VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
“TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”<br />
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH<br />
MỘT PHONG CÁCH CHUẨN MỰC,<br />
TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI<br />
PHẠM NGỌC HÀM*<br />
*<br />
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ✉ phamngocham.nnvhtq@gmail.com<br />
Ngày nhận: 20/4/2017; Ngày hoàn thiện: 03/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một điển hình, chuẩn mực về đạo đức cách mạng mà còn là<br />
một tấm gương sáng về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. “Tuyên ngôn độc lập” của Người<br />
mang phong cách ngôn ngữ vừa truyền thống, vừa hiện đại, đã kế thừa và phát huy tinh thần của<br />
ba bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam. Với lập luận<br />
chặt chẽ, tình tiết mạch lạc, câu từ độc đáo, bản tuyên ngôn đó vừa là sự khẳng định đanh thép chủ<br />
quyền dân tộc, vừa là lời kêu gọi hùng hồn, xứng đáng là một viên ngọc mãi lấp lánh trong Bảo<br />
tàng Lịch sử và Ngôn ngữ Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tiến hành phân tích<br />
“Tuyên ngôn độc lập” dưới góc nhìn ngôn ngữ học trong sự liên hệ với “Quốc tộ”, “Nam quốc<br />
sơn hà”, “Bình Ngô đại cáo”, nhằm góp phần làm rõ tính chuẩn mực trong văn phong của Người. <br />
Từ khóa: hiện đại, ngôn từ, phong cách, Tuyên ngôn độc lập, truyền thống.<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ Những bản tuyên ngôn đanh thép ấy về độc lập<br />
chủ quyền của dân tộc Việt Nam cũng là những<br />
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân mốc son chói sáng về chiến công lẫy lừng của<br />
tộc Việt Nam đã kề vai sát cánh, kiên cường, bất một dân tộc mà sức mạnh được nhân lên vạn lần<br />
khuất trải qua biết bao cuộc chiến tranh trường kỳ, từ khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống nhân<br />
gian khổ, đầy hy sinh để bảo toàn bờ cõi và nền nghĩa, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nhờ<br />
độc lập của dân tộc. Từ “Quốc tộ” của nhà sư Đỗ sức mạnh tổng hợp đó mà dân tộc ta “gậy tầm<br />
Pháp Thuận, “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường vông cũng đánh tan quân bạo tàn.” Nhìn lại lịch<br />
Kiệt đến “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, sử, tuy bốn bản tuyên ngôn độc lập với những<br />
đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 của hình thức ngôn ngữ và thể tài khác nhau, nhưng<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh – đó là những thiên anh cùng toát lên một chân lý “đất nước Việt Nam là<br />
hùng ca tái hiện lịch sử giữ nước của dân tộc. một, dân tộc Việt Nam là một” và chủ quyền của<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 07 - 5/2017 71<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
dân tộc Việt Nam là bất khả xâm phạm. Trong năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh (gọi tắt là<br />
bốn bản tuyên ngôn độc lập đó, “Tuyên ngôn “Tuyên ngôn độc lập”) dưới góc nhìn ngôn ngữ<br />
độc lập” năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học trong mối liên hệ với các bản Tuyên ngôn<br />
đạt đến mẫu mực, hoàn hảo cả về phương diện Độc lập trước đó, nhằm góp phần khẳng định<br />
chính trị lẫn phương diện văn chương, phương tính chuẩn mực, vừa truyền thống, vừa hiện đại<br />
diện ngôn ngữ, vừa có sự kế thừa truyền thống, của bản “Tuyên ngôn độc lập” này và thiên tài<br />
vừa có tính hiện đại, là kết tinh tinh hoa từ các sử dụng ngôn từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng<br />
bản tuyên ngôn trong lịch sử, đồng thời đưa việc như sức chuyển tải phi thường của tiếng Việt. <br />
