Yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục tại 5 thành phố lớn
lượt xem 2
download
Bài viết này tập trung vào việc nghiên cứu chi tiêu cho giáo dục của 5 thành phố trực thuộc trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Đây là các thành phố lớn, có nền kinh tế phát triển, là khu vực quan trọng về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục tại 5 thành phố lớn
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU CHO GIÁO DỤC TẠI 5 THÀNH PHỐ LỚN DETERMINANTS OF HOUSEHOLD EXPENDITURE ON EDUCATION IN FIVE MUNICIPALITIES IN VIETNAM ThS. Đàm Thị Thu Trang; TS. Trịnh Thị Hường Trường Đại học Thương mại damtrang.vcu@gmail.com Tóm tắt Đầu tư và phát triển giáo dục đào tạo được người dân quan tâm hơn trong những năm gần đây. Nghiên cứu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của người dân ở 5 thành phố lớn trong năm 2016: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, trên bộ số liệu điều tra mức sống dân cư. Mứ chi cho giáo dục còn khá thấp trong tổng chi tiêu của hộ, trong đó hộ gia đình ở Đà Nẵng có mức chi cho giáo dục cao nhất (gần 10%). Theo các cấp học, mức chi bình quân cho giáo dục đại học nhiều nhất. Về chi phí cho học phí, bậc mầm non và đại học chiếm tỷ lệ cao (trên 50%). Các yếu tố ảnh hưởng tới chi tiêu giáo dục của người dân, thông qua mô hình hồi quy kiểm duyệt Tobit, như thu nhập hộ gia đình và đặc điểm nhân khẩu học của hộ gia đình. Nghiên cứu cung cấp bằng chứng khoa học cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra chiến lược phát triển và đào tạo nguồn nhân lực. Từ khóa: Chi tiêu giáo dục, cấp học, học phí, thành phố trực thuộc trung ương, chủ hộ Abstract Investment in education and training has been paid more attention in recent years in Viet- nam. The study analyzes factors influencing household education expenditure in 5 centrally-con- trolled municipalities: Hanoi, Hai Phong, Da Nang, Ho Chi Minh City, Can Tho, based on Vietnam Living Standard Survey (VHLSS). The expenditure on education is still low in the total household expenditure, and households in Da Nang have the highest share in education (nearly 10%). By level of education, the average spending at university is the highest. Regarding the cost of tuition fees, pre-school and university account for a high proportion (over 50%). Factors in- fluencing people’s educational expenditures, by using the Tobit censorship regression model, are household income and household demographic characteristics. This research provides scientific evidence for policy-makers working out strategies for developing and training human resources. Keywords: Education expenditure, education levels, tuition fees, centrally-controlled mu- nicipalities, household head. 1. Đặt vấn đề Giáo dục và đào tạo (GDĐT) luôn được coi là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, 1453
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nêu rõ mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân”. Từ năm 2013 quy mô chi ngân sách cho giáo dục tăng từ 155.604 tỷ đồng năm 2013 đến 248.118 tỷ đồng năm 2017. Trong giai đoạn này, theo nghị quyết 711/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ (2012) ngân sách nhà nước chi cho GDĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách được Quốc hội và Chính phủ duy trì, trong đó chi thường xuyên cho GDĐT ở Trung ương bình quân khoảng 11%, địa phương khoảng 89%. Báo cáo của Kataoka và cộng sự (2020) cho rằng Việt Nam là nước có cam kết mạnh mẽ với công cuộc phát triển giáo dục, thể hiện qua mức đầu tư cao cho giáo dục mầm non và giáo dục cơ bản (tức giáo dục từ lớp 1 đến lớp 12). Báo cáo cũng viết rằng: Tỷ trọng chi tiêu công lớn của Chính phủ dành cho giáo dục phổ thông không có nghĩa là chi tiêu tư nhân cho lĩnh vực này ở Việt Nam thấp. Các gia đình dành tỷ lệ lớn tổng chi tiêu cho giáo dục, ngay từ các cấp giáo dục phổ thông, cao hơn mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và một số quốc gia tương đương không thuộc OECD. Và mức chi này có xu hướng tăng dần theo các cấp học, khẳng định giáo dục là mối quan tâm lớn của các gia đình. Thật vậy, những năm gần đây việc chi tiêu cho giáo dục của các hộ gia đình ở Việt Nam liên tục tăng do xã hội hóa giáo dục và nhận thức của người dân về việc đầu tư cho giáo dục, chi tiêu cho giáo dục là một phần quan trọng trong tổng chi tiêu của hộ gia đình. Nghiên cứu về lượng chi tiêu cho giáo dục và tìm ra các yếu tố có ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của người dân là hết sức cần thiết. Kataoka và cộng sự (2020) nhấn mạnh tỷ lệ chi tiêu cao cho giáo dục của các hộ gia đình cũng góp phần đầu tư bổ sung vào giáo dục. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (2016), tỷ lệ chi giáo dục, đào tạo trong chi tiêu cho đời sống của hộ gia đình theo 5 nhóm thu nhập, nhóm 4 và nhóm 5 (hai nhóm có mức thu nhập cao nhất ) cũng có tỉ lệ chi tiêu cho giáo dục lớn nhất. Đây là vấn đề đã, đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới, xem Deaton, Ruiz-Castillo và Thomas (1989). Ở Việt Nam, các báo cáo, kết quả thống kê về giáo dục ở cấp độ địa phương, có một số nghiên cứu về chi tiêu cho giáo dục ở các vùng như Đồng Bằng Sông Cửu Long của Dũng và Thông (2014), vùng Đông Nam bộ của Sơn (2012). Các nghiên cứu này đều phân tích các yếu tố có thể ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của các hộ gia đình như: tuổi của chủ hộ, trình độ học vấn, giới tính của chủ hộ… Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu các đặc điểm của hộ gia đình tới cơ cấu chi tiêu cho giáo dục. Còn ở cấp độ quốc gia, nghiên cứu của Huy (2012) sử dụng mô hình Tobit và dữ liệu VHLSS 2006 với quy mô 9189 hộ gia đình và 39071 cá nhân trong cả nước. Kết quả hồi quy cho biết thu nhập của hộ có tác động dương đến chi tiêu giáo dục hay thu nhập hàng năm của hộ càng cao thì chi tiêu giáo dục càng lớn. Ngoài ra, Dang (2007) cũng tìm thấy sự ảnh hưởng lớn của chi phí học thêm đến tổng chi tiêu trong gia đình và ngày càng tăng cao ở các cấp cao hơn. Đặc biệt, Tran và cộng sự (2020) tìm thấy ảnh hưởng tích cực của đầu tư cho giáo dục lên sinh kế hộ gia đình tại vùng núi phía Bắc Việt Nam. Bài viết này tập trung vào việc nghiên cứu chi tiêu cho giáo dục của 5 thành phố trực thuộc 1454
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Đây là các thành phố lớn, có nền kinh tế phát triển, là khu vực quan trọng về quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội. Các thành phố này có cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ phát triển, có nhiều cơ sở giáo dục bậc cao, dân cư đông, thuận lợi về giao thông vận tải. Theo số liệu Thống kê của Tổng cục thống kê (2020), năm tỉnh thành phố trên dẫn đầu cả nước về số lượng các cơ sở giáo dục (trong đó bao gồm trường mẫu giáo, trường phổ thông, trường đại học và cao đẳng), và số lượng học sinh (số lượng học sinh phổ thông, số lượng sinh viên) và số lượng giáo viên tại các cơ sở trên. Năm thành phố lớn trực thuộc trung ương được coi giữ vị trí đầu tầu của đất nước, chính vì vậy các thành phố này luôn luôn cố gắng cùng nhau bảo đảm sinh xã hội, chăm lo tốt đời sống vật chất, tinh thần của người dân, an ninh chính trị, quốc phòng được giữ vững, khẳng định vị thế của mình. Và một vấn đề cần quan tâm đặc biệt đó là phát triển nguồn nhân lực đủ tâm, đủ tầm vì vậy việc đầu tư, phát triển giáo dục cũng được các thành phố đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, mức chi cho giáo dục của người dân ở 5 thành phố trực thuộc trung ương luôn ở mức cao hơn so với các thành phố khác, mức chi của người dân ở Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội luôn thuộc top đầu của cả nước. Chính vì vậy việc phân tích, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu cho giáo dục của người dân của 5 thành phố có vai trò quan trọng. Điều này có thể giúp đưa ra các chính sách phù hợp để các thành phố lớn có chất lượng giáo dục ngày càng cao, giữ vững vai trò tiên phong và làm động lực cho sự phát triển của cả quốc gia. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Dữ liệu nghiên cứu Bộ dữ liệu sử dụng để phân tích là Điều tra mức sống dân cư 2016 và được thực hiện bởi Tổng cục thống kê Việt Nam (2016). KSMS 2016 được tiến hành theo Quyết định số 1095/QĐ- TCTK ngày 18/11/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, thông tin chi tiết về cuộc điều tra tại Tổng cục thống kê (2015). Đây là cuộc khảo sát được tiến hành 02 năm một lần trên phạm vi cả nước bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ (9000 hộ gia đình) và cán bộ chủ chốt xã (1000 xã nông thôn). Kết quả điều tra mức sống dân cư được chính phủ và các cơ quan sử dụng để đánh giá mức sống dân cư phục vụ hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, giáo dục là một mục quan trọng trong các đặc điểm