intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ý nghĩa dải mức độ và cách dùng của các đơn vị chỉ mức độ trong tiếng Việt

Chia sẻ: Năm Tháng Tĩnh Lặng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

121
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếng Việt có một số từ chỉ mức độ như: hơi, khá, lắm, quá, rất, siêu, cực, v.v.. Tuy biểu thị mức độ nhưng các từ này không xác định mức độ cụ thể, chỉ mang ý nghĩa ước đoán theo dải mức độ về tính chất, trạng thái của sự vật, hiện tượng. Việc xác định ý nghĩa dải mức độ của chúng giúp cho việc nhận định về mức độ của tính chất, trạng thái của sự vật, hiện tượng trở nên rõ ràng hơn và nhất là sự phân biệt giữa mức độ cao và cực cấp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ý nghĩa dải mức độ và cách dùng của các đơn vị chỉ mức độ trong tiếng Việt

Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Phạm Hùng Dũng<br /> _____________________________________________________________________________________________________________<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ý NGHĨA DẢI MỨC ĐỘ VÀ CÁCH DÙNG<br /> CỦA CÁC ĐƠN VỊ CHỈ MỨC ĐỘ TRONG TIẾNG VIỆT<br /> PHẠM HÙNG DŨNG*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tiếng Việt có một số từ chỉ mức độ như: hơi, khá, lắm, quá, rất, siêu, cực, v.v.. Tuy<br /> biểu thị mức độ nhưng các từ này không xác định mức độ cụ thể, chỉ mang ý nghĩa ước<br /> đoán theo dải mức độ về tính chất, trạng thái của sự vật, hiện tượng. Việc xác định ý nghĩa<br /> dải mức độ của chúng giúp cho việc nhận định về mức độ của tính chất, trạng thái của sự<br /> vật, hiện tượng trở nên rõ ràng hơn và nhất là sự phân biệt giữa mức độ cao và cực cấp.<br /> Từ khóa: từ chỉ mức độ, dải mức độ, mức độ cao, cực cấp.<br /> ABSTRACT<br /> Meaning of degree band and the use of units for degree in Vietnamese<br /> In Vietnamese, there are some degree words such as hơi (slightly), khá (rather), lắm<br /> (a lot), quá (too), rất (very), siêu (ultra), cực (extremely), etc. Though they express degree,<br /> these words do not determine concrete degree; only conjecture the degree band of<br /> property or state of things and phenomena. The determination of degree band meaning<br /> helps us distinguish clearly the degree of property or state of things and phenomena,<br /> especially high degree and superlative.<br /> Key words: degree words, degree band, high degree, superlative.<br /> <br /> 1. Trong hiện thực khách quan, mọi sự thậm, tối, tuyệt. d có số lượng rất ít<br /> vật, hiện tượng (SV/ HT) đều có tính nhưng tần số xuất hiện lại khá cao. Về ý<br /> chất, trạng thái. Tiếng Việt có các đơn vị nghĩa, tuy biểu thị mức độ nhưng d<br /> từ vựng biểu thị tính chất, như to, nhỏ, không xác định mức độ cụ thể, chỉ mang<br /> rộng, cao, thấp, nặng, nhẹ, xanh, đỏ, tím, ý nghĩa ước đoán theo dải mức độ<br /> vàng, v.v.. và các đơn vị từ vựng biểu thị (degree range) về tính chất, trạng thái<br /> trạng thái, như chán, ngán, buồn, vui, của SV/ HT. Vậy ý nghĩa dải mức độ của<br /> say, mệt, v.v.. Các đơn vị từ vựng này d như thế nào? Đây là vấn đề được đặt ra<br /> được gọi chung là vị từ trạng thái (từ đây để làm rõ hơn.<br /> trở đi viết tắt là T)1. 