sử dụng “hành động ngôn ngữ” tuyên ngôn trong<br />
giao tiếp chính trị đạt đến mức nghệ thuật. 2. TÍNH TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN<br />
ĐẠI CỦA NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ<br />
Từ khi lời “Tuyên ngôn Độc lập” âm vang TRONG “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”<br />
giữa Ba Đình lịch sử và truyền đi khắp năm<br />
châu bốn biển đến nay, hơn 70 năm đã trôi qua, Từ “Quốc tộ” (vận nước) đến “Tuyên ngôn<br />
tuyệt tác này đã nhận được sự quan tâm nghiên Độc lập” là cả một quá trình tiến triển và hoàn<br />
cứu của đông đảo học giả. Tuy nhiên, phần lớn thiện về mặt nội dung cũng như hình thức các<br />
các các bài viết đều nghiêng về góc độ lý luận bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta. “Quốc tộ”<br />
chính trị, chẳng hạn như Nguyễn Thường Lạng của nhà sư Đỗ Pháp Thuận được coi là Tuyên<br />
với bài viết nhan đề Bản Tuyên ngôn độc lập và ngôn hòa bình đầu tiên của dân tộc Việt Nam,<br />
trí tuệ lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ ra đời trong bối cảnh Lê Hoàn hỏi về vận nước.<br />
Ngọc Am với Thêm hiểu biết về Bản Tuyên ngôn Tuyên ngôn hòa bình này vẻn vẹn trong khuôn<br />
độc lập lịch sử, Phùng Văn Thiết với Tuyên ngôn khổ một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán:<br />
độc lập – Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại,…<br />
Nghiên cứu dưới góc độ phê bình văn học và 國祚如藤絡, Quốc tộ như đằng lạc,<br />
ngôn ngữ học có thể kể đến tác giả Đinh Văn 南天裏太平。Nam thiên lý thái bình.<br />
Đức với bài Ngôn ngữ bản “Tuyên ngôn Độc 無為居殿閣,Vô vi cư điện các,<br />
lập” – Một hình ảnh độc lập của tiếng Việt, Yến 處處息刀兵。Xứ xứ tức đao binh.<br />
Thanh với bài Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí<br />
Minh từ góc độ tu từ học và nguyên lý đối thoại, (Vận nước như dây mây quấn quýt, Trong<br />
đặc biệt là Hoàng Tuệ với bài viết Phân tích văn cõi trời Nam là cả một khung cảnh thái bình.<br />
bản “Tuyên ngôn độc lập” đăng trên Tạp chí Sống vô vi trong cung điện. Muôn nơi đều hết<br />
Ngôn ngữ số 1 năm 1990, nhân kỉ niệm 100 năm nạn binh đao.)<br />
ngày sinh của Người. Trong bài viết của mình,<br />
Tiếp đến bản Tuyên ngôn “Nam quốc sơn<br />
Hoàng Tuệ đã sử dụng lí thuyết ngữ pháp văn<br />
hà” vốn hết sức gần gũi với mọi người dân Việt<br />
bản để tiến hành phân tích nghĩa hiển ngôn và<br />
Nam vì đã được đưa vào chương trình văn học<br />
nghĩa hàm ngôn của văn bản lịch sử này để từ<br />
trường phổ thông nguyên dạng bản gốc tiếng<br />
đó làm nổi bật ý nghĩa sâu sắc của hành động<br />
chính trị của tác giả bản Tuyên ngôn – Chủ tịch Hán và bản dịch tiếng Việt. Đây được coi là bản<br />
Hồ Chí Minh cũng như sự đóng góp to lớn của Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, dưới hình thức là<br />
Người đối với sự phát triển và cách tân tiếng nói một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cả hai bản trong<br />
dân tộc. chừng mực nhất định còn mang dấu ấn của tư<br />
tưởng vô vi hay thiên mệnh. Về mặt nội dung<br />
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập tư tưởng, “Nam quốc sơn hà” đã được nâng lên<br />
trung phân tích văn bản “Tuyên ngôn độc lập” một cấp độ cao hơn ước vọng thái bình, là lời<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
72 Số 07 - 5/2017<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm mang vang là “Rõ” khi Người hỏi: “Tôi nói đồng bào<br />
tính khách quan, quyền bình đẳng với nước lớn, nghe rõ không? ” Nhân dân Việt Nam không chỉ<br />