nhân khẩu học liên quan mức sống như: y tế và chăm sóc sức khỏe, việc làm và thu nhập, chi tiêu, nhà ở, điện, nước và phương tiện vệ sinh và đồ dùng lâu bền, giảm nghèo và các đặc điểm của xã. Bộ số liệu mang tính đại diện cấp vùng, cấp nông thôn-thành thị và cấp tỉnh. Nghiên cứu này hạn chế trên 5 tỉnh-thành phố trực thuộc Trung Ương: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ. Dữ liệu nghiên cứu được tổng hợp từ 3 phiếu điều tra: (i) Một số đặc điểm nhân khẩu học cơ bản liên quan đến mức sống; (ii) giáo dục; (iii) việc làm và thu nhập. Trong đó, thu nhập bình quân của hộ gia đình được Tổng cục thống kê (2016) tổng hợp và các đặc điểm khác của hộ do nhóm tác giả tổng hợp từ số liệu thứ cấp. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Mô hình hồi quy kiểm duyệt Tobit Mô hình hồi quy kiểm duyệt Tobit, bị kiểm duyệt trái tại giá trị 0, với biến phụ thuộc , dưới biến tiềm ẩn (latent variable) và biến phụ thuộc được mô tả như sau: 1455
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Trong đó, biến tiềm ẩn thỏa mãn các giả thiết của mô hình hồi qui tuyến tính cổ điển, được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất. Phần dư có phân bố chuẩn . Từ biểu thức (2), ta có: Từ biểu thức của mô hình hồi quy kiểm duyệt, mô hình này phù hợp khi biến phụ thuộc là biến liên tục với tất cả các giá trị dương và chỉ bằng 0 đối với một phần nào đó của tổng thể. Trong nghiên cứu này, các thông tin về biến phụ thuộc (chi tiêu cho giáo dục của các hộ gia đình) thỏa mãn điều kiện mô hình hồi quy vì: i) số tiền chi tiêu cho giáo dục cho của các hộ gia đình là biến không âm, trong đó số tiền chi tiêu sẽ khác không đối với những hộ có con em đi học; ii) số tiền chi tiêu cho giáo dục bằng 0 nếu hộ gia đình không có người đi học do đó họ chi cho giáo dục bằng 0. Ước lượng mô hình hồi quy kiểm duyệt Tobit được minh họa chi tiết trong Woolridge (2009). Giả sử mô hình (1), cụ thể là biến tiềm ẩn y*, đã được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất. Trong mô hình Tobit có hai kì vọng được quan tâm là E(y│x) và E(y|y>0,x). Trong đó, E(y|y>0,x) cho biết giá trị kì vọng của y trên một tập con của tổng thể có y>0 với các giá trị của đã cho. Nếu cho trước E(y│y>0,x) thì có thể tìm được E(y│x) theo công thức sau: E(y│x) = E(y|y>0,x) (4) Bước 1: Tìm xác suất P(y>0│x) Do y* có phân phối chuẩn, nên y sẽ liên tục đối với các giá trị dương thực sự, hàm mật độ của đối với các giá trị dương chính là hàm mật độ của với đã cho. Do vậy: Trong đó, Φ là hàm phân bố xác suất của phân bố chuẩn hóa. Từ đó ta có: Bước 2: Tìm kỳ vọng E(y│y>0,x) Đề tính được kì vọng có điều kiện E(y|y>0,x) cần sử dụng kết quả của biến ngẫu nhiên phân phối chuẩn: nếu z~N(0,1) thì E(z│z>c)= (c)/[1-Φ(c)] với hằng số bất kì, là hàm mật độ của phân bố chuẩn hóa. 1456
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Các biến độc lập, Xi,i=1,2,..,n bao gồm các thông tin nhân khẩu học về chủ hộ gia đình, đặc điểm hộ, chế độ học tập, nơi sống. Lựu chọn biến trong mô hình Tobit được tiến hành thông qua thủ tục cân nhắc từng bước (stepwise procedure), cụ thể là thủ tục lùi (backward procedure). Các tính toán trong nghiên cứu được tiến hành trên phần mềm Rstudio, phiên bản 4.0.2. Hình vẽ sử dụng gói lệnh ggplot2 và mô hình hồi quy Tobit dựa trên gói lệnh AER (Kleiber and Zeileis, 2008) trong phần mềm R. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thông tin chung về đối tượng khảo sát 3.1.1. Đặc điểm chủ hộ gia đình Nghiên cứu tập trung vào 5 thành phố lớn tại Việt Nam nên đặc điểm chủ hộ gia đình không có nhiều sự khác biệt. Bảng 1 đưa các thống kê mô tả về đặc điểm nhân khẩu học của chủ hộ gia đình tại từng tỉnh. Theo kết quả điều tra, chủ hộ là người dân tộc Kinh chiếm đa số từ 92,71% ở Thành phố Hồ Chí Minh đến 100% ở Hải Phòng, Đà Nẵng và tỷ lệ dân tộc thiểu số sẽ nhỏ. Tình trạng hôn nhân của chủ hộ: tỷ lệ kết hôn thấp nhất là 66,18% ở Thành phố Hồ Chí Minh và cao nhất là 79,81% ở Hà Nội, như vậy đa số chủ hộ là đã kết hôn, tỷ lệ chủ hộ độc thân hoặc ly hôn chiếm tỷ lệ ít hơn. Kết quả phân tích cũng cho thấy rằng chủ hộ là nam giới chiếm tỷ lệ cao trên 50%: Cần 1457
