Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên 68: LỤC VI CHỈ ĐẠI LUẬN
lượt xem 6
download
Tham khảo tài liệu 'y học cổ truyền kinh điển - sách tố vấn: thiên 68: lục vi chỉ đại luận', y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên 68: LỤC VI CHỈ ĐẠI LUẬN
- Thiên sáu mươi tám: LỤC VI CHỈ ĐẠI LUẬN Hoàng Đế hỏi rằng: Xa thẳm thay cái đạo của trời! Nh ư đón mây nóåi, như trông v ực sâu. Vực sâu còn có thể đo lường, mây nóåi ai biết đâu là cùng cực! Phu tử thường nói: “phải tuân đạo trời”, l òng tôi ghi nhớ. Nhưng cái nguyên lý như thế nào, xin cho biết rõ.. [1]. Kỳ Bá thưa ràng: Muốn rõ thiên đạo, cần phảibiết cái sự tuần tự của trời v à sự thịnh suy của thời bệnh [2]. Xin cho biết cái tiết “lục lục” của đạo trời, và sự thịnh suy như thế nào? [3]. Trên dưới có “vị”, tả hữu có “kỷ”. Cho nên bên hữu Thiếu dương, Dương minh chủ trị [4]. bên hữu Dương minh, Thái dương chủ trị [5]; bên hữu Thái dương, Quyết âm chủ trị [6]; bên hữu Quyết âm, Thiếu âm chủ trị [7]; bên hữu Thiếu âm, Thái âm chủ trị [8]; bên hữu Thái âm, Thiếu dương chủ trị [9]; Đó tức bảo là “Tiêu” chủa khi do Nam diện mà xem [10]. Cho nên nói: “nhận sự thuần tự của trời, để biết cái thời bệnh thịnh suy” vậy theo sự vận h ành của nhật nguyệt, để định cái vị của hai khi, chính nam diện để xem... tức l à nghĩa đó [11]. Ở trên Thiếu dương, hỏa khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Quyết âm [12]. Ở trên Dương minh, táo khí ch ủ trị, khoảng “trung” (giữa) sẽ thấy Thái âm [13]. Ở trên Thái dương, hàng khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thiếu âm [14]. Ở trên Quyết âm, phong khí chủ trị ở khoảng “trung” sẽ thấy Thiếu d ương [15]. Ở trên Thiếu âm, nhiệt khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thái d ương [16].Ở trên Thái âm, thấp khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thái d ương, ở trên Thái âm, thấp khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ t hấy Thái dươnh [17]. Ở trên Thái âm, thấp khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy D ương minh [18]. Aáy bảo là “bản” đó. Ở dưới bản, tức là “trung” mà sẽ thấy, dưới chỗ “thấy” đó, tức là tiêu của khí (1) [19]. Bản, tiêu không giống, khí ứng khác t ượng (2) [20]. Hoàng Đế hỏi rằng:
- Về khí, có khi nên đến mà đến, có khi nên đến mà không đến, có khi đến mà thái quá, là thế nào? [21]. Kỳ Bá thưa rằng: Nên đến mà đến là hòa; nên đến mà không đến, là “lai khí” bất cập; chửa nên đến mà đã đến, là “lai khí” hữu dư (1) [22]. Hoàng Đế hỏi: Nên đến mà không đến, chửa nên đến mà đã đến. Như thế nào? [23]. Kỳ Bá thưa rằng: Đúng (ứng) là thuận, trái là nghịch, nghịch thời sinh biến, biến thời bệnh (2) [24]. Thế nào là đúng? Xét ở vật loại sinh ra biết là đúng, xét ở khi mạch, biết là đúng (3) [26]. Hoàng Đế hỏi: Địa lý ứng với sáu tiết, khí vị nh ư thế nào? [27]. Kỳ Bá thưa rằng: Bên hữu Hiển minh, là vị của quân hỏa. Bên hữu quân hỏa, lui một bộ, thời Tướng hỏa chủ trị, lại đi một bộ, thời thổ khí chủ trị, lại đi một bộ, thời k im khí chủ tri, lại đi một bộ, thời thủy khí chủ trị, lại đi một bộ, thời mộc khí chủ trị, lại đi một bộ, thời quân hỏa chủ trị (1). Ở dưới Tướng hỏa, thủy khí “thừa” theo (thừa có nghĩa nh ư thừa phụng, tuân theo); ở dưới thủy vị, thổ khí thừa theo, ở d ưới thổ vị, phong khí thừa theo, ở dưới phong vị kim khí thừa theo, ở d ưới kim vị, hỏa khí thừa theo, ở d ưới quân hỏa, âm tinh thừa theo [29]. Tại sao vậy [30]. Vì “cang thời hại, thừa sẽ chế lại”. Có “chế” thời mới sinh hóa. B ên ngoài bày ra thịnh suy, hại thời thành bại loạn, sinh hóa bệnh lớn (1) [31].
