intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

“Tuyên ngôn độc lập” của chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách chuẩn mực, truyền thống và hiện đại

Chia sẻ: ViKakashi2711 ViKakashi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

75
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tiến hành phân tích “Tuyên ngôn độc lập” dưới góc nhìn ngôn ngữ học trong sự liên hệ với “Quốc tộ”, “Nam quốc sơn hà”, “Bình Ngô đại cáo”, nhằm góp phần làm rõ tính chuẩn mực trong văn phong của Người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: “Tuyên ngôn độc lập” của chủ tịch Hồ Chí Minh một phong cách chuẩn mực, truyền thống và hiện đại

VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”<br /> CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH<br /> MỘT PHONG CÁCH CHUẨN MỰC,<br /> TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI<br /> PHẠM NGỌC HÀM*<br /> *<br /> Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, ✉ phamngocham.nnvhtq@gmail.com<br /> Ngày nhận: 20/4/2017; Ngày hoàn thiện: 03/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một điển hình, chuẩn mực về đạo đức cách mạng mà còn là<br /> một tấm gương sáng về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. “Tuyên ngôn độc lập” của Người<br /> mang phong cách ngôn ngữ vừa truyền thống, vừa hiện đại, đã kế thừa và phát huy tinh thần của<br /> ba bản tuyên ngôn độc lập trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam. Với lập luận<br /> chặt chẽ, tình tiết mạch lạc, câu từ độc đáo, bản tuyên ngôn đó vừa là sự khẳng định đanh thép chủ<br /> quyền dân tộc, vừa là lời kêu gọi hùng hồn, xứng đáng là một viên ngọc mãi lấp lánh trong Bảo<br /> tàng Lịch sử và Ngôn ngữ Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tiến hành phân tích<br /> “Tuyên ngôn độc lập” dưới góc nhìn ngôn ngữ học trong sự liên hệ với “Quốc tộ”, “Nam quốc<br /> sơn hà”, “Bình Ngô đại cáo”, nhằm góp phần làm rõ tính chuẩn mực trong văn phong của Người.  <br /> Từ khóa: hiện đại, ngôn từ, phong cách, Tuyên ngôn độc lập, truyền thống.<br /> <br /> <br /> <br /> 1.  ĐẶT VẤN ĐỀ Những bản tuyên ngôn đanh thép ấy về độc lập<br /> chủ quyền của dân tộc Việt Nam cũng là những<br /> Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân mốc son chói sáng về chiến công lẫy lừng của<br /> tộc Việt Nam đã kề vai sát cánh, kiên cường, bất một dân tộc mà sức mạnh được nhân lên vạn lần<br /> khuất trải qua biết bao cuộc chiến tranh trường kỳ, từ khối đại đoàn kết toàn dân, truyền thống nhân<br /> gian khổ, đầy hy sinh để bảo toàn bờ cõi và nền nghĩa, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nhờ<br /> độc lập của dân tộc. Từ “Quốc tộ” của nhà sư Đỗ sức mạnh tổng hợp đó mà dân tộc ta “gậy tầm<br /> Pháp Thuận, “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường vông cũng đánh tan quân bạo tàn.” Nhìn lại lịch<br /> Kiệt đến “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, sử, tuy bốn bản tuyên ngôn độc lập với những<br /> đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 của hình thức ngôn ngữ và thể tài khác nhau, nhưng<br /> Chủ tịch Hồ Chí Minh – đó là những thiên anh cùng toát lên một chân lý “đất nước Việt Nam là<br /> hùng ca tái hiện lịch sử giữ nước của dân tộc. một, dân tộc Việt