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Thơ tỷ lệ cao nhất là 73,91% , thấp nhất là Thành phố Hồ Chí Minh 58,02%. Điều này cho thấy vai trò của phụ nữ vẫn còn khá yếu so với nam giới trong gia đình. Về nghề nghiệp của chủ hộ, theo thống kê nghề nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao như ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm tới 57,14% trong khi đó nghề nghiệp liên quan đến nông, lâm thủy sản chỉ chiếm 2,04%. Có thể giải thích do Thành phố Hồ Chí Minh lớn, là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội nổi tiếng nên nghề nghiệp liên quan đến kinh doanh dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất, còn nghề nghiệp liên quan đến nông, lâm, ngư nghiệp thì không phải thế mạnh của thành phố do điều kiện tự nhiên không thuận lợi: diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu nhỏ do quá trình đô thị hóa. Riêng ở Hải Phòng và Cần Thơ, tỷ lệ chênh lệch giữa các nghề nghiệp không nhiều, đây là hai tỉnh phát triển đều cả ngành nghề kinh doanh dịch vụ, làm công ăn lương và nông lâm ngư nghiệp. Có thể giải thích điều này do điều kiện tự nhiên thuận lợi: Hải Phòng gần biển và có cảng biển nên phát triển nghề nghiệp liên quan tới ngư nghiệp, thành phố Cần Thơ nằm toàn bộ trên đất có nguồn gốc phù sa sông Mê Kong và được bồi đắp thường xuyên qua nguồn nước sông Hậu, địa hình bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Theo bảng thống kê thì chủ hộ chưa bao giờ đến trường chiếm tỷ lệ 5,98% ở Hải Phòng và trong các tỉnh thì cao nhất là 28,15% ở Cần Thơ. Tỷ lệ chủ hộ tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông chiếm tỷ lệ cao, đặc biẹt là ở Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng. Chủ hộ có bằng cấp cao đẳng, đại học hoặc trên đại học tỷ lệ cao nhất là ở Hà Nội 18,77% và thấp nhất là ở Hải Phòng 8,15%. Như vậy có thể nói rằng trình độ học vấn của chủ hộ còn chưa cao, điều này có thể do chủ hộ đa số đã lớn tuổi, trung bình tuổi của chủ hộ là trên 50 tuổi. Bảng 1: Thông tin chung về chủ hộ gia đình Thành phố Chỉ tiêu Thành phố Hà Nội Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ Hồ Chí Minh Số hộ gia đình 411 185 122 343 138 Tuổi (năm) 54.75 (13.1) 54.46 (13.12) 54.49 (12.9) 52.12 (14.83) 51.74 (13.96) Dân tộc Kinh 97.32 100 100 92.71 97.83 (%) Dân tộc khác 2.68 0 0 7.29 2.17 Tình trạng Kết hôn 79.81 76.22 77.05 66.18 77.54 hôn nhân Khác (độc thân, ly hôn) 20.19 23.78 22.95 33.82 22.46 (%) Giới tính Nam 70.56 72.43 62.3 58.02 73.91 (%) Nữ 29.44 27.57 37.7 41.98 26.09 sản xuất kinh doanh 46.23 28.65 48.36 57.14 37.68 Nghề hoặc dịch vụ nghiệp Đi làm để nhận tiền 33.33 43.24 45.08 40.82 39.86 (%) công, tiền lương Hoạt động về nông lâm 20.44 28.11 6.56 2.04 22.46 thủy hải sản 1458
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Không có bằng cấp 6.67 5.98 11.67 14.41 28.15 Tiểu học 19.01 17.39 25 25.53 38.52 Trình độ học vấn Trung học cơ sở hoặc 55.56 68.48 50.83 42.94 22.96 (%) trung học phổ thông Cao đẳng, đại học hoặc 18.77 8.15 12.5 17.12 10.37 trên đại học Nơi sống Nông thôn 53.77 53.51 12.3 17.49 32.61 (%) Thành thị 46.23 46.49 87.7 82.51 67.39 Nguồn: Điều tra mức sống dân cư 2016. Chú thích: Biến liên tục thể hiện giá trị trung bình và độ lệch chuẩn trong ngoặc kép, biến rời rạc thể hiện tỉ lệ phần trăm của từng mức độ. 3.1.2. Đặc điểm về học tập Theo dữ liệu phân tích số người đi học trong gia đình 0, 1, 2 chiếm tỷ lệ cao (trên 90%); số người đi học là 3, 4 chiếm tỷ lệ thấp. Đặc điểm này có thể do dữ liệu phân tích ở các thành phố lớn, tỷ lệ sinh đẻ có kế hoạch cao nên số người trong độ tuổi đi học không nhiều. Ngoài ra, học thêm cũng là một vấn đề được đặc biệt quan tâm, theo nghiên cứu của Dang (2007) cũng tìm thấy sự ảnh hưởng lớn của chi phí học thêm đến tổng chi tiêu trong gia đình và ngày càng tăng ở các cấp cao hơn. Theo bảng số liệu phân tích thì tỷ lệ học thêm ở thành phố chiếm tỷ lệ cao nhất là 34,43% ở Đà Nẵng và thấp nhất là 14,49% ở Cần Thơ, Hà Nội là 29,93%, Thành phố Hồ Chí Minh 20,7%. Tỷ lệ học thêm ở các thành phố lớn chiếm tỷ lệ cao có thể do điều kiện ở thành phố tốt hơn và ở thành phố có nhiều hình thức học thêm khác nhau: ngoài học thêm các môn học chính trong chương trình thì có thể học thêm ngoại ngữ, học thêm các môn năng khiếu như nhảy, hát, múa, vẽ… Các hộ gia đình nhận được sự trợ cấp về giáo dục là các hộ thuộc diện gia đình chính sách, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ được hưởng trợ cấp giáo dục đều trên 20% và cao nhất là 31,88% ở Cần Thơ. Có thể thấy rằng ở các thành phố lớn vẫn còn nhiều hộ có hoàn cảnh khó khăn, nguyên nhân có thể do sự chênh lệch thu nhập của người dân ở các thành phố lớn cao, đặc biệt khoảng cách thu nhập giữa nhóm dân cư giàu và nghèo ngày càng xa. Bảng 2. Thông tin chung về đặc điểm hộ và chế độ học tập Hồ Thành phố Hà Nội Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ Chí Minh Chỉ tiêu Số hộ gia đình 411 185 122 343 138 Số người đi học (%) 0 41.85 42.16 39.34 45.19 39.13 1 27.98 31.35 23.77 28.57 36.96 2 24.09 24.86 29.51 22.74 22.46 1459