đồng thời là lời vạch tội, thách thức với mọi thế rõ về âm thanh nghe được mà còn rõ cả về nội<br />
lực hắc ám xâm hại chủ quyền lãnh thổ của Việt dung những tư tưởng chính trị cao sâu trong lời<br />
Nam. Đến “Bình Ngô đại cáo”, bản Tuyên ngôn tuyên ngôn của Người. Từ đó, tư tưởng đã biến<br />
độc lập thứ ba này đã phá vỡ giới hạn về số chữ, thành hành động cách mạng, toàn dân ta đã nhất<br />
số câu và niêm luật nghiêm ngặt của một bài thơ trí đồng lòng, quyết tâm giữ gìn nền độc lập của<br />
thất ngôn tứ tuyệt, đạt tới độ dài 1348 chữ Hán. dân tộc. <br />
Về cấu trúc, “Bình Ngô đại cáo” đã kế thừa và<br />
phát huy tinh thần của “Nam quốc sơn hà”, trở Trước hết, “Tuyên ngôn độc lập” cũng như<br />
nên “sung mãn” về nội dung, rõ ràng, đanh thép “Bình Ngô đại cáo”, “Nam quốc sơn hà” đều mở<br />
về luận điểm và dồi dào, nóng bỏng về chứng cứ, đầu bằng việc khẳng định một cách đanh thép<br />
là sự tái hiện chân thực, sống động cuộc kháng về chủ quyền độc lập của dân tộc. Đó là chân lý<br />
chiến chống quân Minh trường kỳ gian khổ, phổ biến, khách quan, rõ ràng, tiền định, không<br />
nhưng thắng lợi vẻ vang, chiến tích lẫy lừng. thể phủ nhận. Riêng với “Tuyên ngôn độc lập”,<br />
Nguyên nhân thắng lợi cũng được “Bình Ngô Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay vì dẫn ra “sách<br />
đại cáo” tổng kết lại một cách đầy đủ, cho phép trời” tiệt nhiên định phận tại thiên thư (rành<br />
ta khẳng định về sự hội tụ đầy đủ các phẩm chất rành phân định ở sách trời) bằng lời dẫn trong<br />
nhân, trí, dũng của khối đại đoàn kết toàn dân “Tuyên ngôn Độc lập” của Mỹ năm 1776: Tất<br />
tộc, bằng mưu phạt tâm công (đánh bằng mưu cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.<br />
và đánh vào lòng), bằng đại nghĩa, chí nhân đã Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể<br />
chiến thắng hung tàn, cường bạo. xâm phạm được; trong những quyền ấy, có<br />
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu<br />
Tuy nhiên, chỉ đến “Tuyên ngôn độc lập” của cầu hạnh phúc, cùng với lời dẫn từ “Tuyên ngôn<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn này mới Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng<br />
đích thực đạt được sự trọn vẹn cả về hình thức Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình<br />
văn tự và toàn bộ nội dung tư tưởng. Với độ dài đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và<br />
chỉ 1012 tiếng, “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn đảm bình đẳng về quyền lợi. Ngay từ lời mở đầu bản<br />
bảo cấu trúc đầy đủ của một bản tuyên ngôn và Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng<br />
đạt đến đỉnh cao của sự tinh luyện, súc tích. Ở định những câu chữ được chọn lọc, trích dẫn từ<br />
đây, chúng ta có thể nhận thấy bóng dáng của hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc là Mỹ và<br />
cả ba bản tuyên ngôn lịch sử trước đó, nhất là Pháp ấy là những Lời bất hủ - không bao giờ cũ,<br />
“Bình Ngô đại cáo”. Đó chính là tính kế thừa không bao giờ mất giá trị, và là Lẽ phải không<br />
trong “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ ai chối cãi được. Từ “Nam quốc sơn hà” đến<br />
Chí Minh, đồng thời trong văn bản đó còn có cả “Tuyên ngôn Độc lập” là sự chuyển mình từ tư<br />
những nét hiện đại của một bản Tuyên ngôn Độc tưởng dựa vào thế lực huyền bí đến sự dựa trên<br />
lập của dân tộc Việt Nam không phải bằng chữ cơ sở thực tế khách quan, từ “thần” đến “dân”,<br />
Hán mà bằng chính tiếng nói, chữ viết riêng của từ “thiên” đến “nhân”. Tính chất “kê cổ” ấy càng<br />
dân tộc Việt Nam, vượt ra ngoài bờ cõi quốc gia, khẳng định chân lý về quyền con người, quyền<br />
đến với quốc tế, khiến cho bốn biển năm châu được hưởng tự do độc lập đã được thế giới, cổ<br />
đều biết đến một nền độc lập, chủ quyền thiêng kim, đông tây đều thừa nhận, trong đó tất nhiên<br />
liêng của dân tộc Việt Nam. Nhờ thế mà toàn có quyền độc lập tự do bất khả xâm phạm của<br />
thể đồng bào nghe bản Tuyên ngôn đã cùng hô dân tộc Việt Nam.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 07 - 5/2017 73<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
Từ sự khẳng định chân lý độc lập chủ quyền Nếu như “Bình Ngô đại cáo” đã toát lên một<br />
dân tộc, soi vào thực tiễn lịch sử, “Tuyên ngôn tinh thần nhân nghĩa, lòng khoan dung rộng lớn<br />
Độc lập” cũng như “Bình Ngô đại cáo” đã tiến của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn lấy<br />
tới tố cáo tội ác tày trời với những hành vi bạo lực chí nhân để thay cường bạo và mở đường hiếu<br />
phi nhân tính, những tham vọng hay đúng hơn là sinh, thì “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn phát huy<br />
cuồng vọng cướp nước của kẻ xâm lược. Bằng truyền thống nhân nghĩa rạng ngời đó, thái độ<br />
việc lặp lại đến 17 lần đại từ xưng hô “chúng” và khoan hồng và nhân đạo vẫn được nhân dân Việt<br />
4 lần từ xưng hô “bọn”, tác giả “Tuyên ngôn Độc<br />
Nam sẵn lòng dành cho người Pháp chứ không<br />
lập” đã thể hiện rõ thái độ khinh miệt, căm phẫn<br />
phải dành cho bọn thực dân cướp nước.<br />
đối với kẻ cướp nước nhằm vạch trần âm mưu, thủ<br />
đoạn mị dân của thực dân Pháp hòng cướp nước “Bình Ngô đại cáo” dành một nội dung khá<br />
ta. Đối với nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí lớn cho việc tổng kết những chiến thắng vang<br />
Minh đã sử dụng đại từ đơn âm tiết ta trong các<br />
dội của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến<br />
kết hợp: dân ta, nước ta, đất nước ta, nhân dân<br />
chống quân Minh với những tên đất oai hùng Bồ<br />
ta, đồng bào ta, nòi giống ta,… thể hiện niềm<br />
Đằng, Trà Lân, Ninh Kiều, Đông Đô, Chi Lăng,<br />
kiêu hãnh và tình cảm hết sức gần gũi, gắn bó,<br />
Mã Yên, Lạng Giang, Lạng Sơn, Xương Giang,<br />
hòa đồng, không hề có khoảng cách giữa người<br />
nói – vị lãnh tụ tối cao của dân tộc với người Bình Than, Lãnh Câu, Đan Xá,… Mỗi tên đất<br />
nghe là toàn thể nhân dân. Đồng hành với mỗi ấy gắn liền với một chiến công, mỗi chiến công<br />
đại từ “chúng” hầu hết là những vị từ mạnh như được tái hiện bằng một hình ảnh gợi tả với những<br />
“trái hẳn”, “tuyệt đối”, “thẳng tay”, “cướp”, “bóc cụm động từ mạnh như sấm vang chớp giật, trúc<br />
lột”, “đặt ra”, “nhẫn tâm”, “tắm… (trong những chẻ tro bay, máu trôi đỏ nước, nước chảy trôi<br />
bể máu)”,… tạo thành những câu văn liên hoàn, chày, xéo lên nhau, khiếp vía, vỡ mật, thây chất<br />
dồn dập. Mỗi câu là lời tố cáo đanh thép một tội đầy núi, đầm đìa máu đen,… Và những ngày<br />
ác, một âm mưu, một thủ đoạn hết sức tinh vi mười tám, ngày hai mươi, ngày hai lăm, ngày<br />
của quân xâm lược. Ngoài những từ ngữ xưng hai tám, … dồn dập những chiến công nối tiếp<br />
hô, trong “Tuyên ngôn Độc lập” còn xuất hiện chiến công. Tất cả khiến cho người đọc ngập<br />
khá nhiều các điệp từ và điệp ngữ khác, như sự chìm trong khúc khải hoàn ca chiến thắng. Đến<br />
thật là, tự do độc lập, xóa bỏ, tuyên bố, nhất là “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh<br />
sự xuất hiện nhiều lần danh từ quyền xuyên suốt tổng kết chiến thắng của dân tộc ta bằng vẻn vẹn<br />
toàn văn. Chính các điệp từ, điệp ngữ ấy vừa chỉ một câu 9 chữ với 3 cụm chủ vị Pháp chạy,<br />
làm sáng tỏ nội dung, vừa thể hiện thái độ kiên<br />
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Chỉ có mấy<br />
quyết bảo vệ quyền tự do độc lập của dân tộc, vì<br />
chữ đó thôi, thật là giản dị, nhưng cũng thật rõ<br />
chúng ta có chính nghĩa dựa trên cơ sở sự thật<br />
ràng, mà lại tổng kết được một cách hết sức bao<br />
khách quan không thể phủ nhận. Cũng chính các<br />
quát, đầy đủ thắng lợi của cả cuộc cách mạng lâu<br />
điệp từ, điệp ngữ ấy đã tạo cho lời lẽ trong Tuyên<br />
ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh một dài “phản đế phản phong” của toàn dân tộc do<br />
âm hưởng ngân vang mãi trong lòng mỗi người Đảng lãnh đạo, đó chính là cơ sở cho chúng ta có<br />
dân, đồng thời góp phần làm nên một bản Tuyên quyền Tuyên ngôn Độc lập để mang lại tự do và<br />
ngôn ngắn gọn, súc tích, sắc bén, đầy sức thuyết hạnh phúc cho toàn dân tộc. Cách tổng kết chiến<br />
phục. Cứ thế, chân lý về độc lập chủ quyền của thắng độc đáo đó đã thể hiện một phong cách<br />
dân tộc Việt Nam mãi thấm sâu vào lòng người Hồ Chí Minh trong chiến lược tiết kiệm ngôn từ,<br />
như một lẽ tự nhiên. lời ít, ý nhiều. Kiểu câu phức ngắn gọn, nối kết<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
74 Số 07 - 5/2017<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
ba sự kiện liền mạch, liên hoàn, mang tính mở Một điểm nổi bật nữa về mặt cấu trúc văn<br />
ấy đã khiến cho người đọc hình dung ra một sự bản của “Tuyên ngôn Độc lập” là sự hiện diện<br />
sụp đổ, tan rã của cả một hệ thống chính quyền của các từ ngữ đóng vai trò làm thành phần<br />
đế quốc thực dân phong kiến theo kiểu phản ứng nối các đoạn mà ngôn ngữ học gọi là các kết<br />
dây chuyền không thế lực nào có thể cứu vãn, tử, như thế mà, tuy vậy, bởi thế cho nên nối kết<br />
cuối cùng phải nhường chỗ cho một Chính phủ giữa các nội dung, hợp thành một văn bản chính<br />
lâm thời, khởi đầu một Nhà nước của dân, do luận có lập luận chặt chẽ, đầy đủ, hùng hồn.<br />
dân và vì dân. Tính mạch lạc và logic đã được nổi rõ qua dấu<br />
hiệu kết nối nội dung của các kết tử này. Trong<br />
“Tuyên ngôn Độc lập” còn sử dụng những đó, thế mà, tuy vậy đóng vai trò nối kết hai nội<br />
câu hoặc cấu trúc sóng đôi, phảng phất sắc dung trên dưới có ý nghĩa trái ngược nhau. Sau<br />
màu của văn biền ngẫu, gây ấn tượng mạnh và khi dẫn ra những Lời bất hủ để khẳng định chân<br />
sâu cho người đọc và người nghe, như (1) Một lý không ai chối cãi được, Chủ tịch Hồ Chí Minh<br />
dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp đã dùng thế mà để vạch trần tội ác đi ngược lại<br />
hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng công lý của thực dân Pháp nhằm cướp đi quyền<br />
về phía phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm tự do của dân tộc Việt Nam. Sau khi tố cáo tội<br />
nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải ác trời không dung, đất không tha của bọn thực<br />
được độc lập; (2) dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, dân Pháp nhẫn tâm, Người lại dùng tuy vậy để<br />
nước ta xơ xác, tiêu điều; (3) Từ đó dân ta chịu dẫn nêu thái độ khoan dung của một dân tộc yêu<br />
hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta chuộng hòa bình sẵn lòng tha thứ cho chính kẻ<br />
càng cực khổ, nghèo nàn; (4) đã giúp cho nhiều thù của mình khi chúng đã rũ bỏ thú tính, trở<br />
người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho về với nhân tính và làm người Pháp chứ không<br />
nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật; phải giặc Pháp. Và kết tử bởi thế cho nên lại<br />
(5) xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký phát huy vai trò nối kết hai nội dung có quan hệ<br />
về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của nhân quả. Một lần nữa, Người khẳng định, việc<br />
Pháp trên đất nước Việt Nam; (6) tinh thần và xóa bỏ mọi hiệp ước, đặc quyền của Pháp trên<br />
đất nước Việt Nam và tuyên bố với thế giới về<br />
lực lượng, tính mạng và của cải,… Song, tính<br />
quyền tự do, độc lập của Việt Nam là một tất yếu<br />
chất biền ngẫu của những cặp câu này không<br />
khách quan của một dân tộc có sức mạnh chính<br />
hoàn toàn chặt chẽ, trong đó chỉ gồm những từ<br />
nghĩa. “Bình Ngô đại cáo” với một quy mô đồ<br />
ngữ hết sức dễ hiểu như các từ gạch dưới đối với<br />
sộ hơn cũng đã sử dụng lối liên kết này, nhưng<br />
toàn thể mọi người dân. Nhờ vậy, các câu và từ <br />
bằng một lượng kết tử lớn gấp ba lần. Đó là<br />
ấy đã bổ sung cho nhau, tương tác lẫn nhau, thu<br />
cái văn (từng nghe), cố (cho nên), khoảnh (vừa<br />
hút sự chú ý của người đọc và người nghe, làm<br />
rồi), nại dĩ (lại ngặt vì), nhiên kỳ (thế mà), tốt<br />
cho nội dung thông tin cần truyền tải trở nên sinh<br />
năng (trọn hay), toại (bởi thế)...<br />
động hơn, nổi bật và cũng dễ đi sâu vào lòng<br />
người hơn. Có thể nói, đó là sự “phá cách” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình sáng<br />
dạng biền văn truyền thống. Sự hiện diện của tác thơ văn cũng như sử dụng ngôn ngữ thường<br />
những câu văn này còn góp phần làm cho bản nhật, luôn nêu cao tấm gương về giữ gìn sự<br />
Tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang sắc trong sáng của tiếng Việt, khiến cho tiếng Việt<br />
thái truyền thống, cổ điển và hướng tới tính hiện trong các bài viết chính luận, bài phát biểu hay<br />
đại của văn chương tiếng Việt. lời nói thường ngày của Người trở nên giản<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 07 - 5/2017 75<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
dị, dễ hiểu và gần gũi hơn với đông đảo quần thế giới đứng về phía chính nghĩa, đấu tranh cho<br />
chúng nhân dân. Khi nói về các tầng lớp nhân chính nghĩa – dân tộc Việt Nam.<br />
dân trong xã hội, Người không dùng nông dân,<br />
thương nhân mà dùng dân cày, dân buôn. Người 3. KẾT LUẬN<br />
dùng ra khỏi nhà giam, gan góc chống lại,… mà<br />
“Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí<br />
không dùng xuất ngục, vượt ngục, kiên cường<br />
Minh đã tiếp thu, kế thừa tinh hoa của các bản<br />
phản kháng, dùng quyền sung sướng để giải<br />
tuyên ngôn độc lập trong lịch sử, đồng thời<br />
nghĩa cho quyền mưu cầu hạnh phúc. Ngay từ<br />
đưa giá trị nội dung và nghệ thuật của tuyệt tác<br />
tiếng gọi thân thương, tha thiết “Hỡi” cất lên<br />
từ đầu bản Tuyên ngôn đến những câu hết sức này lên tới đỉnh cao, hoàn mỹ về cấu trúc, tinh<br />
đời thường như lời ăn tiếng nói hàng ngày của luyện về ngôn từ, sâu sắc về ý nghĩa và đặc biệt<br />
người dân Việt Nam cũng được Người vận dụng là một phong cách vừa truyền thống, vừa hiện<br />
vào Tuyên ngôn, như đã trở thành…, chứ không đại, gần gũi với ngôn ngữ toàn dân, bình dị, dễ<br />
phải…. Đó là bản sắc của tiếng nói Việt Nam, là hiểu mà vẫn đầy sức thuyết phục với những lý<br />
những lời bình dị dùng để khẳng định chân lý lẽ sắc sảo và thực tế rõ rành. “Tuyên ngôn độc<br />
hiển nhiên mà cao cả về quyền được hưởng tự lập” của Người còn là sự tái hiện chân thực lịch<br />
do độc lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. sử và là lời kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa<br />
Kể cả khi phải chuyển dịch từ những văn bản bình trên toàn thế giới ủng hộ Việt Nam, ủng hộ<br />
tiếng nước ngoài, Người vẫn luôn cân nhắc, trau cho chính nghĩa, cho quyền sống, quyền được<br />
chuốt từng từ, từng chữ. Đinh Văn Đức trong hưởng tự do của nhân dân thế giới nói chung và<br />
bài viết “Ngôn ngữ bản “Tuyên ngôn Độc lập” – dân tộc Việt Nam nói riêng. Đó cũng là quyết<br />
Một hình ảnh độc lập của tiếng Việt ” đã khẳng tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do của toàn thể<br />
định, Hồ Chủ Tịch đã dịch từ “ GOD” thành hai dân tộc Việt Nam. “Tuyên ngôn độc lập” cũng<br />
chữ “Tạo hoá” cực hay và thâm thuý. Thay vì là một minh chứng về tài năng, về một mẫu mực<br />
dịch “Chúa Trời” hay “Thượng Đế”, hai chữ sử dụng ngôn từ, khiến cho tiếng Việt từ đây<br />
“Tạo Hoá” vừa gần gũi tâm lý người Việt, vừa xứng tầm là tiếng nói của một dân tộc đã chính<br />
thể hiện chỗ đứng của người viết, vốn theo triết thức gỡ bỏ xiềng xích, giành quyền tự do, độc<br />
học của Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng. Điều đó lập và khẳng định vị thế của mình trên trường<br />
thêm một lần giúp ta khẳng định, “Tuyên ngôn quốc tế. Chính Ngôn ngữ được sử dụng trong<br />
Độc lập” đã kế thừa và phát huy tinh thần của “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 là bằng chứng<br />
“Nam quốc sơn hà”, từ “thiên thư” sang “tạo hùng hồn, chứng minh cho tiếng Việt từ địa vị<br />
hóa”, đều và càng thể hiện được tính khách quan tiếng nói của một dân tộc nô lệ đã chính thức<br />
về quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc trở thành ngôn ngữ quốc gia của một Nhà nước<br />
Việt Nam. của dân, do dân và vì dân – những người dân đã<br />
thực sự làm chủ đất nước, thực sự được hưởng<br />
Cuối cùng, “Tuyên ngôn Độc lập” đã khép<br />
Tự do và Độc lập đúng như Lời Tuyên ngôn<br />
lại bằng lời khẳng định đanh thép về quyền<br />
Độc lập bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.<br />
được hưởng độc lập, lòng quyết tâm, ý chí sắt<br />
đá cũng như lời tuyên thệ, niềm tin tưởng tuyệt Tài liệu tham khảo:<br />
đối của cả dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ độc<br />
lập chủ quyền. Đồng thời, đó cũng là lời kêu gọi 1. Trần Cư (2005), Bác Hồ viết tuyên ngôn<br />
các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên độc lập, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
76 Số 07 - 5/2017<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
2. Hoàng Tuệ (2000), Phân tích văn bản “Tuyên 5. , truy cập ngày 25/2/2017.<br />
lập – Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại”, Tạp chí<br />
Lý luận Chính trị, số Tháng 8. 6. , truy cập ngày<br />
trình, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 25/2/2017.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
PRESIDENT HO CHI MINH’S INDEPENDENCE DECLARATION - A MODERN<br />
AND TRADITIONAL STANDARD STYLE OF WRITING<br />
<br />
PHAM NGOC HAM<br />
<br />
Abstract: President Ho Chi Minh is not only a symbol of morality but also a leader in maintaining<br />
the beauty of Vietnamese language. The Declaration of independence is written in both traditional<br />
and morden style and it absorbs the spirit of three previous declarations of independence in the<br />
course of Vietnamese history. The declaration does not only claim the sovereignty of Vietnam<br />
but also contribute as a valuable material in Vietnamese language. In this article, we analyze<br />
the declaration of independence of Vietnam in terms of linguistics and in relation to other three<br />
previous declarations of independence.<br />
<br />
Keywords: modern, language, style, The Declaration of independence of Vietnam, tradition.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 07 - 5/2017 77<br />