Nam là một” và chủ quyền của<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 07 - 5/2017 71<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> dân tộc Việt Nam là bất khả xâm phạm. Trong năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh (gọi tắt là<br /> bốn bản tuyên ngôn độc lập đó, “Tuyên ngôn “Tuyên ngôn độc lập”) dưới góc nhìn ngôn ngữ<br /> độc lập” năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã học trong mối liên hệ với các bản Tuyên ngôn<br /> đạt đến mẫu mực, hoàn hảo cả về phương diện Độc lập trước đó, nhằm góp phần khẳng định<br /> chính trị lẫn phương diện văn chương, phương tính chuẩn mực, vừa truyền thống, vừa hiện đại<br /> diện ngôn ngữ, vừa có sự kế thừa truyền thống, của bản “Tuyên ngôn độc lập” này và thiên tài<br /> vừa có tính hiện đại, là kết tinh tinh hoa từ các sử dụng ngôn từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng<br /> bản tuyên ngôn trong lịch sử, đồng thời đưa việc như sức chuyển tải phi thường của tiếng Việt. <br /> sử dụng “hành động ngôn ngữ” tuyên ngôn trong<br /> giao tiếp chính trị đạt đến mức nghệ thuật. 2. TÍNH TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN<br /> ĐẠI CỦA NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ<br /> Từ khi lời “Tuyên ngôn Độc lập” âm vang TRONG “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”<br /> giữa Ba Đình lịch sử và truyền đi khắp năm<br /> châu bốn biển đến nay, hơn 70 năm đã trôi qua, Từ “Quốc tộ” (vận nước) đến “Tuyên ngôn<br /> tuyệt tác này đã nhận được sự quan tâm nghiên Độc lập” là cả một quá trình tiến triển và hoàn<br /> cứu của đông đảo học giả. Tuy nhiên, phần lớn thiện về mặt nội dung cũng như hình thức các<br /> các các bài viết đều nghiêng về góc độ lý luận bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta. “Quốc tộ”<br /> chính trị, chẳng hạn như Nguyễn Thường Lạng của nhà sư Đỗ Pháp Thuận được coi là Tuyên<br /> với bài viết nhan đề Bản Tuyên ngôn độc lập và ngôn hòa bình đầu tiên của dân tộc Việt Nam,<br /> trí tuệ lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ ra đời trong bối cảnh Lê Hoàn hỏi về vận nước.<br /> Ngọc Am với Thêm hiểu biết về Bản Tuyên ngôn Tuyên ngôn hòa bình này vẻn vẹn trong khuôn<br /> độc lập lịch sử, Phùng Văn Thiết với Tuyên ngôn khổ một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán:<br /> độc lập – Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại,…<br /> Nghiên cứu dưới góc độ phê bình văn học và 國祚如藤絡,  Quốc tộ như đằng lạc,<br /> ngôn ngữ học có thể kể đến tác giả Đinh Văn 南天裏太平。Nam thiên lý thái bình.<br /> Đức với bài  Ngôn ngữ bản “Tuyên ngôn Độc 無為居殿閣,Vô vi cư điện các,<br /> lập” – Một hình ảnh độc lập của tiếng Việt, Yến 處處息刀兵。Xứ xứ tức đao binh.<br /> Thanh với bài Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí<br /> Minh từ góc độ tu từ học và nguyên lý đối thoại, (Vận nước như dây mây quấn quýt, Trong<br /> đặc biệt là Hoàng Tuệ với bài viết Phân tích văn cõi trời Nam là cả một khung cảnh thái bình.<br /> bản “Tuyên ngôn độc lập” đăng trên Tạp chí Sống vô vi trong cung điện. Muôn nơi đều hết<br /> Ngôn ngữ số 1 năm 1990, nhân kỉ niệm 100 năm nạn binh đao.)<br /> ngày sinh của Người. Trong bài viết của mình,<br /> Tiếp đến bản Tuyên ngôn “Nam quốc sơn<br /> Hoàng Tuệ đã sử dụng lí thuyết ngữ pháp văn<br /> hà” vốn hết sức gần gũi với mọi người dân Việt<br /> bản để tiến hành phân tích nghĩa hiển ngôn và<br /> Nam vì đã được đưa vào chương trình văn học<br /> nghĩa hàm ngôn của văn bản lịch sử này để từ<br /> trường phổ thông nguyên dạng bản gốc tiếng<br /> đó làm nổi bật ý nghĩa sâu sắc của hành động<br /> chính trị của tác giả bản Tuyên ngôn – Chủ tịch Hán và bản dịch tiếng Việt. Đây được coi là bản<br /> Hồ Chí Minh cũng như sự đóng góp to lớn của Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, dưới hình thức là<br /> Người đối với sự phát triển và cách tân tiếng nói  một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Cả hai bản trong<br /> dân tộc. chừng mực nhất định còn mang dấu ấn của tư<br /> tưởng vô vi hay thiên mệnh. Về mặt nội dung<br /> Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập tư tưởng, “Nam quốc sơn hà” đã được nâng lên<br /> trung phân tích văn bản “Tuyên ngôn độc lập” một cấp độ cao hơn ước vọng thái bình, là lời<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 72 Số 07 - 5/2017<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm mang vang là “Rõ” khi Người hỏi: “Tôi nói đồng bào<br /> tính khách quan, quyền bình đẳng với nước lớn, nghe rõ không? ” Nhân dân Việt Nam không chỉ<br /> đồng thời là lời vạch tội, thách thức với mọi thế rõ về âm thanh nghe được mà còn rõ cả về nội<br /> lực hắc ám xâm hại chủ quyền lãnh thổ của Việt dung những tư tưởng chính trị cao sâu trong lời<br /> Nam. Đến “Bình Ngô đại cáo”, bản Tuyên ngôn tuyên ngôn của Người. Từ đó, tư tưởng đã biến<br /> độc lập thứ ba này đã phá vỡ giới hạn về số chữ, thành hành động cách mạng, toàn dân ta đã nhất<br /> số câu và niêm luật nghiêm ngặt của một bài thơ trí đồng lòng, quyết tâm giữ gìn nền độc lập của<br /> thất ngôn tứ tuyệt, đạt tới độ dài 1348 chữ Hán. dân tộc. <br /> Về cấu trúc, “Bình Ngô đại cáo” đã kế thừa và<br /> phát huy tinh thần của “Nam quốc sơn hà”, trở Trước hết, “Tuyên ngôn độc lập” cũng như<br /> nên “sung mãn” về nội dung, rõ ràng, đanh thép “Bình Ngô đại cáo”, “Nam quốc sơn hà” đều mở<br /> về luận điểm và dồi dào, nóng bỏng về chứng cứ, đầu bằng việc khẳng định một cách đanh thép<br /> là sự tái hiện chân thực, sống động cuộc kháng về chủ quyền độc lập của dân tộc. Đó là chân lý<br /> chiến chống quân Minh trường kỳ gian khổ, phổ biến, khách quan, rõ ràng, tiền định, không<br /> nhưng thắng lợi vẻ vang, chiến tích lẫy lừng. thể phủ nhận. Riêng với “Tuyên ngôn độc lập”,<br /> Nguyên nhân thắng lợi cũng được “Bình Ngô Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay vì dẫn ra “sách<br /> đại cáo” tổng kết lại một cách đầy đủ, cho phép trời”  tiệt nhiên định phận tại thiên thư (rành<br /> ta khẳng định về sự hội tụ đầy đủ các phẩm chất rành phân định ở sách trời) bằng lời dẫn trong<br /> nhân, trí, dũng của khối đại đoàn kết toàn dân “Tuyên ngôn Độc lập” của Mỹ năm 1776:  Tất<br /> tộc, bằng  mưu phạt tâm công  (đánh bằng mưu cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.<br /> và đánh vào lòng), bằng đại nghĩa, chí nhân đã Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể<br /> chiến thắng hung tàn, cường bạo.   xâm phạm được; trong những quyền ấy, có<br /> quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu<br /> Tuy nhiên, chỉ đến “Tuyên ngôn độc lập” của cầu hạnh phúc, cùng với lời dẫn từ “Tuyên ngôn<br /> Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Tuyên ngôn này mới Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng<br /> đích thực đạt được sự trọn vẹn cả về hình thức Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình<br /> văn tự và toàn bộ nội dung tư tưởng. Với độ dài đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và<br /> chỉ 1012 tiếng, “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn đảm bình đẳng về quyền lợi. Ngay từ lời mở đầu bản<br /> bảo cấu trúc đầy đủ của một bản tuyên ngôn và Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng<br /> đạt đến đỉnh cao của sự tinh luyện, súc tích. Ở định những câu chữ được chọn lọc, trích dẫn từ<br /> đây, chúng ta có thể nhận thấy bóng dáng của hai bản tuyên ngôn của hai cường quốc là Mỹ và<br /> cả ba bản tuyên ngôn lịch sử trước đó, nhất là Pháp ấy là những Lời bất hủ - không bao giờ cũ,<br /> “Bình Ngô đại cáo”. Đó chính là tính kế thừa  không bao giờ mất giá trị, và là Lẽ phải không<br /> trong “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ ai chối cãi được.  Từ “Nam quốc sơn hà” đến<br /> Chí Minh, đồng thời trong văn bản đó còn có cả “Tuyên ngôn Độc lập” là sự chuyển mình từ tư<br /> những nét hiện đại của một bản Tuyên ngôn Độc tưởng dựa vào thế lực huyền bí đến sự dựa trên<br /> lập của dân tộc Việt Nam không phải bằng chữ cơ sở thực tế khách quan, từ “thần” đến “dân”,<br /> Hán mà bằng chính tiếng nói, chữ viết riêng của từ “thiên” đến “nhân”. Tính chất “kê cổ” ấy càng<br /> dân tộc Việt Nam, vượt ra ngoài bờ cõi quốc gia, khẳng định chân lý về quyền con người, quyền<br /> đến với quốc tế, khiến cho bốn biển năm châu được hưởng tự do độc lập đã được thế giới, cổ<br /> đều biết đến một nền độc lập, chủ quyền thiêng kim, đông tây đều thừa nhận, trong đó tất nhiên<br /> liêng của dân tộc Việt Nam. Nhờ thế mà toàn có quyền độc lập tự do bất khả xâm phạm của<br /> thể đồng bào nghe bản Tuyên ngôn đã cùng hô dân tộc Việt Nam.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 07 - 5/2017 73<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> Từ sự khẳng định chân lý độc lập chủ quyền   Nếu như “Bình Ngô đại cáo” đã toát lên một<br /> dân tộc, soi vào thực tiễn lịch sử, “Tuyên ngôn tinh thần nhân nghĩa, lòng khoan dung rộng lớn<br /> Độc lập” cũng như “Bình Ngô đại cáo” đã tiến của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn lấy<br /> tới tố cáo tội ác tày trời với những hành vi bạo lực chí nhân để thay cường bạo và mở đường hiếu<br /> phi nhân tính, những tham vọng hay đúng hơn là sinh, thì “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn phát huy<br /> cuồng vọng cướp nước của kẻ xâm lược. Bằng truyền thống nhân nghĩa rạng ngời đó,  thái độ<br /> việc lặp lại đến 17 lần đại từ xưng hô “chúng” và khoan hồng và nhân đạo vẫn được nhân dân Việt<br /> 4 lần từ xưng hô “bọn”, tác giả “Tuyên ngôn Độc<br /> Nam sẵn lòng dành cho người Pháp chứ không<br /> lập” đã thể hiện rõ thái độ khinh miệt, căm phẫn<br /> phải dành cho bọn thực dân cướp nước.<br /> đối với kẻ cướp nước nhằm vạch trần âm mưu, thủ<br /> đoạn mị dân của thực dân Pháp hòng cướp nước “Bình Ngô đại cáo” dành một nội dung khá<br /> ta.  Đối với nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí lớn cho việc tổng kết những chiến thắng vang<br /> Minh đã sử dụng đại từ đơn âm tiết ta trong các<br /> dội của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến<br /> kết hợp: dân ta, nước ta, đất nước ta, nhân dân<br /> chống quân Minh với những tên đất oai hùng Bồ<br /> ta, đồng bào ta, nòi giống ta,…  thể hiện niềm<br /> Đằng, Trà Lân, Ninh Kiều, Đông Đô, Chi Lăng,<br /> kiêu hãnh và tình cảm hết sức gần gũi, gắn bó,<br /> Mã Yên, Lạng Giang, Lạng Sơn, Xương Giang,<br /> hòa đồng, không hề có khoảng cách giữa người<br /> nói – vị  lãnh tụ tối cao của dân tộc với người Bình Than, Lãnh Câu, Đan Xá,…  Mỗi tên đất<br /> nghe là toàn thể nhân dân. Đồng hành với mỗi ấy gắn liền với một chiến công, mỗi chiến công<br /> đại từ “chúng” hầu hết là những vị từ mạnh như được tái hiện bằng một hình ảnh gợi tả với những<br /> “trái hẳn”, “tuyệt đối”, “thẳng tay”, “cướp”, “bóc cụm động từ mạnh như sấm vang chớp giật, trúc<br /> lột”, “đặt ra”, “nhẫn tâm”, “tắm… (trong những chẻ tro bay, máu trôi đỏ nước, nước chảy trôi<br /> bể máu)”,… tạo thành những câu văn liên hoàn, chày, xéo lên nhau, khiếp vía, vỡ mật, thây chất<br /> dồn dập. Mỗi câu là lời tố cáo đanh thép một tội đầy núi, đầm đìa máu đen,…  Và những  ngày<br /> ác, một âm mưu, một thủ đoạn hết sức tinh vi mười tám, ngày hai mươi, ngày hai lăm, ngày<br /> của quân xâm lược. Ngoài những từ ngữ xưng hai tám, … dồn dập những chiến công nối tiếp<br /> hô, trong “Tuyên ngôn Độc lập” còn xuất hiện chiến công. Tất cả khiến cho người đọc ngập<br /> khá nhiều các điệp từ và điệp ngữ khác, như sự chìm trong khúc khải hoàn ca chiến thắng. Đến<br /> thật là, tự do độc lập, xóa bỏ, tuyên bố, nhất là “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh<br /> sự xuất hiện nhiều lần danh từ quyền xuyên suốt tổng kết chiến thắng của dân tộc ta bằng vẻn vẹn<br /> toàn văn. Chính các điệp từ, điệp ngữ ấy vừa chỉ một câu 9 chữ với 3 cụm chủ vị Pháp chạy,<br /> làm sáng tỏ nội dung, vừa thể hiện thái độ kiên<br /> Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.  Chỉ có mấy<br /> quyết bảo vệ quyền tự do độc lập của dân tộc, vì<br /> chữ đó thôi, thật là giản dị, nhưng cũng thật rõ<br /> chúng ta có chính nghĩa dựa trên cơ sở sự thật<br /> ràng, mà lại tổng kết được một cách hết sức bao<br /> khách quan không thể phủ nhận. Cũng chính các<br /> quát, đầy đủ thắng lợi của cả cuộc cách mạng lâu<br /> điệp từ, điệp ngữ ấy đã tạo cho lời lẽ trong Tuyên<br /> ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh một dài “phản đế phản phong” của toàn dân tộc do<br /> âm hưởng ngân vang mãi trong lòng mỗi người Đảng lãnh đạo, đó chính là cơ sở cho chúng ta có<br /> dân, đồng thời góp phần làm nên một bản Tuyên quyền Tuyên ngôn Độc lập để mang lại tự do và<br /> ngôn ngắn gọn, súc tích, sắc bén, đầy sức thuyết hạnh phúc cho toàn dân tộc. Cách tổng kết chiến<br /> phục. Cứ thế, chân lý về độc lập chủ quyền của thắng độc đáo đó đã thể hiện một phong cách<br /> dân tộc Việt Nam mãi thấm sâu vào lòng người Hồ Chí Minh trong chiến lược tiết kiệm ngôn từ,<br /> như một lẽ tự nhiên. lời ít, ý nhiều. Kiểu câu phức ngắn gọn, nối kết<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 74 Số 07 - 5/2017<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> ba sự kiện liền mạch, liên hoàn, mang tính mở Một điểm nổi bật nữa về mặt cấu trúc văn<br /> ấy đã khiến cho người đọc hình dung ra một sự bản của “Tuyên ngôn Độc lập” là sự hiện diện<br /> sụp đổ, tan rã của cả một hệ thống chính quyền của các từ ngữ đóng vai trò làm thành phần<br /> đế quốc thực dân phong kiến theo kiểu phản ứng nối các đoạn mà ngôn ngữ học gọi là các  kết<br /> dây chuyền không thế lực nào có thể cứu vãn, tử, như thế mà, tuy vậy, bởi thế cho nên nối kết<br /> cuối cùng phải nhường chỗ cho một Chính phủ giữa các nội dung, hợp thành một văn bản chính<br /> lâm thời, khởi đầu một Nhà nước của dân, do luận có lập luận chặt chẽ, đầy đủ, hùng hồn.<br /> dân và vì dân. Tính mạch lạc và logic đã được nổi rõ qua dấu<br /> hiệu kết nối nội dung của các kết tử này. Trong<br /> “Tuyên ngôn Độc lập” còn sử dụng những đó, thế mà, tuy vậy đóng vai trò nối kết hai nội<br /> câu hoặc cấu trúc sóng đôi, phảng phất sắc dung trên dưới có ý nghĩa trái ngược nhau. Sau<br /> màu của văn biền ngẫu, gây ấn tượng mạnh và khi dẫn ra những Lời bất hủ để khẳng định chân<br /> sâu cho người đọc và người nghe, như (1) Một lý không ai chối cãi được, Chủ tịch Hồ Chí Minh<br /> dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp đã dùng thế mà để vạch trần tội ác đi ngược lại<br /> hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng công lý của thực dân Pháp nhằm cướp đi quyền<br /> về phía phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm tự do của dân tộc Việt Nam. Sau khi tố cáo tội<br /> nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải ác trời không dung, đất không tha của bọn thực<br /> được độc lập; (2) dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, dân Pháp nhẫn tâm, Người lại dùng tuy vậy để<br /> nước ta xơ xác, tiêu điều; (3) Từ đó dân ta chịu dẫn nêu thái độ khoan dung của một dân tộc yêu<br /> hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta chuộng hòa bình sẵn lòng tha thứ cho chính kẻ<br /> càng cực khổ, nghèo nàn; (4) đã giúp cho nhiều thù của mình khi chúng đã rũ bỏ thú tính, trở<br /> người Pháp chạy qua biên thùy, lại  cứu  cho về với nhân tính và làm người Pháp chứ không<br /> nhiều người Pháp ra khỏi  nhà giam  Nhật; phải  giặc Pháp.  Và kết tử  bởi thế cho nên  lại<br /> (5) xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký phát huy vai trò nối kết hai nội dung có quan hệ<br /> về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của nhân quả. Một lần nữa, Người khẳng định, việc<br /> Pháp trên đất nước Việt Nam; (6) tinh thần và xóa bỏ mọi hiệp ước, đặc quyền của Pháp trên<br /> đất nước Việt Nam và tuyên bố với thế giới về<br /> lực lượng, tính mạng và của cải,…  Song, tính<br /> quyền tự do, độc lập của Việt Nam là một tất yếu<br /> chất biền ngẫu của những cặp câu này không<br /> khách quan của một dân tộc có sức mạnh chính<br /> hoàn toàn chặt chẽ, trong đó chỉ gồm những từ<br /> nghĩa. “Bình Ngô đại cáo” với một quy mô đồ<br /> ngữ hết sức dễ hiểu như các từ gạch dưới đối với<br /> sộ hơn cũng đã sử dụng lối liên kết này, nhưng<br /> toàn thể mọi người dân. Nhờ vậy, các câu và từ <br /> bằng một lượng kết tử lớn gấp ba lần. Đó là<br /> ấy đã bổ sung cho nhau, tương tác lẫn nhau, thu<br /> cái văn (từng nghe), cố (cho nên), khoảnh (vừa<br /> hút sự chú ý của người đọc và người nghe, làm<br /> rồi),  nại dĩ  (lại ngặt vì),  nhiên kỳ  (thế mà),  tốt<br /> cho nội dung thông tin cần truyền tải trở nên sinh<br /> năng (trọn hay), toại (bởi thế)...<br /> động hơn, nổi bật và cũng dễ đi sâu vào lòng<br /> người hơn. Có thể nói, đó là sự “phá cách” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình sáng<br /> dạng biền văn truyền thống.  Sự hiện diện của tác thơ văn cũng như sử dụng ngôn ngữ thường<br /> những câu văn này còn góp phần làm cho bản nhật, luôn nêu cao tấm gương về giữ gìn sự<br /> Tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang sắc trong sáng của tiếng Việt, khiến cho tiếng Việt<br /> thái truyền thống, cổ điển và hướng tới tính hiện trong các bài viết chính luận, bài phát biểu hay<br /> đại của văn chương tiếng Việt. lời nói thường ngày của Người trở nên giản<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 07 - 5/2017 75<br /> v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br /> <br /> <br /> dị, dễ hiểu và gần gũi hơn với đông đảo quần thế giới đứng về phía chính nghĩa, đấu tranh cho<br /> chúng nhân dân. Khi nói về các tầng lớp nhân chính nghĩa – dân tộc Việt Nam.<br /> dân trong xã hội, Người không dùng nông dân,<br /> thương nhân mà dùng dân cày, dân buôn. Người 3. KẾT LUẬN<br /> dùng ra khỏi nhà giam, gan góc chống lại,… mà<br /> “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí<br /> không dùng  xuất ngục, vượt ngục, kiên cường<br /> Minh đã tiếp thu, kế thừa tinh hoa của các bản<br /> phản kháng,  dùng  quyền sung sướng  để giải<br /> tuyên ngôn độc lập trong lịch sử, đồng thời<br /> nghĩa cho quyền mưu cầu hạnh phúc.  Ngay từ<br /> đưa giá trị nội dung và nghệ thuật của tuyệt tác<br /> tiếng gọi thân thương, tha thiết “Hỡi” cất lên<br /> từ đầu bản Tuyên ngôn đến những câu hết sức này lên tới đỉnh cao, hoàn mỹ về cấu trúc, tinh<br /> đời thường như lời ăn tiếng nói hàng ngày của luyện về ngôn từ, sâu sắc về ý nghĩa và đặc biệt<br /> người dân Việt Nam cũng được Người vận dụng là một phong cách vừa truyền thống, vừa hiện<br /> vào Tuyên ngôn, như đã trở thành…, chứ không đại, gần gũi với ngôn ngữ toàn dân, bình dị, dễ<br /> phải…. Đó là bản sắc của tiếng nói Việt Nam, là hiểu mà vẫn đầy sức thuyết phục với những lý<br /> những lời bình dị dùng để khẳng định chân lý lẽ sắc sảo và thực tế rõ rành. “Tuyên ngôn độc<br /> hiển nhiên mà cao cả về quyền được hưởng tự lập” của Người còn là sự tái hiện chân thực lịch<br /> do độc lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. sử và là lời kêu gọi nhân dân yêu chuộng hòa<br /> Kể cả khi phải chuyển dịch từ những văn bản bình trên toàn thế giới ủng hộ Việt Nam, ủng hộ<br /> tiếng nước ngoài, Người vẫn luôn cân nhắc, trau cho chính nghĩa, cho quyền sống, quyền được<br /> chuốt từng từ, từng chữ. Đinh Văn Đức trong hưởng tự do của nhân dân thế giới nói chung và<br /> bài viết “Ngôn ngữ bản “Tuyên ngôn Độc lập” – dân tộc Việt Nam nói riêng. Đó cũng là quyết<br /> Một hình ảnh độc lập của tiếng Việt ” đã khẳng tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do của toàn thể<br /> định, Hồ Chủ Tịch đã dịch từ “ GOD” thành hai dân tộc Việt Nam. “Tuyên ngôn độc lập” cũng<br /> chữ “Tạo hoá” cực hay và thâm thuý. Thay vì là một minh chứng về tài năng, về một mẫu mực<br /> dịch “Chúa Trời” hay “Thượng Đế”, hai chữ sử dụng ngôn từ, khiến cho tiếng Việt từ đây<br /> “Tạo Hoá” vừa gần gũi tâm lý người Việt, vừa xứng tầm là tiếng nói của một dân tộc đã chính<br /> thể hiện chỗ đứng của người viết, vốn theo triết thức gỡ bỏ xiềng xích, giành quyền tự do, độc<br /> học của Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng. Điều đó lập và khẳng định vị thế của mình trên trường<br /> thêm một lần giúp ta khẳng định, “Tuyên ngôn quốc tế. Chính Ngôn ngữ được sử dụng trong<br /> Độc lập” đã kế thừa và phát huy tinh thần của “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 là bằng chứng<br /> “Nam quốc sơn hà”, từ “thiên thư” sang “tạo hùng hồn, chứng minh cho tiếng Việt từ địa vị<br /> hóa”, đều và càng thể hiện được tính khách quan tiếng nói của một dân tộc nô lệ đã chính thức<br /> về quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc trở thành ngôn ngữ quốc gia của một Nhà nước<br /> Việt Nam. của dân, do dân và vì dân – những người dân đã<br /> thực sự làm chủ đất nước, thực sự được  hưởng<br /> Cuối cùng, “Tuyên ngôn Độc lập” đã khép<br /> Tự do và Độc lập đúng như Lời Tuyên ngôn<br /> lại bằng lời khẳng định đanh thép về quyền<br /> Độc lập bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.<br /> được hưởng độc lập, lòng quyết tâm, ý chí sắt<br /> đá cũng như lời tuyên thệ, niềm tin tưởng tuyệt  Tài liệu tham khảo:<br /> đối của cả dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ độc<br /> lập chủ quyền. Đồng thời, đó cũng là lời kêu gọi 1. Trần Cư (2005), Bác Hồ viết tuyên ngôn<br /> các nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên độc lập, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 76 Số 07 - 5/2017<br /> VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br /> <br /> <br /> <br /> 2. Hoàng Tuệ (2000), Phân tích văn bản “Tuyên 5.  , truy cập ngày 25/2/2017.<br /> lập – Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại”, Tạp chí<br /> Lý luận Chính trị, số Tháng 8. 6. , truy cập ngày<br /> trình, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 25/2/2017.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PRESIDENT HO CHI MINH’S INDEPENDENCE DECLARATION - A MODERN<br /> AND TRADITIONAL STANDARD STYLE OF WRITING<br /> <br /> PHAM NGOC HAM<br /> <br /> Abstract: President Ho Chi Minh is not only a symbol of morality but also a leader in maintaining<br /> the beauty of Vietnamese language. The Declaration of independence is written in both traditional<br /> and morden style and it absorbs the spirit of three previous declarations of independence in the<br /> course of Vietnamese history. The declaration does not only claim the sovereignty of Vietnam<br /> but also contribute as a valuable material in Vietnamese language. In this article, we analyze<br /> the declaration of independence of Vietnam in terms of linguistics and in relation to other three<br /> previous declarations of independence.<br /> <br /> Keywords: modern, language, style, The Declaration of independence of Vietnam, tradition.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 07 - 5/2017 77<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
29=>2