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 3 5.35 1.62 5.74 2.92 0.72 4 0.73 0 1.64 0.58 0.72 Học thêm (%) Có 29.93 33.51 34.43 20.7 14.49 Không 70.07 66.49 65.57 79.3 85.51 Trợ cấp giáo dục (%) Có 24.09 27.57 23.77 26.24 31.88 Không 75.91 72.43 76.23 73.76 68.12 Nguồn: Điều tra mức sống dân cư 2016. 3.2. Cơ cấu chi tiêu cho giáo dục của người dân ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương Theo Hình 1 cho thấy tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục của người dân ở các thành phố lớn còn chưa cao. Tỷ lệ cao nhất là ở Đà Nẵng chiếm gần 10% ( khoảng 15.000.000 đồng/ năm) và có 50% số hộ chi trên 5.000.000 đồng/ năm, thấp nhất là Cần Thơ chiếm khoảng 4% (4.000.000 đồng/ năm), ở Hải Phòng, Hà Nội chiếm 7,5% ( 10.000.000 đồng/năm), Thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng 6% (10.000.000 đồng/năm). Và mức trung bình chi cho giáo dục của người dân các thành phố là: Đà Nẵng cao nhất (gần 10.000.000 đồng/năm), Hải Phòng, Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh trung bình khoảng 7.000.000 đồng /năm, Cần Thơ trung bình khoảng 3.000.000 đồng/ năm. Qua đây cho thấy rằng việc chi cho giáo dục của người dân Cần Thơ là thấp nhất trong 5 thành phố và Đà Nẵng là cao nhất trong 5 thành phố. Mặc dù phần trăm chi cho giáo dục của Thành Phố Hồ Chí Minh không cao bằng Hải Phòng, Hà Nội song tính ra nghìn đồng thì số tiền là tương đương, như vậy thu nhập của người dân Thành Phố Hồ Chí Minh cao hơn Hà Nội, Hải Phòng. Mặt khác, qua đường trung vị cũng thấy được sự chênh lệch trong chi tiêu của người dân, đường trung vị chi cho giáo dục ở Thành phố Hồ Chí Minh ở mức khoảng 1.500.000 đồng trong khi đó trung bình chi tiêu khoảng 7.000.000 đồng. Hình 1. Biểu đồ hộp về tỉ lệ chi tiêu giáo dục (%) và mức chi tiêu giáo dục (nghìn đồng) của các hộ gia đình ở 5 thành phố. 1460
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Chú thích: Biểu đồ hộp (boxplot) thể hiện bốn giá trị tứ phân vị (đường nằm ngang là trung vị (mức phân vị 50%), hai cạnh chiều rộng là mức phân vị thứ nhất (25%) và mức phân vị thứ 3 (75%). Chấm đỏ là giá trị trung bình. Nguồn: Điều tra mức sống dân cư, 2016. Theo thống kê mức chi cho giáo dục của người dân tại 5 thành phố lớn trực thuộc trung ương còn thấp. Vấn đề quan tâm tiếp theo là mức chi tiêu cho giáo dục của người dân theo các cấp học. Theo Hình 2 mức chi cho giáo dục bậc đại học cao nhất, ở Hà Nội chi cho giáo dục đại học nhiều nhất và có sự dao động lớn khoảng từ 10.000.000 đồng/ năm đến 25.000.000 đồng/ năm. Nguyên nhân có thể do người dân Hà Nội có nhiều hình thức lựa chọn học tập khác nhau và thu nhập cao nên họ cũng chi cho giáo dục nhiều: học trong nước, học hệ hợp tác quốc tế hay du học... Đối với giáo dục mầm non Thành phố Hồ Chí Minh chi nhiều nhất trong 5 thành phố và cũng có khoảng cách chi tiêu lớn từ khoảng 3.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng/ năm. Bậc tiểu học và trung học ở Đà nẵng chi nhiều nhất và khoảng cách chi tiêu lớn. Trường nghề chỉ có hai thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phát sinh chi tiêu, còn ở các tỉnh khác có thể không có trường nghề nên không phát sinh chi phí. Nguồn: Điều tra mức sống dân cư, 2016. Hình 2. Biểu đồ hộp về mức chi tiêu giáo dục (nghìn đồng) theo cấp học các hộ gia đình ở 5 thành phố. Vấn đề quan tâm tiếp theo là mức chi tiêu cho từng cấp học. Theo thống kê ở Hình 3 người dân chi cho học phí ở bậc mầm non và đại học chiếm tỷ lệ cao ( đều trên 50%), ở bậc tiểu học chi cho học phí ít nhất có thể do sự lựa chọn hình thức giáo dục ở bậc tiểu học của người dân chủ yếu là công lập nên được miễn học phí. Chi cho học thêm chiếm tỷ lệ cao ở bậc tiểu học và trung học (khoảng từ 10 % đến 25%), các cấp học khác chi cho học thêm ít hơn. Có thể giải thích 1461
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 do bậc tiểu học và trung học là những cấp học ban đầu nên các bậc phụ huynh muốn con em được kèm thêm để củng cố kiến thức và làm tiền đề cho các cấp học tiếp theo. Nguồn: Điều tra mức sống dân cư, 2016. Hình 3. Trung bình tỉ lệ chi tiêu (%) theo mục tiêu và cấp học của các hộ gia đình ở 5 thành phố. 3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu chi tiêu cho giáo dục của người dân ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương 3.3.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình Như đã giới thiệu ở phần mục Phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng thủ tục cân nhắc từng bước lùi để lựa chọn các biến đưa vào mô hình hồi quy. Kết quả các biến lựa chọn được thể hiện trong Bảng 3. Thu nhập bình quân đầu người tại thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất và tại Cần Thơ là thấp nhất. Trung bình mỗi hộ gia đình có dưới 1 người đi học và Đà Nẵng có số người đi học là cao nhất. Thông tin về tuổi của chủ hộ, trình độ học vấn của chủ hộ và gia đình có nhận trợ cấp giáo dục hay không tương tự như các thông tin đã nêu ở Mục Thông tin về đối tượng khảo sát. 1462
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Bảng 3: Thống kê mô tả các biến trong mô hình Biến Hồ Chí Thành phố Hà Nội Hải Phòng Đà Nẵng Cần Thơ quan sát Minh Số hộ gia đình 411 122 122 343 138 Thu nhập bình quân đầu 4351.36 3894.75 4585.65 5111.17 3142.82 người (tháng/triệu đồng) (2914) (2443.13) (3705.01) (2926.17) (2339.08) Số người đi học 0.95 (0.97) 0.86 (0.85) 1.07 (1.03) 0.85 (0.91) 0.87 (0.84) Tuổi chủ hộ (năm) 54.75 (13.1) 54.46 54.49 (12.9) 52.12 51.74 (13.12) (14.83) (13.96) Không có 6.67 5.98 11.67 14.41 28.15 Trình độ Tiểu học 19.01 17.39 25 25.53 38.52 học vấn Trung học 55.56 68.48 50.83 42.94 22.96 (%) cơ sở hoặc Cao đẳng, 18.77 8.15 12.5 17.12 10.37 đại học Trợ cấp Có 24.09 27.57 23.77 26.24 31.88 giáo dục Không 75.91 72.43 76.23 73.76 68.12 (%) Nguồn: Điều tra mức sống dân cư 2016. Chú thích: Biến liên tục thể hiện giá trị trung bình và độ lệch chuẩn trong ngoặc kép, biến rời rạc thể hiện tỉ lệ phần trăm của từng mức độ. 3.3.2. Kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu Theo kết quả xử lý hàm hồi quy kiểm duyệt được cho trong Bảng 4 cho thấy có tổng cộng 6 biến tác động đến chi tiêu cho giáo dục của người dân ở 5 thành phố lớn là: thu nhập bình quân, trình độ học vấn, trợ cấp giáo dục, số người đi học, tuổi chủ hộ, tỉnh. Kết quả ước lượng dấu của hệ số thu nhập bình quân là dương và phù hợp với kì vọng ban đầu với mức ý nghĩa là 1%, khi thu nhập của hộ gia đình tăng lên thì mức chi cho giáo dục cũng tăng lên. Yếu tố này cũng đã được sử dụng trong các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu đầu tiên được thực hiện bởi Glewwe và Patrinos (1999) sử dụng dữ liệu khảo sát hộ gia đình trong giai đoạn 1992-1993 đã phát hiện ra rằng khi thu nhập của các hộ gia đình tăng lên, khả năng chi tiêu cho giáo dục sẽ tăng lên. Trình độ học vấn của chủ hộ ảnh hưởng đến mức chi cho giáo dục, các hệ số ước lượng dương, đúng theo dự đoán ban đầu với mức ý nghĩa 1% cho thấy nếu chủ hộ có trình độ cao đẳng, đại học hoặc trên đại học thì chi tiêu cho giáo dục nhiều hơn. Điều này cho thấy khi chủ hộ có trình độ càng cao thì việc đầu tư cho giáo dục sẽ được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Biến trợ cấp giáo dục cũng ảnh hưởng đến việc chi cho giáo dục, những hộ gia đình không có trợ cấp sẽ chi cho giáo dục nhiều hơn. Số người đi học trong gia đình cũng ảnh hưởng lớn đến 1463
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 việc chi tiêu, gia đình càng nhiều người đi học thì chi càng nhiều. Với mức ý nghĩa 1% điều này hoàn toàn đúng với phỏng đoán ban đầu. Bảng 4: Kết quả ước lượng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục Biến số Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Hằng số -30580.04*** -4639.48 Thu nhập bình quân 0.75*** -0.12 Trình độ học vấn Tiểu học 1160.24 -1266.51 Trung học cơ sở hoặc 2689.64** -1211.84 Cao đẳng, đại học 3808.44*** -1429.45 Trợ cấp giáo dục Không 3360.02*** -786.07 Số người đi học 13050.4*** -447.33 Tuổi chủ hộ Tuổi (năm) 374.55** -169.35 Tuổi bình phương -3.1** -1.53 Tỉnh (mặc định: Cần Đà Nẵng 3384.76** -1430.96 Hải Phòng 3644.64*** -1320.11 Hà Nội 2106.27* -1176.44 Tp Hồ Chí Minh 2641.99** -1193.31 Log(scale) 9.18*** -0.03 Nguồn: Tác giả tính toán từ Điều tra mức sống dân cư, 2016. Chú thích: *, ** và *** lần lượt biểu diễn các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% Biến tuổi chủ hộ cho thấy có ý