2. Cho đến nay, phần lớn các nhà<br /> Để biểu thị các mức độ, tiếng Việt nghiên cứu tiếng Việt không xác định ý<br /> có nhiều cách thể hiện, trong đó có hình nghĩa dải mức độ của d mà chỉ xác định d<br /> thức T kết hợp với một số đơn vị từ vựng theo đặc điểm từ loại, như: trạng từ [7,<br /> biểu thị mức độ (degree) (từ đây trở đi tr.23], hình dung từ [2, tr.246], phó từ chỉ<br /> viết tắt là d), như cực, chí, chúa, đại, ghê, mức độ cao [7, tr.154], v.v.. Tuy vậy<br /> hơi, khá, khí, lạ, lắm, quá, rất, siêu, tệ, cũng có vài ý kiến xác định ý nghĩa biểu<br /> thị dải mức độ của d. Một số nhà nghiên<br /> *<br /> NCS, Trường Đại học Sư phạm TP HCM cứu cho rằng trong biểu thị mức độ có<br /> <br /> <br /> 57<br /> Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Số 29 năm 2011<br /> _____________________________________________________________________________________________________________<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> mức tuyệt đối là cực cấp (superlative) b. * A sống (chết/ câm/ điếc) bằng<br /> được biểu thị bằng các đơn vị như chí, (hơn) B;<br /> cực, ghê, lắm, quá, rất, tối, tuyệt, v.v. c. * A câm (điếc) nhất lớp.<br /> [10, tr.29], [5, tr.112], v.v.. Còn Đinh Lê Ta tiếng Việt có số lượng không<br /> Thư (1995) trong bài viết “Cách sử dụng nhiều, phần lớn là Tg, như to, nhỏ, rộng,<br /> các phó từ chỉ mức độ rất – quá – lắm, cao, thấp, nặng, nhẹ, xanh, đỏ, tím, vàng,<br /> hơi – khá”, trên cơ sở so sánh với “trung v.v.; chán, ngán, buồn, vui, say, mệt, v.v..<br /> hòa mức độ” của tính chất, trạng thái đã Nếu sắp xếp các Tg theo từng phạm trù<br /> phân các d này thành hai nhóm: nhóm 1 thì có các cặp Tg biểu hiện mức độ đối<br /> gồm hơi, khá mang ý nghĩa dải “mức độ lập, có quan hệ trái nghĩa theo thang độ<br /> thấp”; và nhóm 2 gồm rất, quá, lắm có ý (scale) phù hợp xếp từ thấp đến cao, như<br /> nghĩa dải “mức độ cao” [8, tr.152-160]. thấp – cao (độ cao); nông – sâu (độ sâu),<br /> Tác giả chỉ giải thích rõ cách sử dụng ngắn – dài (độ dài), hẹp – rộng (độ rộng),<br /> chúng và không nói đến d là các đơn vị mỏng – dày (độ dày), mềm – cứng (độ<br /> biểu thị mức độ như cực, tối, chí, v.v.. rắn), cong – thẳng (độ thẳng), dơ – sạch<br /> Có thể thấy vấn đề xác định dải (độ sạch), lạnh – nóng (nhiệt độ)2, v.v.<br /> mức độ và ý nghĩa dải mức độ của d là được gọi là các cặp vị từ trạng thái thang<br /> chưa rõ ràng. độ biểu thị mức độ đối lập, viết tắt là cặp<br /> 3. Trong tiếng Việt, vị từ trạng thái có Tg1 – Tg2. Giữa Tg1 – Tg2 trong cùng một<br /> hai loại: vị từ trạng thái tuyệt đối/ không phạm trù bao giờ cũng có một mức độ<br /> thang độ (absolute/ non-gradable), gọi tắt trung hòa/trung bình/bình thường, v.v.,<br /> là Ta và vị từ trạng thái thang độ gọi là “chuẩn tiềm tàng” [3, tr.3] biểu<br /> (gradable), gọi tắt là Tg. hiện ý nghĩa “không Tg1 cũng không<br /> Nếu tính chất, trạng thái cố định, Tg2“, như không thấp cũng không cao,<br /> không thay đổi, tự chúng đã trọn vẹn, không nhỏ cũng không lớn, v.v. làm<br /> hoàn chỉnh và cố hữu ở mức độ cao nhất, chuẩn để so sánh, đánh giá, nhận định hai<br /> không thể tăng hay giảm, thì đó là tính mức độ đối lập. Chẳng hạn, khi tri nhận<br /> chất, trạng thái tuyệt đối được biểu thị tính chất, trạng thái của SV/HT về trọng<br /> bằng các Ta như sống, chết, riêng, lượng, nếu so sánh nhận thấy có sự hơn /<br /> chung, câm, điếc, chéo, v.v.. Do đặc điểm vượt trọng lượng chuẩn bình thường thì<br /> này nên Ta không thể kết hợp với d và trọng lượng đó được đánh giá ở mức độ<br /> không có các hình thức so sánh bằng, là nặng; ngược lại, nếu có sự kém hơn<br /> hơn/ kém và cực cấp. Tiếng Việt không trọng lượng chuẩn bình thường thì được<br /> thể chấp nhận các hình thức diễn đạt: đánh giá ở mức độ là nhẹ. Nhẹ – nặng là<br /> (1) cặp Tg1 – Tg2 có quan hệ trái nghĩa về<br /> a. * hơi (khá/ quá/ cực) chết (sống/ tính chất, trạng thái và đối lập về dải mức<br /> chung/ chéo, v.v.); độ thông qua dải mức độ chuẩn, được<br /> hình dung bằng sơ đồ (1) như sau:<br /> <br /> <br /> <br /> 58<br /> Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TP HCM Phạm Hùng Dũng<br /> _____________________________________________________________________________________________________________<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tg1 (nhẹ) Tg2 (nặng)<br /> chuẩn<br /> 0 ∞<br /> Có thể thấy cặp Tg1 – Tg2 trong nhẹ, nặng, ốm, mập của SV/ HT ở mức<br /> phạm trù trọng lượng biểu thị tính chất, độ dưới hẳn/ xa hẳn mức chuẩn bình<br /> trạng thái của SV/ HT ở một dải mức độ thường (nhẹ nhàng, ốm o) hay trên hẳn/<br /> khái quát. Khi nói A nhẹ/ nặng thì không xa hẳn mức chuẩn bình thường (nặng nề,<br /> thể hiểu nhẹ là nhẹ như thế nào và nặng mập mạp), được xác định là mức độ cao;<br /> là nặng ra sao. Do đó, cặp Tg1 – Tg2 c) Kết hợp Tg1 và Tg2 với các từ<br /> thuộc phạm trù trọng lượng phải kèm biểu thị mức độ cực cấp như tênh, trịch,<br /> theo “thông số” để diễn đạt mức độ cụ nhom, lù, v.v. tạo thành những biểu thức<br /> thể3. Hay nói khác đi, tiếng Việt có hình kiểu như nhẹ tênh, nặng trịch, ốm nhom,<br /> thức thể hiện ý nghĩa các dải mức độ mập lù để biểu thị tính chất, trạng thái<br /> trong các cặp Tg1 – Tg2. nhẹ, nặng, ốm, mập ở mức độ thấp tột độ<br /> 4. Thật vậy, trong tiếng Việt, các cặp so với mức chuẩn bình thường (nhẹ tênh,<br /> Tg1 – Tg2 có những hình thức biểu hiện ý ốm nhom) hay ở mức độ cao tột đỉnh so<br /> nghĩa các dải mức độ. Quan sát các cặp với mức chuẩn bình thường (nặng trịch,<br /> Tg1 – Tg2, như nhẹ – nặng (trọng lượng), mập lù), được xác định là mức cực cấp.<br /> ốm – mập (độ mập), chúng được kèm Tuy có “thông số” kèm theo để biểu<br /> theo các “thông số” để biểu thị các dải thị mức độ thứ cấp nhưng các mức độ thứ<br /> mức độ bằng các hình thức: cấp của các cặp Tg1 – Tg2 trong (a), (b),<br /> a) Láy giảm và đặt tiếng láy trước (c) nêu trên là không xác định, chúng chỉ<br /> Tg1 và Tg2, như nhè nhẹ, nằng nặng, ôm biểu thị dải mức độ của các cặp Tg1 –<br /> ốm, mầm mập để diễn đạt tính chất, trạng Tg2. Như vậy, có thể nói, trong các cặp<br /> thái nhẹ, nặng, ốm, mập của SV/ HT ở Tg1 – Tg2 theo từng phạm trù có ba dải<br /> mức độ thấp/ dưới hơn một chút/ gần mức độ: dải mức độ thấp, dải mức độ<br /> bằng mức chuẩn bình thường (nhè nhẹ, cao, dải cực cấp. Nếu so sánh với “chuẩn<br /> ôm ốm) hay hơn mức chuẩn bình thường tiềm tàng” và đặt chúng trong thang độ,<br /> một chút (nằng nặng, mầm mập), được có thể thấy: dải mức độ thấp gần chuẩn;<br /> xác định là mức độ thấp; dải mức độ cao xa chuẩn; và dải cực cấp<br /> b) Láy tăng và đặt tiếng láy sau Tg1 xa chuẩn tối đa. Chúng có thể được hình<br /> và Tg2, như nhẹ nhàng, nặng nề, ốm o, dung qua sơ đồ (2) như sau:<br /> mập mạp để diễn đạt tính chất, trạng thái<br /> Tg1 (nhẹ/ ốm) Tg2 (nặng/ mập)<br /> chuẩn<br /> <br /> <br /> 0 +∞<br /> d1
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2