- Hoàng Đế hỏi: Thịnh, suy như thế nào? [32]. Kỳ Bá thưa rằng: Không đúng với vị “tà”, đúng với vị là “chính”: Tà thời biến nhiều, chính thời chỉ “vi” (nhỏ nhẹ) thôi (1) [33]. Thế nào là đúng với vị? Mộc vận mà lâm Mão, Hỏa vận mà lâm Ngọ, Thổ vận mà lâm Tứ qúi, Kim vận mà lâm Dậu, Thủy vận mà lâm Tý. Đó tức là tuế hội, và là sinh khi (thứ khi điều hòa...) [34]. Thế nào là không đúng với vị? Vì là tuế không hội (hội tức hợp) (1) [35]. Hoàng Đế hỏi: Về năm Thổ vận, trên thấy Thái âm, về năm hỏa vận, trên thấy Thiếu dương, Thiếu âm, về năm Kim vận trên thấy Dương minh, về năm Mộc vận, trên thấy Quyết âm, về năm thủy vận, trên thấy Thái dương... Là vì sao? [36]. Kỳ Bá thưa rằng: Đó là cái khí tư thiên cùng với cái khí năm vận, cùng hợp, nên ở Thiên nguyên sách gọi là Thiên phù (1) [37]. Hoàng Đế hỏi: Thiên phù với Tuế hội như thế nào? [38]. Kỳ Bá thưa rằng: Như vậy gọi là Thái ất thiên phù...(1) [39]. Qúi, tiện như thế nào? [40] Thiên phù như chấp pháp; tuế hội như hành lệnh. Thái ất, thiên phù như quí nhân (2) [41].
- Tà “trúng” vào như thế nào? [42]. Trúng vào chấp pháp thời bệnh chóng m à nguy, trúng vào hành lệnh thời bệnh từ từ mà chậm, trúng vào qúi nhân thời bao bệnh mà chết [43]. Vị thay đổi, thời như thế nào? [44]. Quân ở vào vị thần thời thuận, thần ở vào vị quân thời nghịch, nghịch thời bệnh gần mà hại chóng, thuận thời bệnh xa mà nhẹ... Đó là sự thuận nghịch của hai hỏa... (4) Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết thế nào là Bộ? [1]. Kỳ Bá thưa rằng: Mỗi một bộ, tính được 60 độ, có lẻ. Cho nên cứ 24 bộ, sẽ chứa được “doanh” (đầy đủ) một trăm khắc mà thành một ngày thừa (1). Hoàng Đế hỏi: Sáu khí ứng với sự biến của năm hành, như thế nào? [48]. Kỳ Bá thưa rằng: Vệ có chung, thủy, khí có sơ, trung, thượng, hạ... không giống nhau, nên “xét” cũng phải khác (1) [49]. Phải xét như thế nào ? [50]. Thiên khí bắt đầu từ Giáp, địa khí bắt đầu từ Tý. Tý với Giáo c ùng hợp, gọi là “tuế lập”. Phải “hậu” ở thời, khí mới có thể dự biết đ ược (2) [51]. Hoàng Đế hỏi: Sáu khí ở trong một năm trước, sau, sớm, muộn như thế nào? [52]. Kỳ Bá thưa rằng: Về năm Giáp tý “sơ chi khí”, số của trời bắt đầu từ thủy hả (n ước nhỏ giọt xuống) một khắc, cuối c ùng 87 khắc rưỡi, “nhị chi khí” bắt đầu từ 87 khắc 6
- phân, cuối cùng ở 75 khắc, “tam chi khí” bắt đầu từ 76 khắc, cuối c ùng 62 khắc rưỡi “tứ chi khí” bắt đầu là 62 khắc 6 phân, cuối cùng là 50 khắc, “ngũ chi khí” bắt đầu từ 51 khắc, cuối cùng là 37 khắc rưỡi “lục chi khí” bắt đầu từ 37 khắc 6 phân, cuối cùng là 25 khắc... Đó, là “sơ lục” tính theo cái số của trời vậy (1) [53]. Về năm Aát sửu, “sơ chi khí” thiên số bắt đầu từ 26 khắc cuối cùng là 12 khắc rưỡi, “nhị chi khí” bắt đầu từ 12 khắc 6 phân, cuối c ùng là thủy hạ 100 khắc, “tam chi khí” bắt đầu từ một khắc, cuối cùng là 87 khắc rưỡi, “tứ chi khí” bắt đầu từ 87 khắc 6 phân, cuối c ùng là 75 khắc, “ngũ chi khí” bắt đầu từ 76 khắc, cuối cùng là 62 khắc rưỡi “lục chi khí” bắt đầu từ 62 khắc cuối c ùng là 50 khắc. Đó gọi là “Lục nhị”, tính theo số của trời vậy (1) [54]. Năm Đinh mão. “sơ chi khí” bắt đầu từ 76 khắc cuối cùng là 62 khắc rưỡi, “nhị chi khí” bắt đầu từ 62 khắc 6 phân, cuối cùng là 50 khắc, ‘tam chi khí” băt đầu từ 51 khắc, cuối c ùng là 37 khắc rưỡi, “tứ chi khí” bắt đầu từ 37 khắc 6 phân, cuối cùng là 25 khắc, “ngũ chi khí” bắt đầu từ 26 khắc, cuối c ùng là 12 khắc rưỡi, “Lục chi khí “bắt đầu từ 12 khắc 6 phân, cuối c ùng là thủy hạ 100 khắc. Đó là khí thứ tự trong 6 khí, tính theo số của trời vậy (1). Đến năm sau l à năm Mậu thìn, “sơ chi khí” l ại bắt đầu khắc thứ nhất. Cứ nh ư thế mãi, hết vòng lại bắt đầu. Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết “tuế hậu” như thế nào? [57]. Kỳ Bá thưa rằng: Nhật đi một vòng, thiên khí bắt đầu từ khắc thứ một. Nhật đi hai vòng, thiên khí bắt đầu từ 26 khắc, Nhật đi ba v òng, thiên khí bắt đầu từ 51 khắc, nhật đi bốn vòng, thiên khí bắt đầu từ 76 khắc, nhật đi năm v òng, thiên khí lại bắt đầu từ khắc thứ một. Đó gọi là một kỷ (1) [58]. Vậy nên, về những năm Dần, Ngọ, Tuất, khí hội giống nhai; những năm m ão, Vị (Mùi), Hợi, khí hội giống nhau, những năm Thì, Thân, Tý, khí hội giống nhau, những năm Tỵ, Dậu, Sửu, khí hội giống nhau. Cứ nh ư thế, cuối cùng mà lại bắt đầu (2). Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết công dụng thế nào? [60]
- Kỳ Bá thưa rằng: Nói về trời, phải cầu ở bản; nói về đất, phải cầu ở vị, nói về ng ười, phải cầu ở khí giao (1) [61] Thế nào là Khí giao? [62] Cái vị trên dưới, khí giao ở giữa, tức l à nơi ở của người. Cho nên nói: ở trên Thiên khu, thiên khí làm chủ, ở dưới thiên khí, địa khí làm chủ, trong khoảng khí giao, thời người theo đó, muôn vật cũng theo đó (2) [63] Thế nào là sơ và trung? [64] Sơ, phàm 30 độ có lẻ. Trung khí cũng nh ư vậy Sơ, trung để làm gì? [66] Là cốt để chia rẽ trời và đất [67] Xin cho biết rõ [68] Sơ, thuộc về địa khí. Trung, thuộc về cả trời và đất (3) [69] Hoàng Đế hỏi: Hàn với thấp cùng ngộ hợp, táo với nhiệt cùng gia lâm, phong với hỏa cũng cùng chủ tuế, như thế nào? [70] Kỳ Bá thưa rằng: Khi có thắng phục. Thắng, phục gây nên, có đức, có, hóa, có dụng, có biến... Nếu biến thời tà khí sẽ phạm đến... [71] Sao lại bảo là tà? [72] Vật sinh ra bắt đầu ở sự hóa; vật đến cực đều do ở sự biến. Biến hóa c ùng dồn nhau, thành với bại đều do ở đó [73]. Cho nên khí có vãng, phục, dụng có trì, tốc. Nhờ bốn điều kiện đó, mới sinh ra biến, hóa, mà trong cũng do đó mà sinh ra [74]. Hoàng Đế hỏi: [75]
- Trì, tốc với vãng, phục; phong do đó mà sinh ra, phàm sự biến hóa, đều bởi thịnh suy mà gây nên. Vậy còn sự “thành, bại” ẩn nấp ở bên trong, là vì sao? [76] Kỳ Bá thưa rằng: Phàm có sự thành hay bại, đều do ở động. Nếu động không ngừng, sẽ sinh ra sự biến hóa [77]. Hoàng Đế hỏi: Có kỳ hạn nào không? [78] Kỳ Bá thưa rằng: Không sinh, không hóa, sẽ là kỳ hạn của sự tĩnh vậy [79]. Có khi nào không sinh hóa chăng [80]? Nếu bỏ mất sự đi ra đi vào, thời còn chi là cái công dụng mở đóng của cánh cửa, nếu bỏ mất sự thăng giáng không ng ừng của âm dương, thời còn chi là sự sản xuất của muôn lo ài, muôn vật... Vậy, cái khí thăng giáng, xuất, nhập, không một lúc nào ngừng. Nhưng hóa cũng có lớn nhỏ, mà kỳ cũng có xa gần. Bốn điều đó th ường phải có luôn. Nếu không, sẽ sinh tai hại. Cho nên có câu nói: “vô hình th ời vô hại”. Thật là rất đúng (1)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 1: CỬU CHÂM THẬP NHỊ NGUYÊN
10 p | 157 | 35
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ MƯỜI BỐN MẠCH CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH THỦY KHÍ
13 p | 120 | 30
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ NHẤT BỆNH, MẠCH, CHỨNG, TRƯỚC SAU THEO TẠNG, PHỦ, KINH, LẠC
5 p | 147 | 22
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 2: BẢN DU
10 p | 129 | 18
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ MƯỜI MỘT MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ NGŨ TẠNG PHONG, HÀN TÍCH TỤ
7 p | 92 | 14
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ HAI MƯƠI HAI MẠCH, CHỨNG, VÀ PHÉP TRỊ BỆNH CỦA ĐÀN BÀ
10 p | 100 | 12
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ SÁU MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH HUYẾT TÝ HƯ LAO
7 p | 94 | 12
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ BA BIỆN VỀ MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH BÁ HỢP
7 p | 116 | 9
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 22: ĐIÊN CUỒNG
5 p | 140 | 9
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ HAI MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH KÍNH, THẤP, YẾT.
9 p | 104 | 9
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ HAI MƯƠI MỐT MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH ĐÀN BÀ SẢN HẬU
5 p | 104 | 8
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ MƯỜI LĂM MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH HOÀNG ĐẢN
5 p | 109 | 8
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ CHÍN MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH HUNG TÝ, TÂM THỐNG, ĐOẢN KHÍ
6 p | 96 | 7
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ BẢY MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH PHẾ NUY, PHẾ UNG, KHÁI THẤU
6 p | 101 | 7
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ MƯỜI SÁU MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH KINH, QÚY, THỔ NỤC, HẠ HUYẾT
6 p | 80 | 6
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ MƯỜI TÁM MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH SANG UNG, TRƯỜNG UNG
4 p | 101 | 5
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ TƯ MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH NGƯỢC
5 p | 63 | 5
-
Y học cổ truyền kinh điển - sách Kim Quỹ: THIÊN THỨ MƯỜI BẢY MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH ẨU THỔ, UẾ, HẠ LỢI
10 p | 87 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn