cập nhật kiến thức chuyên ngành đặc biệt<br /> là các kiến thức về quản lý tổng hợp TNN và<br /> bảo vệ môi trường nước theo lưu vực sông.<br /> Đây là những cản trở trong giảm thiểu các<br /> xung đột.<br /> - Sự chồng chéo trong quản lý, không có cơ<br /> quan đầu mối về quản lý TNN, dẫn đến mỗi<br /> đơn vị Bộ, ngành lại phê duyệt các quyết định<br /> 111<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2