nghĩa thống kê và hệ số mang giá trị dương, ngược lại biến tuổi chủ hộ bình phương hệ số mang dấu âm. Theo đó, tuổi chủ hộ càng cao thì mức chi cho giáo dục càng nhiều trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Tuy nhiên, mức chi này sẽ tăng đến mức cực đại, sau đó sẽ giảm xuống. Điều này có thể được giải thích là khi chủ hộ còn trẻ, trong gia đình có nhiều thành viên trong độ tuổi đến trường nên nhu cầu chi cho giáo dục nhiều hơn, và khi tuổi chủ hộ càng cao thì họ càng nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên việc chi cho giáo dục chỉ tăng đến độ tuổi nhất định vì đến thời điểm số thành viên trong độ tuổi đến trường sẽ ít đi hoặc không có nên nhu cầu chi cho giáo dục sẽ giảm. Cuối cùng khi so sánh việc chi cho giáo dục giữa các tỉnh kết quả là so với tỉnh Cần Thơ việc chi cho giáo dục của các tỉnh Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đều cao hơn Cần Thơ. Nguyên nhân có thể do chi phí ở Cần Thơ rẻ hơn, mặt khác chi tiêu của người dân Cần Thơ dành cho các cấp học cũng ít hơn so với các tỉnh khác chẳng hạn như việc chi cho học thêm ở Cần Thơ cũng chiếm tỷ lệ thấp nhất và chỉ cấp tiểu học, trung học có chi cho học thêm, còn đại học chi rất ít, các cấp khác thì không có. Các khoản chi cho giáo dục của Cần Thơ chủ yếu tập trung cho các khoản bắt buộc như chi cho học phí, đồng phục, sách giáo khoa, dụng cụ học tập. 1464
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 4. Kết luận Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù dữ liệu nghiên cứu ở các thành phố lớn nhưng trình độ học vấn của chủ hộ chưa cao. Đa số chủ hộ có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp trung học phổ thông. Tỷ lệ chủ hộ tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học còn thấp ( dưới 20%, thậm chí ở Cần Thơ là 10,37%). Chính vì vậy mà mức chi cho giáo dục ở các thành phố nhìn chung vẫn chưa nhiều, theo thống kê người dân Đà Nẵng chi nhiều nhất cho giáo dục khoảng 15.000.000 đồng/ năm và người dân Cần Thơ chi ít nhất cho giáo dục. Về việc phân bổ chi tiêu cho các cấp học thì ở 5 thành phố mức chi cho giáo dục đại học là nhiều nhất. Điều này có thể thấy rằng giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên, phát triển giáo dục kỹ thuật – nghề nghiệp là vấn đề được người dân quan tâm. Các nhà hoạch định cần nghiên cứu mở rộng quy mô và đa dạng hóa giáo dục đại học, mở rộng thêm các hình thức đào tạo liên kết nhằm phát triển giáo dục theo hướng toàn cầu hóa, luôn cập nhật được xu hướng giáo dục của thế giới từ đó áp dụng vào Việt Nam để đi trước, đón đầu và đào tạo được nguồn nhân lực xã hội đang cần và sẽ cần. Một kết quả khác cũng khá thú vị là vấn đề học thêm, chủ yếu ở bậc tiểu học và trung học cơ sở người dân ở 5 thành phố chi nhiều cho học thêm, còn các cấp khác không phát sinh chi hoặc chi nhưng ít. Điều này cho thấy cấp tiểu học và trung học cơ sở vẫn là những cấp học còn gây áp lực nhiều đối với phụ huynh, học sinh. Vì vậy các nhà giáo dục học cũng cần nghiên cứu để đưa ra các giải pháp “ giảm tải ”, xây dựng được chương trình học phù hợp hơn nữa với các em học sinh, đặc biệt học sinh bậc tiểu học. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của mô hình Tobit cho thấy rằng học vấn của chủ hộ càng cao thì càng tăng chi tiêu cho giáo dục, xu hướng này giống với thu nhập bình quân và số người đi học. Thu nhập bình quân càng cao hay số người đi học càng nhiều thì việc chi cho giáo dục sẽ càng tăng lên. Do đó, cần có chính sách cụ thể để đa dạng hóa thu nhập cho người dân đặc biệt người dân khu vực nông thôn góp phần cải thiện nguồn thu. Việc có hay không có trợ cấp cũng ảnh hưởng, không có trợ cấp sẽ chi nhiều hơn. Biến tuổi chủ hộ cũng ảnh hưởng đến việc chi tiêu cho giáo dục, tuổi chủ hộ càng cao thì mức chi cho giáo dục càng tăng tuy nhiên chỉ tăng đến độ tuổi nhất định rồi chi giảm xuống. Mô hình Tobit cũng cho thấy các tỉnh khác nhau thì chi cho giáo dục cũng khác nhau và so với thành phố Cần Thơ thì Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nằng, Thành phố Hồ Chí Minh đều chi nhiều hơn. Như vậy chủ hộ có vai trò quyết định trong việc chi cho giáo dục , tuy nhiên trong nghiên cứu cho thấy chủ hộ đa số là người lớn tuổi (trung bình trên 50) do đó cần có các lớp tập huấn, đào tạo nâng cao nhận thức để từ đó nâng cao ý thức của họ về việc đầu tư cho giáo dục con em trong gia đình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Deaton, A.S., Ruiz-Castillo, J. and Thomas, D., (1989), ‘The influence of household com- position on household expenditure patterns: theory and Spanish evidence’, Journal of political economy, 97(1), pp.179-200. Dang, H.A, (2007), ‘The determinants and impact of private tutoring classes in Vietnam’. Economics of Education Review, 26(6), 683-698. 1465
- INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020 ICYREB 2020 Huy, V. Q. (2012). Determinants of educational expenditure in Vietnam. International Jour- nal of Applied Economics, 9(1), 59-72. Kleiber, C. and Zeileis, A., (2008), ‘Applied econometrics with R’, Springer Science & Business Media. Tran, T. A., Tran T. Q., and Nguyen T. H. (2020), ‘The role of education in the livelihood of households in the Northwest region, Vietnam’, Educational Research for Policy and Prac- tice 19, no. 1: 63-88. Woolridge,J., M, (2009), ‘Introductory Econometrics: A Modern Approach’, 5th edition, Hardcover, South Western Educational Publishing, chap 17.2. Dũng K.T, và Thông L.P, (2014), ‘Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục cho người dân ở đồng bằng sông Cửu Long’, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 31, 81-90. Sơn T.T, (2012), ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục: nghiên cứu ở vùng Đông Nam Bộ’. Kataoka S., Lê A. V., Sandhya K., Keiko I., ‘Vốn Nhân lực Việt Nam: Thành tựu Giáo dục và Thách thức trong Tương lai’, Ngân hàng thế giới (2020) Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 về phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020” Tổng cụ thống kê (2015), Quyết định số 1095/QĐ-TCTK ngày 18/11/2015 về việc tiến hành khảo sát mức sống dân cư năm 2016. Tổng cục thống kê (2020), Số liệu giáo dục. Truy xuất từ https://www.gso.gov.vn/giao- duc/. Tổng cụ thống kê (2016), Kết quả Khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2016. Nhà xuất bản thống kê 1466
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Những yếu tố ảnh hưởng đến mức chi tiêu trong hộ gia đình ở Việt Nam - Vũ Triều Minh
0 p | 651 | 28
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của sinh viên - ThS. Lê Sĩ Hải
6 p | 384 | 26
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của công chức tại văn phòng Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh
11 p | 156 | 25
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng về chất lượng dịch vụ đào tạo: một nghiên cứu từ cựu sinh viên trường Đại học Nông Lâm tp Hồ Chí Minh
12 p | 152 | 22
-
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi chia sẻ tri thức với đồng nghiệp của giảng viên tại các trường đại học ở Việt Nam: Tổng quan lý thuyết và khung phân tích gợi ý
14 p | 233 | 21
-
Một số yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của cán bộ công chức - Nguyễn Phương Huyền
16 p | 179 | 20
-
Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến điểm trung bình học tập của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
8 p | 160 | 14
-
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của sinh viên nông thôn học đại học ở tp. Hồ Chí Minh
6 p | 179 | 10
-
Những yếu tố ảnh hưởng tới việc tạo động lực làm việc cho cán bộ tại các chi cục thuế thuộc cục thuế tỉnh Vĩnh Phúc
6 p | 114 | 9
-
Những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị nghề nghiệp sư phạm quân sự của giảng viên trẻ ở các trường sĩ quan quân đội hiện nay
4 p | 109 | 7
-
Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng và hệ quả của cảm nhận bị làm phiền trong quảng cáo trực tuyến
15 p | 110 | 5
-
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng
9 p | 42 | 5
-
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở
5 p | 65 | 3
-
Mô hình phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình Việt Nam
19 p | 41 | 3
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục đại học của hộ gia đình trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
8 p | 10 | 2
-
Yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên học phần Công tác Quốc phòng và An ninh tại Đại học Quốc gia Hà Nội
9 p | 7 | 2
-
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tốt nghiệp trước hạn của sinh viên khối ngành kinh tế tại Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh: Cơ sở lý luận
6 p | 6 | 2
-
Yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
10 p | 12 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn