ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------

TRẦN THẾ PHI

ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC

TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT

(SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------

TRẦN THẾ PHI

ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC

TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT

(SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG ANH)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học So sánh-Đối chiếu

Mã số:

62.22.01.10

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Cán bộ hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Văn Huệ 2. PGS. TS. Nguyễn Thị Hai

Phản biện độc lập: 1. PGS. TS. Trịnh Sâm 2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Trang

Phản biện:

1. PGS. TS. Trịnh Sâm 2. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Trang 3. PGS. TS. Phạm Văn Tình

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ với tiêu đề “Ẩn dụ ý niệm cảm

xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh)” là công

trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là

trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Trần Thế Phi

MỘT SỐ QUY ƯỚC TRÌNH BÀY

1. Các ví dụ ngữ liệu minh họa in bằng chữ in nghiêng và được đánh số thứ tự

trong ngoặc đơn không theo đề mục mà theo thứ tự liên tục từ nhỏ đến lớn

trong toàn bộ luận án.

2. Trong khi trình bày phần ngữ liệu thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc của

chương 2, các thành ngữ tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt với nghĩa

nguyên văn và nghĩa thành ngữ, trong đó phần dịch nghĩa nguyên văn là phần

dịch sát ý, được sử dụng cho mục đích đối chiếu, chứ không phải là phần dịch

đúng nghĩa.

i

MỤC LỤC

Trang

DẪN NHẬP 1

0.1. Lý do chọn đề tài 1

0.2. Lịch sử vấn đề 2

0.2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh 2

0.2.2. Từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng Anh 8

0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt 8

0.2.2.2 Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Anh 12

0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 14

0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 15

0.5. Phương pháp nghiên cứu 17

0.6. Điểm mới của luận án 19

0.7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 19

0.8. Cấu trúc của luận án 20

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 22

1.1. Một số vấn đề về ngữ nghĩa học tri nhận 22

1.1.1. Bốn nguyên lý chủ đạo của ngữ nghĩa học tri nhận 23

1.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ẩn dụ tri nhận 27

1.1.3. Nền tảng cơ bản của lý thuyết ẩn dụ ý niệm 29

1.2. Những vấn đề liên quan đến cảm xúc 34

1.2.1. Phân loại cảm xúc 34

1.2.2. Các đường hướng nghiên cứu về cảm xúc 38

1.2.3. Tính phổ niệm của cảm xúc trong các nền văn hóa 41

1.2.4. Mối quan hệ giữa cảm xúc với ngôn ngữ 42

1.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc 43

1.3.1. Phân loại ẩn dụ ý niệm cảm xúc 44

1.3.2. Hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc và các mô hình ẩn dụ ý niệm hữu quan 48

ii

1.3.2.1. Hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc 48

1.3.2.2. Các mô hình ẩn dụ ý niệm hữu quan 56

1.3.3. Sự tương tác giữa ẩn dụ và hoán dụ trong phạm trù cảm xúc 60

1.4. Những vấn đề cơ bản về thành ngữ 62

1.4.1. Quan điểm về thành ngữ trong tiếng Việt 62

1.4.2. Quan điểm về thành ngữ trong tiếng Anh 65

1.4.3. Quan điểm về thành ngữ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận 67

1.5. Tiểu kết 71

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC TRONG 72

THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH

2.1. Tiểu dẫn 72

2.2. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc vui trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh 72

2.2.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT CHỨA 73

2.2.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG 82

2.2.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG 85

2.2.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn ÁNH SÁNG 88

2.2.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT SỞ HỮU 89

2.3. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc buồn trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh 91

2.3.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn VẬT CHỨA 91

2.3.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG 95

2.3.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG 97

2.3.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn GÁNH NẶNG 101

2.3.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn THIẾU SINH KHÍ 102

2.4. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc giận trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh 104

2.4.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn VẬT CHỨA 104

2.4.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG 108

2.4.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG 112

2.4.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn LỬA 113

2.4.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn MÀU SẮC 115

iii

2.4.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn SỰ KHÓ CHỊU CỦA

CƠ THỂ 118

2.4.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn SỰ XÂM PHẠM 120

2.5. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc sợ trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh 121

2.5.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn VẬT CHỨA 121

2.5.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG 123

2.5.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG 124

2.5.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn MÀU SẮC 126

2.5.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn KẺ THÙ ẨN NẤP 127

2.5.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn THỰC THỂ SIÊU NHIÊN 128

2.5.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn BỆNH TẬT 131

2.6. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc yêu trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh 132

2.6.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn VẬT CHỨA 134

2.6.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG 136

2.6.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG 138

2.6.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn SỰ HỢP NHẤT 139

2.6.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn PHÉP THUẬT 140

2.6.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn THỨC ĂN 141

2.7. Tiểu kết 142

CHƯƠNG 3: VIỆC SỬ DỤNG ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC TRONG 145

DỊCH THÀNH NGỮ TỪ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT

3.1. Tiểu dẫn 145

3.2. Một số vấn đề liên quan đến lý thuyết dịch thành ngữ và dịch ẩn dụ 146

3.2.1. Các vấn đề về lý thuyết dịch thành ngữ 146

3.2.2. Các vấn đề về lý thuyết dịch ẩn dụ 149

3.3. Khảo sát việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong dịch thành ngữ từ

tiếng Anh sang tiếng Việt 155

3.3.1. Phương pháp và ngữ liệu khảo sát 155

3.3.2. Kết quả khảo sát dịch thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt ở các

từ điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt 157

iv

3.3.2.1. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh 157

sang tiếng Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức

ngôn ngữ

3.3.2.2. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh 160

sang tiếng Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức

ngôn ngữ

3.3.2.3. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh 166

sang tiếng Việt sử dụng khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng cùng biểu thức

ngôn ngữ

3.3.2.4. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh 166

sang tiếng Việt sử dụng khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và khác biểu thức

ngôn ngữ

3.3.2.5. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh 175

sang tiếng Việt theo phương pháp dịch diễn giải

3.4. Những đề xuất cho việc dịch thành ngữ biểu thị ẩn dụ ý niệm cảm xúc

tiếng Anh sang tiếng Việt 177

3.4.1. Một vài đề xuất cụ thể qua cuộc khảo sát 177

3.4.2. Một số đề xuất về việc ứng dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc vào

quy trình dịch thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt 180

3.5. Tiểu kết 183

KẾT LUẬN 185

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 190

TÀI LIỆU THAM KHẢO 191

PHỤ LỤC 1: Bảng đối chiếu thuật ngữ Việt - Anh 203

PHỤ LỤC 2: Bảng đối chiếu thuật ngữ Anh - Việt 207

PHỤ LỤC 3: Bảng liệt kê thành ngữ tiếng Việt biểu thị năm loại cảm xúc:

Vui, Buồn, Giận, Sợ, Yêu 211

PHỤ LỤC 4: Bảng liệt kê thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc:

Vui, Buồn, Giận, Sợ, Yêu 252

PHỤ LỤC 5: Bảng liệt kê cách dịch các thành ngữ biểu thị cảm xúc

tiếng Anh sang tiếng Việt tham khảo trong sáu quyển từ điển thành ngữ

song ngữ Anh-Việt 283

1

DẪN NHẬP

0.1. Lý do chọn đề tài

Thành ngữ tiếng Việt từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của ngành

ngôn ngữ học và những liên ngành khác trên các bình diện như ngữ âm, ngữ pháp,

từ vựng- ngữ nghĩa và tu từ học. Các hướng nghiên cứu chủ yếu được triển khai

theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống, tập trung vào việc nghiên cứu cấu trúc,

chức năng và ngữ dụng của thành ngữ, trong số đó có một số công trình nghiên cứu

thành ngữ được đặt trong mối tương quan với các chuyên ngành xã hội khác (xem

Hoàng Văn Hành [22, 23], Nguyễn Công Đức [15], Hoàng Diệu Minh [35], Nguyễn

Thị Tân [39], Phạm Minh Tiến [48], v.v). Trong những năm gần đây, thành ngữ

tiếng Việt cũng là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận, một ngành ngôn

ngữ học ra đời từ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX và được xem là

một “trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ

trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan

cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật và sự tình

của thế giới khách quan đó” [42, tr.16]. Một số công trình tiên phong nghiên cứu

tiếng Việt theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận có thể kể đến là các chuyên khảo

của Lý Toàn Thắng [41, 42], Trần Văn Cơ [5] và một số luận án của Nguyễn Ngọc

Vũ [55], Phan Thế Hưng [27], Võ Kim Hà [20].

Đặc biệt hơn, ngữ nghĩa học tri nhận, một chuyên ngành của ngôn ngữ học

tri nhận, là một khuynh hướng lý thuyết vừa có sự kế thừa ngữ nghĩa học truyền

thống vừa thể hiện những nét mới của ngữ nghĩa học biểu hiện tinh thần cuối thế kỉ

XX. Lý thuyết ngữ nghĩa học tri nhận thường được xây dựng dựa trên lập luận rằng

nghĩa từ vựng có tính ý niệm. Theo đó, ý nghĩa của một vị từ không tham chiếu đến

các thực thể hoặc các mối quan hệ trong “thế giới thực” mà vị từ đó đề cập đến, mà

nó tham chiếu đến một ý niệm trong tâm trí dựa trên kinh nghiệm luận có được với

các thực thể hoặc các mối quan hệ. Một số nhà ngôn ngữ đi đầu trong nghiên cứu và

phát triển ngữ nghĩa học tri nhận trên thế giới có thể được kể đến là George Lakoff

2

[111], Dirk Geeraerts [77], Leonard Talmy [146], v.v. Ở Việt Nam, theo chúng tôi

tìm hiểu, thì hiện nay vẫn chưa có một khảo cứu chuyên sâu nào về khả năng ứng

dụng của ngữ nghĩa học tri nhận trên mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc của đối tượng

thành ngữ, một đơn vị ngôn ngữ chứa nhiều giá trị văn hóa truyền thống của một

dân tộc. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với đề tài “Ẩn dụ ý niệm cảm xúc

trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng)”. Đây có

thể được xem là một công việc cần thiết, giúp làm giàu nguồn ngữ liệu cho công tác

biên soạn giáo trình giảng dạy tiếng Việt, tiếng Anh và phục vụ nghiên cứu ngôn

ngữ-văn hoá, dịch thuật và bảo tồn văn hóa dân tộc.

0.2. Lịch sử vấn đề

Như đã nói, thành ngữ là đối tượng được nghiên cứu rất sâu rộng từ nhiều

bình diện khác nhau trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong khuôn khổ của luận án,

chúng tôi điểm lại những công trình nghiên cứu quan trọng về thành ngữ trong tiếng

Việt và tiếng Anh theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học tri

nhận, tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng Anh, từ

đó nhằm đưa ra một bức tranh tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề

tài của luận án này.

0.2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh

Trong nghiên cứu tiếng Việt theo quan điểm ngôn ngữ học truyền thống, các

nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu thành ngữ từ bình diện cấu trúc và hình thức.

Hoàng Văn Hành [23] đã khái quát đặc điểm của thành ngữ tiếng Việt trên hai bình

diện này, có tính đến đặc trưng tư duy văn hóa dân tộc. Trên bình diện ngôn ngữ và

văn hóa, chuyên khảo “Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ” của Hoàng Văn Hành và

cộng sự [22] đã tiến hành khảo sát trên 300 thành ngữ, tục ngữ cụ thể. Nhóm nhà

khoa học này đã giải thích chúng dựa trên các điển tích, điển cố, phong tục tập

quán, nghi lễ, tôn giáo, truyền thống văn hóa và tư tưởng dân tộc xuất hiện trong

các thời kỳ văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, một số luận án trong

những năm gần đây cũng quan tâm nghiên cứu chuyên sâu về thành ngữ và bước

đầu có những đóng góp quan trọng cho Việt ngữ học về mặt lý luận và thực tiễn.

3

Luận án “Bình diện cấu trúc hình thái-ngữ nghĩa của thành ngữ tiếng Việt”

của Nguyễn Công Đức [15] chia thành ngữ tiếng Việt thành ba loại: thành ngữ đối,

thành ngữ so sánh và thành ngữ thường. Hai đặc điểm quan trọng của thành ngữ

đối là quan hệ đối ý và quan hệ đối lời. Thành ngữ đối được đặc trưng là ít nhất hai

thành tố, tức mỗi vế là một thành tố, chẳng hạn nước mắt / mồ hôi; bốn thành tố,

chẳng hạn chân lấm tay bùn, mẹ tròn con vuông. Thành ngữ so sánh trong tiếng

Việt được cấu tạo theo công thức tổng quát A như B, trong đó A là đối tượng so

sánh, B là đối chứng so sánh, như là quan hệ so sánh. Trong mô thức này, đối

tượng so sánh (A), quan hệ so sánh (như) có thể có mặt hoặc tiềm ẩn. Thành ngữ

thường được cấu tạo bằng các đoản ngữ, chủ yếu là động ngữ, ví dụ gửi trứng cho

ác, hoặc bằng các kết cấu chủ vị, ví dụ chó ngáp phải ruồi. Bởi phải dùng đến một

dung lượng từ ngữ ở những mức độ cần thiết mới diễn đạt được nội dung ngữ nghĩa

của nó, thành ngữ loại này có những giáp ranh nhất định với tục ngữ. Do đối tượng

nghiên cứu của đề tài là thành ngữ tiếng Việt nói chung, nên tác giả không thể khảo

sát ngữ nghĩa của từng loại thành ngữ cụ thể mà chỉ khái quát cơ chế tạo nghĩa

chung của thành ngữ mà thôi.

Luận án “So sánh cấu trúc-chức năng của thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt”

của Hoàng Diệu Minh [35] có mục đích miêu tả, so sánh và phân loại 2938 thành

ngữ và 1668 tục ngữ trên phương diện cấu trúc-chức năng xuất phát từ chỗ có

những đơn vị chưa xác định được là thành ngữ hay tục ngữ, tác giả muốn dựa vào

lý thuyết ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học để làm sáng tỏ vấn đề. Khi

bàn luận về thành ngữ, tác giả cho rằng việc phân loại thành ngữ có thể căn cứ trên

tiêu chí cấu trúc-chức năng. Ngữ là đơn vị có chức năng cú pháp. Thành ngữ có cấu

tạo của một ngữ. Vì thế thành ngữ cũng có thể có cấu tạo của một ngữ danh từ hoặc

một ngữ vị từ. Các ngữ này cũng có thể được phân loại theo cách cấu trúc của một

ngữ đẳng lập, ví dụ con mày con nuôi, bên trọng bên khinh, ba đầu sáu tay, hay một

ngữ chính phụ hoặc một ngữ láy, ví dụ chân như ống sậy, chết nhăn răng, dai như

đỉa, lẩu bẩu như chó hóc xương. Tuy nhiên, như mục đích của luận án đã nêu, tác

giả chỉ quan tâm đến cấu trúc-chức năng của thành ngữ trong thế so sánh với tục

4

ngữ, xét trên ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng học, hay nói cách khác, dựa

trên quan điểm ngôn ngữ học truyền thống.

Luận án “Thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt” của Nguyễn Thị Tân [39] đã

chỉ ra sự biến đổi của các thành ngữ mượn tiếng Hán khi được sử dụng trong tiếng

Việt dưới tác động của bối cảnh xã hội Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra sự

hình thành các biến thể khác nhau của cùng thành ngữ Hán trong tiếng Việt. Cũng

tương tự như luận án của Nguyễn Công Đức, phạm vi khảo sát của luận án này

mang nét bao quát chung của thành ngữ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán. Tác

giả chưa khai thác bình diện tri nhận của thành ngữ.

Luận án “Đặc điểm thành ngữ so sánh tiếng Hán (có đối chiếu với tiếng

Việt)” của Phạm Minh Tiến [48] lấy tiếng Hán làm tâm điểm nghiên cứu có đối

chiếu với tiếng Việt. Tác giả khảo sát trường nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên

thành ngữ so sánh và phác thảo nên hình ảnh văn hóa và nét tư duy của hai dân tộc.

Luận án phát hiện cấu trúc so sánh tiếng Hán hoàn toàn trùng khớp với thành ngữ

so sánh trong tiếng Việt. Tác giả cho rằng, cấu trúc mang tính tổng quát nhất của

thành ngữ so sánh tiếng Hán và tiếng Việt là: A - (t) – R – B, trong đó A là yếu tố so

sánh, (t) là yếu tố nét tương đồng, R là từ ngữ so sánh, và B là yếu tố tham chiếu.

Tuy nhiên, luận án chỉ khảo sát trường nghĩa của lớp thành ngữ so sánh tiếng Hán

và tiếng Việt nên kết quả nghiên cứu chưa quan tâm đúng mức đến các bình diện

khác của thành ngữ.

Về phương diện ngôn ngữ học tri nhận, gần đây có luận án “Thành ngữ tiếng

Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của

ngôn ngữ học tri nhận” của Nguyễn Ngọc Vũ [55]. Tác giả đã giới thiệu những

luận điểm cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận về cơ chế hình thành nghĩa của các tổ

hợp ngữ cố định, đặc biệt là thành ngữ. Dựa trên cơ sở lý luận của ý niệm và miền

ý niệm, tác giả khảo sát cấu trúc, cách thức hoạt động của ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý

niệm và các loại ẩn dụ, hoán dụ tương ứng. Qua đó, tác giả đã so sánh đối chiếu

thành ngữ chứa yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người tiếng Anh với thành ngữ tiếng Việt

tương ứng để chỉ ra nhiều điểm tương đồng trong cách tri nhận về vị trí, vai trò và

5

chức năng của các bộ phận cơ thể và sự khác biệt ở yếu tố văn hóa và loại hình văn

hóa. Tuy nhiên, tác giả luận án chỉ mới nghiên cứu lớp thành ngữ chứa yếu tố chỉ

bộ phân cơ thể người mà chưa chú ý khai thác đến các mặt khác của thành ngữ, đặc

biệt là về mặt biểu ý của thành ngữ.

Luận án “Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận trên cứ liệu tiếng Anh và

tiếng Việt” của Phan Thế Hưng [27] đã chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của ẩn dụ ý

niệm, trong đó đặc điểm nổi bật về chức năng của ẩn dụ đó là nhằm giúp con người

hiểu rõ hơn các ý niệm, không chỉ là các phương thức tu từ của ngôn ngữ, mà còn

là quy trình tự nhiên của nhận thức về tư duy. Ngoài ra, tác giả cũng nhấn mạnh

rằng, trải nghiệm của cơ thể con người trong ẩn dụ hóa là những trải nghiệm mang

tính phổ quát. Điểm đáng chú ý ở luận án này là tác giả đã đề cập sự tương tác giữa

ẩn dụ và hoán dụ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận có xét đến yếu tố kinh

nghiệm cơ thể phản ánh trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, tác giả chủ yếu tổng hợp kết

quả nghiên cứu và luận điểm của các nhà ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới khi

nghiên cứu tiếng Anh, không đi sâu vào các ẩn dụ cụ thể, mà dùng ngữ liệu trong

tiếng Anh và một số ví dụ trong tiếng Việt để làm chứng cứ cho ẩn dụ ý niệm, nên

những phát hiện mới trong tiếng Việt là chưa nhiều.

Luận án gần đây nhất “Ẩn dụ tiếng Việt nhìn từ lý thuyết nguyên mẫu (so

sánh với tiếng Anh và tiếng Pháp)” của Võ Kim Hà [20] khảo sát cấu trúc và tính

hệ thống của ẩn dụ dựa trên các nguyên tắc phân loại của lý thuyết nguyên mẫu.

Tác giả tập trung phân tích miền nguồn “Dòng chảy” và miền đích “Suy nghĩ”

trong tiếng Việt vì cho rằng đây là những miền ý niệm thường được sử dụng trong

tiếng Việt. Phần so sánh đối chiếu, tác giả chọn yếu tố tay trong tiếng Việt để so

sánh với hand của tiếng Anh và main trong tiếng Pháp. Điểm đáng lưu ý của luận

án này là tác giả đã vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận để phân tích và kiến

giải khá chi tiết cơ chế tri nhận của một số ẩn dụ và hoán dụ. Tuy nhiên, như tác

giả thừa nhận, luận án bao quát quá nhiều vấn đề nên kết quả của luận án mang tính

chất chung chung, không chuyên sâu một vấn đề cụ thể.

Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy một số công trình gần đây đã chú ý nghiên

6

cứu thành ngữ từ nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu vẫn theo quan điểm

truyền thống. Còn các luận án nghiên cứu theo quan điểm của ngôn ngữ học tri

nhận đã nêu ở trên, tuy dựa trên nền lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, nhưng

hướng phát triển dành cho tiếng Việt chưa có nhiều sự phát hiện mới mẻ. Luận án

của chúng tôi tập trung nghiên cứu miền ẩn dụ ý niệm cảm xúc biểu thị trong thành

ngữ tiếng Việt, có so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng, từ bình diện ngữ

nghĩa học tri nhận, là hướng đi hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ đề tài

nghiên cứu nào trước đó mà chúng tôi biết.

Đối với thành ngữ tiếng Anh, phần lớn các nhà ngôn ngữ học định nghĩa

thành ngữ là biểu thức cố định và không thể được hiểu theo nghĩa nguyên văn. (xem

Jackson [94], Baker [60], Fernando [74], Jackson và Amvela [95], Grant và Bauer

[86], Gramley và Patzold [84], v.v.) Thành ngữ tiếng Anh được phân loại cả về

phương diện ngữ nghĩa lẫn phương diện cú pháp. Về phương diện ngữ nghĩa, đặc

điểm nổi bật nhất của phân loại thành ngữ là sự đồng nhất đa hợp của chúng trong

đó bao gồm các từ rỗng nghĩa. Khi các thành ngữ như vậy xuất hiện, chúng cần

được xem xét về mặt biểu trưng hay ẩn dụ vì chúng tạo ra một ý nghĩa hoàn toàn

khác so với lần sử dụng trước đó. Cách phân loại phổ biến nhất mà các nhà nghiên

cứu thành ngữ tiếng Anh thường thống nhất là phân loại chúng thành hai tiểu loại:

thành ngữ theo nghĩa nguyên văn và thành ngữ không theo nghĩa nguyên văn. Để

minh họa cho cách phân loại này, nhiều tác giả, bao gồm cả Jackson và Amvela [95,

tr.66], dùng thành ngữ “to kick the bucket” làm ví dụ. Nếu giải thích theo nghĩa đen

của các thành tố từ của thành ngữ “to kick the bucket” thì nó có nghĩa là “dùng

chân đá một xô nước”, trong khi đó nghĩa của tổ hợp thành ngữ là “chết”. Vì vậy,

nghĩa đen theo các thành tố từ của thành ngữ này hoàn toàn khác với nghĩa của cả

thành ngữ. Theo Jackson và Amvela [95], cái gọi là “thành ngữ thuần” thực ra là

“thành ngữ cố định” vì loại thành ngữ này “có xu hướng mất đi tính sống động và

người nói thường lãng quên nguồn gốc ẩn dụ của chúng”.

7

Fernando [74, tr.60-63] chỉ ra rằng có một kiểu phân loại ngữ nghĩa phụ

thuộc vào mức độ cô lập nghĩa và mức độ tối nghĩa và được chia thành ba tiểu loại

như sau:

(i) Thành ngữ thuần: Chúng là những biểu thức chứa nhiều từ hoạt động như

một đơn vị ngữ nghĩa độc lập mà ý nghĩa của các từ riêng lẻ không thể được tổng

hợp lại với nhau để tạo ra ý nghĩa của toàn bộ khối. Ví dụ, “smell the rat”, nghĩa là

“trở nên đáng ngờ” nhưng không có nghĩa “ngửi thấy con chuột”.

(ii) Bán thành ngữ: Một thành tố kiến tạo nên thành ngữ loại này thường giữ

lại nghĩa nguyên văn của nó. Ví dụ, bán thành ngữ “rain cats and dogs” (có nghĩa là

“mưa tầm tả”) hay “blue film” (có nghĩa là “phim đồi trụy”), một thành phần của

chúng, trong trường hợp này “rain” (mưa) và “film” (phim) vẫn còn duy trì nghĩa

nguyên văn của chúng.

(iii) Thành ngữ nguyên văn: Chúng có thể được giải thích trên cơ sở của các

thành tố cấu tạo nên chúng, hay nói cách khác, chúng có nghĩa tường minh. Các

thành tố của những thành ngữ như vậy thường được sử dụng theo ý nghĩa trực tiếp,

mặc dù những sự kết hợp như thế đôi khi đòi hỏi nghĩa biểu trưng. Ví dụ “rub salt

in a wound” (nghĩa nguyên văn “xát muối vào vết thương”) có nghĩa là “làm tổn

thương tình cảm của một ai đó, làm ai đau khổ thêm.”

Về phương diện cú pháp, Gramley và Patzold [84, tr.57] nhận định rằng các

nhà ngôn ngữ học đã dựa vào các tiêu chuẩn cú pháp khác nhau để nêu các đặc

trưng nhận diện của thành ngữ. Theo đó, thành ngữ tiếng Anh có thể phân loại theo

từ loại, chẳng hạn như thành ngữ là cụm danh từ (ví dụ an old flame / người tình

cũ), thành ngữ là cụm tính từ (ví dụ happy-go-lucky / vô tư lự) hoặc thành ngữ là

cụm động từ (ví dụ blow one’s top / tức giận).

Vận dụng thành quả nghiên cứu của Halliday [88, 89] về ngữ pháp chức

năng với ba loại chức năng ý niệm, chức năng liên nhân và chức năng văn bản,

Fernando [74, tr.72] khi nghiên cứu thành ngữ đã phân loại chúng thành ba tiểu

loại: thành ngữ ý niệm, thành ngữ liên nhân và thành ngữ quan hệ. Thành ngữ liên

nhân có nhiệm vụ thực hiện đầy đủ một chức năng tương tác hoặc mô tả bản chất

8

của thông tin, chẳng hạn chào hỏi và tạm biệt (good morning: chào buổi sáng), chỉ

thị (never mind: đừng lo), thỏa thuận (say no more: không nói thêm nữa), v.v.

Thành ngữ quan hệ đảm bảo chức năng liên kết văn bản, và vì vậy định hướng đến

tính mạch lạc của ngôn bản. Ví dụ như not only … but also: không những… mà

còn; in order that: để mà; v.v. Thành ngữ ý niệm là loại thành ngữ hoặc nhằm biểu

thị nội dung thông tin, các hiện tượng thuộc kinh nghiệm luận bao gồm cả cảm giác,

cảm xúc và đánh giá, hoặc nhằm mô tả bản chất của thông tin. Các thành ngữ này

có thể mô tả: (1) hành động (ví dụ do a U-turn: đảo ngược chính sách), (2) sự kiện

(ví dụ turning points: bước ngoặt), (3) tình huống (ví dụ be in a pickle: lâm vào

cảnh đáng buồn), (4) người và vật (ví dụ a back-seat driver: người không có trách

nhiệm nhưng cứ thích điều khiển), (5) thuộc tính (ví dụ matter-of-fact: thực chất),

(6) đánh giá (ví dụ turn back the clock: quay lại thời kỳ đã qua), (7) cảm xúc (ví dụ

green with envy: tái đi vì ghen tức).

0.2.2. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng

Anh

Tính phức tạp của từ ngữ biểu thị cảm xúc đã nhận được sự quan tâm rất lớn

trong những nghiên cứu về ngôn ngữ và cảm xúc. Ngôn ngữ học, nhân học và tâm

lý học đã tiếp cận nghiên cứu từ vựng ở nhiều góc độ, cố gắng xác định có hay

không có tính phổ quát của lớp từ ngữ cơ bản biểu thị cảm xúc tồn tại trong tất cả

các ngôn ngữ, liệu cụm từ tương đương khi dịch các từ ngữ cảm xúc có biểu thị

cùng ý nghĩa, và liệu các ý niệm cảm xúc phổ quát có tính chất riêng của một ngôn

ngữ hay một nền văn hóa cụ thể nào đó hay không. Ở nội dung này, để có cái nhìn

đa chiều về đối tượng nghiên cứu thành ngữ biểu thị cảm xúc trong luận án của

chúng tôi, vì lẽ thành ngữ biểu thị cảm xúc cũng có quan hệ với lớp từ ngữ cơ bản

biểu thị cảm xúc, nên việc lược sử tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc

trong tiếng Việt và tiếng Anh là cần thiết.

0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt

Các nhà nghiên cứu Việt ngữ học đã có một số công trình tiêu biểu nghiên

cứu các đơn vị từ ngữ biểu thị những cung bậc cảm xúc khác nhau. Trên bình diện

9

phong cách học, Cù Đình Tú [50, tr.43] cho rằng biểu lộ tình cảm với những cung

bậc khác nhau trước hết là hiện tượng của nhận thức và của tâm lý. Những cung bậc

tình cảm này có thể phản ánh hai thái độ đối lập nhau:

- Thái độ khẳng định như: vui sướng, phấn khởi, yêu thích, say mê, thán phục,

thông cảm, cảm tình, hài lòng, âu yếm, vuốt ve, trìu mến… Đó là những tình

cảm tốt, tích cực, dương tính.

- Thái độ phủ định như: phật ý, tức giận, bực mình, uất ức, phẫn nộ, trách

móc, mỉa mai, bài bác, lên án, đùa cợt, khôi hài, châm biếm,… Đó là những

tình cảm xấu (không thiện cảm), tiêu cực, âm tính.

Những cung bậc tình cảm dương tính và âm tính nói trên, như đã thấy, đều

được định hình về mặt ngôn ngữ nhờ các đơn vị từ ngữ. Những từ chỉ những cung

bậc tình cảm khác nhau vừa nêu trên chỉ là những từ định danh tình cảm, không

phải là những từ mang sắc thái biểu cảm.

Về bình diện từ vựng học, Hồ Lê [32] cho rằng từ vị “không thể tự thân nó

có nghĩa khẳng định hay phủ định”, và “cũng không thể tự thân biểu thị trạng thái

tâm lý phát ngôn” [32, tr. 209]. Mặt khác, ông cũng khẳng định: “chắc chắn một số

lượng danh từ (cũng như các từ loại khác) nhất định có khả năng biểu thị sắc thái

tình cảm” [32, tr. 210]. Bằng phương pháp tổng hợp nghĩa biểu thái, Hồ Lê đi đến

tổng hợp những biến thể của nghĩa biểu thái. Nếu áp dụng phương pháp tổng hợp

nghĩa biểu thái này vào tiếng Việt thì sẽ có đến 15 nghĩa vị biểu thái như: (1) Biểu

thị tình cảm / sự đánh giá tích cực, (2) Biểu thị tình cảm / sự đánh giá tiêu cực, (3)

Biểu thị tình cảm / sự đánh giá trung tính, (4) Biểu thị sắc thái trang trọng, (5) Biểu

thị sắc thái dung tục, (6) Biểu thị sắc thái thân mật, (7) Biểu thị sắc thái địa phương,

(8) Biểu thị sắc thái cổ kính, (9) Biểu thị sắc thái xác định, (10) Biểu thị sắc thái

ước chừng, (11) Biểu thị sắc thái bất định, (12) Biểu thị định hướng phát ngôn, (13)

Biểu thị thái độ khẳng định, (14) Biểu thị thái độ phủ định, (15) Biểu thị cảm xúc

[32, tr.214-215]. Trong số 15 nghĩa vị biểu thái này thì có 4 nghĩa vị biểu thị cảm

xúc, tình cảm (nghĩa vị số 1,2,3,15). Những phát hiện của Hồ Lê về nghĩa biểu thái

10

của từ vị chứng tỏ rằng, về mặt từ vựng, các đơn vị từ vựng cũng là phương tiện thể

hiện tính biểu cảm trong tiếng Việt.

Bên cạnh đó, Trần Long [33] có hướng nghiên cứu khá thú vị về tính biểu

cảm của tiếng Việt. Dựa trên một số cứ liệu văn học và ngữ học liên quan đến tính

biểu cảm của tiếng Việt, đồng thời dựa vào cơ sở lý luận ngôn ngữ học kết hợp khả

năng cảm nhận ngữ nghĩa của người bản ngữ, Trần Long đã làm rõ tính biểu cảm

của tiếng Việt trên hai bình diện từ vựng và ngữ pháp. Tác giả trình bày sự thể hiện

tính biểu cảm của tiếng Việt về mặt từ vựng ở ba lớp từ: lớp từ từ vựng-ngữ pháp,

lớp từ phong cách và nhóm biến thể từ vựng, trong đó ở lớp từ phong cách, tác giả

có nhận định tính biểu cảm của thành ngữ.

Khi nghiên cứu về lớp từ vựng biểu thị các loại cảm xúc, Vũ Đức Nghiệu

[36] đã thu thập được 198 đơn vị từ vựng có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể nhằm biểu

thị các trạng thái tâm lý, ý chí, tình cảm của con người, và tập hợp các đơn vị từ

vựng này thành 18 nhóm khác nhau. Trong 18 nhóm từ vựng này, tác giả có đề cập

đến 9 nhóm từ vựng biểu thị tình cảm như sau:

i. Những kết cấu phản ánh trạng thái vui vẻ, thoả mãn. Ví dụ: bùi tai, ngon

mắt, vui miệng, đẹp mặt, mát lòng, hả dạ, sướng bụng, phổng mũi.

ii. Trạng thái yên tâm, không lo lắng: yên dạ, yên lòng.

iii. Buồn/thương/tiếc: đứt ruột, xót ruột, thối ruột, đau lòng, não lòng, chạnh

lòng.

iv. Có thái độ, tình cảm tốt/không tốt trong quan hệ với người khác: được lòng,

rộng lòng, thật/thực lòng, thật/thực bụng, phải lòng, mất lòng.

v. Bực/tức giận: bực mình, nóng gáy, ngứa mắt, cáu sườn, nóng tiết, điên tiết,

sôi máu, sôi gan, tím gan, lộn ruột, nóng mặt, sưng mặt, cau mặt, xịu mặt.

vi. Khó chịu vì những cái trái lẽ: trái tai, chướng tai, chướng mắt, nóng tai.

vii. Lo/sợ/căng thẳng: rợn/dựng tóc gáy, sởn/nổi da gà, rợn người, vàng mắt, tái

mặt, méo mặt, thót tim, vãi đái, toát mồ hôi, sởn gáy, bận lòng, điên đầu, rối

ruột.

11

viii. Kinh ngạc, mất phản ứng, mất ý chí: trơ mắt, lác mắt, đuỗn mặt, đần mặt,

đực mặt, ngay râu.

ix. Thèm khát: nhỏ dãi, ứa nước miếng/nước bọt.

Vũ Đức Nghiệu [36] lập luận rằng các trạng thái tâm lý, ý chí, tình cảm được

phản ánh theo hai phương thức: miêu tả những biểu hiện ra bên ngoài (mà người

ta có thể cảm nhận được) của các trạng thái tâm lý, ý chí, tình cảm đó, và miêu tả

bằng nghĩa hoán dụ. Bên cạnh những từ biểu thị “chính danh” các trạng thái tâm

lý, ý chí, tình cảm của con người như: vui, buồn, lo, sợ, khiếp, hãi, kiêu ngạo,

quyết tâm…, trong tiếng Việt còn có một loạt khá phong phú những đơn vị từ

vựng khác nữa như: nóng gáy, ngứa tai, điên tiết, phổng mũi, già họng, động

lòng... cũng được sử dụng để biểu đạt các trạng thái và cảm xúc này. Đó là những

kết cấu tuy chưa được ghi trong từ điển nhưng thường hay được sử dụng trong đời

sống ngôn ngữ hàng ngày, trong sách vở... đã tương đối ổn định, quen thuộc. Về

cách thức biểu hiện, các kết cấu trên đây có khi miêu tả, phản ánh những biểu hiện

về mặt thể chất, những “triệu chứng” sinh lý phát lộ ra bề ngoài, của những trạng

thái tâm lý, ý chí, tình cảm, chẳng hạn đỏ mặt tía tai, lắm mồm, xõng lưng, ngẩng

mặt, phổng mũi, đờ người, đau đầu..., nhưng cũng có khi lại miêu tả những trạng

thái chỉ có thể có được do cách tri nhận, đánh giá mang tính chủ quan với những

đặc trưng văn hoá - xã hội của cộng đồng dân tộc Việt, ví dụ ngứa tiết, ngứa gan,

lộn ruột, mất mật, sôi máu, mất mặt,...

Nói tóm lại, từ những công trình của các nhà khoa học trình bày bên trên,

chúng tôi nhận thấy rằng tuy việc nghiên cứu từ ngữ cảm xúc trong tiếng Việt còn

khá khiêm tốn, nhưng những kết quả trong các khảo cứu này đã phần nào chứng tỏ

tính đa dạng của ngôn ngữ được dùng để miêu tả các khía cạnh cuộc sống của con

người, mà trong đó cảm xúc là một phạm trù rất quan trọng không thể thiếu được.

Chúng tôi cũng chưa ghi nhận nghiên cứu chuyên sâu nào về thành ngữ biểu thị

cảm xúc của tiếng Việt, do vậy chúng tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đối tượng

này, chủ yếu tập trung vào năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu.

12

0.2.2.2. Tình hình nghiên cứu từ ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Anh

Sau khi khảo sát nhiều nghiên cứu hiện có và danh sách các thuật ngữ cảm xúc,

Monika Bednarek [62] đã khái quát 18 tiểu loại ngữ nghĩa, bao gồm: (1) cảm giác

về quá khứ (feelings about the past); (2) cảm giác về tương lai (feelings about the

future); (3) sự hài lòng, phấn khích và sự hứng khởi (pleasure, excitement, and

elation); (4) sự coi trọng và lòng biết ơn (appreciation and gratitude); (5) sự nhiệt

tình và sự tỉnh táo (enthusiasm and alertness); (6) nỗi buồn, sự đau khổ, và tuyệt

vọng (sadness, distress, and despair); (7) sự bối rối, bồn chồn, và lo lắng

(confusion, anxiety, and worry); (8) sự chọc tức và cơn giận (irritation and anger);

(9) sự xấu hổ và nhục nhã (embarrassment and humiliation); (10) sợ hãi và hoảng

loạn (fear and panic); (11) sự bất ổn và mất bình tĩnh (insecurity and loss of

composure); (12) ngạc nhiên, sốc, và kinh ngạc (surprise, shock, and amazement);

(13) đố kị và ganh tị (envy and jealousy); (14) tình yêu, tôn trọng, và thiện chí (love,

respect, and goodwill); (15) lòng từ bi và sự tha thứ (compassion and forgiveness);

(16) sự đối kháng (antagonism); (17) quan tâm và chăm sóc (be concerned and

care); (18) lòng khao khát và thèm muốn (desire and want). Cuộc khảo sát này đã

tập hợp một danh sách gồm 1060 đơn vị từ vựng về cảm xúc, tuy không thể khẳng

định đó là một danh sách đầy đủ, nhưng cũng có thể xem là chứa một tập hợp khá

lớn từ ngữ cảm xúc của tiếng Anh.

Trong công trình “Ẩn dụ và Cảm xúc – Ngôn ngữ, Văn hóa, và Cơ thể trong

Cảm xúc con người” xuất bản năm 2004, Kövecses [103] nêu ba lớp từ ngữ cảm

xúc trong tiếng Anh gồm (1) từ ngữ biểu cảm, (2) từ ngữ có nghĩa gốc hay nghĩa

đen biểu thị các loại cảm xúc, và (3) từ ngữ có nghĩa biểu trưng miêu tả các đặc tính

của cảm xúc. Trong số đó thì lớp từ ngữ (3) chiếm số lượng nhiều nhất tính cho đến

nay, tuy vậy nó chưa nhận được sự chú ý đáng kể nào trong các nghiên cứu ngôn

ngữ cảm xúc. Lớp từ ngữ có nghĩa biểu trưng chưa thu hút các nhà nghiên cứu lưu

tâm đến vì họ xem lớp từ ngữ này như một nhánh nghiên cứu phụ khi cho rằng

không có cách biểu đạt nội dung nào thú vị hơn bằng ngôn ngữ đơn giản với nghĩa

gốc hay nghĩa đen. Hơn nữa, các từ ngữ trong lớp từ ngữ biểu cảm (1) thường có

13

nghĩa gốc. Chính vì điều này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn lý do tại sao các từ ngữ

Từ ngữ cảm xúc

Biểu cảm (1)

Miêu tả

Nghĩa gốc (2)

Nghĩa biểu trưng (3)

Cơ sở

Không cơ sở

Ẩn dụ

Hoán dụ

Các loại ngôn ngữ cảm xúc (dẫn từ [103, tr.6])

trong nhóm (3) ít nhận được sự quan tâm nghiên cứu hơn.

Theo Kövecses [102, tr.136], một số từ ngữ cảm xúc có thể bộc lộ cảm xúc,

có nghĩa là chúng xác nhận trải nghiệm xúc cảm của người nói tại thời điểm phát

ngôn. Việt ngữ học gọi chúng là thán từ. Ví dụ như “shit!” (khỉ thật!) khi biểu lộ sự

giận dữ, “wow!” (ôi chao!) khi cảm thấy ấn tượng, “yuk!” (chậc!) khi cảm thấy ghê

tởm. Loại từ ngữ này được dùng để biểu thị trực tiếp một loại cảm xúc nào đó mà

nó tượng trưng. Một số từ ngữ cảm xúc khác lại miêu tả (hay gọi tên) các loại cảm

xúc mà nó biểu thị: như “anger” hay “angry” (giận), “overjoyed” và “happy” (vui),

“sadness” và “depressed” (buồn). Trong loại từ ngữ cảm xúc miêu tả này, các thuật

ngữ có thể được xem như cơ bản ở mức độ ít hoặc nhiều. Những người nói một

ngôn ngữ nhất định nào đó có thể cảm thấy rằng một số từ cảm xúc là cơ bản hơn

các từ khác. Những từ ngữ cơ bản hơn trong tiếng Anh bao gồm anger, sadness,

fear, happiness và love (giận, buồn, sợ, vui và yêu). Những từ ngữ ít cơ bản hơn bao

gồm annoyance, wrath, rage, hatred, indignation, fright, và horror (phiền toái,

thịnh nộ, giận dữ, hận thù, phẫn nộ, sợ hãi, và kinh sợ).

Ngoài thuật ngữ từ ngữ biểu cảm và miêu tả, có một loại biểu thức khác liên

quan đến cảm xúc, đó là từ ngữ biểu trưng. Nhóm từ ngữ biểu trưng này có thể

nhiều hơn cả hai loại từ ngữ kia gộp lại. Ở đây, những thuật ngữ này không gọi tên

những cảm xúc cụ thể, và vấn đề không phải là từ vựng hay biểu thức ấy có cơ bản

14

hay điển mẫu đến như thế nào. Từ và biểu thức thuộc nhóm này biểu thị khía cạnh

khác nhau của ý niệm cảm xúc, chẳng hạn như cường độ, nguyên do, và kiểm soát.

Chúng có tính ẩn dụ và hoán dụ. Các biểu thức ẩn dụ là biểu hiện của phép ẩn dụ ý

niệm mà miền nguồn thường mang tính vật chất hoặc sinh lý (xem Lakoff và

Johnson [113]). Ví dụ, “boiling with anger” (sôi sục lên vì giận) là một ví dụ ngôn

ngữ của một ý niệm ẩn dụ GIẬN LÀ MỘT CHẤT LỎNG NÓNG ( Lakoff và

Kövecses [115]; Lakoff [108]; Kövecses [97], [100]); tương tự như hình ảnh vật lý

trong “burning with love” (đốt cháy với tình yêu) là một ví dụ của YÊU LÀ LỬA

(Kövecses, [99]), và “to be on cloud nine” (trên chín tầng mây) là một ví dụ của

VUI LÀ HƯỚNG LÊN, trong đó có một miền vị trí tưởng tượng trên trục thẳng

đứng (Kövecses, [100]). Tất cả ba ví dụ nêu trên cho thấy các khía cạnh cường độ

của cảm xúc có liên quan đến từ ngữ biểu thị chúng.

0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Việc nghiên cứu ẩn dụ ý niệm cảm xúc thông qua khảo sát thành ngữ tiếng

Việt biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu (so sánh với thành ngữ tiếng

Anh tương ứng) từ bình diện ngữ nghĩa học tri nhận nhằm:

- Góp phần làm sáng rõ thêm lý thuyết ẩn dụ ý niệm của ngữ nghĩa học tri

nhận từ góc độ so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ Việt-Anh;

- Góp phần tìm hiểu và phân tích hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc được biểu

đạt trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh;

- Đóng góp vào việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, làm

nổi bật đặc trưng ngữ nghĩa, tư duy văn hoá dân tộc biểu hiện trong thành ngữ biểu

thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng Anh;

- Góp phần xây dựng giáo trình dịch thuật văn bản và từ điển thành ngữ song

ngữ Anh-Việt có sử dụng thành ngữ biểu thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng Anh.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án lần lượt giải quyết các nhiệm

vụ sau:

- Xác định đặc điểm phân loại của hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc từ bình

diện ngữ nghĩa học tri nhận;

15

- Hệ thống hóa khái niệm và tiêu chí nhận diện thành ngữ, xác định đặc điểm

ngữ nghĩa của thành ngữ biểu thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng Anh, đồng thời

đưa ra danh sách các thành ngữ loại này;

- Xác định cơ chế biểu hiện cảm xúc của con người được biểu đạt trong thành

ngữ tiếng Việt và tiếng Anh;

- Tìm ra nét chung và đặc thù ngôn ngữ, văn hóa của thành ngữ biểu thị cảm

xúc thể hiện trong tiếng Việt và tiếng Anh;

- Trên cơ sở lý thuyết và phần khảo sát ngữ liệu, luận án đưa ra một số đề

xuất cho việc dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc từ tiếng Anh sang tiếng Việt, chú ý

đến hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc, tiến tới thúc đẩy việc xây dựng từ điển thành

ngữ song ngữ Anh-Việt.

0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung khảo sát thành ngữ biểu thị cảm xúc của tiếng Việt và tiếng

Anh thuộc năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu. Chúng tôi chọn năm loại cảm

xúc này vì chúng là những cảm xúc cơ sở (vấn đề này sẽ được trình bày chi tiết ở

chương 1), đồng thời quá trình sưu tập các thành ngữ loại này cũng ghi nhận một số

lượng đơn vị thành ngữ tương đối đủ để tiến hành phân tích đối chiếu, cụ thể như

sau:

Loại cảm xúc Số lượng thành ngữ tiếng Số lượng thành ngữ tiếng

Việt biểu thị loại thành Anh biểu thị loại thành

ngữ này ngữ này

68 91 Vui

146 72 Buồn

109 136 Giận

118 79 Sợ

62 41 Yêu

Tổng cộng 503 đơn vị 419 đơn vị

năm loại cảm xúc

16

Mặc dù có thể nghiên cứu thành ngữ từ ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và

ngữ dụng, nhưng trong khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ đi sâu phân tích bình diện

ngữ nghĩa, cụ thể là các mô hình ẩn dụ ý niệm của thành ngữ biểu thị cảm xúc. Đây

là những vấn đề quan trọng nhất, phản ánh đặc trưng tư duy, ngôn ngữ và văn hóa

của cộng đồng sử dụng chúng.

Ngữ liệu phục vụ cho nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu được lấy từ các loại

từ điển tiếng Việt và tiếng Anh như sau:

Từ điển tiếng Việt:

- Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn Hóa, Hà

Nội. [52]

- Nguyễn Lân (1989), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam, NXB Tổng hợp

TP.HCM, TP.HCM. [31]

- Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009), Thành ngữ tiếng Việt (tái bản lần 3),

NXB KHXH, Hà Nội. [34]

- Việt Chương (2009), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, NXB

Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai. [3]

Từ điển tiếng Anh:

- Siefring, Judith (2004), Oxford Dictionary of English Idioms, 2nd edition,

OUP, Oxford. (hơn 5.000 đơn vị) [139]

- McCarthy, Michael et al (1998), Cambridge International Dictionary of

Idioms, CUP, Cambridge. (khoảng 7.000 đơn vị) [126]

- Ammer, Christine (1997), The American Heritage Dictionary of Idioms,

Forbes Inc., USA. (hơn 10.000 đơn vị) [57]

- Spears, Richard A. (2000), NTC’s English idioms dictionary, 3rd edition,

National Textbook Company, Illinois, USA. (khoảng 8.500 đơn vị) [143]

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát sáu quyển từ điển thành ngữ

song ngữ Anh-Việt để phục vụ cho mục tiêu tìm hiểu việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm

xúc trong dịch thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt của chương 3:

17

- Nguyễn Văn Khi, Bạch Thanh Minh (2008), Từ điển thành ngữ Anh-Việt,

Viện Ngôn ngữ học, NXB Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM. [29]

- Lã Thành (2006), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thông tấn xã Việt Nam,

Hà Nội. [40]

- Nguyễn Minh Tiến (2004), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Trẻ, TP.HCM.

[47]

- Trung tâm biên soạn dịch thuật sách Sài Gòn (2004), Từ điển thành ngữ Anh-

Việt, NXB tổng hợp TP.HCM. [49]

- Trần Vũ Khanh (2003), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thanh Niên,

TP.HCM. [28]

- Trần Phong Giao (2010), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Giao thông vận

tải, TP.HCM. [16]

Ngữ liệu tiếng Việt được sử dụng trong các ví dụ minh họa trong luận án được

trích từ các nguồn tư liệu đa dạng gồm các truyện ngắn, tiểu thuyết, các văn bản báo

chí trong nước, các trang web điện tử, v.v. Ngữ liệu minh họa tiếng Anh được trích

từ các nguồn tư liệu chủ yếu xuất hiện trong các quyển từ điển thành ngữ tiếng Anh,

tài liệu nghiên cứu tiếng Anh, các trích đoạn một số tác phẩm văn học tiêu biểu cho

các loại văn phong Anh Mỹ và các trang web điện tử, được tìm có chủ đích trên

mạng internet bằng công cụ tìm kiếm điện tử. Chúng tôi chọn lựa các nguồn ngữ liệu

minh họa khá đa dạng nhằm bổ sung luận chứng cho các luận điểm được nêu trong

luận án.

0.5. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng một số

phương pháp và thủ pháp như miêu tả, phân tích ngữ nghĩa, thống kê định lượng,

định tính và so sánh đối chiếu.

Phương pháp miêu tả là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng

để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong giai đoạn phát triển nào đó

của nó [19, tr.19]. Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để miêu tả đối tượng

khảo sát của luận án là thành ngữ biểu thị cảm xúc theo tiêu chí đã được xác lập về

18

đối tượng khảo sát.

Phương pháp phân tích ngữ nghĩa được sử dụng để phân tích và khái quát ý

nghĩa và giá trị văn hoá-giao tiếp của thành ngữ biểu thị cảm xúc là đối tượng nghiên

cứu.

Phương pháp thống kê định lượng được sử dụng để hỗ trợ phương pháp miêu

tả và phân tích ngữ nghĩa. Ưu điểm của số liệu định lượng là cho kết quả rõ ràng,

không mập mờ nhưng phương pháp này trong một số trường hợp không kiến giải

được nguồn gốc của vấn đề. Do vậy, phương pháp định tính được bổ sung nhằm

khắc phục những khoảng trống của phương pháp định lượng như chúng tôi sử dụng

ở chương 3 của luận án.

Phương pháp so sánh đối chiếu, là phương pháp chủ yếu của luận án, được sử

dụng nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ Việt-Anh trong

việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc, từ đó, có thể tìm ra những nét chung và đặc thù

văn hóa thể hiện qua thành ngữ biểu thị cảm xúc. Thủ pháp của phương pháp này là

xác định cơ sở đối chiếu theo cách tiếp cận chức năng-ngữ nghĩa, nghĩa là phát hiện

các phổ niệm ngữ nghĩa, đặc điểm của chúng trong các ngôn ngữ riêng biệt và đặc

điểm của các phương tiện biểu hiện chung và riêng trong các ngôn ngữ khác nhau

[19, tr.196].

Quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Bảo đảm các phương tiện trong hai ngôn ngữ đối chiếu phải được miêu tả

một cách đầy đủ, chính xác và sâu sắc trước khi tiến hành đối chiếu để tìm ra những

điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng [26, tr.131]. Thành ngữ tiếng Việt và

thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc được chúng tôi mô tả chi tiết, có hệ thống

trước khi tiến hành so sánh và đối chiếu khả năng vận dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc

(giới hạn năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu) trong việc kiến tạo thành ngữ

tiếng Việt và tiếng Anh.

- Phải xem xét các phương tiện đối chiếu không chỉ trong hệ thống mà còn

trong hoạt động giao tiếp [26, tr.133]. Do đó, luận án này đề cập đến ngữ cảnh và

tình huống sử dụng thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh nhằm làm rõ những điểm

19

tương đồng và khác biệt trong việc biểu đạt ẩn dụ ý niệm cảm xúc.

- Bảo đảm tính nhất quán trong việc vận dụng các khái niệm và mô hình lý

thuyết để miêu tả các ngôn ngữ được đối chiếu [26, tr.136]. Để đảm bảo nguyên tắc

này, chúng tôi vận dụng các khái niệm cơ bản, chính yếu của ngữ nghĩa học tri nhận

và mô hình lý thuyết ẩn dụ ý niệm để đối chiếu hai nhóm thành ngữ biểu thị cảm xúc

tiếng Việt và tiếng Anh về phương diện vận dụng hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc,

chỉ ra mức độ tương ứng và khác biệt về sắc thái ngữ nghĩa, về mô hình ẩn dụ tri

nhận và mô hình văn hóa ở tiếng Việt và tiếng Anh.

0.6. Điểm mới của luận án

Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm cảm xúc biểu hiện

trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh nhìn từ bình diện ngữ nghĩa học tri nhận. Về

mặt lý thuyết, luận án tổng hợp những quan điểm mới nhất về ngữ nghĩa học tri nhận

của các nhà nghiên cứu trên thế giới trong mối tương quan với các ngành nghiên cứu

tâm lý hữu quan. Trên cơ sở đó, luận án phân tích và tổng hợp những đặc điểm ẩn dụ

ý niệm cảm xúc thể hiện trong thành ngữ.

Luận án chỉ ra cơ chế ngữ nghĩa của thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Việt và

tiếng Anh xuất phát từ kinh nghiệm cơ thể trong sự tương tác với văn hóa và môi

trường.

Dựa trên những phát hiện về cơ chế lập nghĩa của thành ngữ, vận dụng những

thành quả mới nhất của ngữ nghĩa học tri nhận và thông qua cuộc khảo sát về việc sử

dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong việc dịch thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt,

luận án đóng góp các đề xuất cụ thể cho việc dịch thành ngữ loại này, chú ý đến hệ

thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc của hai ngôn ngữ, tiến tới thúc đẩy việc xây dựng từ

điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt.

0.7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

0.7.1. Ý nghĩa khoa học

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phát triển lý thuyết ẩn dụ ý niệm

cảm xúc của ngữ nghĩa học tri nhận trong tiếng Việt và ứng dụng của lý thuyết này

trong việc dịch thuật ngoại ngữ, đặc biệt từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

20

- Thành ngữ biểu thị cảm xúc là yếu tố văn hoá của dân tộc trải qua nhiều thời

gian phát triển khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt trong thế so

sánh tương quan với thành ngữ tiếng Anh có thể góp phần làm sáng tỏ yếu tố tư duy

và văn hóa dân tộc.

0.7.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào phân tích và đánh giá hệ thống ẩn dụ ý

niệm cảm xúc thông qua việc sử dụng thành ngữ biểu thị cảm xúc trong ngôn bản.

- Kết quả nghiên cứu có thể áp dụng vào công tác dịch thuật thành ngữ từ

tiếng Anh sang tiếng Việt, tiến tới xây dựng giáo trình và từ điển thành ngữ song ngữ

Anh-Việt.

- Góp phần tìm hiểu về văn hoá, con người của hai dân tộc thông qua nghiên

cứu ngôn ngữ, góp phần gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ

hiện đại và hội nhập quốc tế.

0.8. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án

gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận

Nội dung chương này trình bày khái quát các vấn đề lý luận cơ bản của ngữ

nghĩa học tri nhận có liên quan trực tiếp đến việc tiến hành khảo sát ẩn dụ ý niệm

cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Các nhóm vấn đề chính được

trình bày trong chương này bao gồm: bốn nguyên lý chủ đạo của ngữ nghĩa học tri

nhận, các thành phần cấu tạo nên ẩn dụ tri nhận, nền tảng cơ bản của lý thuyết ẩn dụ

ý niệm có quan hệ đến đối tượng nghiên cứu thành ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ

với cảm xúc, đặc biệt mối quan hệ giữa thành ngữ với việc biểu thị cảm xúc. Một

nội dung quan trọng của chương một là giới thiệu hệ thống và phân loại ẩn dụ ý

niệm cảm xúc liên quan đến phạm vi luận án cũng như quan điểm tri nhận về thành

ngữ.

21

Chương 2: Đặc điểm ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt và

tiếng Anh

Chương này khảo sát hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc dựa trên lý thuyết ẩn

dụ ý niệm, các mô hình ẩn dụ, miền nguồn tiêu biểu của lược đồ hình ảnh trên bình

diện ngữ nghĩa học tri nhận trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị cảm

xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu. Các miền nguồn ẩn dụ tiêu biểu được chúng tôi giới

thiệu và phân tích, kết hợp với việc minh họa và giải thích về nguồn gốc ra đời và

giá trị văn hóa của một số thành ngữ cảm xúc, từ đó đưa ra những kết luận quan

trọng về sự tương đồng và khác biệt trong việc biểu đạt ẩn dụ ý niệm cảm xúc giữa

thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh tương ứng.

Chương 3: Việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong dịch thành ngữ từ tiếng

Anh sang tiếng Việt

Chương này, dựa trên kết quả nghiên cứu đạt được của chương hai, tiến

hành khảo sát sáu quyển từ điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt (được nêu ở phần

0.4 của phần Dẫn nhập) nhằm xem xét đánh giá việc vận dụng ẩn dụ ý niệm cảm

xúc trong dịch thành ngữ biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu từ tiếng

Anh sang tiếng Việt. Qua đó, chương ba kết nối các phát hiện của luận án và đề

xuất một số thủ pháp dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

22

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Một số vấn đề về ngữ nghĩa học tri nhận

Ngữ nghĩa học tri nhận là cách tiếp cận ngữ nghĩa học theo khuynh hướng

tâm lý và nhận thức bắt đầu hình thành và phát triển từ những năm 80 của thế kỉ

XX. Đáng chú ý có các công trình của các tác giả như Jackendoff [93], Wierzbicka

[140], Lakoff [108, 111], Langacker [119], Taylor [147], Geiger, Rudzka-Ostyn

[79], Fauconnier [71], Geeraerts [77], Talmy [146], v.v. Ngữ nghĩa học tri nhận là

một trong ba đường hướng tiếp cận chính của ngôn ngữ học tri nhận, còn gọi là chủ

nghĩa kinh nghiệm luận, bên cạnh hai hướng tiếp cận khác, một hướng thiên về ngữ

pháp với những mối quan hệ giữa tri nhận và ngữ pháp cũng như ảnh hưởng của các

phạm trù ý niệm vào ngữ pháp, và một hướng thiên về ngữ dụng nghiên cứu không

gian tinh thần và hòa trộn ý niệm. Theo Lê Quang Thiêm [45, tr.54], ngữ nghĩa học

tri nhận là khuynh hướng lý thuyết vừa có sự kế thừa ngữ nghĩa học truyền thống

vừa bộc lộ khá tập trung những nét mới của ngữ nghĩa học biểu hiện tinh thần cuối

thế kỉ XX. Một trong những đặc điểm nổi bật của ngữ nghĩa học tri nhận phân biệt

với các ngữ nghĩa học khác, chẳng hạn như ngữ nghĩa học cấu trúc, ngữ nghĩa học

hình thức, là coi trọng sự tri nhận trong nghiên cứu nghĩa, đề cao sự tri giác, sự

nhận thức, là những hình thức của năng lực tư duy. Đó là quá trình hay kết quả phản

ảnh, tái hiện hiện thực vào tư duy, là các quá trình con người nhận biết, hiểu biết thế

giới khách quan hoặc quy luật tư duy cũng như kết quả của các quá trình đó. Việc

coi trọng, nhấn mạnh sự tri nhận cũng có nghĩa là coi trọng, nhấn mạnh mặt nội

dung, mặt nghĩa trong nghiên cứu ngôn ngữ mà có thời đã bị xem nhẹ. Và như vậy

ngữ nghĩa học tri nhận cũng coi trọng vai trò của nhân tố chủ thể con người trong

ngôn ngữ, chú ý đến vai trò ngữ nghĩa trong các cấp độ, bình diện phân tích miêu tả,

giải thích các hiện tượng ngôn ngữ.

Lê Quang Thiêm [45] cho rằng ngôn ngữ học truyền thống cũng đã quan tâm

nghiên cứu nghĩa, và có chú ý đến bình diện tâm lý và sự nhận thức trong xem xét,

23

giải thích sự thay đổi nghĩa. Tuy nhiên, ngữ nghĩa học truyền thống xem xét nghĩa

từ cô lập, biệt lập mà không gắn với văn cảnh, ngữ cảnh và sự quan tâm chưa với

tới các loại đơn vị khác như câu, lời, v.v. Ngữ nghĩa học cấu trúc, có cái nhìn toàn

diện hơn về nghĩa trong cấu trúc hệ thống, nhưng có khi lại sa vào phân loại luận

hoặc cấu trúc luận thuần túy nên cũng không coi trọng đúng mức đến hành chức,

đến hoạt động trong xác định miêu tả nghĩa. Đến ngữ nghĩa học tri nhận, thì nó

không tách rời hoàn toàn các thành tựu của các ngữ nghĩa học khác mà nó có sự kế

thừa và có quan hệ với các ngữ nghĩa học và ngôn ngữ học khác.

Ngữ nghĩa học tri nhận đã đóng góp bốn mô hình lý thuyết quan trọng cho

việc nghiên cứu nghĩa từ bao gồm: (1) mô hình điển mẫu về cấu trúc phân loại , (2)

lý thuyết ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm, (3) mô hình tri nhận lý tưởng hóa và (4)

lý thuyết khung [78]. Trong phạm vi cơ sở lý luận phục vụ cho mục tiêu của luận án

đặt ra, đó là phân tích và lý giải ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt,

có so sánh với thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi chỉ trình bày lý thuyết ẩn dụ ý niệm

và các khái niệm hữu quan liên quan đến mô hình lý thuyết này.

1.1.1. Bốn nguyên lý chủ đạo của ngữ nghĩa học tri nhận

Ngữ nghĩa học tri nhận, cũng giống như ngôn ngữ học tri nhận, không phải

là một khung lý thuyết đơn nhất. Những nhà nghiên cứu tự nhận mình là nhà ngữ

nghĩa học tri nhận thường có những khuynh hướng nghiên cứu đa dạng. Tuy nhiên,

có một số nguyên lý tạo nên đường hướng nghiên cứu riêng của ngữ nghĩa học tri

nhận. Trong số các nguyên lý đó, có bốn nguyên lý chủ đạo được hầu hết các nhà

ngữ nghĩa học tri nhận thừa nhận đó là: (1) Cấu trúc ý niệm được nhập thân hóa,

còn gọi là luận điểm tri nhận nhập thân, (2) Cấu trúc ngữ nghĩa là cấu trúc ý niệm,

(3) Biểu hiện nghĩa có tính bách khoa, và (4) Quá trình tạo nghĩa là quá trình ý niệm

hóa [70, tr.157].

Dưới đây, chúng tôi lần lượt giới thiệu vắn tắt nội dung cơ bản của bốn

nguyên lý chủ đạo này.

24

1.1.1.1. Cấu trúc ý niệm được nhập thân hóa

Các nhà ngữ nghĩa học tri nhận quan tâm nhiều đến bản chất của mối quan

hệ giữa cấu trúc ý niệm và thế giới bên ngoài của kinh nghiệm giác quan. Nói cách

khác, các nhà ngữ nghĩa học tri nhận bắt đầu tìm cách khám phá bản chất của tương

tác con người với nhận thức về thế giới bên ngoài, và xây dựng một lý thuyết về cấu

trúc ý niệm phù hợp với những cách thức mà chúng ta trải nghiệm thế giới. Cần

nhấn mạnh rằng đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ học tri nhận là ý niệm. Lakoff và

Johnson [113] đã viết: “… Ý niệm chi phối tư duy của chúng ta không đơn thuần là

sản phẩm của trí tuệ chúng ta. Chúng ảnh hưởng đến hoạt động thường nhật của

chúng ta đến tận những chi tiết tầm thường nhất. Ý niệm cấu trúc hóa cảm giác,

hành vi, quan hệ của chúng ta với những người khác. Đồng thời hệ thống ý niệm

của chúng ta đóng vai trò trung tâm trong việc xác định những thực thể của đời sống

thường nhật …” [113, tr.4]. Một tư tưởng đã xuất hiện nhằm nỗ lực giải thích bản

chất của tổ chức ý niệm trên cơ sở của sự tương tác với thế giới vật lý được gọi là

luận điểm tri nhận nhập thân [114]. Luận điểm này cho rằng ý niệm bao giờ cũng

mang tính nhập thân bởi chúng phụ thuộc vào bộ óc và các cơ quan tri giác của con

người. Theo đó, cơ cấu thế giới ý niệm của con người được quy định bởi bản chất

sinh học và kinh nghiệm của con người trong sự tương tác với thế giới vật lý và xã

hội. Ví dụ như ý niệm CHỨA ĐỰNG xuất phát từ kinh nghiệm giác quan, chẳng

hạn, một người trong một căn phòng khóa kín. Căn phòng có đặc điểm cấu trúc

tương ứng với một ranh giới bị bao bọc lại, nghĩa là nó có các cạnh đóng, nội thất,

phần rìa và ngoại thất. Và như là một tất yếu của những đặc tính này, cái ranh giới

bị bao bọc lại này có thêm một đặc điểm chức năng của sự chứa đựng: người ấy

không thể đi ra khỏi phòng. Mặc dù việc này khá rõ ràng, nhưng chúng ta quan sát

thấy rằng cái ví dụ về sự chứa đựng này một phần là kết quả từ những đặc tính của

cái ranh giới bị bao bọc lại, một phần khác là kết quả từ những đặc tính của cơ thể

người. Con người không thể chui qua những vật chứa nhỏ như cái bình, hoặc bò

xuyên qua những kẻ hở phía dưới cửa như tổ kiến được. Nói cách khác, sự chứa

25

đựng là một kết quả đầy ý nghĩa của mối quan hệ vật chất mà con người chúng ta

trải nghiệm khi tương tác với thế giới bên ngoài.

1.1.1.2. Cấu trúc ngữ nghĩa là cấu trúc ý niệm

Nguyên lý này khẳng định rằng ngôn ngữ biểu đạt những ý niệm trong tâm

trí của người nói chứ không phải được dùng để thể hiện các đối tượng trong thế giới

bên ngoài. Nói cách khác, cấu trúc ngữ nghĩa, tức là những ý nghĩa thường được

gán ghép vào lời nói và các đơn vị ngôn ngữ khác, có thể được coi là tương đương

với ý niệm. Những ý nghĩa mang tính quy ước này, mà chúng thường được gán

ghép vào từ, là những ý niệm ngôn ngữ hay ý niệm từ vựng, những hình thức thông

thường mà cấu trúc ý niệm yêu cầu để được mã hóa trong ngôn ngữ.

1.1.1.3. Biểu hiện nghĩa có tính bách khoa

Nguyên lý trung tâm thứ ba của ngữ nghĩa học tri nhận cho rằng cấu trúc ngữ

nghĩa về bản chất mang nghĩa bách khoa, hay còn gọi là phi ngữ văn. Điều này có

nghĩa là từ không đại diện cho các nhóm ý nghĩa được bó chặt vào nhau, mà phục

vụ như là “điểm truy cập” vào kho lưu trữ rộng lớn của kiến thức liên quan đến một

ý niệm hoặc miền ý niệm cụ thể. Fauconnier và Turner [73] đưa ra ví dụ với từ “an

toàn” (safe) nhằm minh họa cho tính bách khoa của việc biểu hiện nghĩa trong tiếng

Anh. Từ “an toàn” có một loạt ý nghĩa, và ý nghĩa mà chúng ta lựa chọn nổi bật lên

do ngữ cảnh mà trong đó từ “an toàn” được sử dụng. Hãy xem xét ba ví dụ sau đây

liên quan đến ngữ cảnh một đứa trẻ đang vui chơi trên bãi biển.

(1) (a) Đứa trẻ an toàn.

(b) Bãi biển an toàn.

(c) Cái xẻng (đồ chơi) an toàn.

Trong ngữ cảnh này, ví dụ (1a) được hiểu là đứa trẻ sẽ không gặp phải bất

cứ sự nguy hiểm nào. Tuy nhiên, ví dụ (1b) không có nghĩa là bãi biển sẽ không gặp

phải bất cứ sự nguy hiểm nào, mà thực ra, câu này có ý nghĩa là bãi biển là một môi

trường mà sự nguy hiểm cho đứa trẻ được giảm đến mức tối thiểu. Tương tự, ví dụ

(1c) không có nghĩa là cái xẻng sẽ không gặp phải bất cứ sự nguy hiểm nào hay nó

là một môi trường không có nguy hiểm cho đứa trẻ, mà nghĩa của nó phải là cái

26

xẻng sẽ không gây ra bất cứ nguy hiểm nào cho đứa trẻ khi chơi đùa. Ba ví dụ này

chứng minh một điều rằng không có một nét nghĩa cố định đơn nhất nào dành cho

từ “an toàn” khi quy chiếu ý nghĩa của nó đến với ba đối tượng “đứa trẻ”, “bãi

biển”, “cái xẻng”. Để hiểu được phát ngôn của người nói, chúng ta phải dựa vào

“kiến thức bách khoa” của chúng ta liên quan đến “đứa trẻ”, “bãi biển”, “cái xẻng”,

đồng thời phải dựa vào tri thức của chúng ta liên quan đến nghĩa của từ “an toàn”.

Khi đó, chúng ta mới có thể “kiến tạo” một nét nghĩa cho phát ngôn bằng cách lựa

chọn một nét nghĩa sao cho phù hợp với ngữ cảnh của phát ngôn.

1.1.1.4. Quá trình tạo nghĩa là quá trình ý niệm hóa

Nguyên lý thứ tư liên quan đến ngữ nghĩa học tri nhận là bản thân ngôn ngữ

không tự mã hóa nghĩa. Thay vào đó, như chúng ta đã thấy, từ và các đơn vị ngôn

ngữ khác chỉ là “sự gợi ý” cho việc tạo nghĩa. Theo quan niệm này, nghĩa được xây

dựng ở cấp độ ý niệm: việc tạo nghĩa đồng nghĩa với ý niệm hóa, đó là một quá

trình năng động trong đó các đơn vị ngôn ngữ phục vụ như là sự gợi ý cho một loạt

các hoạt động ý niệm và việc tiếp nhận tri thức cơ bản. Quan điểm này, còn được

gọi là lý thuyết hòa trộn ý niệm, được vận dụng ở chỗ nghĩa là một quá trình chứ

không phải là một “sự vật” rời rạc có thể được ngôn ngữ “kết nối” lại. Việc tạo

nghĩa đưa đến kiến thức bách khoa, và nó liên quan đến các chiến lược suy luận,

đến các khía cạnh khác nhau của cấu trúc ý niệm, tổ chức và kết nối [145]. Tính

chất năng động của việc tạo nghĩa đã được Fauconnier [71, 72] mô hình hóa một

cách tổng quát nhất, nhấn mạnh vai trò của ánh xạ: kết nối nội bộ giữa không gian

tinh thần riêng biệt, các “gói” thông tin ý niệm, được xây dựng trong suốt quá trình

tạo nghĩa trực tiếp. Theo Fauconnier và Turner [73], chúng ta buộc phải tham gia

vào những quy trình ý niệm phức tạp để “truy cập” loại nghĩa này. Những quy trình

ý niệm này được thực hiện trên cơ sở tính từng giây trong việc kiến tạo nghĩa liên

tục trong diễn ngôn, mà chúng ta không có ý thức về điều đó. Chúng ta hãy xem xét

ví dụ sau đây.

27

(2) James Bond là một điệp viên hàng đầu của Anh. Trong bộ phim, Sean

Connery phải hôn Pussy Galore. (James Bond is a top British spy. In the film, Sean

Connery gets to kiss Pussy Galore.)

Trong ví dụ này, mỗi một câu tạo lập nên “không gian tinh thần” của riêng

nó, bao gồm các yếu tố James Bond trong câu thứ nhất, Sean Connery và Pussy

Galore trong câu thứ hai. Do James Bond và Sean Connery là bản sao của nhau

được hình thành từ một sợi dây liên kết, đó là diễn viên Sean Connery thủ vai James

Bond trong bộ phim Goldfinger (1964), nên biểu thức Sean Connery có thể được sử

dụng để “truy cập” và xác định nhân vật mà anh ta thủ vai. Ở đây, chúng ta buộc

phải hiểu rằng trong bộ phim, chính James Bond (chứ không phải là Sean Connery,

mà trong thực tế không phải là một gián điệp), là người phải thực hiện cảnh hôn.

Điều này có thể thiết lập nên sơ đồ gồm hai không gian tinh thần riêng biệt, trong

đó không gian thứ nhất chứa James Bond và không gian thứ hai chứa Sean

Connery. Hai không gian tinh thần này được liên kết bởi một ánh xạ giữa James

Bond và Sean Connery.

1.1.2. Các thành phần cấu tạo nên ẩn dụ tri nhận

Quan niệm của ngữ nghĩa học tri nhận về ẩn dụ là một lý thuyết phức tạp.

Theo lý thuyết này, ẩn dụ được thành lập bởi một loạt các bộ phận hoặc các thành

phần có tương tác với nhau [102, tr.311-312]. Chúng bao gồm 10 bộ phận cơ bản

sau: (1) Cơ sở kinh nghiệm, (2) Miền nguồn, (3) Miền đích, (4) Mối quan hệ giữa

miền nguồn và miền đích, (5) Các biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ, (6) Ánh xạ, (7) Quan

hệ kéo theo, (8) Phép hòa trộn, (9) Hiện thực hóa phi ngôn ngữ, (10) Các mô hình

văn hóa.

Chúng tôi xin giải thích ngắn gọn về các thành phần này của ẩn dụ. Ý niệm

ẩn dụ có đặc trưng cấu trúc hai không gian và bao gổm miền nguồn (2) và miền đích

(3). Miền nguồn mang tính cụ thể, còn miền đích mang tính trừu tượng hơn. Miền

nguồn là nơi cung cấp tri thức để hiểu được miền đích. Sự lựa chọn các miền nguồn

cụ thể để đi với các miền đích cụ thể được thúc đẩy bởi cơ sở kinh nghiệm (1). Mối

quan hệ giữa miền nguồn và miền đích (4) có thể là việc một miền nguồn có khả

28

năng áp dụng cho một số miền đích và một miền đích có thể đi kèm với một số

miền nguồn. Những cặp miền nguồn và miền đích cụ thể được thể hiện thông qua

các biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ (5). Có những sự tương ứng về các ý niệm cơ bản,

còn gọi là quan hệ ánh xạ (6) hay quan hệ ghép hình, giữa miền nguồn và miền

đích. Quan hệ ánh xạ được hiểu là quá trình gán ghép một hình ảnh của miền nguồn

cho miền đích. Miền nguồn thường ánh xạ ngữ liệu vào miền đích dựa trên những

sự tương ứng cơ bản. Các ánh xạ bổ sung được gọi là quan hệ kéo theo (7), hay còn

được gọi là phép suy luận. Quan hệ kéo theo được hiểu là hệ quả của việc nhận một

tri thức từ một tri thức đã biết. Các tập hợp của một miền nguồn với một miền đích

thường tạo ra kết quả hòa trộn (8), nghĩa là tạo ra các chất liệu ý niệm được xem là

mới đối với cả hai miền nguồn và miền đích. Ẩn dụ ý niệm thường được hiện thực

hóa theo cách phi ngôn ngữ (9), nghĩa là, không chỉ trong ngôn ngữ hay tư duy mà

cả trong thực tế xã hội. Các ẩn dụ ý niệm cùng hội tụ về và thường kiến tạo nên các

mô hình văn hóa (10) được thể hiện dưới nhiều dạng tùy thuộc đặc trưng ngôn ngữ-

văn hóa dân tộc và kinh nghiệm thực tiễn của con người, điều đó có nghĩa là, các

đơn vị ý niệm được cấu trúc hóa một cách tổng thể.

Khái niệm văn hóa và mô hình văn hóa được định nghĩa rất đa dạng và nhiều

khía cạnh. Chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng văn hóa là một hệ thống hữu

cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình

hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và

xã hội [44, tr.10]. Nói cách khác, văn hóa là tổng thể phức hợp nhiều thành tố

nhưng tổng thể ấy là một cấu trúc có tính hệ thống, nó quan hệ hữu cơ với nhau để

tạo ra mô hình [4, tr.16]. Các nhà nghiên cứu văn hóa đề xuất nhiều mô hình văn

hóa khác nhau, nhưng trong số đó, nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng [56, tr.67]

nhận định rằng giữa văn hóa và môi trường xã hội có mối quan hệ gắn bó sâu sắc.

Một mối quan hệ khác là quan hệ giữa văn hóa và môi trường tự nhiên. Như vậy,

văn hóa phải được xem xét trên cả hai khía cạnh đồng đại và lịch đại, không gian

(vấn đề địa lý-môi trường) và thời gian (lịch sử dân tộc), khái quát và cụ thể. Mô

hình văn hóa của hệ thống văn hóa sẽ cho ta thấy những cái chung, cái đồng nhất

29

trong tính hệ thống của các nền văn hóa, còn loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy cái

riêng, cái khác biệt trong tính hệ thống của chúng. Đứng ở góc độ nghiên cứu ngôn

ngữ, Trần Văn Cơ [6, tr.41] cho rằng ngôn ngữ phản ánh mối tương tác giữa những

yếu tố tâm lý, giao tiếp, chức năng và văn hóa. Là phương tiện giao tiếp giữa các

thành viên của xã hội, ngôn ngữ phản ánh nhiều bình diện của một nền văn hóa nhất

định. Cấu trúc của ngôn ngữ được cấu tạo bởi hai nhân tố quan trọng: nhân tố bên

trong, nghĩa là trí tuệ của cá thể người nói, và nhân tố bên ngoài, nghĩa là nền văn

hóa chung cho nhiều người nói cùng một thứ tiếng.

1.1.3. Nền tảng cơ bản của lý thuyết ẩn dụ ý niệm

Quan điểm ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ là một công cụ tri nhận rõ

ràng rất khác so với quan điểm truyền thống. Theo truyền thống thì ngôn ngữ được

xem như một hệ thống riêng biệt, mà ở đó các đơn vị từ có các nét nghĩa được xác

định rõ ràng, các nét nghĩa được coi như các thuộc tính sẵn có của từ, và không cần

phải tiếp cận nghĩa ngoài ngôn ngữ hoặc nghĩa bách khoa, ngoại trừ những trường

hợp đặc biệt như ẩn dụ. Ngôn ngữ mang tính ẩn dụ vì thế thường được xem như

một sự lệch chuẩn khỏi cách sử dụng ngôn ngữ thường nhật. Điều này có nghĩa là

để hiểu được ẩn dụ thì phải thông qua các quá trình đặc biệt. Việc thuyết giải ẩn dụ

cần phải được thực hiện thông qua từ ngữ được sử dụng theo nghĩa đen, và vì thế

theo quan niệm truyền thống thì ngôn ngữ sử dụng nghĩa đen có vai trò lớn hơn so

với ngôn ngữ mang tính ẩn dụ.

Lakoff và Johnson ([113], [114]) lại nhìn nhận và nghiên cứu ẩn dụ thông

qua các lĩnh vực kinh nghiệm. Họ cho rằng ẩn dụ là hiện tượng tri nhận hơn là hiện

tượng ngôn ngữ, và những biểu thức ẩn dụ ta bắt gặp trong ngôn ngữ chính là cái

phản ánh các ẩn dụ tồn tại ở các tầng bậc ý niệm. Để bảo vệ luận điểm này, Lakoff

và Johnson đã phân tích một số lượng lớn từ và tổ hợp từ trong tiếng Anh để chứng

minh tính hệ thống của các ý niệm ẩn dụ. Chẳng hạn, họ cho thấy rằng trong tiếng

Anh, lĩnh vực ý niệm TRANH LUẬN (ARGUMENT) được cấu trúc dựa theo lĩnh

vực ý niệm CHIẾN TRANH (WAR) thể hiện qua các biểu thức ngôn ngữ như sau :

30

(3) Your claims are indefensible. (Những điều khẳng định của anh không bảo vệ

được.)

(4) He attacked every weak point in my argument. (Ông ta tấn công mọi chỗ yếu

trong lập luận của tôi.)

(5) His criticisms were right on target. (Những lời phê phán của ông ta đã đánh

trúng đích.)

(6) I demolished his argument. (Tôi đã đập tan luận chứng của ông ta.)

(7) If you use that strategy, he’ll wipe you out. (Nếu anh sử dụng chiến lược đó,

ông ta sẽ tiêu diệt anh.)

[113, tr.4]

Trong các ví dụ nêu trên, CHIẾN TRANH được hiểu là miền nguồn, nó được

ánh xạ sang miền đích TRANH LUẬN. Quá trình ánh xạ ý niệm là quá trình hệ

thống hóa các yếu tố tương ứng trong hai miền, trong đó miền nguồn là ý niệm cụ

thể hơn, còn miền đích là ý niệm trừu tượng hơn. Trong trường hợp này, thì việc

ánh xạ tri thức từ lĩnh vực CHIẾN TRANH sang lĩnh vực TRANH LUẬN cho phép

chúng ta có thể suy luận về một lĩnh vực này thông qua lĩnh vực kia [111].

Ẩn dụ ý niệm TRANH LUẬN LÀ CHIẾN TRANH trong tiếng Anh không

phải là một ví dụ duy nhất, vì trên thực tế, theo Lakoff và Johnson, hệ thống ý niệm

của con người về bản chất mang tính ẩn dụ, nó không chỉ ảnh hưởng đến ngôn ngữ

chúng ta sử dụng, mà còn đến các hoạt động hàng ngày cũng như trong quan hệ

tương tác với mọi người xung quanh.

Khi xem xét kĩ các ẩn dụ ý niệm, chúng ta dễ nhận thấy một điều là các ẩn

dụ đôi khi được tổ chức theo tầng bậc, gồm các ẩn dụ bậc cao và ẩn dụ bậc thấp,

hay nói cách khác, ẩn dụ bậc phổ quát và ẩn dụ bậc cụ thể. Ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ

MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH là ẩn dụ cấp độ cụ thể. Các ẩn dụ này thừa hưởng cấu

trúc của ẩn dụ tầng giữa CUỘC SỐNG CÓ MỤC ĐÍCH LÀ MỘT CUỘC HÀNH

TRÌNH. Ở cấp độ tổng quát hay bậc cao nhất là ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN. Theo

Lakoff [111], liên quan đến các cấp bậc này là các yếu tố văn hoá: ẩn dụ ở cấp bậc

càng thấp thì càng được sử dụng hạn chế trong một môi trường văn hoá cụ thể.

31

Lý thuyết ẩn dụ ý niệm dựa trên ba mệnh đề thiết yếu: đầu tiên, ẩn dụ là một

hiện tượng thuộc về nhận thức; thứ hai, ẩn dụ phải được phân tích như là một ánh

xạ giữa hai miền; và thứ ba, ngữ nghĩa học căn cứ vào kinh nghiệm luận [78,

tr.204].

a. Mệnh đề thứ nhất của lý thuyết ẩn dụ ý niệm: Bản chất tri nhận của ẩn dụ đưa

đến một thực tế rằng ẩn dụ không phải là một hiện tượng từ vựng đơn thuần, nằm

bên ngoài của cấp độ ngôn ngữ, thay vào đó, nó là một hiện tượng ý niệm sâu xa

kiến tạo nên cách thức chúng ta suy nghĩ. Những người ủng hộ lý thuyết ẩn dụ ý

niệm đôi khi có xu hướng cường điệu hóa tính mới mẻ của quan điểm này. Theo

quan điểm của ngữ nghĩa học lịch đại (hay còn gọi ngữ nghĩa học tiền cấu trúc), ẩn

dụ không chỉ được xem là một biện pháp tu từ thuộc phạm trù phong cách học, mà

trước đây, ẩn dụ đã được nhìn nhận là cơ chế tri nhận (xem Nerlich và Clark [129]).

Nhưng ngay cả khi quan niệm về tri nhận không phải là cuộc cách mạng đi chăng

nữa, thì lý thuyết ẩn dụ ý niệm đã viện dẫn một cách có hệ thống các bằng chứng

ngôn ngữ đa dạng nhằm minh họa bản chất ý niệm thay vì bản chất từ vựng.

Có ba vấn đề cần lưu ý trong mệnh đề thứ nhất này. Đầu tiên, ẩn dụ xuất hiện

trong những mô hình vượt ra khỏi giới hạn của các đơn vị từ vựng cá thể. Hãy xem

xét một số ví dụ điển hình liên quan đến ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ MỘT CUỘC HÀNH

TRÌNH, trong đó các đơn vị từ vựng (được gạch chân) lại kiến tạo nên cách thức

chúng ta ý niệm hóa về yêu.

(8) Look how far we’ve come. (Hãy xem chúng ta đi được bao xa.)

(9) We are at a crossroads. (Chúng ta đang ở ngã ba đường.)

(10) We’ll just have to go our separate ways. (Chúng ta sẽ phải đường ai nấy

đi.)

(11) We cannot turn back now. (Chúng ta không thể quay lại.)

(12) This relationship is a dead-end street. (Mối quan hệ này là một con

đường ngõ cụt.)

32

(13) I don’t think this relationship is going anywhere. It’s been a long, bumpy

road. We have gotten off the track. (Tôi không nghĩ mối quan hệ này đi được đến

đâu. Đó là một con đường dài gập ghềnh. Chúng ta đã đi trật đường ray.)

Thứ hai, hình ảnh ẩn dụ có thể được sử dụng một cách sáng tạo. Tập hợp các

biểu thức minh họa mô hình ẩn dụ là một tập hợp mở. Chúng không chỉ bao gồm

biểu thức được qui ước hóa, mà cả những biểu thức mới. Chẳng hạn như biểu thức

“to walk on cloud nine” (“đi bộ trên chín tầng mây”) nghĩa là “rất hạnh phúc” có

thể được hiểu theo kiểu hơi khác thường như trong ví dụ sau:

(14) You may be walking on cloud nine now, but don’t forget there’s a world

with other people underneath. (Bạn có thể đi bộ trên chín tầng mây, nhưng đừng

quên có một thế giới với nhiều người khác ở bên dưới bạn).

Việc mở rộng như vậy cho thấy hình ảnh chứa trong biểu thức “to walk on

cloud nine” là một hình ảnh thực.

Thứ ba, mô hình ẩn dụ xảy ra bên ngoài ngôn ngữ. Ví dụ như cử chỉ “ngón

tay cái đưa lên” (thumbs up): nếu tốt là hướng lên và xấu là hướng xuống. Hướng

lên là một dấu hiệu của cảm giác tích cực, cũng tương tự như biểu thức “up” (tăng)

tương quan với điểm cuối của thang độ tích cực.

(15) Things are looking up.We hit a peak last year, but it’s been downhill

ever since. Things are at an all-time low. (Mọi thứ đang có xu hướng (tốt) lên. Năm

ngoái chúng tôi đạt đến cột mốc, nhưng sau đó lại trượt dài. Mọi việc lúc nào cũng

thấp.)

b. Mệnh đề thứ hai của lý thuyết ẩn dụ ý niệm: Sự phân tích của ánh xạ vốn

gắn với các mô hình ẩn dụ. Ẩn dụ ý niệm hóa miền đích dựa vào miền nguồn, và

một ánh xạ như vậy có dạng thức là một liên kết giữa các khía cạnh của miền nguồn

và miền đích. Chẳng hạn đối với ẩn dụ TÌNH YÊU LÀ MỘT CUỘC HÀNH

TRÌNH, Kövecses [105, tr.9] đã minh họa về mối liên kết giữa các thành phần của

miền nguồn và miền đích như sau:

33

Miền nguồn Miền đích

- Các du khách  Những người yêu nhau

- Phương tiện vận tải  Các mối quan hệ riêng của họ

- Cuộc hành trình  Sự phát triển của mối quan hệ

- Những trở ngại gặp phải  Những khó khăn trải nghiệm

- Quyết định về con đường đi tới  Sự lựa chọn về những việc cần làm

- Điểm đến của cuộc hành trình  Các mục tiêu của mối quan hệ

Các ánh xạ như trên là chưa thấu đáo ở chỗ có khả năng những đặc tính của

miền nguồn không được ánh xạ vào miền đích. Một cuộc hành trình, chẳng hạn, có

thể ngầm chỉ việc giữ chỗ và đặt phòng, nhưng điều đó không thể áp dụng đối với

miền đích “tình yêu”.

c. Mệnh đề thứ ba của lý thuyết ẩn dụ ý niệm: Ẩn dụ được căn cứ vào kinh

nghiệm luận, nghĩa là ngôn ngữ được định hình bởi kinh nghiệm của con người.

Một đường hướng nghiên cứu quan trọng có liên quan đến lý thuyết ẩn dụ ý niệm

đó là tập trung vào các tính chất hữu hình của nền tảng kinh nghiệm – một khái

niệm của tính nhập thân. Khái niệm về tính nhập thân của ngôn ngữ bắt nguồn từ

quan điểm cho rằng nhận thức của chúng ta mang tính nhập thân; các quá trình xử

lý của trí não của chúng ta làm cho chúng ta tương tác với những môi trường, ngoại

cảnh quanh ta; và kết quả là những quá trình xử lý thông tin đó được hình thành và

chịu sự ảnh hưởng bởi ngoại cảnh mà chúng ta tương tác [120, tr.248]. Nói cách

khác, ý niệm bắt nguồn từ nhận thức, và vì vậy, cấu trúc ý niệm bắt nguồn từ thế

giới bên ngoài thông qua các trải nghiệm con người có được. Do đó, mỗi chúng ta

có một cách nhìn riêng về thế giới, bắt nguồn từ sự khác nhau về mặt sinh học của

cơ thể mỗi chúng ta [69].

Nói tóm lại, ngữ nghĩa học tri nhận đã cho ra đời một khung lý thuyết ẩn dụ

ý niệm khẳng định rằng ẩn dụ là hiện tượng thuộc về nhận thức và có tính nghiệm

thân, làm nền tảng xây dựng nên các mô hình ẩn dụ tri nhận để lý giải các hiện

tượng ngôn ngữ.

34

1.2. Những vấn đề liên quan đến cảm xúc

Nhà tâm lý học người Mỹ Carlson [63, tr.445] cho rằng ở một góc độ nào đó

cần phải hiểu cảm xúc là tất cả những gì thể hiện trong cuộc sống. Cuộc sống mà

không có cảm xúc sẽ trở nên khô khan và trống rỗng. Cảm xúc được bộc phát trong

những tình huống cụ thể, thường được thể hiện kèm với ngôn ngữ cử chỉ như nụ

cười hay cái nhíu mày để truyền đạt tình cảm của chúng ta đến người khác. Cảm

xúc là thuật ngữ được các nhà tâm lý học sử dụng để chỉ rõ tình cảm của con người

được bộc phát khi những sự việc quan trọng xảy đến với họ. Cảm xúc thường diễn

ra khá ngắn và là sự phản ứng lại những sự kiện nào đó trong môi trường sống,

chẳng hạn như khi chúng ta nhớ lại một sự việc đau buồn trong quá khứ và trải

nghiệm cái cảm giác đau buồn ấy thêm một lần nữa.

Trong phần nội dung tiếp theo về những vấn đề liên quan đến cảm xúc,

chúng tôi trình bày các hệ thống phân loại cảm xúc của những nhà nghiên cứu khoa

học, trong đó có quan điểm của các nhà ngôn ngữ học, giới thiệu năm đường hướng

nghiên cứu về cảm xúc trên thế giới, khẳng định tính phổ niệm của cảm xúc trong

các nền văn hóa và mối quan hệ giữa cảm xúc với ngôn ngữ. Đây là những nội dung

liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi quan tâm, đó là ẩn dụ ý

niệm cảm xúc, nhằm làm rõ thêm về mặt lý luận của ý niệm cảm xúc được đề cập

trong luận án.

1.2.1. Phân loại cảm xúc

Việc phân loại cảm xúc nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên

cứu tâm lý học và các liên ngành khác như triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, v.v.

Nhìn chung, những hệ thống phân loại này ít nhiều đề cập đến hai cấp độ của cảm

xúc: cảm xúc chính yếu và cảm xúc thứ yếu. Các thuật ngữ như “cảm xúc chính

yếu” và “cảm xúc cơ sở” đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Hai cấp độ cảm

xúc này có quan hệ mật thiết qua lại lẫn nhau.

Một số nhà nghiên cứu cảm xúc khẳng định cảm xúc chính yếu (cơ sở) có ở

tất cả các loài động vật (bao gồm cả con người), trong khi cảm xúc thứ yếu là những

cảm xúc mà chỉ con người mới trải nghiệm (Rodríguez-Torres, 2005, dẫn lại [135,

35

tr.469]). Những nhà nghiên cứu khác định nghĩa cảm xúc thứ yếu là sự tổng hợp của

những cảm xúc chính yếu (cơ sở), hoặc là sự kết hợp giữa cảm xúc cơ sở và không

cơ sở, hoặc một cảm xúc nào đó không được xem là cơ sở. Một số lý thuyết mô tả

cảm xúc cơ sở là những cảm xúc đơn giản, cơ bản, hoặc phổ quát còn cảm xúc thứ

yếu là một sự phức tạp.

Nhiều nhà tự nhiên học, triết học, xã hội học và tâm lý học trên thế giới đã

cố gắng định nghĩa và phân loại cảm xúc cơ sở. Năm 1896, Charles Darwin khẳng

định rằng có tồn tại cảm xúc cơ sở, chúng là bẩm sinh, có thể phân biệt lẫn nhau, và

được đặc trưng hóa bởi các biểu hiện trên khuôn mặt tương tự nhau qua các nền văn

hóa khác nhau (dẫn theo [135, tr.469-470]).

Nguyên tắc phân loại ở các nhà nghiên cứu không giống nhau, và do đó số

lượng cảm xúc chính yếu (cơ sở) và thứ yếu của từng nhà nghiên cứu đưa ra theo lý

thuyết của họ không như nhau. Chẳng hạn, lý thuyết cảm xúc của nhà tâm lý học

người Mỹ Robert Plutchik vào năm 1962 sử dụng phương pháp tiếp cận hình tròn.

Theo đó, 8 cảm xúc cơ sở gồm: vui, tin cậy, sợ, ngạc nhiên, buồn, chán ghét, giận

và đề phòng được bố trí trên một đường tròn, tạo thành 4 cặp trái ngược nhau khi

chúng được bố trí đối xứng với nhau.

Hình tròn biểu thị 8 loại cảm xúc cơ sở của Robert Plutchik (1962)

Cảm xúc cơ sở kết hợp theo cặp để tạo nên cặp cảm xúc nhất định. Hai cảm

xúc cơ sở liền kề kết hợp để tạo nên những cặp cảm xúc thứ tự bậc một, ví dụ như,

vui + tin cậy = yêu. Hai cảm xúc cách nhau bởi một cảm xúc khác trên vòng tròn

tạo nên những cặp cảm xúc thứ tự bậc hai, ví dụ như, vui + sợ = tội lỗi, v.v.

36

Năm 1971, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Ekman đề xuất 6 loại cảm xúc cơ

sở với biểu cảm nét mặt phổ quát: ngạc nhiên, vui, giận, sợ, chán ghét và buồn.

Ekman đã phân biệt giữa biểu hiện cảm xúc phổ quát chung cho tất cả các nền văn

hóa (đặc biệt là biểu cảm trên khuôn mặt) và các cử động cơ thể khác nhau giữa các

nền văn hóa (chẳng hạn như lắc đầu, gật đầu, khua tay, nói ngắt quãng, v.v) [135,

tr.470]. Lý thuyết của Alan Sroufe về sự phát triển của trẻ con vào năm 1979, chỉ có

3 cảm xúc cơ sở: vui, sợ, và giận. Còn lý thuyết tương tác xã hội của Theodore

David Kemper vào năm 1987 đề xuất 4 cảm xúc cơ sở: sợ, giận, trầm cảm và hài

lòng, khi dựa trên cơ sở sinh lý, xét về mặt tiến hóa rất quan trọng, phổ quát qua các

nền văn hóa, và có mối liên kết với quan hệ xã hội. Cảm xúc thứ yếu, có được thông

qua tương tác xã hội, bao gồm: tội lỗi, xấu hổ, tự hào, biết ơn, yêu, nhớ và buồn

chán. Trong khi đó, lý thuyết của nhà tâm lý học người Mỹ Carroll Izard vào năm

1994 chỉ ra rằng có 11 cảm xúc cơ sở: thích, sợ, giận, coi thường, ngạc nhiên, chán

ghét, xấu hổ, nhút nhát, đau khổ, tội lỗi và quan tâm. Lý thuyết về sự phát triển con

người của Michael Lewis vào năm 2000 đã liệt kê 6 cảm xúc cơ sở dựa vào quy

trình tâm lý tự nhiên xuất hiện ở trẻ sáu tháng tuổi: vui, buồn, chán ghét, giận dữ, sợ

hãi và ngạc nhiên. Các cảm xúc khác không phải là cơ sở như bối rối, ghen tị, tự

hào, xấu hổ và tội lỗi xuất hiện về sau khi đứa trẻ lớn lên (Kemper, 1987, dẫn lại

[135, tr. 470]).

Khi xem xét 21 lý thuyết khác nhau về cảm xúc cơ bản, Tyler Schnoebelen

[138] thống kê 51 cảm xúc khác nhau được thừa nhận là cơ bản. Các nhà nghiên

cứu thường nói về 6 cảm xúc cơ bản, mặc dù trên thực tế số lượng này thay đổi theo

từng nhà nghiên cứu, nhưng số lượng cảm xúc cơ bản bình quân dựa trên 21 nghiên

cứu mà tác giả đã xem xét là trong khoảng 10 cảm xúc. Những cảm xúc phổ biến

nhất gồm có: Giận / thịnh nộ / thù nghịch (xuất hiện trong 18 lý thuyết), Sợ / sợ hãi /

hoảng sợ (17), Niềm vui / hạnh phúc / hưng phấn / thích (14), Nỗi buồn / đau buồn /

đau khổ / chán nản (14), Chán ghét (12), Xấu hổ (9), Tình yêu / cảm xúc nhẹ nhàng

(8), Bồn chồn / lo lắng (7), Ngạc nhiên (7), Tội lỗi (6).

37

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu về cảm xúc đã xem xét sự tương đồng giữa

cảm xúc và việc biểu thị cảm xúc giữa các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau.

Trong lúc vẫn còn nhiều tranh cãi về những gì tạo nên cảm xúc cơ sở và thứ yếu thì

phần đông các nhà nghiên cứu xuyên văn hóa đồng thuận rằng có bốn loại cảm xúc

phổ quát cơ sở: vui, sợ, giận, buồn (Smith và Schneider, 2009, dẫn lại [135, tr.470]).

Đứng về góc độ nghiên cứu ngôn ngữ có quan hệ với cảm xúc, các nhà ngôn

ngữ học cũng đưa ra tiêu chí về phân loại cảm xúc. Chẳng hạn, nhà ngôn ngữ học

Kövecses [103], khi nghiên cứu về ngôn ngữ biểu đạt cảm xúc, đã dùng một khung

tri nhận ngôn ngữ dựa trên các nghiên cứu truyền thống của thập niên 80 và đầu

thập niên 90 của thế kỷ XX thông qua tác phẩm của các học giả tiêu biểu như

George Lakoff ([108], [109]), Ronald Langacker ([118]; [119]), Mark Johnson [96],

Mark Turner [148], Eve Sweetser [144], Gibbs và Colston [82]. Các ý niệm cảm

xúc đã thu hút sự chú ý của các học giả khác nhau trong lĩnh vực này gồm giận, sợ,

vui, buồn, yêu, ham muốn, tự hào, xấu hổ và ngạc nhiên. Kövecses dùng bộ khái

niệm này như mẫu đại diện tương đối tiêu biểu cho các ý niệm cảm xúc.

Trong mối quan tâm về phân loại cảm xúc để từ đó xem xét tính tương quan

giữa cảm xúc với ngôn ngữ biểu thị cảm xúc, chúng tôi nhận thấy một số công trình

nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học về phạm trù cảm xúc cũng có đề cập đến việc

phân loại cảm xúc theo quan điểm của người Việt, mà tiêu biểu là nhà nghiên cứu

Trần Văn Cơ [7]. Theo ông, tiếng Việt có cách phân loại cảm xúc một cách độc đáo

phản ánh kiểu phạm trù hóa thế giới cảm xúc của người Việt bằng cách dùng hai từ

niềm và nỗi. Đây vốn là hai danh từ, nhưng chúng có thể thực hiện chức năng phân

loại và được gọi là loại từ, hay một số nhà ngôn ngữ khác gọi là danh từ đơn vị tự

nhiên chỉ cảm xúc. Theo đó, từ nỗi thường nêu lên sắc thái “không hay” của cảm

xúc, “thường vào loại không được như ý muốn”. Chẳng hạn như, nỗi ám ảnh, nỗi

buồn, nỗi căm ghét, nỗi đau, nỗi sầu, nỗi nhục, nỗi xúc động, v.v. Từ niềm thường

nêu lên sắc thái cảm xúc “thường vào loại hợp ý muốn”. Ví dụ như niềm ao ước,

niềm vui, niềm yêu thương, niềm đam mê, niềm hy vọng, niềm hứng thú, niềm lạc

quan, v.v. [7, tr.169-170]. Nguyễn Thị Thuận [46] cũng có nhận định tương tự như

38

Trần Văn Cơ khi đề cập đến khuynh hướng danh hóa của hai từ nỗi và niềm. Nỗi và

niềm rất ít dùng độc lập như một từ, nhưng cả hai thường xuất hiện trong các tổ hợp

với động từ, cụ thể là những động từ trạng thái, ví dụ như niềm vui, niềm tin, nỗi sợ,

nỗi đau, v.v. Nỗi thường danh hóa cho những động từ chỉ trạng thái tình cảm tiêu

cực (buồn, giận, đau, sợ), trong khi niềm thường danh hóa cho những động từ chỉ

trạng thái tình cảm tích cực (tin, vui). Nỗi và niềm thường kết hợp với động từ thể

hiện tình cảm hay cảm xúc bộc phát trước một hành động, phẩm chất đặc biệt nào

đó.

Về mặt giá trị tri nhận, Trần Văn Cơ cho rằng cách phân loại cảm xúc với từ

niềm và nỗi về đại thể cho chúng ta hai lớp cảm xúc nằm ở hai cực: cảm xúc dương

tính (hay tích cực) đi với từ niềm và cảm xúc âm tính (hay tiêu cực) đi với từ nỗi.

Giữa hai cực đó là những cảm xúc tùy theo hoàn cảnh mà có thể có xu hướng tích

cực hoặc tiêu cực [7, tr.172]. Nguyễn Thị Thuận [46, tr.3] thì đưa ra nhận định rằng

những tổ hợp danh từ với nỗi, niềm thực thể hóa những trạng thái tình cảm của con

người tuân theo chu kỳ: xuất hiện, tăng cường đến một mức độ nào đó tùy theo từng

lần xuất hiện, giảm dần rồi tiêu biến. Những trạng thái tình cảm ấy được người Việt

tri nhận như sự xuất hiện và biến mất của các thực thể. Và khi đã coi chúng như

những thực thể, người ta có thể gắn vào nó những đặc tính vật chất trừu tượng: nó

có dung lượng, kích thước (có thể nói nỗi buồn lớn, niềm vui nho nhỏ…), nó được

định vị trong không gian trừu tượng (có thể nói nỗi buồn trong lòng, nỗi đau trong

tim…).

1.2.2. Các đường hướng nghiên cứu về cảm xúc

Con người có thể cảm nhận các loại cảm xúc theo trực giác, nhưng sự phức

tạp của cảm xúc làm cho con người khó xác định chúng. Nhiều nhà nghiên cứu cố

gắng xác định bản chất của cảm xúc, sự khác biệt giữa cảm xúc với tri nhận và quy

trình đo lường cảm xúc thông qua quan sát não bộ và cơ thể con người. Một số nhà

nghiên cứu theo quan điểm phương Tây truyền thống cho rằng “cảm xúc là vật

chất”, và “cảm xúc là thực thể tự nhiên” (Lutz, 1986, dẫn lại [67, tr.16]). Một số nhà

nghiên cứu có quan điểm thực nghiệm đối với cảm xúc, như Salomon lại cho rằng

39

cảm xúc là “nhu cầu cần quan sát và là một cái gì đó có thể đo lường” (Salomon,

2003, dẫn lại [67, tr.16]).

Cảm xúc là một địa hạt nghiên cứu thu hút các nhà khoa học thuộc nhiều

trường phái, quan điểm khác nhau. Những nhà nghiên cứu theo quan điểm Sinh học

thần kinh cho rằng các hệ thống sinh học thần kinh làm trung gian cho những cảm

xúc cơ sở như giận, sợ, ngạc nhiên, buồn, vui, chán ghét được hình thành về mặt di

truyền mã hóa, nhưng các mạch điều khiển rất tinh vi nằm ở khu vực dưới vỏ não

(đặc biệt là vỏ não trước trán), có thể điều phối các quá trình về hành vi, sinh lý và

tâm lý. Các quá trình này cần phải được sắp xếp lại nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại

của cá thể và cung cấp cho cá thể ấy các giá trị cơ bản để điều khiển hành vi của

bản thân. (Panksepp, 1998, 2003, dẫn lại [67, tr.16]).

Theo quan điểm Tâm lý -Văn hóa học, cảm xúc được nghiên cứu về khía cạnh

bản ngã và khả năng lệ thuộc vào các nền văn hóa. Đối với những người có bản ngã

độc lập, sự biểu cảm được thể hiện mạnh mẽ bằng cảm xúc nội tâm như buồn, giận

và sợ. Tuy nhiên, đối với những người có bản ngã lệ thuộc vào nhau, sự biểu cảm

thường được xem là một hành động mang tính cộng đồng mà hành động này có thể

liên quan hoặc không liên quan trực tiếp đến những cảm xúc bên trong. Chẳng hạn

ở xã hội phương Tây, việc biểu hiện sự giận dữ có thể được chấp nhận, thì trong xã

hội Nhật Bản, sự biểu hiện giận dữ một cách công khai và thể hiện thông qua lời nói

được xem là thiếu chín chắn và có tính trẻ con. (Markus và Kitayama, 1991, dẫn lại

[67, tr.19]).

Một cách tiếp cận khác đó là hướng nghiên cứu theo quan điểm kiến tạo xã

hội. Nhà nghiên cứu người Mỹ Averill đề xuất rằng “hãy đặt những cảm xúc vào hệ

phân tầng của hệ thống hành vi” (Averill, 1982, dẫn lại [67, tr.19]). Ông cho rằng

cảm xúc có thể được thiết lập theo hệ thống xã hội, nghĩa là tạo nên hệ thống phụ

của hành vi. Các hệ thống phụ này bao gồm các yếu tố như những thay đổi sinh lý,

những phản ứng biểu cảm, những phản ứng có điều kiện, và những cảm xúc chủ

quan.

40

Ngôn ngữ học hệ thống chức năng quan tâm đến cảm xúc bằng lý thuyết

thẩm định, một cách tiếp cận chức năng liên nhân của ngôn ngữ [124]. Theo đó, nội

dung lý thuyết cho rằng cảm xúc được tạo nên từ việc thuyết minh và giải thích của

con người về hoàn cảnh của họ ngay cả trong trường hợp không có sự kích thích

sinh lý. Có hai phương pháp cơ bản: phương pháp cấu trúc và phương pháp quá

trình, theo đó phương pháp cấu trúc quan tâm đến ngôn ngữ về cảm xúc, nghĩa là

những từ ngữ biểu thị cảm xúc như yêu, thù hận, vui, đố kỵ, buồn, điên, cảm kích,

chán ghét…, còn phương pháp quá trình quan tâm đến ngôn ngữ như là cảm xúc,

nghĩa là ngôn ngữ được coi như là sự phản ánh về cảm xúc của người nói, bao gồm

cả lời nói và cử chỉ (Grondelaers và Geeraerts, 1998, dẫn lại [62, tr.10]).

Phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận xác định đối tượng nghiên

cứu là những từ ngữ đề cập đến cảm xúc, còn gọi là “từ vựng cảm xúc”. Cách tiếp

cận này xem xét việc ý niệm hóa cảm xúc (chẳng hạn bằng lược đồ cảm xúc), tính

phổ niệm của cảm xúc, nguồn gốc của các từ ngữ trong ngôn ngữ biểu thị cảm xúc,

và mối quan hệ giữa cảm xúc và lớp ngôn ngữ miêu tả chúng. Hướng nghiên cứu

này đôi khi được gọi là ngành nghiên cứu cảm xúc học.

Ngôn ngữ học tri nhận không bác bỏ tư tưởng cho rằng cảm xúc có cơ sở về

mặt sinh lý. Thay vào đó, nó lập luận rằng mặc dù ngành tâm lý học thần kinh đã

đạt được sự tinh tế về mặt kỹ thuật trong nghiên cứu cảm xúc con người, nhưng các

nhà nghiên cứu dường như chưa tận dụng triệt để ngôn ngữ bản địa, tức là những

ngôn ngữ cụ thể để nghiên cứu cảm xúc xét theo bản chất tri nhận của con người

trên bình diện ngôn ngữ và văn hóa. Do đó, ngành tâm lý học thần kinh “giống như

một con ếch trong cái giếng nước, không thể nhảy ra khỏi cái giếng nước ấy mà chỉ

thấy các vòng tròn nhỏ trên bầu trời của mình, tưởng tượng nó chính là toàn bộ thế

giới” [152, tr.359].

Những nhà nghiên cứu tiếng Anh có thể quên rằng các bức tường của giếng

nước ấy được xây dựng bởi những viên gạch của các giá trị ngôn ngữ bản địa Anh.

Wierzbicka và Harkins [151] chấp nhận là có khả năng tồn tại một trải nghiệm cơ

bản của con người giống như cảm xúc giận, nhưng sẽ là sai lầm khi tuyên bố rằng

41

một trải nghiệm như vậy là hoàn toàn tương đương với từ giận trong tiếng Anh,

được dịch tương đương hoặc bằng từ đồng nghĩa với nó trong ngôn ngữ khác. Hai

nhà khoa học này cũng chỉ ra sự thay đổi vốn có trong phản ứng tình cảm giữa con

người trong những hoàn cảnh tương tự, chẳng hạn một người có thể thấy sự việc

này vô hại nhưng người khác có thể xem việc ấy là nguy hại. Một cá nhân có thể có

những phản ứng khác nhau về cùng một sự việc vào những thời điểm khác nhau.

Hơn nữa, cách cảm xúc được thể hiện là rất khác nhau: “Người ta có thể đỏ mặt vì

bực bội, giận dữ và hét lên trong trường hợp này và có thể biến sắc, vô cảm và lạnh

lùng trong trường hợp khác” [151, tr.2]. Thật khó kết luận một cách rõ ràng rằng

liệu mô hình thần kinh có tương tự nhau trong cả hai trường hợp nêu trên hay

không, nhưng sự thay đổi về biểu thị cảm xúc này có liên quan đến các yếu tố xã

hội và văn hóa.

Từ những hướng tiếp cận khi nghiên cứu cảm xúc trên đây, chúng tôi chọn

quan điểm ngôn ngữ học tri nhận làm hướng tiếp cận chính cho nghiên cứu của

chúng tôi về ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với thành

ngữ tiếng Anh tương ứng). Quan điểm ngôn ngữ học tri nhận được lựa chọn vì nó

giúp giải mã được những vấn đề của ngôn ngữ liên quan đến cảm xúc, phù hợp với

đối tượng nghiên cứu của luận án là thành ngữ biểu thị cảm xúc.

1.2.3. Tính phổ niệm của cảm xúc trong các nền văn hóa

Nhà ngôn ngữ học Wierzbicka [150] đã tiến hành khảo sát một số “phổ niệm

cảm xúc” từ việc nghiên cứu ngôn ngữ học và dân tộc học về ngôn ngữ và các nền

văn hóa khác nhau. Một số phổ niệm tuy có lý luận cơ sở nhưng hầu hết chỉ mang

tính giả thuyết. Tác giả nêu lên các phổ niệm cảm xúc cụ thể như sau:

1) Tất cả các ngôn ngữ đều có một từ biểu thị ý niệm “cảm thấy” (“feel”).

2) Trong tất cả các ngôn ngữ, một số cảm xúc có thể được mô tả là “tốt” và một

số được mô tả “xấu” (trong khi một số cảm xúc có thể được coi là không

phải “tốt” hay không phải “xấu”).

42

3) Tất cả các ngôn ngữ đều có từ ngữ tương đương, mặc dù không nhất thiết

phải giống hệt nhau về ý nghĩa, như từ khóc (cry) và cười (smile), đó là

những từ ngữ đề cập đến biểu hiện cơ học của cảm xúc tốt và xấu.

4) Trong tất cả các nền văn hóa, con người dường như gán một số cử chỉ trên

khuôn mặt với một trong hai cảm xúc tốt và xấu; đặc biệt, người ta gán biểu

hiện khóe miệng nhếch lên với cảm xúc tốt, trong khi khóe miệng chùng

xuống hoặc nhăn mũi có thể được liên tưởng đến cảm xúc xấu.

5) Tất cả các ngôn ngữ đều có những “thán từ cảm xúc”.

6) Tất cả các ngôn ngữ có một số “thuật ngữ cảm xúc”, tức là từ ngữ chỉ định

một số cảm xúc.

7) Trong tất cả các ngôn ngữ, người ta có thể mô tả cảm xúc dựa trên tri nhận

thông qua “các triệu chứng” khi quan sát cơ thể, nghĩa là, thông qua một số

biểu hiện của cơ thể được coi là đặc trưng của những cảm xúc này.

8) Trong tất cả các ngôn ngữ, cảm xúc có thể được miêu tả bằng các giác quan

của cơ thể.

9) Trong tất cả các ngôn ngữ, cảm xúc dựa trên tri nhận có thể được mô tả

thông qua hình tượng cơ thể mang tính ước lệ.

[150, tr.275-276]

Trên cơ sở so sánh đối chiếu với ngôn ngữ Việt, chúng tôi nhận thấy các luận

điểm nêu trên của Wierzbicka về tính phổ niệm của cảm xúc phản ánh rõ nét những

đặc trưng ngôn ngữ cảm xúc của tiếng Việt. Ở các chương tiếp theo của luận án,

chúng tôi sẽ trình bày và phân tích một cách cụ thể nguồn ngữ liệu là thành ngữ

biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt (có so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng)

dựa trên các luận điểm này của Wierzbicka [150].

1.2.4. Mối quan hệ giữa cảm xúc với ngôn ngữ

Nhằm biểu thị cảm xúc một cách đa dạng, cụ thể rõ ràng hơn thì sự biểu hiện

nét mặt và các phản ứng cơ thể là chưa đủ. Chúng ta còn phải dùng phương tiện

ngôn ngữ nhằm đạt hiệu quả cao trong giao tiếp ứng xử nhằm truyền đạt và biểu

hiện cảm xúc của chúng ta. Tuy nhiên, mỗi dân tộc sẽ có cách thức biểu đạt riêng

43

cho cùng một cảm xúc phổ quát thông qua ngôn từ đặc trưng của dân tộc đó, vì theo

Hữu Đạt [14, tr.61] thì một trong các đặc trưng của văn hóa dân tộc được bộc lộ qua

con đường hình thành ngữ nghĩa từ vựng của từ chính là cách thức tri nhận thế giới

ở mỗi cộng đồng ngôn ngữ khác nhau sẽ có chỗ khác nhau; đặc biệt là loại nghĩa ẩn

dụ, một kiểu nghĩa vốn thường hay được dùng trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên

và phong cách thi ca. Với loại nghĩa này, ở mỗi giai đoạn lịch sử, quá trình biểu

tượng hóa lại có những quy luật riêng mang tính đặc thù ngoài cái nền chung của

văn hóa truyền thống dân tộc.

1.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc

Cách thức ý niệm hóa ẩn dụ cảm xúc đã nhận được sự quan tâm của các nhà

nghiên cứu trong lĩnh vực ngôn ngữ học tri nhận (xem Kövecses ([97], [98], [100],

[101], [102], [103], [105]); Kövecses, Palmer và Dirven [106]; Lakoff ([108],

[111]); Barcelona [61]; Niemeier [134]; Apresjan [59]; Yu [153], v.v.). Mặc dù còn

một số khác biệt về quan điểm nghiên cứu, nhưng các nhà ngôn ngữ học tri nhận

đều nhất trí rằng các ý niệm cảm xúc mà con người sử dụng trong các nền văn hóa

khác nhau trên thế giới được cấu trúc hóa và thông hiểu nhau ở khía cạnh ẩn dụ.

Hơn nữa, những nhà nghiên cứu này chứng minh một cách thuyết phục rằng ngôn

ngữ cảm xúc được sử dụng trong các nền văn hóa khác nhau phần lớn mang tính ẩn

dụ.

Để phục vụ cho mục tiêu của luận án là khảo sát ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong

thành ngữ tiếng Việt trong thế so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng, giới hạn

năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu, chúng tôi trình bày ba cách phân loại ẩn

dụ ý niệm cảm xúc, hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc và các mô hình ẩn dụ cảm xúc,

trong đó có hệ thống ẩn dụ tổng loại CẤU TRÚC SỰ KIỆN, lý thuyết lược đồ hình

ảnh và các miền nguồn ánh xạ vào miền đích cảm xúc. Chúng tôi sẽ lựa chọn bộ

khung lý thuyết ẩn dụ ý niệm cảm xúc để dựa vào đó tiến hành khảo sát và phân

tích đặc điểm ẩn dụ ý niệm năm loại cảm xúc nêu trên trong thành ngữ tiếng Việt và

tiếng Anh.

44

1.3.1. Phân loại ẩn dụ ý niệm cảm xúc

Mối quan hệ ánh xạ giữa miền nguồn và miền đích có thể được dùng để phân

biệt các thể loại khác nhau của mô hình ẩn dụ. Một kiểu phân loại ẩn dụ ý niệm

được Lakoff và Johnson [113] giới thiệu nhằm phân biệt ba loại ẩn dụ theo chức

năng tri nhận của chúng: ẩn dụ định hướng, ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể. Cần

nói thêm rằng trong quá trình giới thiệu và phân tích ba loại ẩn dụ ý niệm này với

những phạm trù phổ quát, Lakoff và Johnson đồng thời kiến tạo một tiểu phạm trù

tương ứng, đó là phạm trù cảm xúc thông qua ví dụ minh họa là những mô hình ẩn

dụ ý niệm cảm xúc. Cho nên, có thể nói hai ông là những nhà ngôn ngữ học đầu tiên

phân loại ẩn dụ ý niệm cảm xúc. Chúng ta hãy xem xét các loại ẩn dụ cảm xúc khác

nhau do hai ông đề xuất.

Loại ẩn dụ thứ nhất được giới thiệu là ẩn dụ định hướng. Những phép ẩn dụ

ý niệm sau đây thuộc về nhóm này: VUI LÀ LÊN và BUỒN LÀ XUỐNG. Miền

nguồn của chúng được cấu thành bởi các ý niệm về không gian LÊN và XUỐNG

[113, tr.15-17]. Các ví dụ sau đây phản ánh ẩn dụ định hướng nêu trên:

(16) She is on top of the world.

(Cô ấy ở trên đỉnh của thế giới / Cô ấy rất vui.)

(17) I have been down in the dumps for the past few days.

(Tôi đã như (rơi) xuống hố rác trong mấy ngày qua/ Tôi đã buồn ủ rũ

trong mấy ngày qua.)

Định hướng lên của niềm vui và định hướng xuống của nỗi buồn trong hai

mô hình ẩn dụ VUI LÀ LÊN và BUỒN LÀ XUỐNG có một cơ sở vật lý: tư thế

ưỡn thẳng người lên thường xuất hiện khi người ta cảm thấy vui, trong khi tư thế rũ

người xuống thường thấy khi người ta có cảm giác buồn. Nói rộng ra, theo

McMullen và Conway [127], ẩn dụ phổ biến HƯỚNG LÊN hay ĐI LÊN còn liên

quan đến nhận thức (ví dụ: He's an early riser – Anh ta là người có nhận thức sớm),

đến sức khỏe (ví dụ: She's in peak physical condition – Cô ấy ở trong tình trạng thể

lực đỉnh cao), đến quyền lực và sức mạnh (ví dụ: He's at the top of the ladder – Anh

ấy ở đỉnh cao của danh vọng), và đến tư cách đạo đức (ví dụ: She's an upstanding

45

citizen – Cô ấy là một người công dân thẳng thắn / trung thực). Trái lại, ẩn dụ phổ

biến HƯỚNG XUỐNG hay ĐI XUỐNG lại có liên quan không chỉ với nỗi buồn

hay phiền muộn mà còn với trạng thái bất tỉnh (ví dụ: She fell into a coma – Cô ấy

rơi vào tình trạng hôn mê), với bệnh tật (ví dụ: His health is declining – Sức khỏe

của anh ta đang tuột dốc), với hấp hối (ví dụ: She's very low – (sức khỏe) cô ấy

đang cạn dần), với cái chết (ví dụ: She dropped dead – Cô ấy gục chết), với vị trí

thấp kém (ví dụ: He's at the bottom of the heap – Anh ta ở dưới đáy của xã hội), với

cái nghèo (ví dụ: She's lower class – Cô ấy thuộc giai tầng thấp kém), và với sự

thiếu đức hạnh (ví dụ: That was a low-down thing to do – Đó là một việc thấp hèn

nếu phải làm). Nói tóm lại, HƯỚNG LÊN thì tiêu biểu cho những điều thỏa đáng và

tốt đẹp, trong khi đó HƯỚNG XUỐNG thì tiêu biểu cho những điều đáng chê trách

và xấu xa [127, tr.174].

Bên cạnh đó, Lakoff và Johnson [113] tiếp tục phân tích một tập hợp thứ hai

gọi là ẩn dụ cấu trúc. Ẩn dụ cấu trúc đề cập đến một loại ẩn dụ mà trong đó ý niệm

này được hiểu và trình bày theo một cấu trúc của ý niệm khác một cách rõ ràng hơn.

Với sự hỗ trợ của ẩn dụ cấu trúc, chúng ta có thể sử dụng các từ ngữ liên quan đến

một ý niệm này để nói về ý niệm khác. Chẳng hạn, CHIẾN TRANH là một ý niệm

cụ thể được ánh xạ vào miền đích trừu tượng TÌNH YÊU thông qua phép ẩn dụ cấu

trúc được thể hiện trong ví dụ sau đây:

(18) She would do anything to win his love. (Cô sẽ làm bất cứ điều gì để

giành lấy tình yêu của anh ấy.)

(19) He is known for his many rapid conquests. (Anh ấy được biết đến nhờ

vào tài chinh phục tình cảm của mình.)

Ý niệm trừu tượng TÌNH YÊU được nói đến theo cấu trúc ý niệm cụ thể

CHIẾN TRANH, thể hiện qua từ ngữ biểu thị chiến tranh như giành lấy (win),

chinh phục (conquest).

Loại ẩn dụ thứ ba mà Lakoff và Johnson [113] đề cập là ẩn dụ bản thể. Theo

đó, cảm xúc được mô tả bằng thực thể vật chất cụ thể. Nói cách khác, ý niệm cảm

xúc trừu tượng được bản thể hóa (hay còn gọi vật thể hóa) nhờ vào tri giác của con

46

người. Con người là những sinh vật hữu hình, được giới hạn và ngăn cách với phần

còn lại của thế giới nhờ vào bề mặt da, và con người có những trải nghiệm với phần

thế giới bên ngoài cơ thể. “Mỗi người chúng ta được ví như vật chứa, với bề mặt

được bao phủ bằng định hướng nội biên-ngoại vi. Chúng ta ánh xạ định hướng nội

biên-ngoại vi vào đối tượng vật chất khác được giới hạn bởi các bề mặt” [113,

tr.29]. Vì vậy, chúng ta cũng xem những đối tượng vật chất ấy như là vật chứa có cả

phần nội biên và phần ngoại diên. Hãy xem xét các ví dụ sau:

(20) He fell into a depression. (Ông ta rơi vào tình trạng trầm cảm.)

(21) She fell in love with him. (Cô ấy đã rơi vào bể tình với anh ấy / Cô ấy đã

phải lòng anh ấy.)

(22) He did it out of anger. (Ông ta làm việc đó do quá tức giận.)

Trong các ví dụ trên, trầm cảm (depression), bể tình (love), tức giận (anger)

đều là những ý niệm trừu tượng được xem như ý niệm cụ thể có ranh giới nếu xét

về khía cạnh ẩn dụ.

Nói chung, việc phân loại của Lakoff và Johnson đóng góp rất nhiều vào tri

thức của chúng ta để phân biệt các nhóm ẩn dụ ý niệm cảm xúc khác nhau.

Một kiểu phân loại ẩn dụ ý niệm khác được Barcelona [61] giới thiệu và

trình bày. Ông cho rằng có hai loại ẩn dụ cảm xúc khác nhau khi tiến hành phân tích

phép ẩn dụ trầm cảm: ẩn dụ tri giác và ẩn dụ cấu trúc. Chúng ta có thể nhận thấy

rằng sự phân loại cảm xúc ẩn dụ của Barcelona có khác so với phân loại của Lakoff

và Johnson ở chỗ Barcelona xếp ẩn dụ định hướng và ẩn dụ bản thể vào loại ẩn dụ

tri giác. Những phép ẩn dụ tri giác ánh sáng (VUI LÀ SÁNG, BUỒN LÀ TỐI) và

ẩn dụ tri giác nhiệt độ (VUI LÀ ẤM, BUỒN LÀ LẠNH) cũng được đặt trong cùng

một nhóm. Theo Barcelona, những ẩn dụ này được kiến tạo từ kinh nghiệm tri giác

của chúng ta.

Apresjan [59] đề xuất một sự phân loại khác về ẩn dụ cảm xúc. Tác giả phân

biệt ba loại ẩn dụ: ẩn dụ sinh lý, ẩn dụ tri nhận và ẩn dụ văn hóa. Ba loại ẩn dụ này

khác nhau ở ít nhất hai khía cạnh: một là hiện tượng hình thành các miền nguồn cho

47

mô hình ánh xạ ẩn dụ, và hai là loại mô hình ánh xạ diễn ra. Dưới đây chúng tôi

lược thuật từng loại ẩn dụ theo phân loại của Apresjan.

Loại ẩn dụ sinh lý được cấu thành bởi những ẩn dụ cảm xúc như GIẬN LÀ

NHIỆT, SỢ LÀ LẠNH, GHÊ TỞM LÀ CẢM THẤY BỆNH, v.v. Các miền nguồn

dành cho ẩn dụ loại này có các đặc trưng sau:

a) Các phản ứng sinh lý xảy ra tức thì không kiểm soát được, và các trạng

thái sinh lý này thường tồn tại trong thời gian ngắn;

b) Chúng thường hữu hình hoặc có thể dễ dàng cảm nhận được nếu quan sát;

c) Chúng cụ thể và đặc trưng cho một loại cảm xúc, hoặc ít nhất, chúng có

những biểu hiện nổi bật nhất. Việc ánh xạ của loại ẩn dụ này được thực hiện trong

điều kiện sinh lý, nghĩa là, ẩn dụ được căn cứ trên một số điểm tương đồng về mặt

sinh lý. Ví dụ, trong ẩn dụ SỢ LÀ LẠNH, nỗi sợ được quan niệm như là lạnh vì

thực tế cho thấy phản ứng của cơ thể đối với nỗi sợ cũng giống như phản ứng của

cơ thể đối với lạnh (run rẩy, tê buốt tạm thời, xanh xao, v.v.).

Loại ẩn dụ tri nhận có những mô hình ẩn dụ điển hình như ĐAU KHỔ LÀ

GÁNH NẶNG, ĐAU KHỔ LÀ CHẾT, ĐAU KHỔ LÀ BỆNH TẬT và TÌNH

YÊU/ NIỀM VUI LÀ NGỌT, v.v. Ngay cả trong trường hợp này, các miền nguồn

của những mô hình ẩn dụ này được hình thành bởi những cảm giác sinh lý khác

nhau. Tuy nhiên, những cảm giác như gánh nặng, đau khổ, chết chóc, bệnh tật, ngọt

ngào, v.v. được lựa chọn ngẫu nhiên và không phải là hiện thực hóa của những cảm

xúc mà những cảm giác này được ánh xạ đến nếu xét về khía cạnh ẩn dụ. Ngược lại,

những cảm giác trong các miền nguồn của ẩn dụ sinh lý là những hiện thực hóa cơ

thể mang tính bắt buộc của cảm xúc. Ví dụ, trong mô hình ẩn dụ ĐAU KHỔ LÀ

BỆNH TẬT, đau khổ không được ý niệm hóa bằng các phản ứng sinh lý thực tế

thường xảy ra với loại cảm xúc này. Theo kinh nghiệm của chúng ta, đau khổ không

tương ứng với tình trạng tê buốt cơ thể hoặc bệnh tật. Tuy nhiên, cảm xúc này lại

được hiểu nhờ vào ý niệm bệnh tật. Theo Apresjan, các ánh xạ trong ẩn dụ này

được dựa trên mối tương liên giữa bệnh tật và đau khổ xét về mặt tri nhận. Mô hình

ẩn dụ ĐAU KHỔ LÀ BỆNH TẬT so sánh tác động của nỗi đau lên tâm trạng con

48

người với tác động của bệnh tật lên cơ thể con người. Bên cạnh đó, trải nghiệm cảm

xúc đau khổ và trải nghiệm bệnh tật của cơ thể dường như có chung một chiều

hướng, đó là cả hai đều là những sự việc xấu. Nói chung, cả miền nguồn và miền

đích trong ẩn dụ tri nhận này được cho là tương đương ở chỗ chúng cùng được đánh

giá hoặc tích cực hoặc tiêu cực.

Những miền nguồn trong loại ẩn dụ văn hóa không tạo thành một nhóm

đồng nhất. Nhóm này được hình thành bởi những mô hình ẩn dụ như VUI LÀ

SÁNG, GIẬN LÀ TỐI, v.v. Các ánh xạ giữa miền nguồn và miền đích dường như

dựa vào ý nghĩa văn hóa cụ thể. Ví dụ, trong các phép ẩn dụ nêu trên, các ý niệm

vật lý của ánh sáng và bóng tối được ánh xạ lên niềm vui và cơn giận tương ứng.

Theo Apresjan, nói chung, có một mối liên kết về mặt tinh thần tồn tại giữa cảm xúc

tích cực với ánh sáng, và cảm xúc tiêu cực với bóng tối. Việc ý niệm hóa như vậy

có nguồn gốc cho rằng trong nhiều cộng đồng, về mặt văn hóa, ánh sáng được liên

hệ đến lòng tốt, trong khi đó bóng tối lại có hàm nghĩa về cái ác.

1.3.2. Hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc và các mô hình ẩn dụ ý niệm hữu

quan

Trong nội dung này, chúng tôi lần lượt trình bày hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm

xúc có quan hệ với đối tượng nghiên cứu của luận án và các mô hình ẩn dụ ý niệm

hữu quan, bao gồm lý thuyết lược đồ hình ảnh và ẩn dụ vật chứa.

1.3.2.1. Hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc

Theo các nhà nghiên cứu tri nhận, ẩn dụ ý niệm có thể chia thành hai cấp độ:

ẩn dụ cấp độ tổng loại hay ẩn dụ gốc và ẩn dụ cấp độ cụ thể. Ẩn dụ cấp độ tổng

loại xuất phát từ những trải nghiệm mang tính chủ quan của con người, phần lớn là

vô thức, ví dụ như ẩn dụ CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA hay ẩn dụ TRẠNG THÁI LÀ

VỊ TRÍ. Những ẩn dụ cấp độ tổng loại này kích hoạt nhiều mô hình ẩn dụ cụ thể

hơn, chẳng hạn như ẩn dụ TRÍ ÓC LÀ VẬT CHỨA. Ẩn dụ cấp độ cụ thể này cho

thấy chúng ta ý niệm hóa trí óc như là một khoảng không gian được giới hạn với

những ý thức và những ý tưởng được định vị trong các hoạt động tinh thần như khi

chúng ta chuyển dịch bên trong hay vào trong khoảng không gian này. Vì các ẩn dụ

49

cấp độ tổng loại xuất phát trực tiếp từ trải nghiệm và trong một số trường hợp, từ

trải nghiệm của cơ thể về thế giới được loài người chia sẻ cho nên chúng hầu như

mang tính phổ quát hơn so với những ẩn dụ cấp độ cụ thể. Lakoff và Johnson [113]

khẳng định rằng nhiều ẩn dụ cấp độ tổng loại mang tính phổ quát bởi vì, về mặt cơ

bản, mọi người có cơ thể và bộ óc giống nhau và sống trong môi trường tương tự

nhau. Những ẩn dụ cấp độ cụ thể được tạo thành từ những ẩn dụ cấp độ tổng loại và

từ việc tận dụng các khung ý niệm dựa vào văn hóa. Vì chúng tận dụng những

thông tin có tính văn hóa cho nên chúng có thể khác nhau từ nền văn hóa này sang

nền văn hóa khác.

Kövecses [105, tr.151] cho rằng hiện nay có hai hệ thống ẩn dụ lớn: hệ thống

ẩn dụ CHUỖI LỚN SINH THỂ (The GREAT CHAIN OF BEING metaphor) và hệ

thống ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN (The EVENT STRUCTURE metaphor). Theo

đó, hệ thống ẩn dụ CHUỖI LỚN SINH THỂ giúp giải thích cách thức mà các vật

thể hay sự vật trên thế giới được ý niệm hóa về phương diện ẩn dụ. Lakoff và

Turner [117] là hai nhà khoa học đầu tiên đã đề xuất khái niệm hệ thống ẩn dụ

CHUỖI LỚN SINH THỂ trong ngôn ngữ học tri nhận. Hai ông cho rằng hệ thống

ẩn dụ CHUỖI LỚN SINH THỂ được kiến tạo dựa trên một niềm tin phổ biến rằng

con người, động vật, cây cỏ, vật thể mà chúng ta nhìn thấy hằng ngày trong cuộc

sống chung quanh chúng ta có thể được sắp xếp theo tôn ti thứ bậc từ đơn giản đến

phức tạp hoặc ngược lại. Mỗi cấp độ có những đặc tính riêng biệt, được xếp đặt theo

một cách thức sao cho những sinh thể ở cấp độ cao hơn có chung những đặc tính

của sinh thể ở cấp độ thấp hơn, nhưng không theo chiều ngược lại. Lakoff và Turner

[113] đưa ra mô hình hệ thống ẩn dụ CHUỖI LỚN SINH THỂ như sau:

- CON NGƯỜI: có những thuộc tính và hành vi cấp cao (ví dụ như suy nghĩ,

tính cách, v.v.).

- ĐỘNG VẬT: có những thuộc tính và hành vi theo bản năng.

- CÂY CỎ: có những thuộc tính và hành vi thuộc về sinh học.

- VẬT THỂ PHỨC TẠP: có những thuộc tính mang tính cấu trúc và hành vi

chức năng.

50

- VẬT CHẤT TRONG TỰ NHIÊN: có những thuộc tính và hành vi thuộc về

vật chất trong tự nhiên.

Trong mô hình này, con người có bản năng động vật, nhưng động vật không

có tính cách như con người; động vật có thuộc tính sinh học như hô hấp, còn cây cỏ

không có bản năng của động vật như đói ăn khát uống chẳng hạn, v.v.

Trong khi đó, hệ thống ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN giúp miêu tả cách thức

mà các sự kiện nói chung, và các sự kiện được xem như là sự thay đổi trạng thái nói

riêng, trên thế giới được hiểu theo phương diện ẩn dụ. Các nhà ngữ pháp học tri

nhận đã đề xuất rằng các phạm trù ngữ pháp phổ quát về danh từ và động từ phản

ánh cấu trúc của thế giới chúng ta bằng hai loại thực thể ý niệm: sự vật và mối quan

hệ. Theo đó, thực thể ý niệm biểu hiện bất cứ đơn vị nội tâm nào. Sự vật là những

thực thể ý niệm có sự bền vững về mặt không gian và tồn tại theo thời gian (ví dụ

như nhà cửa, cây cỏ, v.v.), còn mối quan hệ là những liên kết về mặt ý niệm giữa

hai hay nhiều thực thể (ví dụ như động từ mang, cười, giới từ vào, ra, liên từ vì,

nếu, v.v.) [105].

Xét về mặt nào đó, chúng ta có thể thấy được sự tương ứng giữa vật thể

trong hệ thống ẩn dụ CHUỖI LỚN SINH THỂ với sự vật được hiểu là thực thể ý

niệm trong ngữ pháp tri nhận, cũng như sự tương ứng giữa sự kiện (và sự thay đổi

trạng thái) của hệ thống ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN với mối quan hệ được ngữ

pháp tri nhận định nghĩa. Nói cách khác, hệ thống ẩn dụ CHUỖI LỚN SINH THỂ

miêu tả ý niệm hóa ẩn dụ của sự vật và hệ thống ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN miêu

tả ý niệm hóa ẩn dụ của mối quan hệ, bao gồm sự kiện và sự thay đổi trạng thái.

Nhìn chung, các nhà tâm lý học, chẳng hạn như Reevy [135, tr.1] nhận định

rằng cảm xúc được xem như là trạng thái, trái ngược với sự kiện. Cảm xúc bao gồm

các phản ứng sinh lý (chẳng hạn tăng nhịp tim, đổ mồ hôi, căng cơ, v.v), các hoạt

động não bộ, những suy nghĩ, các biểu hiện (ví dụ cử chỉ trên khuôn mặt, cơ thể,

v.v), và nhiều yếu tố khác. Cảm xúc là những phản ứng đối với các sự kiện ngoại tại

hay nội tại và thường diễn ra trong thời gian ngắn (trong một vài giây, một vài phút

hay một vài giờ). Hãy xem xét ví dụ một con rắn phóng về phía chúng ta. Phản ứng

51

của chúng ta, hay còn gọi là cảm xúc, trong trường hợp này, bao gồm nhịp tim và

huyết áp tăng nhanh, có cảm giác sợ hãi và những suy nghĩ đáng sợ. Phản ứng này

diễn ra nhanh chóng. Một phản ứng tương tự dựa trên trải nghiệm này sẽ chỉ xảy ra

nếu chúng ta gợi nhớ đến hình ảnh con rắn kia. Trong trường hợp khi gợi nhớ hình

ảnh con rắn phóng về phía chúng ta, phản ứng mang tính cảm xúc ấy được chính

chúng ta tạo ra – hay nói cách khác, chúng ta tạo ra một kích thích nội tại, mà kích

thích này dẫn đến nảy sinh một cảm xúc.

Khi trình bày về Nguyên tắc bất biến, Lakoff [110, tr.57] giới thiệu hệ thống

ẩn dụ cấp độ tổng loại TỔ CHỨC SỰ KIỆN trong tiếng Anh. Theo đó, sự kiện nói

chung, bao gồm sự thay đổi về trạng thái, hành động, hoạt động, v.v., xét về khía

cạnh ẩn dụ được hiểu thông qua sự di chuyển cơ học, lực vật lý và không gian vật

chất. Các thành phần chính của sự kiện gồm trạng thái, thay đổi, nguyên do, mục

đích, phương tiện, sự khó khăn, sự tiến bộ, v.v. Những ý niệm trừu tượng này được

giải thích thông qua các ý niệm về không gian, lực vật lý và chuyển động cơ học,

thể hiện rằng các ẩn dụ ý niệm giúp cho người giao tiếp hiểu rõ hơn về những ý

niệm trừu tượng ấy.

Như trên đã nêu, cảm xúc được hiểu như là trạng thái, và do vậy, trong 10

mô hình của ẩn dụ tổng loại TỔ CHỨC SỰ KIỆN của Lakoff [110], chúng tôi nhận

thấy ba mô hình ẩn dụ cụ thể liên quan đến trạng thái và liên quan đến cảm xúc như

sau:

1. TRẠNG THÁI LÀ VỊ TRÍ

2. THAY ĐỔI LÀ CHUYỂN ĐỘNG

3. NGUYÊN DO LÀ LỰC

Trong ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN, trạng thái được ý niệm hóa như là

những vị trí vật lý hoặc khu vực được bao bọc trong không gian. Trạng thái là một

phần của CẤU TRÚC SỰ KIỆN vì sự kiện thường bao gồm các thực thể thay đổi từ

trạng thái này sang trạng thái khác. Chẳng hạn, chúng ta thường nói: trong một tâm

trạng, ngoài tâm trạng. Người sử dụng tiếng Anh sẽ nói câu “Tôi đang trong tình

cảnh khó khăn” (I am in trouble) để biểu thị trạng thái, vì từ khóa thể hiện ẩn dụ

52

TRẠNG THÁI LÀ VỊ TRÍ trong câu nói này là giới từ “trong” (in), mà giới từ này

hàm chỉ những khu vực được bao bọc trong không gian vật chất, ví dụ như căn

phòng, ống dẫn, v.v. Tương tự như vậy, một trong những cách thức tự nhiên nhất đề

cập đến trạng thái cảm xúc là bằng cách sử dụng mô hình ẩn dụ này. Do đó, trong

tiếng Anh người ta nói “Tôi đang yêu” (I am in love), “Anh ấy đang giận dữ” (He

is in a rage) hay “Cô ấy trong trạng thái trầm cảm” (She is in depression).

Ý niệm về sự thay đổi được xem là chuyển động vật lý đi vào hoặc ra khỏi

một khu vực bị bao quanh. Ý niệm này được biểu hiện thông qua mô hình ẩn dụ

THAY ĐỔI LÀ CHUYỂN ĐỘNG. Vì vậy, trong tiếng Anh người ta có câu như

“Bệnh nhân ấy rơi vào trạng thái hôn mê” (The patient went into a coma). Tương tự,

ẩn dụ cụ thể này cũng được áp dụng cho cảm xúc, chẳng hạn khi người Anh nói về

một người nào đó bước vào trạng thái hạnh phúc/ đang hạnh phúc (enter a state of

bliss), rơi vào bể ái tình/ đang yêu (fall in love), hoặc bay vào một cơn thịnh nộ /

nổi cơn thịnh nộ (fly into a rage).

Sự kiện có tính chất nguyên do. NGUYÊN DO LÀ LỰC thuộc về ẩn dụ

CẤU TRÚC SỰ KIỆN. Đây là mô hình ẩn dụ cho phép người nói tiếng Anh sử

dụng các động từ chẳng hạn như đẩy, buộc, khiến, giữ, v.v. (drive, send, push, keep,

…) để nói về nguyên do trong các phát ngôn như “Hoàn cảnh đã đẩy ông ấy đến

bước đường tự vẫn” (Circumstances drove him to commit suicide), “Tôi buộc anh ta

phải rửa bát đĩa” (I pushed him into washing the dishes) và “Điều gì khiến bạn

không kiện họ?” (What kept you from suing them?). Một số động từ tương tự có thể

được tìm thấy trong các câu biểu lộ cảm xúc, ví dụ như, “Bản tin đã đẩy đám đông

vào sự điên cuồng” (The news sent the crowd into a frenzy), “Sự trầm cảm của ông

ấy đã khiến ông tự vẫn” (His depression drove him to commit suicide), “Nỗi sợ hãi

ngự trị trong cô ấy” (Fear ruled over her) và “Tình yêu làm thế giới quay vòng”

(Love makes the world go round).

Nhìn nhận một cách khái quát, một số mô hình ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN

có thể áp dụng vào việc miêu tả các loại cảm xúc. Tuy nhiên, không phải tất cả các

mô hình cơ sở của ẩn dụ tổng loại này đều có khả năng áp dụng được. Có ba lý do

53

cơ bản cho việc chọn lọc một số mô hình ẩn dụ tương thích miêu tả cảm xúc. Lý do

thứ nhất, mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc tương thích với phần “trạng thái” của ẩn

dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN. Như phân tích ở trên, có những bằng chứng tường minh

trong ba mô hình ẩn dụ nêu trên (phần mũi tên biểu thị ý nghĩa “tương ứng với”):

1. Trạng thái Khu vực bị bao bọc.

Trạng thái cảm xúc của một người tương ứng với một khu vực bị bao bọc.

2. Sự thay đổi  Chuyển động

Trạng thái của một người thay đổi từ một trạng thái vô cảm sang một trạng

thái có cảm xúc. Sự thay đổi này được ý niệm hóa bằng chuyển động.

3. Nguyên do  Lực

Sự thay đổi từ một trạng thái vô cảm sang một trạng thái có cảm xúc được

gây nên bởi một thực thể hay một sự kiện. Việc gây nên cảm xúc này được xem như

là một lực vật lý.

Lý do thứ hai, như Lakoff, Espernson và Goldberg [116] chỉ ra, hai mô hình

ẩn dụ cấp độ cụ thể HÀNH ĐỘNG LÀ CHUYỂN ĐỘNG TỰ THÚC ĐẨY và

NGUYÊN DO LÀ LỰC đều có chung hai ẩn dụ kéo theo. Một là KIỂM SOÁT

HÀNH ĐỘNG LÀ KIỂM SOÁT CHUYỂN ĐỘNG TỰ THÚC ĐẨY. Nếu hành

động là chuyển động và nguyên do là lực, thì khi đó kiểm soát hành động là kiểm

soát chuyển động. Chẳng hạn như, trong hai câu “Cô ấy giữ anh lại trong sự nỗ lực

của mình” (She held him back in her endeavours) hoặc “Cô ta kiểm soát chặt chẽ

hôn phu của mình” (She has her fiance on a short leash), chúng đều biểu thị việc

kiểm soát hành động. Chúng ta cũng có thể tìm thấy những câu tương tự như vậy

trong miền ý niệm cảm xúc, như là “Anh ấy nén cơn giận lại” (He held back his

anger), “Anh ấy trút bỏ cơn giận của mình” (He unleashed his anger), hoặc “Cô ấy

thoát ra khỏi cảm xúc của mình” (She let go of her feelings). Trong các ví dụ trên,

những từ ngữ biểu thị cảm xúc như cơn giận, cảm xúc, v.v., xét về mặt ẩn dụ, tiêu

biểu cho một vài hành vi cảm xúc của con người khi miêu tả trạng thái cảm xúc về

giận hay yêu. Đó chính là những hành vi hay sự kiện đặc trưng cho một loại hình

cảm xúc nào đó mà chủ thể của cảm xúc ấy kiểm soát nó, và chúng được quan niệm

54

về mặt ẩn dụ như là chuyển động; kiểm soát hành vi hay sự kiện vì vậy cũng giống

như kiểm soát chuyển động. Sự kiểm soát các hành vi cảm xúc hay sự kiện như là

kiểm soát chuyển động đều có tính ý thức và do chủ thể của hành vi cảm xúc ấy chủ

động thực hiện như trong các ví dụ nêu trên. Điều quan trọng là trong các trường

hợp nêu trên, rõ ràng có xuất hiện khía cạnh “hành động” của cảm xúc ở chỗ cảm

xúc có khả năng dẫn đến việc kiểm soát một cách có ý thức các hành vi hay sự kiện

cụ thể nào đó. Khía cạnh này của cảm xúc được ý niệm hóa thông qua ẩn dụ TỔ

CHỨC SỰ KIỆN mang tính khái quát hơn.

Lý do thứ ba của việc chọn lọc mô hình ẩn dụ tương thích của ẩn dụ TỔ

CHỨC SỰ KIỆN để mô tả cảm xúc đó là việc tiếng Anh có nhiều cụm từ miêu tả

những trải nghiệm cảm xúc có sử dụng động từ biểu hiện chuyển động. Ví dụ như

quét đi, di chuyển, thổi bay đi, chuyển đi, mang đi, v.v. (sweep away, move, blow

away, transport, carry away). Điều này có thể được lý giải thông qua ẩn dụ cấp độ

tổng loại TỔ CHỨC SỰ KIỆN. Cảm xúc được cho là dẫn đến những phản ứng hành

vi mà chủ thể trải qua. Theo mô hình này, chính cảm xúc trở thành một nguyên do

có liên quan đến phản ứng mà cảm xúc ấy tạo nên. Do vậy, cảm xúc được ý niệm

hóa là lực và tác động của cảm xúc, nói khác đi là những phản ứng về mặt hành vi,

được coi như là tác động của lực. Như chúng tôi phân tích ở trên, trong ẩn dụ CẤU

TRÚC SỰ KIỆN, hành động được coi như những chuyển động tự thúc đẩy. Theo lý

thuyết này, những phản ứng cảm xúc được ý niệm hóa không phải như những

chuyển động tự thúc đẩy, mà là những chuyển động được thúc đẩy bởi yếu tố ngoại

vi. Điều này lý giải cho việc sử dụng động từ biểu hiện chuyển động nêu trên để

miêu tả những phản ứng cảm xúc.

Nói tóm lại, trong trường hợp này, các mô hình của ẩn dụ cấp độ tổng loại

TỔ CHỨC SỰ KIỆN có thể áp dụng vào cảm xúc theo ba cách thức như sau:

CẤU TRÚC SỰ KIỆN CẤU TRÚC CẢM XÚC

- TRẠNG THÁI LÀ VỊ TRÍ - CẢM XÚC LÀ VỊ TRÍ

- NGUYÊN DO LÀ LỰC - CẢM XÚC LÀ LỰC VẬT LÝ

- NHỮNG SỰ KIỆN ĐƯỢC GÂY - NHỮNG PHẢN ỨNG CẢM

55

RA LÀ NHỮNG CHUYỂN XÚC LÀ NHỮNG CHUYỂN

ĐỘNG ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI ĐỘNG ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI

YẾU TỐ NGOẠI VI YẾU TỐ NGOẠI VI

Theo Lakoff [111], các mô hình ẩn dụ thuộc ẩn dụ cấp độ tổng loại TỔ

CHỨC SỰ KIỆN này được kiến tạo dựa trên hai hệ thống ý niệm khác, đó là HỆ

THỐNG VỊ TRÍ và HỆ THỐNG VẬT THỂ. Theo cấu trúc ý niệm HỆ THỐNG VỊ

TRÍ mà bao gồm ẩn dụ VẬT CHỨA và ẩn dụ PHƯƠNG THẲNG ĐỨNG, thay đổi

là sự chuyển động của sự vật từ nơi này đến nơi khác, trong khi ở cấu trúc ý niệm

HỆ THỐNG VẬT THỂ, thay đổi là sự chuyển động của một vật thể đến hoặc ra

khỏi sự vật mà nó thay đổi, theo cách thức là sự thay đổi được coi như việc đạt

được hoặc mất đi một vật thể. Do vậy, trong ví dụ Tôi đang trong tình cảnh khó

khăn (I am in trouble), thì khó khăn (trouble) là một vị trí, nhưng trong ví dụ Tôi

gặp phải khó khăn (I have trouble), thì khó khăn (trouble) lại là một vật sở hữu.

Trong cả hai trường hợp nêu trên, khó khăn (trouble) đang được gán cho chủ thể

của câu quyết định. Cả hai hệ thống ý niệm hóa này được sử dụng rộng rãi trong

ngôn ngữ thường nhật đến độ đôi khi chúng ta không thật sự nhận ra mô hình ẩn dụ

CẤU TRÚC SỰ KIỆN được sử dụng trong nhiều biểu thức ngôn ngữ. Lakoff [111]

minh họa mô hình ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN bằng các ví dụ với từ “headache”

(cơn đau đầu) như sau:

(23) I have a headache. (Tôi có cơn đau đầu.) [ Cơn đau đầu là vật sở hữu]

(24) My headache went away. (Cơn đau đầu của tôi đã biến mất.) [Thay đổi

là mất đi – di chuyển ra khỏi]

(25) The noise gave me a headache. (Tiếng ồn khiến tôi bị đau đầu.)

[Nguyên do là hành động cho đi – di chuyển đến]

(26) The aspirin took away my headache. (Thuốc giảm đau đã mang cơn đau

đầu của tôi đi mất.) [Nguyên do là mang đi – di chuyển khỏi]

56

1.3.2.2. Các mô hình ẩn dụ ý niệm hữu quan

* Lý thuyết lược đồ hình ảnh

Việc xây dựng lý thuyết lược đồ hình ảnh đã được Mark Johnson đặc biệt

quan tâm và phát triển. Trong cuốn sách Cơ thể trong tư duy xuất bản năm 1987,

Johnson [96] đề nghị cách thức mà theo đó kinh nghiệm nhập thân thể hiện ở mức

độ tri nhận được biểu hiện bằng các lược đồ hình ảnh. Đây là những ý niệm sơ đẳng

như liên lạc, vật chứa và cân bằng, và những ý niệm này có nghĩa bởi vì chúng xuất

phát từ kinh nghiệm tiền ý niệm đồng thời cũng giữ mối liên kết với loại kinh

nghiệm này. Kinh nghiệm tiền ý niệm là kinh nghiệm của thế giới được kết nối trực

tiếp và được cấu trúc hóa bằng cơ thể người. Những ý niệm lược đồ hình ảnh này

không phải là trừu tượng lạ kỳ, nhưng trong phạm vi rộng lớn chúng lấy được chất

liệu từ những kinh nghiệm cảm giác-tri giác xảy ra ở lần đầu tiên.

Lakoff ([108], [110], [111]) và Johnson [96] lập luận rằng loại ý niệm nhập

thân sơ đẳng này cung cấp các khuôn mẫu nhằm kiến tạo các ý niệm phức tạp hơn,

và có thể được mở rộng một cách có hệ thống nhằm cung cấp khung cấu trúc cho

nhiều ý niệm và miền ý niệm trừu tượng hơn. Theo quan điểm này, chúng ta có thể

nói đến việc ở trong một trạng thái hoặc cảm xúc nào đó, chẳng hạn như tình yêu

(love) hay rắc rối (trouble) trong ví dụ “ James is in love” và “Susan is in trouble”.

Lý do chúng ta nói được như vậy là vì các ý niệm trừu tượng như tình yêu hay rắc

rối được cấu trúc hóa và do đó được hiểu bằng bản chất của các ý niệm cơ bản vật

chứa. Bằng cách này, các ý niệm lược đồ hình ảnh được dùng để kiến tạo các ý

niệm và ý tưởng phức tạp hơn.

Lược đồ hình ảnh có được từ kinh nghiệm cảm giác và tri giác khi chúng ta

tương tác với thế giới và di chuyển trong thế giới. Ví dụ, cho rằng con người khi đi

có dáng thẳng, còn vì con người có đầu ở trên cùng của cơ thể và bàn chân ở phía

dưới cùng, đồng thời cho rằng có sự hiện diện của trọng lực hút các vật thể không

được gia cố hay chống đỡ, nên trục thẳng đứng của cơ thể con người có chức năng

phi đối xứng. Điều này có nghĩa rằng trục thẳng đứng ấy được đặc trưng bởi đặc

57

tính phi đối xứng theo kiểu lên-xuống hoặc trên cùng-dưới cùng: các bộ phận trên

cùng và dưới cùng của cơ thể chúng ta là khác nhau.

Các nhà ngữ nghĩa học tri nhận lập luận rằng tính phi đối xứng của trục

thẳng đứng của cơ thể có ý nghĩa đối với chúng ta là vì cách thức chúng ta tương tác

với môi trường sống. Ví dụ, trọng lực đảm bảo rằng các vật thể không được gia cố

hay chống đỡ sẽ rơi xuống mặt đất. Nhờ vào đặc tính phi đối xứng của trục thẳng

đứng của con người, chúng ta phải cúi người xuống để nhặt các đồ vật rơi

và nhìn theo một hướng (hướng xuống) đối với các đồ vật rơi xuống và nhìn theo

một hướng khác (hướng lên) đối với các đồ vật được tung lên không trung. Nói

cách khác, sinh lý con người của chúng ta đảm bảo rằng trục thẳng đứng, có tương

tác với trọng lực của trái đất, mang lại ý nghĩa nhờ vào cách thức chúng ta tương tác

với môi trường sống. Và theo Johnson [96], khía cạnh kinh nghiệm này đưa đến

lược đồ hình ảnh LÊN – XUỐNG.

Một lược đồ hình ảnh phổ biến khác của ngữ nghĩa học tri nhận phải kể đến

là lược đồ hình ảnh VẬT CHỨA. Để minh họa, lược đồ hình ảnh VẬT CHỨA

được kiến tạo từ những kinh nghiệm phổ biến và thường xuyên của chúng ta với các

vật chứa đã được Johnson [90, tr.331] miêu tả khi kể về sự bắt đầu một ngày sinh

hoạt bình thường của một người như sau:

(27) “… Bạn vùng tỉnh dậy ra khỏi một giấc ngủ sâu rồi ngó vào căn phòng

của mình từ phía dưới tấm chăn. Bạn dần thoát ra khỏi trạng thái mơ ngủ, kéo mình

ra khỏi chăn, chui vào trong chiếc áo ngủ của mình, duỗi chân tay ra, và bước đi

trong một trạng thái ngáy ngủ ra khỏi phòng ngủ và vào buồng tắm. Bạn nhìn vào

gương và thấy khuôn mặt của bạn nhìn bạn chằm chằm từ trong gương. Bạn với tay

vào tủ, lấy hộp kem đánh răng ra, nặn ra một ít kem, đưa bàn chải có kem vào

miệng, chà răng trong sự vội vàng, và phun kem ra khỏi miệng của bạn…”

Ví dụ này cho thấy bằng việc thường xuyên sử dụng các giới từ như trong,

ra, từ, vào, một số lượng lớn các vật dụng thường nhật và những kinh nghiệm được

phân loại như là các ví dụ cụ thể của lược đồ hình ảnh VẬT CHỨA: không chỉ

những vật chứa rõ ràng như tủ, buồng tắm và hộp kem đánh răng hay những vật

58

chứa to hơn như tấm chăn, quần áo và phòng ốc, mà còn những trạng thái như giấc

ngủ, sự mơ ngủ, sự ngái ngủ và sự vội vàng.

Evans và Green [70, tr.190] tập hợp một danh sách chưa đầy đủ về các lược

đồ hình ảnh từ các nhà ngôn ngữ học tri nhận như Johnson [96], Lakoff [108],

Lakoff và Turner [117], Gibbs và Colston [82], v.v. Theo đó, dựa vào bản chất của

nền tảng kinh nghiệm luận, danh sách lược đồ hình ảnh này chia thành 8 loại bao

gồm: KHÔNG GIAN, ví dụ “lên-xuống, trước-sau, trái-phải, gần-xa, trung tâm-

ngoại vi”; SỰ CHỨA ĐỰNG, ví dụ “vật chứa, bề mặt, trong-ngoài, đầy-rỗng”; SỰ

VẬN ĐỘNG, ví dụ “nguồn - đường đi - đích đến”; SỰ CÂN BẰNG, ví dụ “cân

bằng theo trục tung, cân bằng điểm”; LỰC, ví dụ “ép buộc, bao vây, phản lực,

chệch hướng, dời đi, thu hút, kháng cự”; ĐỒNG NHẤT / ĐA PHẨN, ví dụ “kết

hợp, tập hợp, phân rã, bộ phận-toàn thể, nối kết”; NHẬN DIỆN, ví dụ “sự hợp

nhau, sự thêm vào”; SỰ TỒN TẠI, ví dụ “rời bỏ, không gian hạn chế, chu kỳ, vật

thể, quy trình.” Tuy nhiên, vì mục tiêu đặt ra của luận án là nhằm khảo sát và phân

tích ẩn dụ ý niệm cảm xúc được biểu thị trong thành ngữ của tiếng Việt và tiếng

Anh, nên chúng tôi chọn lọc một số lược đồ hình ảnh liên quan đến ý niệm cảm xúc,

gồm có: KHÔNG GIAN, SỰ CHỨA ĐỰNG, LỰC, ĐỒNG NHẤT / ĐA PHẨN,

SỰ TỒN TẠI. Trong các chương tiếp theo, chúng tôi sẽ vận dụng các lược đồ hình

ảnh này để phân tích ẩn dụ ý niệm cảm xúc có trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng

Anh, từ đó rút ra được những nét tương đồng và khác biệt của hai nhóm thành ngữ

Việt - Anh, hạn định trong năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu.

* Mô hình ẩn dụ VẬT CHỨA

Ẩn dụ VẬT CHỨA có ý nghĩa quan trọng xuất phát từ lý luận bên trong của

lược đồ hình ảnh VẬT CHỨA. Lý luận cơ bản của nó đã được Lakoff [109] nêu ra

và Ruiz de Mendoza [136] đã giới thiệu một phiên bản mở rộng của lược đồ hình

ảnh VẬT CHỨA như sau:

a) Nếu A trong B, và B trong C, suy ra A trong C.

b) Do là khu vực được bao bọc nên vật chứa có công suất hạn chế. Một khi

chứa đựng vượt quá một cái gì ở bên trong thì vật chứa ấy có thể thay đổi hoặc thậm

59

chí làm hỏng cấu trúc hoặc chức năng của nó (ví dụ, sự dư thừa chất lỏng có thể

khiến chất lỏng phun trào bằng cách phá vỡ các vách của vật chứa hay có thể chỉ

đơn giản là tràn ra ngoài vật chứa).

c) Trong một vật chứa có thể tìm thấy hai loại thực thể cơ bản về mặt nhận

thức: con người và sự vật (bao gồm động vật, thực vật, các sự kiện và tình huống).

d) Phần nội biên của một vật chứa có thể bảo vệ một hoặc nhiều thực thể

chứa trong nó khỏi tác động từ bất kỳ điều kiện bên ngoài nguy hại nào. Ngược lại,

phần nội biên của vật chứa mà nguy hiểm thì có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các đối

tượng bên trong vật chứa.

e) Phần nội biên của một vật chứa có thể ngăn chặn một hoặc nhiều thực thể

bên trong nó khỏi tác động của các điều kiện bên ngoài có lợi. Ngược lại, phần nội

biên của vật chứa mà có ích thì có thể ảnh hưởng tích cực đến các đối tượng bên

trong vật chứa.

f) Nếu các thực thể bên trong vật chứa có tính chất năng động, chúng có thể

tương tác dễ dàng hơn nếu ở bên ngoài hoặc được tách ra bằng các ranh giới của vật

chứa. Nếu thực thể có sức mạnh ý chí, nó có thể muốn kiểm soát tất cả hoặc một

phần thực thể khác. Kiểm soát có thể được ngăn ngừa bằng ranh giới vật chứa.

g) Các thực thể được tìm thấy ở phần bên trong của vật chứa có thể ảnh

hưởng đến vật chứa theo cách tích cực hay tiêu cực.

Các ý niệm nêu trên có tác động đến cảm xúc. Mô hình ý niệm tri nhận

THỰC THỂ LÀ VẬT CHỨA HAY KHU VỰC ĐƯỢC BAO BỌC có thể được cụ

thể hóa bằng ba mô hình ẩn dụ sau: THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG LÀ VẬT CHỨA,

TRẠNG THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA và CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA.

* Các miền nguồn áp dụng cho các loại cảm xúc

Khi giới thiệu nhiều miền nguồn ẩn dụ cho các loại cảm xúc khác nhau,

Kovecses [103] đã đưa ra bốn miền nguồn áp dụng cho tất cả các loại cảm xúc cơ

bản thông qua bốn mô hình ẩn dụ tổng quát như sau:

(a) SỰ TỒN TẠI CỦA CẢM XÚC LÀ SỰ HIỆN DIỆN TẠI ĐÂY, ví dụ: All

feelings are gone. (Tất cả cảm xúc đã tan biến.)

60

(b) SỰ TỒN TẠI CỦA CẢM XÚC LÀ TRẠNG THÁI BỊ GIỚI HẠN

TRONG MỘT KHÔNG GIAN, ví dụ: She was in good spirits. (Cô ấy đang trong

tâm trạng vui vẻ.)

(c) SỰ TỒN TẠI CỦA CẢM XÚC LÀ SỞ HỮU MỘT VẬT THỂ, ví dụ: She

has a bad hair day. (Cô ấy có một ngày buồn.)

(d) CẢM XÚC LÀ MỘT SINH THỂ, ví dụ: His fear grew. (Nỗi sợ của anh ấy

lớn dần lên.)

Như vậy, bốn miền nguồn nêu trên có tác động đến biểu thức ngôn ngữ biểu

đạt cảm xúc và chúng cũng được chúng tôi xem xét trên đối tượng thành ngữ.

Nói tóm lại, ẩn dụ ý niệm cảm xúc là một phạm trù tương đối phức tạp và đa

dạng vì nó đề cập đến một khía cạnh quan trọng và trung tâm của con người, đó là ý

niệm cảm xúc. Thêm nữa, trong kho tàng tiếng Việt thì thành ngữ, cùng với các đơn

vị biểu thức ngôn ngữ cố định khác như tục ngữ, quán ngữ, v.v. cũng nhận được sự

quan tâm sâu rộng trên nhiều khía cạnh. Đứng về góc độ ngữ nghĩa học tri nhận,

chúng tôi quan tâm đến việc biểu hiện của ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong nhóm thành

ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu, và

do đó, chúng tôi chọn ra một tập hợp các miền nguồn và lược đồ hình ảnh từ ẩn dụ

cấu trúc cảm xúc (Lakoff [110], [111]), lý thuyết lược đồ hình ảnh (Johnson [113])

và các mô hình ẩn dụ cảm xúc (Kövecses [103]) đã trình bày bên trên, và sắp xếp

chúng thành một khung lý thuyết phục vụ cho mục tiêu khảo sát của luận án. Danh

sách miền nguồn và lược đồ hình ảnh bao gồm các miền nguồn cơ bản và phổ quát

như VẬT CHỨA, PHƯƠNG HƯỚNG, LỰC TÁC ĐỘNG, SỞ HỮU, NHIỆT ĐỘ,

SINH THỂ cho đến những miền nguồn và lược đồ hình ảnh riêng biệt như ÁNH

SÁNG, MÀU SẮC, THỰC THỂ SIÊU NHIÊN, GÁNH NẶNG, KẺ THÙ, BỆNH

TẬT, PHÉP THUẬT, SỰ HỢP NHẤT, v.v.

1.3.3. Sự tương tác giữa ẩn dụ và hoán dụ trong phạm trù cảm xúc

Một cách đơn giản nhất, ẩn dụ và hoán dụ có thể được phân biệt dựa trên cơ

sở của các loại ánh xạ giữa các miền ý niệm. Trong ẩn dụ, các ánh xạ diễn ra qua lại

giữa các miền kinh nghiệm khác nhau, trong khi ở hoán dụ, việc ánh xạ diễn ra

61

trong cùng một miền ý niệm. Như vậy, ẩn dụ là “một quá trình thuộc về ý niệm bao

gồm việc ánh xạ cấu trúc của một miền ý niệm này lên cấu trúc của một miền ý

niệm khác”, trong khi đó, hoán dụ là “một quá trình thuộc về ý niệm bao gồm việc

thay thế một thực thể ý niệm này vào một thực thể ý niệm khác trong cùng một

miền ý niệm” [68].

Chúng ta có thể phân biệt ẩn dụ với hoán dụ bằng nhiều cách [105]. Trong

khi hoán dụ dựa trên sự liên tưởng, thì ẩn dụ được dựa trên sự tương đồng. Hoán dụ

liên quan đến một miền ý niệm, còn ẩn dụ liên quan đến hai miền ý niệm khác biệt.

Chức năng của hoán dụ là truy cập đến một thực thể đích nào đó trong một miền ý

niệm, trong khi ẩn dụ được sử dụng chủ yếu để hiểu biết toàn bộ hệ thống các thực

thể thông qua một hệ thống khác. Hoán dụ có thể xảy ra giữa các ý niệm lẫn nhau,

cũng như giữa các hình thức ngôn ngữ với ý niệm và giữa hình thức ngôn ngữ với

những sự việc hay sự kiện trên thế giới, trong khi ẩn dụ chỉ có thể xảy ra giữa các ý

niệm mà thôi.

Mặc dù trong nhiều trường hợp chúng ta có thể vẽ một ranh giới phân định rõ

ràng giữa ẩn dụ và hoán dụ nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Hoán dụ và ẩn dụ

thực tế có thể tương tác với nhau và hai quá trình này không tách biệt nhau.

Goossens [85] đã đặt ra thuật ngữ tương tác ẩn-hoán (metaphtonymy) nhằm gọi tên

quá trình tương tác giữa ẩn dụ và hoán dụ.

Một số quan hệ hoán dụ cũng có thể thiết lập nên cơ sở cho nhiều ẩn dụ ý

niệm. Các loại quan hệ hoán dụ chủ yếu có thể đưa đến ẩn dụ ý niệm là NGUYÊN

DO và TOÀN THỂ-BỘ PHẬN. Điều này có thể được tìm thấy trong hệ thống phạm

trù cảm xúc. Chẳng hạn như, giận có thể được cho là dẫn đến tăng nhiệt độ cơ thể

của chủ thể. Đây là trường hợp của hoán dụ tổng quát TÁC ĐỘNG ĐẠI DIỆN

CHO NGUYÊN DO giữa cảm xúc giận và nhiệt độ cơ thể với mô hình hoán dụ cụ

thể NHIỆT ĐỘ CƠ THỂ ĐẠI DIỆN CHO GIẬN. Ẩn dụ ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT

phát sinh từ một sự khái quát nhiệt độ cơ thể nóng lên. Ở đây, phương tiện hoán dụ

trở thành miền nguồn của ẩn dụ thông qua sự khái quát hóa [105].

62

Các mô hình hoán dụ cảm xúc được hình thành dựa trên nguyên lý nhập thân

hóa và các phản ứng sinh lý học tạo nên mô thức hoán vị chung HIỆU ỨNG SINH

LÝ CỦA CẢM XÚC ĐẠI DIỆN CHO CẢM XÚC để từ đó tạo ra một hệ thống

hoán dụ về các loại cảm xúc liên quan đến phản ứng sinh lý, phản ứng hành vi và

phản ứng biểu lộ nét mặt. Trong đó, những phản ứng sinh lý và phản ứng hành vi

được sản sinh bởi cảm xúc nào đó được sử dụng để đại diện cho chính loại cảm xúc

ấy. Ví dụ, phát ngôn “He got cold feet” (Anh ấy bị lạnh chân) có sử dụng thành ngữ

“get cold feet”, biểu thị một phản ứng sinh lý tiêu biểu của cảm xúc sợ, đại diện cho

cảm xúc sợ [98]. Hay như phát ngôn “She beats her breast upon the death of her

father” (Cô ấy tự đấm vào ngực mình trước cái chết của cha cô) sử dụng thành ngữ

“beat one’s breast” (tự đấm vào ngực mình), biểu thị một phản ứng hành vi tiêu biểu

cho cảm xúc buồn, đại diện cho cảm xúc buồn. Hoặc như phát ngôn “She got stars

in her eyes” (Cô ấy có những ngôi sao trong mắt) sử dụng thành ngữ “stars in one’s

eyes” (những ngôi sao trong mắt), biểu thị một phản ứng hiển lộ trên nét mặt thông

qua đôi mắt cho cảm xúc vui, đại diện cho cảm xúc vui.

1.4. Những vấn đề cơ bản về thành ngữ

1.4.1. Quan điểm về thành ngữ trong tiếng Việt

Cũng như những đơn vị ngôn ngữ khác trong tiếng Việt, thành ngữ tồn tại một

cách khách quan trong ngôn ngữ và được các nhà nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt

nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau của ngôn ngữ. Nguyễn Đức Dân [9, tr.2]

quan niệm: “Thành ngữ là những đơn vị ngôn ngữ ổn định về hình thức, phản ánh

lối nói, lối suy nghĩ đặc thù của mỗi dân tộc.” Đỗ Hữu Châu [2, tr.71-72] cho rằng:

“Ngữ cố định là các cụm từ nhưng đã cố định hóa cho nên cũng có tính chất chặt

chẽ, sẵn có, bắt buộc, có tính chất xã hội như từ.” Ông giải thích rằng do sự cố định

hóa, do tính chặt chẽ mà các ngữ cố định ít hay nhiều đều có tính thành ngữ. Từ đó

ông nêu lên định nghĩa về thành ngữ như sau: “Cho một tổ hợp từ có nghĩa S do các

đơn vị A, B, C mang nghĩa lần lượt S [1], S [2], S [3] tạo nên, nếu như nghĩa S

không thể giải thích bằng các ý nghĩa S [1], S [2], S [3] thì tổ hợp A, B, C có tính

thành ngữ.” Nguyễn Thiện Giáp [17, tr.181] nhận xét: “Thành ngữ là những cụm từ

cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có giá trị gợi tả. Tính hình tượng là

63

đặc trưng cơ bản của thành ngữ. Thành ngữ biểu thị những khái niệm nào đó dựa

trên những hình ảnh, những biểu tượng cụ thể. Tính hình tượng của thành ngữ được

xây dựng trên cơ sở của hiện tượng so sánh và ẩn dụ.” Về sau, Nguyễn Thiện Giáp

[18, tr.209] làm sáng rõ thêm quan niệm của mình: “Thành ngữ là những cụm từ mà

trong cơ cấu cú pháp và ngữ nghĩa của chúng có những thuộc tính đặc biệt, chỉ có ở

cụm từ đó.” Từ góc độ ngôn ngữ học, chú ý tới đặc điểm cơ bản của thành ngữ,

Hoàng Văn Hành [23, tr.31] đưa ra một định nghĩa khái quát về các phương diện

của thành ngữ: “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái-cấu

trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về nghĩa, và được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng

ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ.”

Tuy có nhiều cách hiểu và nhận định khác nhau, nhưng chung quy lại, từ trước

đến nay các nhà nghiên cứu vẫn thống nhất với nhau một số tiêu chí nhận diện

thành ngữ tiếng Việt với ba đặc điểm cơ bản sau đây:

- Đặc điểm về mặt cấu tạo: thành ngữ thường là một ngữ, một cụm từ cố

định, có kết cấu tương đối bền chặt, có thể có vần điệu, sẵn có trong kho tàng ngôn

ngữ dân tộc và được xã hội quen dùng như một thực từ. Tính cố định về hình thái-

cấu trúc của thành ngữ phụ thuộc vào tính ổn định của thành phần từ vựng, nghĩa là

các yếu tố tạo nên thành ngữ hầu như được giữ nguyên trong sử dụng và tự cố định

về trật tự các thành tố tạo nên thành ngữ.

Theo Hoàng Văn Hành [23, tr.32], tính ổn định, cố định về thành phần từ

vựng và cấu trúc của thành ngữ hình thành là do thói quen sử dụng của người bản

ngữ vốn chỉ là những tổ hợp từ tự do. Song nhờ được tái hiện lặp đi lặp lại nhiều lần

trong lời nói với sự chuyển di ngữ nghĩa nhất định, nó đã được cộng đồng bản ngữ

ghi nhận, ưa dùng, và được xem là dạng chuẩn, mang tính xã hội cao. Tuy vậy, cái

dạng chuẩn này của thành ngữ không phải là “chết cứng”, mà trong sử dụng nó vẫn

uyển chuyển. Cho nên, tính bền vững của thành ngữ trong hệ thống chuẩn và tính

uyển chuyển của nó trong sử dụng là hai mặt không hề mâu thuẫn, không hề loại trừ

nhau.

- Đặc điểm về mặt ngữ nghĩa: thành ngữ miêu tả một cách cô đọng, cụ thể,

sinh động, truyền cảm bằng hình ảnh, bằng hình tượng về sự vật, con người trong

64

thế giới khách quan. Nghĩa của thành ngữ không thể là tổng số nghĩa của các thành

tố. Nghĩa của thành ngữ tiếng Việt thường là kết quả của hai hình thái biểu trưng

hóa: hình thái tỉ dụ và hình thái ẩn dụ.

Cũng cần nói thêm, các nhà ngôn ngữ học đều chỉ ra rằng “so sánh”, “tỉ dụ”

và “ẩn dụ” là những khái niệm có liên quan với nhau nhưng không phải là một.

Trong đó, “so sánh” hay còn gọi là “so sánh tương ứng” là khái niệm rộng nhất. Đó

là một phép nhận biết sự hơn kém hoặc ngang bằng giữa các sự vật một cách thuần

túy. Còn “tỉ dụ” là một biện pháp tu từ. Cũng có học giả gọi “tỉ dụ” là “so sánh tu

từ”. “Tỉ dụ” là một bộ phận của so sánh, nhằm lấy sự vật, hiện tượng này để thuyết

minh hoặc làm sáng tỏ một sự vật, hiện tượng hoặc một tính chất nào đó khác. “Ẩn

dụ” lại là một khái niệm hẹp hơn “tỉ dụ”. “Ẩn dụ” cũng là so sánh tu từ nhưng là so

sánh ngầm, tức trên bề mặt cấu trúc không còn xuất hiện các thành tố chủ thể so

sánh và thành tố quan hệ so sánh nữa. Theo ngôn ngữ học tri nhận, “ẩn dụ” là biểu

hiện một ý niệm thông qua một ý niệm khác, do vậy dạng A là B (hình thức của ẩn

dụ) và A như B (hình thức của so sánh) về bản chất là như nhau vì chúng đều liên

quan đến hai miền ý niệm khác biệt, chỉ khác nhau một điểm nhỏ: do có từ “như”

mà hiệu lực của hình thức thứ hai yếu hơn; hay nói cách khác, so sánh là một dạng

yếu của ẩn dụ [117]. Hoàng Văn Hành [23, tr.80] khẳng định “giá trị biểu hiện của

cả hai dạng thành ngữ (dạng so sánh hiện, tức so sánh, và dạng so sánh ngầm ẩn,

tức ẩn dụ) là như nhau, không hề có sự thay đổi khi chuyển hóa từ dạng này sang

dạng khác. Ví dụ, “gan cóc tía” và “gan như cóc tía”, “thẳng ruột ngựa” và “thẳng

như ruột ngựa” là tương tự nhau về giá trị và ý nghĩa sử dụng.

- Đặc điểm về mặt sử dụng: thành ngữ dù dài hay ngắn đều được sử dụng

tương đương với từ như một đơn vị từ vựng có sẵn, thường dùng để định danh các

hiện tượng của hiện thực và hoạt động trong câu với tư cách là một thành phần của

câu.

Các đặc điểm của thành ngữ tiếng Việt được trình bày nêu trên cũng được

chúng tôi chọn lựa, xem như tiêu chí nhận diện đối tượng nghiên cứu của luận án là

thành ngữ biểu thị cảm xúc.

65

Dựa trên cơ sở tiêu chí nhận diện thành ngữ tiếng Việt đã nêu bên trên,

chúng tôi tiến hành khảo sát những từ điển thành ngữ tiếng Việt được nhiều người

dùng để rút lấy khối ngữ liệu thành ngữ tiếng Việt biểu thị năm loại cảm xúc vui,

buồn, giận, sợ, yêu. Chúng tôi không chủ ý đi sâu phân tích và so sánh cấu trúc-

chức năng của thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc với thành ngữ tiếng Anh tương

ứng, mà sẽ dùng mô hình lý thuyết ẩn dụ tri nhận để tiến hành phân tích, so sánh đối

chiếu thành ngữ, từ đó hiểu được ẩn dụ ý niệm cảm xúc xuất phát từ kinh nghiệm

cơ thể trong mối quan hệ với văn hóa và xã hội.

1.4.2. Quan điểm về thành ngữ trong tiếng Anh

Đối với tiếng Anh, thành ngữ cũng là đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm trên khá nhiều phương diện. Cũng như trong tiếng Việt và nhiều ngôn ngữ

khác, vấn đề nhận diện và phân loại thành ngữ tiếng Anh cũng rất đa dạng và không

kém phần phức tạp [121, tr.2]. Trước hết, thành ngữ tiếng Anh được một số từ điển

uy tín trên thế giới nhận định và định nghĩa như sau:

- Thành ngữ là một nhóm từ, một cấu trúc, hoặc một biểu thức được nhận diện

như là một đơn vị sử dụng trong một ngôn ngữ đặc thù, khác biệt với các mẫu

cú pháp thông thường hoặc có nghĩa khác biệt so với nghĩa nguyên văn của

các thành tố cấu tạo nên nó [87].

- Thành ngữ mang tính đặc thù của ngữ đoạn đã được kiểm chứng thông qua

thực tế sử dụng mặc dù nghĩa của nó không suy luận được từ nghĩa của những

từ riêng biệt cấu tạo nên nó [76].

- Một trong những vấn đề của thành ngữ là thường không thể suy nghĩa của một

thành ngữ từ các từ mà thành ngữ ấy sử dụng, điều này nhấn mạnh rằng trong

thực tế thành ngữ thường có nghĩa bền vững hơn các nhóm từ không có tính

thành ngữ [126]

- Thành ngữ là một biểu thức mà nghĩa của nó không thể suy luận bằng cách

xem xét nghĩa của các vị từ được lập thành; là một biểu thức cố định cả về ngữ

pháp và từ vựng [65]

- Thành ngữ là một nhóm các từ được hình thành thông qua sử dụng và có

nghĩa không thể suy luận từ nghĩa của các từ đơn lẻ [142].

66

- Thành ngữ là một thuật ngữ được sử dụng trong ngữ pháp và từ vựng học để

chỉ một chuỗi các từ thường bị hạn chế về mặt ngữ nghĩa và cú pháp, do đó,

chúng hoạt động như một đơn vị đơn nhất [66].

- Thành ngữ là một nhóm từ, mà khi kết hợp sử dụng trong một trật tự liên kết

cụ thể nào đó, có nghĩa khác biệt với nghĩa mà nhóm từ ấy có nếu nghĩa của

các từ đơn lẻ trong nhóm ấy được xét đến [140].

Về đại thể, các từ điển nêu trên đều mô tả định nghĩa về thành ngữ tiếng Anh

khá tổng quát và cô đọng. Tuy nhiên, có thể nhận thấy tất cả đều khẳng định rằng

thành ngữ là một cấu trúc đặc thù mà nghĩa của nó không thể suy luận từ nghĩa của

các từ kết hợp nên nó tạo thành. Mặt khác, các công trình ngôn ngữ học chuyên

khảo về thành ngữ cũng xem xét các khía cạnh đa dạng của thành ngữ và vì vậy

mang tính mô tả sâu hơn.

Thành ngữ được hiểu là các biểu thức cố định và có các đặc tính cụ thể của

chúng. Các nhà ngôn ngữ khác nhau đề xuất các đặc tính khác nhau của thành ngữ.

Tuy nhiên, Fernando [74] phát biểu rằng hầu như mọi người đồng tình với các đặc

điểm sau đây của thành ngữ tiếng Anh:

(i) Tính tổ hợp: thành ngữ thường được chấp nhận như là một loại biểu thức

có nhiều từ. Khả năng thay thế các từ trong một thành ngữ càng ít bao nhiêu thì

trạng thái của nó như một đơn vị giống như từ mạnh hơn bấy nhiêu. Do vậy, thành

ngữ cần phải được miêu tả bằng các thủ pháp mô tả chung về mặt ngữ pháp và từ

vựng.

(ii) Tính thiết chế hóa hay tính quy ước: Thành ngữ được coi là biểu thức

được ước định.

(iii) Tính tối nghĩa: Ý nghĩa của thành ngữ không phải là tổng của các thành

phần tạo nên nó. Các thành ngữ thường không có nghĩa nguyên văn.

(iv) Tính toàn vẹn từ vựng hay tính cố định cú pháp: Các cụm thành ngữ tính

không thể được thay đổi; không có từ đồng nghĩa nào khác có thể thay thế cho bất

kỳ từ nào trong cụm từ ấy, và trật tự của các từ hiếm khi có thể được thay đổi. Tuy

nhiên, sự thay đổi nhỏ có thể được tìm thấy về số (hình thức số ít và số nhiều của

danh từ) và thì (hiện tại hoặc quá khứ) hoặc cách dùng mạo từ.

67

(v) Tính mơ hồ: Vì nhiều thành ngữ có thể vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa

hình tượng nên chúng được coi là mơ hồ. Trong những trường hợp này, chính ngữ

cảnh mà thành ngữ xuất hiện sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tính

mơ hồ của nó.

(vi) Tính không trang trọng: Có những thành ngữ thường được coi là không

trang trọng và hiếm khi xuất hiện trong văn phong học thuật. Tuy nhiên , Cowie và

cộng sự [63] cho rằng thành ngữ có thể khác nhau theo mức độ từ trang trọng đến

thân mật. Theo họ, thành ngữ có tính trang trọng có thể tạo nên một giọng điệu

trang trọng hay tao nhã khi phản ánh một mối quan hệ không thân mật, trong một

hoàn cảnh giao tiếp trang trọng.

Các tính năng nêu trên thường được coi là thiết yếu trong việc phân biệt giữa

thành ngữ và cụm từ tự do. Tuy nhiên, hầu hết các nhà ngôn ngữ học đồng ý rằng

không phải mọi thành ngữ đều có tất cả các tính năng này. Ngoài ra, không phải tất

cả thành ngữ đều có tính ẩn dụ, không trang trọng hoặc hoàn toàn cố định.

Nhìn nhận một cách tổng quát, những cách thức xác định thành ngữ trong

tiếng Anh là thiếu nhất quán và phức tạp. Tuy nhiên, có ba tiêu chí quan trọng để

xác định thành ngữ tiếng Anh được đa số các học giả chấp nhận, đó là:

- Thành ngữ tiếng Anh thường mang nghĩa bóng hoặc bán nghĩa đen, khó suy

đoán từ nghĩa thành phần.

- Chúng thường cố định về mặt cấu trúc.

- Thành ngữ là cụm từ bao gồm ít nhất hai từ trở lên.

Nếu đối chiếu với quan điểm về thành ngữ tiếng Việt thì những tiêu chí này

của thành ngữ tiếng Anh về cơ bản là tương tự. Tuy vậy, yếu tố vần điệu không hề

được nhắc đến trong các quan niệm về thành ngữ tiếng Anh. Điều này cũng dễ hiểu:

tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình và có trọng âm, trong khi tiếng Việt lại là ngôn

ngữ đơn lập có thanh điệu. Chúng tôi chọn ba tiêu chí này làm cơ sở để chọn lọc các

thành ngữ tiếng Anh phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án.

1.4.3. Quan điểm về thành ngữ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận

Quan điểm truyền thống về thành ngữ chủ yếu quan tâm đến tính khái quát

về mặt nghĩa và tính cố định về mặt cú pháp của thành ngữ. Tuy nhiên, quan điểm

68

truyền thống về thành ngữ lại không thể giải thích một số vấn đề khác nảy sinh,

trong số đó phải kể đến một vấn đề cốt lõi đó là tính bất khả của quan điểm truyền

thống trong việc phản ánh hệ tư tưởng mang tính ẩn dụ của người sử dụng ngôn

ngữ. Do đó, quan điểm truyền thống không thể giải thích tại sao có nhiều thành ngữ

lại được người sử dụng ngôn ngữ hiểu chỉ theo nghĩa biểu trưng của chúng [80].

Việc nghiên cứu thành ngữ đã trở thành một lĩnh vực quan tâm hàng đầu của các

nhà ngôn ngữ học tri nhận. Một số nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận (ví dụ, Gibbs

[80]; [81]; Gibbs và O'Brien [83]; Kövecses và Szabó [107]; Lakoff [108]) đã chỉ ra

rằng nghĩa của thành ngữ không chỉ đơn giản được khuôn định và từ vựng hóa sẵn.

Những nghiên cứu này cho thấy rằng sự phân định chặt chẽ nghĩa đen với nghĩa

bóng không đủ để lý giải quy trình kiến tạo thành ngữ, mà đúng ra, việc lý giải này

nằm ở mức độ, mà căn cứ theo mức độ đó, những nét nghĩa nguyên văn của các từ

thành tố của thành ngữ góp phần tạo nên nghĩa của toàn thành ngữ [80].

Theo ngôn ngữ học tri nhận, thành ngữ được khẳng định có nguyên do về ý

niệm. Điều này được hiểu rằng nghĩa của nhiều thành ngữ có vẻ tự nhiên và tường

minh với chúng ta bởi vì ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm và tri thức quy ước giúp liên

kết nghĩa nguyên văn của các từ thành tố với nghĩa biểu trưng của toàn thành ngữ.

Bên cạnh nguyên do mà các cơ chế ý niệm nêu trên tạo ra, các thành ngữ, các phép

ẩn dụ và hoán dụ còn được cho là bị tác động bởi phép hiện thân (xem Lakoff

[108]; Johnson [96]; Lakoff và Johnson [114]) .

Nghĩa của thành ngữ cũng liên quan đến tính năng có thể phân tích hoặc

không phân tích của thành ngữ. Như Gibbs ([81], tr.422) chỉ ra rằng: “Thành ngữ có

lẽ phân tích được nhờ vào nghĩa của các từ thành tố của thành ngữ ấy góp phần một

cách độc lập vào nghĩa biểu trưng tổng thể của thành ngữ.” Gibbs [81] cho rằng có

nhiều mức độ khác nhau của khả năng phân tích, và do đó, thành ngữ tiếng Anh lay

down the law (tạm dịch: đặt ra luật lệ) dễ phân tích nghĩa hơn thành ngữ fall off the

wagon (dịch sát ý: ngã khỏi xe ngựa/ nghĩa thành ngữ: uống rượu trở lại), và nó có

thể phân tích nghĩa dễ hơn thành ngữ kick the bucket (dịch sát ý: đá cái xô/ nghĩa

thành ngữ: chết).

69

Sự linh hoạt về mặt từ vựng cũng góp phần vào mức độ nghĩa biểu trưng của

thành ngữ. Tính năng không thể phân tích cũng ảnh hưởng đến việc hiểu thành ngữ.

Do vậy, nghĩa của một thành ngữ có khả năng phân tích cao hơn bao nhiêu thì việc

hiểu thành ngữ ấy càng dễ dàng và nhanh hơn bấy nhiêu. Theo Gibbs ([81], tr.428),

lý do kiến giải điều này là vì nghĩa nguyên văn của các biểu thức ngôn ngữ mà có

thể phân tích nghĩa đã góp phần trực tiếp vào nghĩa biểu trưng của chúng. Bằng

cách này, nghĩa nguyên văn và nghĩa biểu trưng của một thành ngữ có thể được xử

lý đồng thời.

Như vậy, nghĩa của các thành ngữ mang tính nguyên do và không võ đoán

theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận. Nghiên cứu ngôn ngữ tâm lý học [80]

cũng cho thấy rằng nhiều nghĩa thành ngữ được tạo nên nhờ kiến thức về ý niệm

của người sử dụng, bao gồm cả hệ tư tưởng mang tính ẩn dụ và hoán dụ. Tuy nhiên,

cũng có những trường hợp mà dường như không hề xuất hiện nguyên do ý niệm về

nghĩa của thành ngữ (ví dụ kick the bucket / đá cái xô). Vì vậy, không thể tuyên bố

rằng tất cả các thành ngữ đều mang tính ẩn dụ, và rằng tất cả các biểu thức ngôn

ngữ ẩn dụ đều là thành ngữ. Có những biểu thức mang tính ẩn dụ cao hơn được kiến

tạo bằng các ẩn dụ ý niệm hơn là bằng thành ngữ ẩn dụ (xem Kövecses [105]). Tuy

nhiên, những ẩn dụ ý niệm như thế tham gia vào hai miền ý niệm cùng tồn tại trong

bản thân chúng (ví dụ, burn with love: đốt cháy bằng tình yêu: LOVE + FIRE /

YÊU + CHÁY), và do đó chúng tạo ra các kết nối trong hệ thống ý niệm của chúng

ta.

Như đã đề cập ở trên, hầu hết các thành ngữ là sản phẩm của hệ thống ý niệm

của chúng ta, và vì vậy chúng không chỉ đơn giản là vấn đề ngôn ngữ và từ vựng.

Bên cạnh hình thức cấu tạo của một thành ngữ, tức gồm các mục từ vựng và các

thuộc tính cú pháp, thì một thành ngữ còn mang nghĩa biểu trưng, tức là ý nghĩa

tổng thể đặc biệt của nó [105]. Các miền ý niệm về kiến thức hữu quan có quan hệ

lẫn nhau thông qua các cơ chế tri nhận như ẩn dụ và hoán dụ ý niệm. Gibbs và

O'Brien [83] đã cho thấy rõ vai trò của các miền ẩn dụ ý niệm khác nhau bằng ví dụ

minh họa các thành ngữ biểu thị cảm xúc giận như “blow one’s stack” (thổi nút chai

của ai đó), “flip one’s lid” (thổi bay cái nắp của ai đó), “hit the ceiling” (chạm trần

70

nhà) với nghĩa biểu trưng rất giận, thường được hiểu theo cách tương tự nhau, bởi

vì người ta thường hồi tưởng lại hình ảnh và kiến thức cụ thể tương tự nhau diễn ra

trong chính tình cảnh ấy. Điều này là do các ẩn dụ ý niệm như TRÍ ÓC LÀ VẬT

CHỨA và GIẬN LÀ MỘT CHẤT LỎNG NÓNG TRONG VẬT CHỨA tồn tại và

hoạt động trong hệ thống ý niệm của người sử dụng tiếng Anh.

Hoán dụ ý niệm cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nghĩa cho

thành ngữ, chẳng hạn như thành ngữ hold one’s hand (dịch sát ý: giữ bàn tay của ai

đó / nghĩa thành ngữ: chờ xem). Ở đây, hoán dụ ý niệm BÀN TAY ĐẠI DIỆN

CHO HOẠT ĐỘNG / HÀNH ĐỘNG kiến tạo nghĩa của thành ngữ, bên cạnh kiến

thức thông thường của chúng ta về bàn tay và chuyển động của bàn tay. Kiến thức

thông thường, được hiểu là thông tin được chia sẻ mà cộng đồng ở một nền văn hóa

cụ thể sở hữu có liên quan đến một miền ý niệm (xem [105]), cũng là một động lực

thúc đẩy quan trọng. Các kiến thức quy ước khái quát không mang tính ẩn dụ và

hoán dụ về các miền ý niệm cho phép chúng ta hiểu các thành ngữ có liên quan đến

các miền ý niệm cụ thể. Ngoài ra, những cơ chế tri nhận này có thể cùng tập hội và

tạo động lực cho nghĩa tổng quát của thành ngữ, như trong trường hợp của thành

ngữ “gain the upper hand” (tạm dịch: có được bàn tay trên, nghĩa thành ngữ: giữ

thế thượng phong), theo đó bàn tay (hand) được kiến tạo nghĩa nhờ hoán dụ BÀN

TAY ĐẠI DIỆN CHO SỰ KIỂM SOÁT, và phía trên (upper) được kiến tạo bởi ẩn

dụ ý niệm KIỂM SOÁT LÀ HƯỚNG LÊN (xem [105]).

Như vậy, thành ngữ không chỉ đơn thuần là những biểu thức có ý nghĩa

tương đối đặc biệt trong mối tương quan với những nét nghĩa mà các thành tố bộ

phận mang lại cho thành ngữ. Thay vào đó, thành ngữ xuất phát từ kiến thức tổng

quát của chúng ta về thế giới được nhập thân hóa vào trong hệ thống ý niệm của

chúng ta. Đa số thành ngữ do đó có tính ý niệm, và về bản chất không còn ý nghĩa

của ngôn ngữ thông thường. Vì lý do này, việc nghiên cứu thành ngữ theo hướng

ngôn ngữ học tri nhận giúp soi rọi những khía cạnh quan trọng của tư duy thông

thường của con người.

71

1.5. Tiểu kết

Chương một chủ yếu trình bày bốn nguyên lý chủ đạo của ngữ nghĩa học

tri nhận làm nền tảng cho lý thuyết ẩn dụ ý niệm, đó là (1) Cấu trúc ý niệm được

nhập thân hóa, (2) Cấu trúc ngữ nghĩa là cấu trúc ý niệm, (3) Biểu hiện nghĩa có

tính bách khoa, và (4) Quá trình tạo nghĩa là quá trình ý niệm hóa. Lý thuyết ẩn

dụ ý niệm là một khung lý thuyết được phát triển sớm nhất của ngữ nghĩa học tri

nhận nhằm thúc đẩy nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và kinh

nghiệm nhập thân. Nó dựa trên ba mệnh đề quan trọng: thứ nhất, ẩn dụ là một

hiện tượng thuộc về nhận thức; thứ hai, ẩn dụ phải được phân tích như là một

ánh xạ giữa hai miền; và thứ ba, ngữ nghĩa học căn cứ vào kinh nghiệm luận.

Các thành phần cấu tạo nên ẩn dụ tri nhận bao gồm (1) Cơ sở kinh nghiệm, (2)

Miền nguồn, (3) Miền đích, (4) Mối quan hệ giữa miền nguồn và miền đích, (5)

Các biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ, (6) Ánh xạ, (7) Quan hệ kéo theo, (8) Phép hòa

trộn, (9) Hiện thực hóa phi ngôn ngữ, (10) Các mô hình văn hóa. Bên cạnh đó,

hệ thống ý niệm cảm xúc được trình bày với mô hình ẩn dụ tổng loại CẤU

TRÚC SỰ KIỆN được luận giải nhằm kiến tạo CẤU TRÚC Ý NIỆM CẢM

XÚC. Các miền nguồn ánh xạ, lược đồ hình ảnh VẬT CHỨA và bốn miền

nguồn phổ quát của các loại cảm xúc cũng được lần lượt trình bày làm cơ sở lý

luận cho nội dung phân tích đối tượng nghiên cứu của luận án. Các quan điểm

về thành ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh, đặc biệt là quan điểm của ngôn ngữ

học tri nhận, được trình bày chi tiết, và quan trọng hơn các tiêu chí nhận diện

thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh cũng được xác nhận làm cơ sở cho việc khảo

sát đối tượng của luận án. Ngoài ra, luận án trình bày các vấn đề liên quan đến

nghiên cứu cảm xúc, đồng thời cũng xác định đường hướng nghiên cứu cảm xúc

theo quan điểm ngôn ngữ học tri nhận là định hướng của công trình này. Các

phạm trù cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt

và tiếng Anh với số lượng nhiều nên chúng tôi tập trung nghiên cứu những

thành ngữ này. Chương tiếp theo đi sâu nghiên cứu ẩn dụ ý niệm cảm xúc được

biểu đạt trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh nhằm tìm ra được cơ chế phổ

quát, đồng thời làm rõ đặc trưng văn hóa của cộng đồng thể hiện trong ngôn

ngữ.

72

Chương 2 ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC

TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH

2.1. Tiểu dẫn

Trong chương này, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày và phân tích đặc điểm ẩn

dụ ý niệm cảm xúc của thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, giới hạn trong năm loại

cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu dựa trên cơ sở lý luận của Lý thuyết ẩn dụ ý niệm

ngữ nghĩa học tri nhận, các miền nguồn và lược đồ hình ảnh từ ẩn dụ cấu trúc cảm

xúc (Lakoff [110], [111]), lý thuyết lược đồ hình ảnh (Johnson [96]) và các mô

hình ẩn dụ cảm xúc (Kövecses [103]) mà chúng tôi đã giới thiệu trong chương

một. Chúng tôi chọn ra các miền nguồn cơ bản và phổ quát VẬT CHỨA,

PHƯƠNG HƯỚNG, LỰC TÁC ĐỘNG, SỞ HỮU, NHIỆT ĐỘ, SINH THỂ như

là bộ khung phân tích chính, trên cơ sở đó có thể khám phá được những sự tương

đồng và nét khác biệt của hai nhóm thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh về ẩn dụ ý

niệm cảm xúc. Ngoài ra, một số miền nguồn đặc trưng cho từng loại cảm xúc cũng

được chúng tôi chọn lọc và xem xét. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ giải thích cơ chế

tạo nên ẩn dụ ý niệm của năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu trong thành

ngữ tiếng Việt, có so sánh đối chiếu với thành ngữ tiếng Anh tương ứng.

2.2. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc vui trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Vui là cảm xúc mà con người thường mong muốn trong cuộc sống cho bản

thân họ và cho những người chung quanh. Theo Reevy [135, tr.298], thuật ngữ

“vui” hay “hạnh phúc” có thể hiểu theo hai cách: đó là một phản ứng cảm xúc diễn

ra nhanh chóng trước một sự kiện cụ thể nào đó, ví dụ như đoạt giải thưởng, tốt

nghiệp đại học, gặp gỡ người thân, v.v. Một cách hiểu khác đó là xem cảm xúc vui

như một trạng thái cảm xúc tích cực diễn ra lâu dài, giống như thái độ hay tính cách

con người. Đứng ở góc độ ngôn ngữ học, nhằm mục đích biểu thị cảm xúc vui,

người nói tiếng Anh đã tạo ra một loạt các phép ẩn dụ ý niệm. Một số ý niệm quan

trọng đã được Barcelona [61] nghiên cứu dựa theo khung lý thuyết ngôn ngữ học tri

73

nhận, và các mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui cũng được Kövecses [103, tr.24-25]

xác định trong tiếng Anh. Trong phần phân tích tiếp theo đây, chúng tôi tiến hành

khảo sát các miền nguồn đặc trưng cho ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui biểu thị trong

thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh và lý giải các hiện tượng ẩn dụ cảm xúc này theo

quan điểm ngữ nghĩa học tri nhận.

2.2.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT CHỨA

Miền nguồn VẬT CHỨA có sức ảnh hưởng lớn lên việc tạo lập nghĩa cho

thành ngữ biểu thị cảm xúc vui, đó là mô hình THỰC THỂ LÀ VẬT CHỨA HAY

KHU VỰC ĐƯỢC BAO BỌC. Ẩn dụ VẬT CHỨA có ý nghĩa quan trọng xuất phát

từ lý luận bên trong của lược đồ hình ảnh vật chứa. Lập luận cơ bản của nó đã được

Lakoff [109] nêu ra, về sau Ruiz de Mendoza [136] đã đề xuất một phiên bản mở

rộng với 7 quan niệm về VẬT CHỨA mà chúng tôi đã trình bày ở chương một. Các

ý niệm nêu trên có tác động đến ý niệm cảm xúc, đặc biệt là cảm xúc vui. Mô hình

ẩn dụ ý niệm THỰC THỂ LÀ VẬT CHỨA HAY KHU VỰC ĐƯỢC BAO BỌC có

thể được cụ thể hóa bằng hai mô hình ẩn dụ: THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG HAY

TRẠNG THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA và CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA.

Trong mô hình ẩn dụ ý niệm THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG HAY TRẠNG

THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA, hai khía cạnh (e) và (f) của lý luận VẬT

CHỨA do Ruiz de Mendoza [136] đề xuất có liên quan đến sự phân loại này. Theo

đó, khía cạnh (e) của lý luận VẬT CHỨA cho rằng phần bên trong của vật chứa,

trong trường hợp đang xét là trạng thái cảm xúc vui, có thể ngăn các thực thể bên

trong vật chứa khỏi tác động của các điều kiện bên ngoài theo hướng tích cực hay

tiêu cực. Cái thực thể bên trong đang nói đến là chủ thể con người. Còn khía cạnh

(f) của lý luận VẬT CHỨA lập luận rằng khả năng tương tác và kiểm soát của các

thực thể bên trong vật chứa với thế giới bên ngoài phụ thuộc vào tính chất năng

động của chúng. Đôi khi chúng ta nghĩ chính bản thân chúng ta hoặc người khác

như đang bên trong một vật chứa. Các điều kiện bên trong vật chứa được xem là có

ảnh hưởng đến chúng ta, đó có thể là tích cực (tạo nên cảm xúc vui) hay tiêu cực

(gây ra cảm xúc buồn). Để thiết lập định hướng giá trị các điều kiện này, mô hình ẩn

74

dụ VẬT CHỨA thường tương tác với những mô hình ẩn dụ khác như mô hình

ĐỊNH HƯỚNG, trong đó VUI LÀ HƯỚNG LÊN. Qua khảo sát chúng tôi phát hiện

có 9 thành ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui có sử dụng ẩn dụ ý niệm THỰC THỂ

TRỪU TƯỢNG LÀ VẬT CHỨA: mở lòng mở dạ, nở ruột nở gan, nở gan nở ruột,

nở từng khúc ruột, như nở từng khúc ruột, được lời như cởi tấm lòng, mở cờ trong

bụng, như mở cờ trong bụng (lòng), vui như mở cờ (trong bụng).

Cảm xúc vui được biểu hiện trong các thành ngữ tiếng Việt nêu trên được ví

như là một thực thể, có thể mở ra, nở ra, hay cởi ra như một vật thể trong thế giới

hiện thực. Chủ thể con người là đối tượng bị tác động và kiểm soát bởi vật chứa trừu

tượng này, đó là cảm xúc vui. Tính chất định hướng của phép ẩn dụ ý niệm vui cũng

được ngầm hiểu thông qua các động từ mở, nở hay cởi này. Khi một vật được mở ra,

vật ấy được làm cho hoặc ở trạng thái không còn bị đóng kín, khép kín, bịt kín, mà

trong ngoài, bên này bên kia thông được với nhau [53, tr.644]. Hay khi một vật nở

ra, vật ấy xòe mở ra các hướng một cách tự nhiên [53, tr.741], hoặc khi chúng ta cởi

một vật, nghĩa là chúng ta gở, tháo chỗ buộc ra [53, tr.217]. Bộ phận cơ thể người

được dùng để làm vật chứa trong các thành ngữ trên đó là lòng, dạ, bụng, ruột, gan.

Đây là các bộ phận bên trong cơ thể, có đặc tính không hiển lộ ra bên ngoài, nên

con người không thể nhìn thấy được. Tuy vậy, các bộ phận cơ thể này vẫn được

người Việt vận dụng vào việc kiến tạo nên ý niệm ẩn dụ cảm xúc vui cho các thành

ngữ tiếng Việt và vẫn được hiểu đúng với bản chất của ý nghĩa biểu thị niềm vui của

chúng, đó là nhờ vào sự liên tưởng của người nói hay người nghe giữa một bên là ý

niệm trừu tượng (cảm xúc) và một bên là ý niệm vật chứa (bộ phận bên trong cơ thể

người).

(28) “Nhưng mặc dù biết vậy, khi nghe nó tán hươu tán vượn tôi vẫn cảm

thấy nở từng khúc ruột và trong tâm trạng cực kỳ phấn khởi đó, tôi đã tuyên bố cho

luôn nó bộ cờ bằng ngà hiện nó đang mượn của tôi.” (Trích Cô gái đến từ hôm qua,

chương 4, Nguyễn Nhật Ánh)

75

Thành ngữ tiếng Anh cũng vận dụng ẩn dụ cảm xúc vui với mô hình THỰC

THỂ TRỪU TƯỢNG HAY TRẠNG THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA thông qua

5 thành ngữ sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

rất thích thú có tâm trạng vui vẻ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui 1. be in one’s element trong môi trường của ai 2. enter/get into the spirit of sth 3. in good spirits bước vào trạng thái tinh thần của điều gì trong tinh thần tốt

4. in high spirits trong tinh thần cao độ

5. in raptures trong trạng thái mê ly tâm trạng vui vẻ, phấn chấn tâm trạng vui vẻ, phấn chấn trạng thái mê ly, phấn khích

Môi trường (element), tinh thần (spirit), trạng thái mê mẫn (rapture) là

những ý niệm trừu tượng, nhưng chúng lại được xem là vật thể trong thế giới hiện

thực, có thể nằm bên trong, hay có thể bước vào bên trong chúng thông qua việc sử

dụng các giới từ in và into thể hiện qua các ví dụ sau:

(29) You can tell he's completely in his element when he's talking about his

favorite hobby. (Bạn có thể thấy anh ta rất thích thú khi anh ấy nói về sở thích của

mình.)

(30) They went to the tennis club a few times but never really got into the

spirit of it. (Họ đến câu lạc bộ tennis được vài lần nhưng chưa bao giờ cảm thấy vui

vẻ với nó cả.)

(31) The patient is in good spirits and that will speed her recovery. (Bệnh

nhân đang trong tâm trạng vui vẻ và sẽ nhanh chóng hồi phục sức khỏe.)

(32) They were all in raptures over the new baby. (Họ đang phấn khích về

đứa bé mới sinh.)

Như vậy, chủ thể con người trong bốn ví dụ này bị tác động và kiểm soát bởi

vật chứa là trạng thái cảm xúc vui, phù hợp với mô hình ẩn dụ VẬT CHỨA của

Lakoff và Ruiz de Mendoza đã nêu, với vật chứa là thế giới tinh thần mà người

muốn được vui có thể bước vào không gian giới hạn ấy. Khi con người đang ở bên

76

trong vật chứa, họ có khả năng bị ảnh hưởng bởi những gì họ tìm thấy trong vật

chứa đó. Người ta có thể đi vào một trạng thái cảm xúc hoặc thoát ra khỏi trạng thái

cảm xúc ấy giống như thể người ta bước vào hoặc thoát khỏi một vật chứa hay khu

vực được bao bọc nào đó.

Một mô hình khác của ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT

CHỨA được xem phổ biến là mô hình ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA. Ở

đây, chúng tôi sử dụng khía cạnh (g) của lý luận VẬT CHỨA. Vì trong phép ẩn dụ

này vật chứa là một thực thể trải nghiệm với cảm xúc, và đặc tính tích cực của các

thực thể được tìm thấy bên trong nó sẽ gây ra cảm xúc vui mừng. Điều này có mối

quan hệ với những gì Lakoff [111] gọi là ẩn dụ NGƯỜI BỊ PHÂN LIỆT. Trong đó

chúng ta cảm nhận con người là một tập hợp của hai thực thể tách biệt nhau, gồm

bản thể và chủ thể. Theo cách hiểu này, bản thể là khía cạnh chức năng sinh lý và

cơ thể của một người, bao gồm cả những cảm xúc của người ấy. Chủ thể là ý thức

và sự lý luận mà con người trải nghiệm. Khi ứng dụng loại ẩn dụ này vào các biểu

thức cảm xúc, chúng ta có thể lập luận rằng con người là ẩn dụ vật chứa thì trong

thực tế, bản thể cũng là ẩn dụ vật chứa. Cảm xúc thường được xem như là chất lỏng

nằm bên trong bản thể và được kiểm soát bởi chủ thể. Bất kỳ thay đổi nào mà không

thể kiểm soát sự cân bằng cảm xúc bình thường của một người thì được xem có khả

năng tạo nên một số hiệu ứng vật lý lên bản thể. Ví dụ, biểu thức ẩn dụ tiếng Anh

burst with joy (bùng nổ với niềm vui sướng) cho thấy một phản ứng vật lý mạnh mẽ

của bản thể mà đã không được chủ thể kiểm soát. Điều này xảy ra khi ứng dụng

khía cạnh (g) của lý luận VẬT CHỨA. Thành ngữ tiếng Anh có hai đơn vị như sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui 1. feel/be full of the joys

of spring 2. burst with joy cảm thấy hạnh phúc, vui tươi và sinh động rạng rỡ vì vui mừng cảm thấy/ đầy niềm vui của mùa xuân bùng nổ với niềm vui sướng

Chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm một số ẩn dụ cụ thể và tập hợp chúng lại theo

tên các bộ phận khác nhau của bản thể mà có thể làm vật chứa cảm xúc. Thông qua

77

phương tiện phối cảnh, chúng ta có thể làm nổi bật một số bộ phận của vật chứa và

che khuất một số bộ phận khác (xem Lakoff và Johnson [113]). Ví dụ, nếu con

người là vật chứa, thì các bộ phận khác nhau của cơ thể hoặc bản thể cũng là vật

chứa. Như vậy, sự chú ý có thể được tập trung vào bộ phận đầu bất chấp các bộ

phận khác như thân mình, chân tay, v.v. Đây thuộc về khái niệm ẩn dụ quy ước mà

Lakoff và Johnson gọi là các bộ phận đã sử dụng hoặc chưa sử dụng của phép ẩn

dụ. Lakoff và Johnson [113, tr.53] đã tuyên bố rằng: “cấu trúc ẩn dụ của các ý niệm

được phản ánh thông qua lớp từ vựng của ngôn ngữ, bao gồm cả các biểu thức cố

định.” Chẳng hạn, biểu thức tiếng Anh “The allegations made in the article were

completely without foundation” (Các các buộc trong bài viết này hoàn toàn không

có căn cứ) dựa vào cấu trúc bề mặt của ẩn dụ LÝ THUYẾT LÀ TÒA NHÀ. “Căn

cứ” (foundation) là bộ phận đã sử dụng để kiến tạo nên ý niệm LÝ THUYẾT, trong

khi “mái nhà”, “cầu thang”, “tiền sảnh”, v.v. lại thuộc về bộ phận chưa sử dụng của

loại ẩn dụ này.

Bộ phận cơ thể người có thể được phân thành hai loại dựa trên trải nghiệm tri

giác: bộ phận bên ngoài cơ thể và bộ phận bên trong cơ thể. Bộ phận bên ngoài cơ

thể là những bộ phận cơ thể có thể nhìn thấy được, sờ nắn được. Chúng có thể là

đầu, mặt, mắt, mũi, miệng, tay, chân, v.v. Bộ phận bên trong cơ thể là những bộ

phận cơ thể mà chúng ta không thể nhìn thấy hay sờ mó được vì chúng ở bên trong

vùng bụng và ngực của con người. Chúng là tim, phổi, gan, lá lách, thận, dạ dày,

ruột, v.v. Do vậy, mô hình ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA có thể được phân

thành 2 tiểu mô hình ẩn dụ: BỘ PHẬN BÊN NGOÀI CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA

CẢM XÚC và BỘ PHẬN BÊN TRONG CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC.

Đối với tiểu mô hình ẩn dụ thứ nhất BỘ PHẬN BÊN NGOÀI CƠ THỂ LÀ

VẬT CHỨA CẢM XÚC VUI, bộ phận bên ngoài cơ thể có thể liệt kê ra rất nhiều,

và chúng được sử dụng như miền nguồn cho việc kiến tạo các ẩn dụ ý niệm cảm

xúc, nhưng không phải bộ phận nào cũng được ẩn dụ hóa cho ý niệm cảm xúc cả.

Qua khảo sát các thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc vui, chúng tôi phát hiện các

78

bộ phận bên ngoài cơ thể sau đây được vận dụng vào việc kiến tạo nghĩa cho thành

ngữ, đó là mặt, tay, mắt.

Chúng ta cũng có thể bắt gặp các trường hợp liên quan bề mặt của vật chứa,

ví dụ như khuôn mặt. Tiếng Việt ghi nhận có 6 thành ngữ biểu thị niềm vui có sử

dụng từ mặt: mát mày mát mặt, mặt tươi như hoa, mừng mặt bắt tay, nở mày nở

mặt, nở mặt nở mày, tay bắt mặt mừng. Trong số các bộ phận bên ngoài cơ thể

người, mặt là một trong những bộ phận cơ thể quan trọng nhất, có lẽ là do con người

luôn dùng mặt như là bộ phận cơ thể đầu tiên đề tiếp xúc với thế giới chung quanh

và nó cũng là bộ phận cơ thể có khả năng biểu đạt các yếu tố tâm lý, cảm xúc và

thái độ sâu sắc nhất. Trong các thành ngữ tiếng Việt nêu trên, từ “mặt” biểu trưng

cho cảm xúc hiển lộ ra bên ngoài, cụ thể là cảm xúc vui. Khi cảm thấy vui, khuôn

mặt con người giãn ra, có thể do khi vui người ta cười nhiều, nên các cơ mặt và

khóe miệng theo đó căng giãn ra. Kinh nghiệm nhập thân này có lẽ kiến tạo nên ẩn

dụ ý niệm cảm xúc vui với từ “mặt” được sử dụng kết hợp với động từ “nở” trong

nở mày nở mặt, nở mặt nở mày. Mặt cũng được xem như là một sinh thể, nên khi

vui hay có cảm xúc tích cực thì sinh thể có sức sống, cũng như hoa khi có sức sống

sẽ rất tươi (mặt tươi như hoa), hay như sinh thể cảm thấy mát mẻ là lúc cảm xúc tích

cực nhất. (mát mày mát mặt). Do vậy, việc kết hợp mừng với từ “mặt” để biểu thị

niềm vui phát lộ ra bên ngoài, không che giấu được cũng có thể được xem như là ẩn

dụ ý niệm với mô hình MẶT LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC VUI.

(33) Các kỳ thủ Việt Nam đã làm làng thể thao Việt Nam thêm “mát mày mát

mặt” khi giành cả 3 vé của khu vực 3.3 để tham dự World Cup cờ vua 2015. Đấy là

thành tích ngoài dự kiến của những nhà quản lý vì có mạnh dạn đến mấy thì họ

cũng chỉ đặt mục tiêu giành 2 suất tham dự vòng chung kết World Cup cờ vua 2015.

(Trích Cờ vua Việt Nam giành 3 vé dự World Cup: Mát mày mát mặt!,

www.tinthethao365.com.vn, 18/3/2015)

Ở nhóm thành ngữ tiếng Anh được khảo sát, chúng tôi chỉ phát hiện một

thành ngữ sử dụng từ “face” (mặt) khi biểu thị cảm xúc vui, đó là “put a brave face

on sth” (tạm dịch: mang khuôn mặt can đảm trước việc gì đó) với ý nghĩa là “xử sự

79

theo cách khiến người ta nghĩ rằng chúng ta vui nhưng thực ra không vui” [126,

tr.49]. Ví dụ như:

(34) “She's very ill but she's putting a brave face on it.” (Cô ấy bệnh nặng

nhưng vẫn gắng gượng vui.)

Trong ngữ cảnh này, cô gái giả vờ vui để khiến mọi người tin rằng bệnh tật

không làm cô ấy lo lắng.

Ngoài ra, tiếng Việt có ba thành ngữ sử dụng từ chỉ bộ phận bên ngoài cơ thể

là tay để biểu thị ý niệm cảm xúc vui mà chúng tôi không phát hiện có sử dụng

trong tiếng Anh: mừng mặt bắt tay, tay bắt mặt mừng, múa tay trong bị. Hành vi

“bắt tay” được xem là các biểu lộ cảm xúc và thái độ của người tham gia giao tiếp

với người khác. Hành vi “bắt tay” thường song hành với “mặt mừng” để biểu thị

niềm vui, là một kiểu ẩn dụ cảm xúc vui khá quen thuộc trong tâm thức người Việt.

Còn thành ngữ “múa tay trong bị” sử dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo trong dân gian.

Có ý kiến cho rằng đây là lối thể hiện niềm vui của những người hành khất, khi

được nhiều của bố thí thì họ rất vui sướng, nhưng họ không “khua chân múa tay”

như lẽ thường mà chỉ “múa tay trong bị” để che dấu niềm vui. Từ niềm vui đáng

thương của người hành khất, thành ngữ trên được dùng với ý nghĩa biểu thị sự khoái

trá, niềm vui sướng ngấm ngầm của con người, cái niềm vui phải giấu đi không cho

ai biết.

(35) “…Cũng với lối tù mù thông tin, có một bộ phận cán bộ có thẩm quyền

“múa tay trong bị” thu lợi cá nhân, thậm chí có chủ trương rất tốt của Nhà nước

khi về đến cơ sở cũng bị triển khai thực hiện sai lệch…” (Trích Múa tay trong bị,

www.baoquangnam.com.vn, 2/11/2009)

Tuy nhiên, hai bộ phận bên ngoài cơ thể khác là môi và tai lại được sử dụng

trong nhóm thành ngữ tiếng Anh này, chẳng hạn như “lick one's lips” (liếm

môi/cảm thấy hăm hở), “grin from ear to ear” (cười toét miệng đến mang tai/ quá

vui), “music to your ears” (nhạc đến tai của bạn/ điều nghe đến rất dễ chịu).

Ở mô hình ẩn dụ MẮT LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC, mắt là bộ phận quan

trọng của con người. Phần lớn những gì chúng ta trải nghiệm và học hỏi đều thông

80

qua mắt. Hướng mắt khác nhau được xem như là dấu hiệu của những cảm xúc khác

nhau. Vì vậy, mắt trở thành vật chứa cảm xúc. Tiếng Anh có 3 thành ngữ biểu thị

cảm xúc vui sử dụng mô hình ẩn dụ về mắt như sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui

1. starry-eyed 2. stars in one's eyes mắt hình ngôi sao ngôi sao trong mắt ai đó

mắt sáng và đuôi xù tràn trề niềm vui và hy vọng đôi mắt sáng ngời niềm hạnh phúc sôi nổi và vui vẻ, hớn hở 3. bright-eyed and bushy-tailed

Ở hai thành ngữ đầu, từ “mắt” (eye) kết hợp với hình ảnh “ngôi sao” (star)

tạo nên nghĩa ẩn dụ cho thành ngữ. Khả năng kết hợp của hai ý niệm, một ý niệm về

bản thể con người thông qua tên gọi bộ phân cơ thể người và một ý niệm về vật thể

không gian là ngôi sao cho chúng ta thấy mức độ ẩn dụ cao của thành ngữ. Quan sát

của người Anh và Mỹ dựa trên quan điểm kinh nghiệm luận cho rằng khi vui, mắt

con người trở nên long lanh và trong sáng hơn, giống như sự long lanh và trong

sáng của các vì sao trên bầu trời đêm vậy. Chúng tôi không phát hiện thấy tiếng

Việt có sử dụng từ “mắt” ở cấp độ thành ngữ mà chỉ ở cấp độ cụm từ khi biểu thị

niềm vui như: mắt long lanh, mắt nheo lại, cười tít mắt, v.v. Tuy nhiên, hình ảnh

“mắt” lại được dùng để ẩn dụ hóa các loại cảm xúc khác mà chúng tôi sẽ trình bày ở

những nội dung tiếp theo.

Đối với tiểu mô hình ẩn dụ thứ hai BỘ PHẬN BÊN TRONG CƠ THỂ LÀ

VẬT CHỨA CẢM XÚC VUI, các bộ phận bên trong cơ thể cũng được xem là miền

nguồn cho các mô hình ẩn dụ ý niệm vui trong tiếng Việt và tiếng Anh. Qua khảo

sát hai nhóm thành ngữ cảm xúc vui tiếng Việt và tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy bộ

phận bên trong cơ thể được sử dụng là trái tim với mô hình TRÁI TIM LÀ VẬT

CHỨA CẢM XÚC VUI. Đối với thành ngữ biểu thị niềm vui, chúng tôi chỉ phát

hiện 3 thành ngữ sau đây với miền ẩn dụ ý niệm về trái tim trong tiếng Anh:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui 1. gladden one’s heart làm tim ai vui lên làm ai vui lên

81

2. warm the cockles of làm cho ai vui sướng one’s heart

3. with a light heart cảm thấy vui sưởi ấm lò sưởi của trái tim với một trái tim nhẹ nhàng

Theo quan niệm phương Tây, “trái tim” biểu trưng cho cảm xúc và tình cảm

thì trong các ngôn ngữ phương Đông người ta lại thường dùng lục phủ, ngũ tạng.

Theo Đông y, lục phủ gồm: dạ dày, ruột non, ruột già, bàng quang, mật và tam tiêu.

Đây là những cơ quan chủ yếu mang chức năng tiêu hóa, hấp thụ và truyền dẫn (phủ

dĩ thông vi dụng). Còn ngũ tạng gồm tim, phổi, lá lách, gan, thận. Đây là những cơ

quan chủ yếu để tàng trữ tinh, khí, thần, huyết (tạng dĩ tàng vi chủ). Thật ra, cái

nhìn của dân gian không quá rạch ròi như vậy. Thậm chí trong khá nhiều trường

hợp, cả lòng, bụng, dạ, ruột, gan, v.v. đều nằm trong cùng một trường nghĩa biểu

trưng. Tuy nhiên, ở tiếng Việt chúng tôi không phát hiện thành ngữ biểu thị niềm

vui sử dụng từ “tim” hay “tâm”, mà lại sử dụng từ chỉ bộ phận cơ thể khác. Ví dụ:

bụng, dạ, lòng trong các thành ngữ như “hả (hởi) lòng hả (hởi) dạ, mát lòng hả dạ,

mát lòng mát dạ, mừng như mở cờ trong bụng, vui lòng hả dạ”; ruột, gan trong

thành ngữ “mừng nở ruột nở gan, vui như nở từng khúc ruột, mát gan mát ruột.”

Mặc dù cả thành ngữ biểu thị niềm vui trong tiếng Việt và tiếng Anh đều

dùng tên của bộ phận cơ thể để kiến tạo nên ẩn dụ ý niệm cảm xúc, nhưng thông

qua kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy người Anh Mỹ thường dùng hình ảnh

“trái tim”, còn người Việt thì dùng “lòng, bụng, dạ, ruột, gan” cùng để biểu thị một

ẩn dụ ý niệm cảm xúc, đó là cảm xúc vui. Theo Nguyễn Đức Dân [10], lý thuyết ẩn

dụ trong ngôn ngữ học hiện đại cho rằng con người là một vật chứa và thể hiện sự

trải nghiệm thế giới vào ngôn ngữ. Tiếng Việt là một trường hợp điển hình. Với

người Việt, cái bụng là vật chứa tiêu biểu, nó chứa đựng và thể hiện những gì thuộc

phạm trù tinh thần. Trong tiếng Việt, bụng và những bộ phận của cái bụng như lòng,

dạ, gan, ruột, … trở thành biểu tượng cho phạm trù tinh thần. Chúng là một công cụ

biểu hiện tư duy, tâm lý, tình cảm, ý chí, sức chịu đựng [10, tr. 253]. Với cùng nhận

định, Lý Toàn Thắng [43] đi sâu phân tích việc dùng từ “lòng” hay “bụng” trong

82

tiếng Việt khi xét trên bình diện ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ học văn hóa.

Tác giả cho rằng từ “lòng” là một từ thực sự không có khả năng chuyển dịch tương

đương chính xác sang tiếng Anh hay nhiều ngôn ngữ phương Tây khác. Trong các

từ điển Việt-Anh, người ta thường chuyển dịch nó thành: heart “tim”, feeling “cảm

xúc”; nhưng điều này không hẳn đúng và không bao quát nhiều cách dùng của từ

lòng vốn được giải thích đầy đủ hơn trong các từ điển tường giải tiếng Việt, ví dụ

như: “bụng của con người, coi là biểu tượng của ý chí, tinh thần hay những ý nghĩ,

tình cảm sâu kín”. Tuy nhiên, “lòng” cũng không phải là “bụng” (của con người)

như trong lời giải thích vừa dẫn: “lòng” không phải là một cơ quan vật chất nội tạng

của người, không phải là một bộ phận cơ thể người. Thử quan sát hai ví dụ sau đây

sẽ thấy sự khác nhau:

(36) (a) Cô ấy cảm thấy đau lòng quá!

(b) Cô ấy cảm thấy đau bụng quá!

(36a) nói đến cảm xúc buồn, còn (36b) nói đến cảm giác đau về thể chất. Nếu

ta liên hệ thêm từ “lòng” sang “bụng”, ta có thể thấy sự khác nhau (mà các từ điển

tường giải tiếng Việt đã có chỉ ra) giữa chúng là ở chỗ: nếu “lòng” là nơi chứa đựng

của cả ý chí, tinh thần lẫn những ý nghĩ, tình cảm sâu kín; thì “bụng” chứa đựng ít

hơn - chỉ có những ý nghĩ, tình cảm sâu kín mà thôi (chứ không có ý chí hay tinh

thần) [43].

Nhìn chung, cách dùng bộ phận cơ thể biểu trưng cho cảm xúc nội tâm của

con người chính là một dạng của phương thức tư duy hoán dụ dựa trên mối quan hệ

giữa cái chứa đựng và cái được chứa đựng. Do vậy, ngay trong những thành ngữ ẩn

dụ hóa kiểu này, hoán dụ vẫn có ảnh hưởng đến cơ chế tạo lập nghĩa biểu trưng của

thành ngữ, nhưng nó không triệt tiêu nghĩa ẩn dụ của thành ngữ, mà trái lại bổ sung

nghĩa thành ngữ thêm tinh tế và sâu sắc hơn.

2.2.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

Một biểu thức quan trọng được quy định bởi lược đồ hình ảnh hướng lên:

SỰ PHẤN KHÍCH VÀ NIỀM VUI LÀ HƯỚNG LÊN / Ở MỘT VỊ TRÍ CAO.

Lakoff và Johnson [113, tr.15] đã cố gắng giải thích cơ sở kinh nghiệm cho phép ẩn

83

dụ này: “Tư thế thẳng đứng với một trạng thái cảm xúc tích cực.” Nhưng điều này

chỉ giải thích một phần cho lược đồ ẩn dụ này. Vị trí cao là tích cực (hoặc tốt) và

liên quan đến niềm vui.

Qua khảo sát thành ngữ tiếng Việt về niềm vui, chúng tôi phát hiện có thành

ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui thể hiện ẩn dụ ý niệm về hướng LÊN của quan

điểm ngôn ngữ học tri nhận: “lên tận mây xanh”, và các hình thức cải biến từ vựng

của thành ngữ này như “lên chín tầng mây, trên chín tầng mây, tít tận mây xanh, tít

tận cung mây”, tuy số lượng không nhiều như trong nhóm thành ngữ tiếng Anh

tương ứng, nhưng ẩn dụ ý niệm này có thể được tìm thấy ở các cụm từ cố định hoặc

tự do, ví dụ như: lên tinh thần, khuôn mặt sáng bừng lên, nhảy cẩng lên, đi trên

mây, v.v. Tuy nhiên, có thể phát hiện tính chất phương hướng tìm ẩn trong các

thành ngữ tiếng Việt ý niệm cảm xúc vui mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Các

thành ngữ như mở lòng mở dạ, mở cờ trong bụng, cờ mở trống giong, mở mày mở

mặt, vui như mở hội, nở ruột nở gan, nở từng khúc ruột, nở như gạo rang, nở mày

nở mặt, được lời như cởi tấm lòng đều ẩn chứa tính chất phương hướng nhờ vào các

động từ mở, nở, cởi. Tính chất chung của ba động từ này có hướng tỏa ra từ trung

tâm do lực đẩy tác động từ bên trong sự vật hay sự việc, tuy nhiên tính chất phương

hướng này không hẵn là hướng lên, mà là hướng ra mọi phương.

Cơ sở cho hiện tượng sử dụng miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG ở các thành

ngữ tiếng Việt có thể được lý giải dựa trên quan điểm của học thuyết Ngũ hành Âm

dương. Theo đó, có mối quan hệ khăng khít giữa vật đích, chiều hướng, hướng sức,

dáng đầu, nét mặt và loại cảm xúc với ngũ hành theo học thuyết Âm dương Ngũ

hành [38]. Theo học thuyết Âm dương Ngũ hành, chiều hướng phát triển của vạn

vật trong không gian là chiều hướng của thị giác con người theo độ cao tính từ tầm

nhìn trung bình hướng về các phía. Có năm chiều hướng tương ứng với ngũ hành.

Tính phổ biến của quy luật này còn biểu hiện ở hướng sức trong hoạt động của toàn

thân con người tác động vào tự nhiên, và dáng đầu cổ khi nói, từ đó biểu lộ sắc thái

cảm xúc khác nhau: khi vui sướng thì người ta nhảy lên reo múa, bế bổng nhau lên,

ước muốn bay vọt lên [38, tr.225-226].

84

Qua khảo sát thành ngữ biểu thị cảm xúc vui, chúng tôi phát hiện tiếng Anh

có 17 thành ngữ biểu thị niềm vui sử dụng miền nguồn ẩn dụ tri nhận phương thẳng

đứng hay hướng lên:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui 1. be as high as a kite (bay) cao như diều thoải mái, vui vẻ, say tít

2. be flying high 3. be on the tiles 4. float on air 5. give sth the thumbs bay cao trên mái ngói bồng bềnh trên không khí đưa ngón tay cái lên up

6. in good spirits trong tinh thần tốt

7. in high spirits 8. in the seventh trong tinh thần cao độ trên thiên đường thứ bảy hưng phấn tột độ vui chơi trác táng rất vui tán đồng hoặc vui thích về việc gì tâm trạng vui vẻ, phấn chấn vui sướng cao độ vô cùng vui sướng

heaven 9. jump for joy 10. kick up one’s heels nhảy lên vì vui mừng đá gót chân của ai đó

11. on cloud nine 12. on top of the world 13. over the moon trên chín tầng mây trên đỉnh thế giới qua mặt trăng

14. walk on air 15. whoop it up 16. with a light heart 17. with one’s tail up đi bộ trên không khí vỗ tay lên với một trái tim nhẹ nhàng với cái đuôi vểnh lên nhảy lên vì vui sướng nhảy cỡn lên vì vui sướng cự kỳ vui sướng vô cùng sung sướng sung sướng và phấn khích sung sướng vô cùng chơi đùa vui vẻ cảm thấy vui mừng rỡ

Ẩn dụ phương thẳng đứng hay hướng lên trong việc biểu thị ý niệm cảm xúc

vui của các thành ngữ tiếng Anh nêu trên được biểu lộ bằng việc sử dụng từ ngữ chỉ

hướng hay định vị như giới từ “up”, “over”, “on”, hoặc các tính từ “high”, “light”,

hoặc các động từ “float”, “jump”, “kick”. Việc sử dụng danh từ “air” (không khí)

hay “top” (đỉnh) cũng hàm nghĩa chỉ hướng lên trên vì trong định vị phương hướng

về mặt không gian, kinh nghiệm luận cho thấy con người thường chọn mặt đất làm

điểm gốc hay điểm quy chiếu, và “không khí” hay “đỉnh” nếu so với mặt đất thì có

định hướng lên trên. Từ “đỉnh” là một danh từ tự thân đã có định hướng, luôn tồn tại

85

trong mối quan hệ có thể tường minh hay hàm ẩn giữa ý niệm trên và ý niệm dưới.

Khi chúng ta nói trên đỉnh, chẳng hạn trên đỉnh núi, trên đỉnh tháp, nghĩa là chúng

ta đã ngầm chọn điểm quy chiếu là mặt đất, chẳng hạn chân núi hay chân tháp và ý

niệm phương thẳng đứng so với tọa độ mà chúng ta đứng làm hệ quy chiếu được

biểu đạt trong không gian ba chiều.

(37) Ever since she met Mark, she's been walking on air. (Kể từ lúc cô ấy gặp

Mark, cô ấy cứ như đi trên mây/ sung sướng vô cùng.)

(38) Mary was floating on air after she won first prize. (Mary đang bay bổng

trên không trung/ rất vui sau khi cô ấy đoạt được giải nhất.)

Đối với thành ngữ “kick up one’s heels”, ngoài miền ẩn dụ hướng lên thì nó

còn có thể được lý giải bằng việc quan sát hiện tượng con ngựa. Khi được thả khỏi

chuồng để cho vào một cánh đồng rộng lớn, chú ngựa sẽ thường phi nước đại vòng

quanh cánh đồng, thỉnh thoảng có hành động đá hất chân sau lên không trung, biểu

hiện sự vui mừng vì được thả ra ngoài, không bị nhốt trong không gian chật chội.

2.2.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

Phản ứng cảm xúc vui là những chuyển động được thúc đẩy bởi yếu tố bên

ngoài. Cảm xúc được ý niệm hóa là lực và tác động của cảm xúc được coi như là tác

động của lực. Bản thể con người thường được xem là một không gian hoặc một vật

chứa nơi mà những “sự kiện” bên trong như tư tưởng, niềm tin và cảm xúc, v.v.

được tạo ra. Cảm xúc có thể được ý niệm hóa thành nội lực đi vào trong con người

tác động một lực từ bên trong. Ngược lại, những “sự kiện” bên ngoài tác động đến

bản thể con người được xem là ngoại lực. Ngoại lực dạng này được ý niệm thành

vật thể hay vật chất chuyển động có thể tác động một lực lên chúng ta và giúp

chúng ta di chuyển đến đích đến hoặc ngăn cản sự di chuyển của chúng ta để đạt

được mục đích [114, tr.192].

Khi xét đến các thành ngữ tiếng Việt được cấu trúc hóa bởi ẩn dụ ý niệm cảm

xúc vui, chúng tôi thấy có nhiều thành ngữ sử dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

trong việc ánh xạ sang miền đích cảm xúc vui, trong đó có mô hình PHẢN ỨNG

86

CẢM XÚC VUI LÀ NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI YẾU

TỐ BÊN NGOÀI.

1. Chim sổ lồng 8. Mở cờ trong bụng

2. Chuột sa chỉnh gạo 9. Mở lòng mở dạ

3. Lon xon như con gặp mẹ 10. Múa tay trong bị

4. Như bắt được vàng 11. Nở ruột nở gan

5. Như xẩm bắt được gậy 12. Nở từng khúc ruột

6. Như trút được gánh nặng 13. Tay bắt mặt mừng

7. Được lời như cởi tấm lòng

Trong 13 thành ngữ tiếng Việt nêu trên, bản thể con người bị tác động bởi

các yếu tố ngoại vi, biểu hiện qua lớp động từ như sổ, sa, cởi, mở, nở, múa, bắt, trút,

v.v. Đây là những động từ biểu thị sự tác động hay thúc đẩy từ lực tác động bên

ngoài. Các hình ảnh ẩn dụ được sử dụng trong các thành ngữ tiếng Việt này có thể

chia thành hai nhóm: nhóm thành ngữ với hình ảnh ẩn dụ không liên quan đến bản

thể con người (thành ngữ thứ 1 đến 6), nhóm thành ngữ với hình ảnh ẩn dụ liên

quan trực tiếp đến bản thể con người (thành ngữ thứ 7 đến 13). Ở cả hai nhóm này,

ý nghĩa biểu thị cảm xúc vui trong mô hình ẩn dụ LỰC TÁC ĐỘNG này là sâu sắc

và biểu trưng.

(39) Những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ hy sinh là thế, nhưng với

riêng Nguyễn Khải lại là những ngày vui nhất, được gia nhập quân đội, chàng thiếu

niên Nguyễn Khải như con chim sổ lồng, vùng vẫy thỏa thích giữa bầu trời tự do,

bởi thế có lúc mới “tự dưng chạy như thằng rồ” đơn giản chỉ vì “thấy vui quá thì

chạy” mà thôi. (Trích Đôi nét về Nguyễn Khải qua Thượng đế thì cười,

www.vanchuongviet.org, 17/11/2008)

Trong khi đó, tiếng Anh có 8 thành ngữ áp dụng mô hình PHẢN ỨNG CẢM

XÚC VUI LÀ NHỮNG CHUYỂN ĐỘNG ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI YẾU TỐ BÊN

NGOÀI.

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui

1. be in a transport of trong sự chuyển tải của trong niềm hân hoan

87

delight/ joy

2. enter the spirit of sth có tâm trạng vui vẻ

3. go into orbit 4. go overboard 5. give sth the thumbs up niềm vui bước vào trạng thái tinh thần của điều gì đi vào quỹ đạo đi qua mạn tàu đưa ngón tay cái lên

6. give sth a new lease on vui mừng quá phấn khích tán đồng hoặc vui thích về việc gì cảm thấy vui, hài lòng life

7. walk on air 8. float on air vui sướng vô cùng rất vui cho việc gì đó một cuộc sống mới đi bộ trên không khí bồng bềnh trên không khí

Các thành ngữ này được ẩn dụ hóa thông qua miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG,

thể hiện qua các động từ như “transport”, “enter, “go”, “walk”, “float”. Chúng là

những động từ biểu thị sự chuyển động, mà sự chuyển động này diễn ra do một lực

tác động vào chủ thể, và xem cảm xúc vui như là một vật thể có thể di chuyển được.

(40) I looked up to the heavens and praised God, in a transport of delight.

(Tôi ngước nhìn lên bầu trời và cầu nguyện Chúa, trong niềm hân hoan vô cùng.)

Theo mối tương quan giữa thiên nhiên và nhân thể của quan niệm Ngũ hành,

thì “cười” là hiện tượng âm thanh biểu thị hỷ (vui). Tiếng Việt có 9 thành ngữ có sử

dụng từ “cười” để biểu đạt ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui:

Cười lăn cười bò 1. 6. Cười bò lê bò càng

Cười nôn ruột 2. 7. Cười đứt ruột

Cười như nắc nẻ 3. 8. Cười nên tiếng khóc

Cười như phá 4. 9. Cười vỡ bụng

5. Cười như pháo ran

Cười là một hành vi “cử động môi hoặc miệng, có thể kèm theo tiếng, biểu lộ

sự vui thích hay thái độ tình cảm nào đó” [53, tr.231]. Đây là hành vi do chủ thể

thực hiện, xuất phát từ bản thân cảm xúc của chủ thể, nên có thể xem cười là lực tác

động từ bên trong chủ thể (nội lực). Chúng có thể hiển lộ ra ngoài bằng các cử chỉ

như lăn, bò, hay tạo ra âm thanh như pháo, như tiếng đập cánh phành phạch của

những loài bướm lớn bay từng đàn về đêm (nắc nẻ). Hoặc chúng cũng có thể biểu

88

thị sự vui thích nhưng chỉ giấu trong lòng như cười nôn ruột, cười đứt ruột, cười vỡ

bụng hoặc đôi khi niềm vui quá lớn nên bật thành tiếng khóc (cười nên tiếng khóc).

Hành vi cười tạo nên một lực tác động rất mạnh, làm cho thay đổi chủ thể (trong các

thành ngữ: cười lăn cười bò, cười bò lê bò càng, cười đứt ruột, cười vỡ bụng).

Trong thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi chỉ phát hiện 3 tổ hợp thành ngữ có sử

dụng từ “smile” hay “grin”, có nghĩa là mĩm cười, hay cười toe toét, cụ thể như sau:

be all smiles (rất vui vẻ hớn hở), grin / smile from ear to ear (cười toe toét), grin

like a Cheshire cat (toét miệng cười một cách ngẩn ngơ).

Việc phát hiện cả trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị ẩn dụ cảm

xúc vui với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG có sử dụng hành vi cười đã phần nào

minh họa cho tính phổ quát của cảm xúc trong hai nền văn hóa Việt – Anh mà nhà

ngôn ngữ học Wierzbicka [150, tr.275] đã nêu lên: “…tất cả các ngôn ngữ đều có từ

ngữ tương đương, mặc dù không nhất thiết phải giống hệt nhau về ý nghĩa, như từ

cười (smile) đề cập đến biểu hiện cơ học của cảm xúc tích cực…”

2.2.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn ÁNH SÁNG

Miền nguồn ÁNH SÁNG là một trong những miền nguồn được sử dụng để

ánh xạ miền đích cảm xúc. Quan niệm của mỗi dân tộc về ánh sáng khác nhau dẫn

đến miêu tả về trạng thái cảm xúc cũng khác nhau. Mặc dù phạm vi các loại cảm

xúc thuộc về ẩn dụ ÁNH SÁNG thì khá nhiều, nhưng nhìn chung vẫn có sự hạn chế

về loại cảm xúc. Nó phải là một loại xúc cảm với những biểu hiện khác biệt, một

loại xúc cảm thường chỉ có ở người đã trải nghiệm. Nói cách khác, cảm xúc loại này

phải được biểu hiện trên độ sáng của màu sắc trong ánh mắt hay khuôn mặt của

người đó. Độ sáng này tạo nên hiệu ứng ánh sáng truyền từ người trải nghiệm sang

người quan sát. Độ sáng càng nhiều thì biểu hiện cảm xúc có nhiều tích cực càng

cao. Vì thế miền nguồn ÁNH SÁNG được xếp vào loại ẩn dụ văn hóa (theo

Apresjan [59]) và ẩn dụ tri giác. Theo đó, các ánh xạ giữa miền nguồn và miền đích

chủ yếu dựa vào ý nghĩa văn hóa cụ thể.

Tuy thành ngữ tiếng Việt chưa ghi nhận trường hợp nào có sử dụng miền

nguồn ÁNH SÁNG, nhưng chúng tôi nhận thấy thành ngữ tiếng Anh có 6 đơn vị sử

89

dụng miền nguồn ý niệm ÁNH SÁNG để biểu thị miền ẩn dụ ý niệm đích cảm xúc

vui:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui

1. a ray of sunshine tia nắng

sáng và mát nhẹ mắt sáng và đuôi xù (người/ vật) mang lại niềm vui vui trong lòng sôi nổi và vui vẻ, hớn hở

2. be bright and breezy 3. bright-eyed and pushy-tailed 4. over the moon 5. starry-eyed 6. stars in one’s eyes qua mặt trăng mắt hình sao ngôi sao trong mắt ai sung sướng và phấn khích tràn trề niềm vui và hy vọng đôi mắt sáng ngời niềm hạnh phúc

Những hình ảnh được sử dụng để biểu thị ý niệm nguồn ánh sáng trong thành

ngữ tiếng Anh cảm xúc vui bao gồm: tia nắng mặt trời, đôi mắt sáng, ánh trăng, ánh

sao, v.v. Đây là những hình ảnh liên quan đến thiên nhiên và ánh sáng biểu hiện cho

sự tươi mới và sức sống, là ý niệm tích cực, nên được xem như đại diện tiêu biểu

cho cảm xúc vui.

(41) The company's earnings provided a ray of sunshine for investors on

Friday. (Thu nhập của công ty mang lại niềm vui cho nhà đầu tư hôm thứ Sáu.)

2.2.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui với miền nguồn VẬT SỞ HỮU

Mô hình ẩn dụ TRẠNG THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT SỞ HỮU được vận

dụng để biểu thị cảm xúc vui. Trạng thái cảm xúc thường được xem như vật thể có

khả năng di chuyển được. Việc di chuyển liên quan đến lược đồ con đường. Tuy

nhiên, lập luận của loại sơ đồ này có vai trò không quan trọng bằng lý luận vật chứa

vì sự nhấn mạnh ở đây là việc kiểm soát. Miền ánh xạ cấp độ tổng quát này có thể

được mô tả cụ thể như sau:

- Một việc trừu tượng (ví dụ như cảm xúc) sẽ trở thành một sự việc hay sự

vật cụ thể (ví dụ như vật sở hữu, tài sản, v.v.)

- Việc đoạt lấy hoặc có được một cảm xúc là việc sở hữu một sự việc hay sự

vật cụ thể.

90

- Việc đẩy lùi hoặc đánh mất một cảm xúc là việc đánh mất hoặc thoát khỏi

một sự việc hay sự vật cụ thể.

Thông thường, vật sở hữu là cái thực thể được kiểm soát. Người sở hữu có

thể loại bỏ chúng theo ý thích. Tuy nhiên, trong cuộc sống có khả năng xảy ra tình

huống là một người vô tình trở thành một người sở hữu. Vì vậy, đôi khi một vật thể

nguy hại có thể ảnh hưởng đến người sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định

mà người sở hữu không nhận thức được nó; hoặc có những trường hợp mà trong đó

một người, mặc dù nhận thức được tác hại ngầm của vật thể nguy hại đó cũng

không thực sự làm điều gì hiệu quả cho nó. Đây là những tình huống liên quan đến

kiến thức của chúng ta về việc sở hữu thông qua một số biểu thức ẩn dụ.

Thành ngữ tiếng Việt biểu thị niềm vui ghi nhận 11 tổ hợp thành ngữ sử dụng

ẩn dụ TRẠNG THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT SỞ HỮU :

1. Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ 7. Như bắt được của

2. Có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ 8. Như bắt được vàng

3. Cú có vọ mừng 9. Như mèo thấy mỡ

4. Hí hửng như ngô được vàng 10. Như xẩm bắt (vớ) được gậy

5. Mừng như (bắt) được vàng 11. Tấp tửng như trẻ được (cái) bánh

6. Mừng như bắt được của

Thành ngữ thuộc nhóm này có sử dụng động từ biểu hiện quan hệ sở hữu là

“có” và “được”, chẳng hạn “có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ”, “tấp tửng như trẻ

được (cái) bánh”, và các động từ như “bắt”, “vớ”, chẳng hạn “mừng như bắt được

của”, “như xẩm vớ được gậy”, v.v. Các động từ này có ý nghĩa thụ động hơn, biểu

thị ngữ cảnh trong đó chúng ta nhận được một vật quý giá và cần thiết một cách bất

ngờ, không hề có suy tính trước. Những hành động như nhặt được của rơi của một

người đi đường, hay người mù chuyên đi hát rong (gọi là xẩm) bỗng tình cờ “vớ”

được gậy có thể giúp dò đường biểu đạt niềm vui ập đến bất ngờ.

Trong khi đó, tiếng Anh có 9 thành ngữ biểu thị niềm vui có sử dụng miền

nguồn CỦA CẢI để chỉ ý niệm niềm vui.

Thành ngữ tiếng Anh Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

91

biểu thị cảm xúc vui 1. as happy as the day is vui như một ngày dài rất sung sướng long

2. have a ball 3. have a good time 4. as happy as a box of rất thỏa thích vui chơi thỏa thích rất vui vẻ birds

5. like a child in a sweetshop

6. like a kid in a candy shop

7. feel like a million có buổi tiệc có thời gian vui vẻ vui như một hộp đựng chim như đứa trẻ trong tiệm bánh kẹo như đứa trẻ trong tiệm bánh kẹo như có một triệu đô-la rất phấn khích và sung sướng rất phấn khích và sung sướng cảm thấy sảng khoái dollars

8. like a cat that got the rất hài lòng, thỏa mãn ice cream

9. like a cat that ate the rất hài lòng, thỏa mãn như con mèo có được kem như con mèo ăn chim hoàng yến

canary

Trong số 9 thành ngữ nêu trên, có hai thành ngữ tiếng Anh chỉ niềm vui là có

nhiều thời gian: as happy as the day is long, have a good time. Đối với người

phương Tây, thời gian được xem là thứ hàng hóa có giá trị, do vậy có ẩn dụ THỜI

GIAN LÀ TIỀN BẠC. Khác với cách nhìn của người phương Tây, điển mẫu điều

mong muốn của người Việt Nam là những thứ cụ thể như “vàng”, “của” “mỡ”, v.v.

Cách thể hiện cụ thể khác nhau tùy điển mẫu ở từng cộng đồng.

Bên cạnh đó, cả thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh sử dụng miền ẩn dụ

THỰC PHẨM (Tấp tửng như trẻ được (cái) bánh, Like a child in a sweetshop, Like

a kid in a candy shop). Đây là phép liên tưởng mang tính phổ quát xuyên ngôn ngữ

vì khi đề cập đến những gì có thể khiến trẻ con vui mừng thì cho dù ở quốc gia nào

người ta cũng sẽ dễ liên tưởng đến thực phẩm như “bánh”, “kẹo”, v.v. Tuy nhiên, ở

nước phát triển như Mỹ thì với nền công nghiệp thực phẩm hiện đại, việc bày bán

bánh kẹo tại các cửa hàng, nơi mà trẻ con được cha mẹ đưa đi mua, là rất phổ biến.

Và dĩ nhiên trẻ con khi đứng trong tiệm bánh kẹo để lựa chọn và mua những món

hàng ăn yêu thích của chúng sẽ có biểu hiện vui mừng khác nhau, được ghi lại trong

thành ngữ tiếng Anh. Trẻ con Việt Nam ở thời kỳ trước đây khi kinh tế đất nước

khó khăn thì việc được mẹ đi chợ mua cho cái bánh đã mang lại niềm vui lớn cho

92

chúng rồi. Niềm vui của người Việt rất giản dị, chỉ là “có hoa mừng hoa, có nụ

mừng nụ”, “có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ”, những món ăn hoặc đồ chơi dân dã

rất dễ tìm ở nông thôn, chứ không có sự đòi hỏi hay mong ước gì cao sang cả.

2.3. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc buồn trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Buồn là một phản ứng cảm xúc đối với sự đánh mất cảm giác, kéo dài từ vài

giây đến vài giờ. Người có cảm xúc buồn có thể đã phải gánh chịu cái chết của một

người thân, mất đi một mối quan hệ, một công việc, hay một ngôi nhà, hoặc nhận

được điểm số thấp trong một kỳ thi. Việc mất mát có dẫn đến nỗi buồn hay không là

một vấn đề thuộc về sự hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân.

Ngữ nghĩa học tri nhận đưa ra các mô hình ẩn dụ biểu hiện cảm xúc buồn,

mà tiêu biểu là những mô hình ẩn dụ do Kövecses [103, tr.25-26] đề cập. Bên cạnh

một số miền nguồn ẩn dụ cụ thể, thì những miền nguồn khái quát hơn cũng được

thảo luận đến. Chúng tôi tiến hành khảo sát đối tượng thành ngữ tiếng Việt và tiếng

Anh dựa trên các miền nguồn của mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn và qua đó lý

giải những hiện tượng ngôn ngữ có trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đưới

góc độ ngữ nghĩa học tri nhận và quan điểm mô hình văn hóa.

2.3.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn VẬT CHỨA

Tương tự như mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc vui, miền nguồn VẬT CHỨA

cũng tác động không nhỏ lên việc kiến tạo nghĩa ẩn dụ cho thành ngữ biểu thị cảm

xúc buồn, với hai mô hình ẩn dụ cụ thể: THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG HAY

TRẠNG THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA và CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA.

Trong ẩn dụ ý niệm VẬT CHỨA, mô hình ẩn dụ có tác động đáng kể lên

việc tạo lập nghĩa cho thành ngữ biểu thị cảm xúc buồn đó là mô hình TRẠNG

THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA. Ẩn dụ VẬT CHỨA là một phép ẩn dụ có tần

suất sử dụng cao trong biểu hiện các loại cảm xúc mà Kövecses [101] đã nhận định,

và ẩn dụ VẬT CHỨA được xem là một miền nguồn chung cho nhiều loại cảm xúc,

trong đó có cảm xúc buồn. Trong trường hợp của nỗi buồn, mô hình ẩn dụ CON

NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA cũng được chia thành hai tiểu mô hình ẩn dụ: BỘ PHẬN

93

BÊN NGOÀI CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC BUỒN và BỘ PHẬN BÊN

TRONG CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC BUỒN.

Trong mô hình ẩn dụ BỘ PHẬN BÊN NGOÀI CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA

CẢM XÚC BUỒN, miền nguồn VẬT CHỨA trong mô tả nỗi buồn được tìm thấy

trong thành ngữ tiếng Việt là mắt với mô hình MẮT LÀ VẬT CHỨA CHO CẢM

XÚC BUỒN. Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của đôi mắt vì nó là

công cụ giúp chúng ta quan sát và hiểu được cảm xúc của người khác qua đôi mắt

của họ. Mắt người có khu vực tròng trắng lớn hơn so với nhiều loại động vật khác,

giúp con người có thể dễ dàng theo dõi mọi thứ xung quanh. Hầu hết mọi người, kể

cả những đứa trẻ sơ sinh, đều thường tập trung vào đôi mắt khi nhìn vào khuôn mặt

của người khác. Khi nói đến buồn là chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh giọt nước mắt

biểu thị cảm xúc đó, và thành ngữ tiếng Việt có 9 đơn vị biểu thị nỗi buồn có sử

dụng hình ảnh giọt nước mắt:

1. Cười nên tiếng khóc 6. Nước mắt (chảy) vòng quanh

2. Giọt châu tầm tã 7. Nước mắt dài nước mắt ngắn

3. Giọt dài giọt ngắn 8. Nước mắt lưng tròng

4. Giọt ngắn giọt dài 9. Nước mắt như mưa

5. Khóc hết nước mắt

Xét về mặt sinh học, nước mắt rất cần cho việc giữ ẩm tròng mắt. Chúng

chứa các protein và một số chất khác giúp đôi mắt của chúng ta luôn khỏe mạnh

cũng như chống việc nhiễm khuẩn. Ở các động vật khác, việc chảy nước mắt dường

như chỉ mang tính chất cơ sinh học, nhưng ở con người, hiện tượng này còn mang

thêm ý nghĩa về mặt cảm xúc và mặt thưởng thức nghệ thuật. Về khía cạnh cảm

xúc, người ta rơi lệ vì bị tổn thương hoặc mất mát người thân. Về khía cạnh thưởng

thức nghệ thuật, người ta thường rơi lệ khi xúc động trước một tác phẩm nghệ thuật

hoặc một sự kiện vô cùng ấn tượng đối với họ. Tuy nhiên, người ta cũng chảy nước

mắt vì vui sướng, dù cảm giác này thường diễn ra ngắn hơn so với những hoàn cảnh

93

khác. Các thành ngữ tiếng Việt có sử dụng từ khóc và cụm từ nước mắt biểu thị khá

rõ nét sự đau buồn, thường là nỗi đau buồn sâu đậm.

(42) “…Một tay thì cắp hoả mai

Một tay xách giáo quan sai xuống thuyền

Thùng thùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa…” (Ca dao Việt Nam)

Trong khi đó, thành ngữ tiếng Anh được kiến tạo do miền nguồn ẩn dụ

KHUÔN MẶT biểu thị cảm xúc buồn được ghi nhận có 5 thành ngữ sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn 1. a face as long as a wet vẻ mặt buồn hiu week

2. face like a wet weekend khuôn mặt ủ dột

3. a long face 4. a slap in the face 5. wipe the smile off one’s vẻ mặt buồn bã lăng mạ làm ai buồn làm cho ai kém vui face bộ mặt chảy xệ như một tuần ướt át khuôn mặt như cuối tuần ướt át khuôn mặt chảy dài vả vào mặt ai khiến nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt

Khuôn mặt khi liên tưởng đến cảm xúc buồn thường có những hình dạng tiêu

cực như chảy xệ, nụ cười biến mất, hay như cuối tuần ướt át. Chẳng hạn thành ngữ

tiếng Anh “face like a wet weekend” biểu đạt mô hình văn hóa đặc trưng của người

phương Tây. Người phương Tây coi trọng việc hưởng thụ cuộc sống hiện tại, nên

đối với họ ngày nghỉ cuối tuần rất quan trọng; họ cho phép bản thân mình được

quyền hưởng thụ một kỳ nghỉ cuối tuần vui vẻ cùng gia đình, bạn bè bằng những

chuyến đi dã ngoại hay đi chơi xa. Khi đó, thời tiết tốt đóng vai trò quan trọng vào

sự thành công của chuyến đi. Tuy nhiên, thời tiết xấu như mưa bão, lụt lội sẽ khiến

cho con người cảm thấy buồn trong lòng vì làm ảnh hưởng đến chuyến đi chơi cuối

tuần của họ.

Tiếng Anh cũng ghi nhận thêm 4 trường hợp thành ngữ sử dụng từ cry (khóc)

và tear (nước mắt) để biểu thị nỗi buồn: cry one’s eyes out, cry over spilled milk,

94

end in tears, vale of tears. Bên cạnh đó, thành ngữ tiếng Anh có 11 đơn vị thành

ngữ vận dụng phép ẩn dụ ý niệm VẬT CHỨA với việc sử dụng giới từ chỉ vị trí như

in, out of, with biểu thị ý niệm sự chứa đựng.

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn

1. be in the doldrums 2. be out of sorts 3. down in the mouth 4. down in the dumps 5. empty nest syndrome trong tình trạng lặn gió ra khỏi thứ hạng khóe miệng trễ xuống xuống hố rác hội chứng tổ không

cảm thấy buồn chán cảm thấy buồn bực buồn ủ rũ buồn ủ rũ trạng thái buồn và trống vắng tâm trạng buồn bực buồn nhiều hơn giận 6. in a bad mood 7. more in sorrow than in anger

8. one’s heart is in one’s rất buồn boots

9. out of one’s elements trong tâm trạng xấu nhiều trong đau khổ hơn trong tức giận trái tim trong giày của ai đó ra khỏi môi trường của ai cảm thấy không thoải mái

10. with a heavy heart 11. with one's heart in và buồn bã lòng nặng trĩu cảm giác buồn one's boots với trái tim nặng nề với trái tim trong giày của ai đó

Mô hình ý niệm tri nhận BỘ PHẬN BÊN TRONG CƠ THỂ LÀ VẬT

CHỨA CẢM XÚC BUỒN được chi tiết hóa bằng mô hình ẩn dụ TRÁI TIM LÀ

VẬT CHỨA CẢM XÚC. Cảm xúc âm tính thường được diễn tả thông qua các vấn

đề về bệnh lý tim mạch. Vì vậy, một trái tim tan vỡ hay trái tim đang rỉ máu là một

dấu hiệu rõ ràng về nỗi buồn. Ý niệm này khá thú vị vì hai lý do: đầu tiên, nó được

dựa trên phép hoán dụ, theo đó các thực thể bên trong vật chứa (cảm xúc buồn) đại

diện cho vật chứa (trái tim); thứ hai, nó cũng đáp ứng một ánh xạ ẩn dụ khác, mà

theo Lakoff và Johnson [113, tr.58] BUỒN LÀ BỆNH TẬT VÀ CÁI CHẾT. Thành

ngữ tiếng Anh, qua khảo sát nguồn ngữ liệu của chúng tôi có được, biểu hiện miền

ánh xạ này với 11 thành ngữ có chứa từ “heart” (trái tim) như sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn

1. break one's heart 2. die of a broken heart làm vỡ trái tim của ai chết vì tim tan vỡ làm ai đau khổ đau khổ

95

3. eat one's heart out 4. make one’s heart bleed 5. one’s heart is in one’s đau đớn vô cùng làm ai đau buồn cảm thấy buồn boots

6. have a heavy heart 7. sick at heart 8. sb’s heart sinks 9. with one's heart in cảm thấy nặng lòng khổ tâm cảm thấy buồn cảm thấy buồn one's boots

10. with a heavy heart 11. one’s heart bleeds tự gặm nhấm trái tim làm tim ai chảy máu trái tim trong giày của ai đó có trái tim nặng nề bệnh ở tim tim ai đó rúng lại với trái tim trong giày của ai đó với trái tim nặng nề trái tim chảy máu lòng nặng trĩu ai đó cảm thấy buồn

Khi hình ảnh trái tim được gán cho các hành động mang nghĩa tiêu cực như

“break” (làm vỡ), “die” (chết), “eat out” (gặm nhấm), “bleed” (chảy máu), “sink”

(chìm) hay tính chất nặng nề như “broken” (tan vỡ), “heavy” (nặng nề), “sick”

(bệnh) thì miền ẩn dụ cảm xúc buồn trong những thành ngữ này được hiển lộ rõ

ràng hơn với ý nghĩa biểu trưng cao hơn.

2.3.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

Ẩn dụ phương thẳng đứng xuất phát từ ẩn dụ định hướng, là nhóm đầu tiên

của phép ẩn dụ tạo cho cảm xúc buồn một định hướng giảm xuống [113, tr.15].

Barcelona [61] cũng nghiên cứu ẩn dụ nỗi buồn và thấy rằng phép ẩn dụ ý niệm

BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG hay BUỒN LÀ Ở VỊ TRÍ THẤP là rất phổ biến và

thông dụng trong cách sử dụng tiếng Anh. Điều này dựa trên cơ sở kinh nghiệm

luận. Những người có tâm trạng buồn thường có tư thế thu người lại, vai rũ xuống,

khóe miệng trễ xuống, v.v. Vị trí thấp là tiêu cực (hay xấu) và liên quan đến nỗi

buồn.

Ẩn dụ BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG có mối quan hệ chặt chẽ với trải

nghiệm của cơ thể khi cảm nhận cảm xúc này. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như

Johnson [97], Lakoff và Johnson [113], và Turner [148] đã đưa ra nhận định khái

quát trên cơ sở cơ thể học hay kinh nghiệm cho phép ẩn dụ hướng xuống. Họ quan

sát thấy rằng cơ thể chúng ta thường thu người lại khi chúng ta bị bệnh, lừ đừ hoặc

chết, thường thấy khi người ta có cảm xúc tiêu cực. Trong trường hợp quan sát

thành ngữ biểu thị cảm xúc buồn của tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy chúng cũng

96

được xây dựng dựa trên trải nghiệm cơ thể hướng xuống của con người chúng ta đã

được nêu ở trên. Chẳng hạn như thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn:

(43) Since her dog died, Barbara has been down in the mouth. (Kể từ khi

con chó qua đời, Barbara buồn ủ rũ.)

(44) He looked at the huge pile of work on his desk and his heart sank. (Anh

ta nhìn vào đống công việc trên bàn và trái tim anh ta chùn xuống.)

(45) She said good bye with a heavy heart. (Cô ấy nói lời chia tay với cõi

lòng nặng trĩu.)

Các ví dụ trên cho thấy rằng con người có thể gợi lên cảm xúc buồn, được ý

niệm hóa như thể đẩy một người nào đó đi xuống, xét về mặt vật lý, hoặc nỗi buồn

được ý niệm hóa thành vật thể nặng bị chìm xuống thông qua sử dụng trạng từ

“down” khi bày tỏ cảm xúc của họ về nỗi buồn. Tiếng Việt cũng ghi nhận 4 thành

ngữ biểu thị cảm xúc buồn được ý niệm hóa bằng mô hình ẩn dụ PHƯƠNG

HƯỚNG như sau: buồn xo buồn mị, tiu nghỉu như chó cụp đuôi, tiu nghỉu như mèo

bị cắt tai, mặt nặng mày nhẹ.

So với cách thể hiện trong tiếng Anh, thành ngữ tiếng Việt đa dạng hơn, kết

hợp cả ẩn dụ và hoán dụ dựa trên phản ứng sinh lý của con người và kinh nghiệm

quan sát được trong thế giới tự nhiên, sử dụng từ miêu tả trạng thái hướng xuống.

Các thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc buồn nêu trên có sử dụng các từ có liên

quan đến hướng xuống như “xo, tiu nghỉu”. “Xo” là một tính từ được dùng trong

một số tổ hợp, có ý nghĩa biểu lộ vẻ ủ rũ như muốn thu nhỏ mình lại [53, tr.1152];

“tiu nghỉu” là “tỏ ra cụt hứng hoặc buồn bã, thất vọng vì điều xảy ra trái với dự

tính ban đầu” [53, tr.954]. Các từ này gợi ra một hình ảnh người đau buồn và có

xu hướng bị co rút lại, được ngầm so sánh như một bộ phận cơ thể co rút lại. Hai

thành ngữ sử dụng hình ảnh chó và mèo dựa vào hành vi loài vật này khi sợ sệt

hoặc khi mệt mỏi. Khi chó bị ốm, đuôi của nó cụp xuống. Tuy loài chó gần gũi

trong đời sống người Việt nhưng lại không được nâng niu chiều chuộng nhiều

như trong văn hóa phương Tây, nên thành ngữ có ẩn dụ về loài chó thường dùng

với ý nghĩa tiêu cực.

97

(46) Út Lan tiu nghỉu như chó cụp đuôi, nó không ngờ câu chuyện nó kể làm

bữa cơm gia đình mất vui, thời gian gần đây nó để ý thấy ba hay cau có với cả

nhà.

(Trích truyện ngắn “Bình minh không anh” của Cao Thanh Mai,

www.vannghenamdinh.com.vn, 20/01/2013)

Hai thành ngữ tiếng Việt “tiu nghỉu như chó cụp đuôi, tiu nghỉu như mèo bị

cắt tai” có ẩn dụ hướng xuống với tính từ “tiu nghỉu”, hàm nghĩa con vật buồn bã

nên đuôi (chó), tai (mèo) bị cụp xuống, trông rất tội nghiệp.

Tính phương hướng trong thành ngữ tiếng Việt biểu thị nỗi buồn có thể được

lý giải theo học thuyết Âm dương Ngũ hành, với chiều hướng phát triển của vạn vật

trong không gian căn cứ theo chiều hướng của thị giác con và hướng sức trong hoạt

động của toàn thân con người tác động vào tự nhiên, và dáng đầu cổ khi nói, từ đó

biểu lộ sắc thái cảm xúc khác nhau: khi có sự buồn bã thì uể oải, đứng đâu cũng

phải tựa thân vào vật đỡ như gốc cây, cái cột, bờ tường, đứng dựa là chân chống

chéo xuống [38, tr.225-226].

Tiếng Anh có 6 đơn vị thành ngữ cảm xúc buồn có ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ

HƯỚNG XUỐNG: down in one's mouth (khóe miệng kéo xuống/ buồn ủ rũ), down

in the dumps (xuống hố rác / buồn ủ rũ), drown one’s sorrow (nhấn chìm nỗi buồn

của ai/ uống rượu tiêu sầu), sink into despair (for sb) (chìm vào bể khổ/ đau khổ),

sb’s heart sinks (tim ai đó rúng lại/ cảm thấy buồn), rock bottom (xuống tận đáy /

buồn vô cùng). Các nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn trong tiếng Anh đã

được tiến hành trên nhiều bình diện đều chỉ ra một ẩn dụ ý niệm: BUỒN LÀ

HƯỚNG XUỐNG - là ẩn dụ ý niệm quan trọng do Lakoff và Johnson [113, tr.15-

18] đề xuất.

2.3.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

Khi đề cập đến nghiên cứu tri nhận của Talmy (1988) về lực tác động,

Kövecses đã nhấn mạnh đến ẩn dụ CẢM XÚC LÀ LỰC mà ông cho rằng ẩn dụ này

tạo nên khung cấu trúc tri nhận của chúng ta về cảm xúc. Lực tác động này có thể là

con người (chẳng hạn mô hình ẩn dụ CẢM XÚC LÀ KẺ THÙ), là con vật (chẳng

98

hạn CẢM XÚC LÀ CON VẬT HOANG DÃ), là vật lý (chẳng hạn CẢM XÚC LÀ

LỰC HÚT / NAM CHÂM), là thiên nhiên (chẳng hạn CẢM XÚC LÀ LŨ LỤT/

BÃO), hay một lực tác động đến cảm giác và suy nghĩ của con người (chẳng hạn

như CẢM XÚC LÀ SỰ ĐIÊN RỒ) [101, tr.112].

Cảm xúc buồn của con người được ý niệm hóa bằng biểu thức BUỒN LÀ

LỰC VẬT LÝ, BUỒN LÀ LỰC THIÊN NHIÊN. Thiên nhiên mang lại cho con

người nguồn thức ăn, không khí, nước sinh hoạt, là môi trường sống nuôi dưỡng

con người từ bao đời nay. Tuy nhiên, thiên nhiên khắc nghiệt cũng tiềm ẩn nhiều

hiểm họa cho con người như mưa bão, lũ lụt, hạn hán, núi lửa phun trào, v.v. Việt

Nam vốn coi nông nghiệp là thành phần kinh tế chủ yếu của đất nước, nên thiên

nhiên đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của người Việt. Do vậy, tư duy ngôn ngữ

hay cách nghĩ truyền thống của người Việt từ xưa mang tính cụ thể, trực quan, cảm

tính khiến người ta dễ để ý đến điều cụ thể trước mắt, như các hiện tượng thiên

nhiên. Vì thế, có thể dễ dàng hiểu được vì sao thiên nhiên được tìm thấy trong các

thành ngữ biểu thị cảm xúc buồn của tiếng Việt:

1. Gió dập mưa dồn 5. Mây sầu gió thảm

2. Gió thảm mưa sầu 6. Nước mắt như mưa

3. Khóc gió than mây 7. Than mây khóc gió

4. Khóc như mưa (như gió) 8. Than trời trách đất

Chúng tôi không tìm thấy thành ngữ tiếng Anh biểu thị nỗi buồn có sử dụng

ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ LỰC THIÊN NHIÊN. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cả

tiếng Việt và tiếng Anh đều có thành ngữ biểu đạt nỗi buồn được ẩn dụ hóa bằng

biểu thức BUỒN LÀ LỰC VẬT LÝ. Sức mạnh vật lý ở đây được hiểu là nội lực cơ

thể, lực tác động hoặc áp lực từ môi trường sống xung quanh lên một cá thể nào đó.

Tiếng Việt có 17 thành ngữ biểu thị cảm xúc buồn với miền nguồn ẩn dụ ý

niệm LỰC VẬT LÝ như sau:

1. Buốt như kim châm 3. Đau như búa bổ

2. Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà 4. Đau như cắt ruột

đau 5. Đau như dần

99

6. Đau như đứt ruột 12. Lời nói tựa nhát dao

7. Đau như xé (ruột) 13. Nát gan nát ruột

8. Đứt ruột cháy gan 14. Ruột đau như thắt

9. Đứt ruột đứt gan 15. Tay đứt ruột xót

10. Đứt từng khúc ruột 16. Thắt gan thắt ruột

11. Lòng đau như cắt 17. Xé ruột xé gan

Không giống người Anh Mỹ nhấn mạnh trung tâm của cảm xúc, của nhận

thức là hình tượng “trái tim”, người Việt Nam xem “lòng, ruột, gan, bụng” là nơi

chất chứa cảm xúc. Vì thế nên “tím ruột bầm gan”, “nát gan nát ruột”, “đứt từng

đoạn ruột” là sự cụ thể hoá, vật chất hóa các trạng thái cao của cảm xúc đau đớn

tinh thần.

Sự biểu hiện của lực vật lý trong các thành ngữ tiếng Việt ở trên là việc sử

dụng lớp động từ bao gộp các tác động vật lý hay cơ thể, chẳng hạn như “vò, dần,

cắt, đứt, cháy, thắt, xé.” Đây là những động từ miêu tả cường độ tác động rất mạnh,

thường dùng tay, chân hoặc một vật thể nào đó (như dao, kéo, gậy) tác động một

lực mạnh vào vật thể khác hay người khác để đạt kết quả là chia cắt, làm mềm, hay

làm đau vật hay người ấy.

Đối với tiếng Anh, chúng tôi phát hiện có 14 thành ngữ biểu thị cảm xúc

buồn có sử dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn

tự làm đau khổ làm ai đau khổ làm ai tổn thương đau buồn vô cùng

1. beat one's breast 2. break one's heart 3. cut sb to the quick 4. eat one’s heart out 5. hit sb where it hurts đấm vào ngực làm vỡ trái tim cắt ai đến tận xương tủy tự gặm nhấm trái tim đánh ai trúng vào chỗ đau đánh trúng điểm yếu

6. lick one’s wounds 7. make (one’s) life a misery

8. make life miserable for liếm vết thương biến cuộc sống ai thành đau khổ làm cuộc sống ai đau khổ khiến buồn lòng giải sầu làm cuộc sống ai chịu khổ sở làm ai đó chịu khổ sở sb

9. make one’s heart bleed 10. plumb the depths làm tim ai chảy máu rơi xuống vực thẳm làm ai đau buồn rơi vào trạng thái buồn

100

11. rub salt in the wound 12. twist / turn the knife xát muối vào vết thương xoay con dao

13. wipe the smile off bã cực độ làm ai đau khổ thêm ngoáy vào vết thương lòng làm cho kém vui one’s face

14. wring one’s hand khiến nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt ai vò đầu bứt tay buồn bã hoặc thất vọng

Trong nhóm thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn, chúng ta cũng có

thể tìm thấy lớp động từ mô tả tác động của lực vật lý: beat (đánh), break (làm vỡ),

crack (làm gãy nứt), hit (đánh), lick (liếm), make (làm), plumb (rơi), rub (chà xát),

wipe (quét), wring (vò). Chẳng hạn, “beat one’s breast” nghĩa là đánh vào ngực,

dùng nắm tay đấm vào ngực. Hành động này được cho là biểu hiện của nỗi đau

buồn cường độ mạnh.

(47) At the peak of her angst, she beats her breast in sappy mourning upon

the death of her father.(Trong nỗi đau đớn tột cùng trước cái chết của cha mình, cô

ấy vô cùng đau khổ vào buổi tang lễ đầy xúc động).

Để biểu thị cái bi (nỗi buồn) trong quan niệm Ngũ hành, thì “khóc” là hiện

tượng âm thanh tiêu biểu. Tiếng Việt có 10 thành ngữ có sử dụng từ “khóc” để biểu

đạt ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn:

1. Khóc dở cười cũng dở Khóc mướn khóc vay 6.

2. Khóc dở mếu dở Khóc như cha chết 7.

3. Khóc đứng khóc ngồi Khóc như gió như mưa 8.

4. Khóc gió than mây Khóc như mưa (như gió) 9.

5. Khóc hết nước mắt 10. Khóc như ri

Tiếng Anh ghi nhận 4 thành ngữ sử dụng từ cry (khóc) và tear (nước mắt) để

biểu thị nỗi buồn: cry one’s eyes out, cry over spilled milk, end in tears, vale of

tears. Trong biểu thị ẩn dụ cảm xúc buồn với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG, cả

thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh có sử dụng hành vi khóc, khẳng định tính phổ

quát của cảm xúc trong hai nền văn hóa Việt-Anh mà nhà ngôn ngữ học Wierzbicka

[150, tr.275] đã nêu lên: “…tất cả các ngôn ngữ đều có từ ngữ tương đương, mặc dù

101

không nhất thiết phải giống hệt nhau về ý nghĩa, như từ khóc (cry) đề cập đến biểu

hiện cơ học của cảm xúc tiêu cực…”

2.3.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn GÁNH NẶNG

Miền nguồn GÁNH NẶNG thường được sử dụng trong mô hình ẩn dụ ý

niệm cảm xúc buồn của cả tiếng Việt và tiếng Anh. Trong ẩn dụ loại này, nỗi buồn

được xem như một gánh nặng đối với người đang buồn. Dựa trên kinh nghiệm cơ

thể phổ quát nên ẩn dụ GÁNH NẶNG xuất hiện cả trong tiếng Việt và tiếng Anh.

Tiếng Việt sử dụng ẩn dụ này ở cấp độ thành ngữ: “mang tủi đeo sầu, đeo sầu

ngậm tủi, muôn thảm nghìn sầu.”

Trong hai thành ngữ “mang tủi đeo sầu, đeo sầu ngậm tủi”, nỗi buồn biểu

hiện qua hai danh từ tủi và sầu, được coi là gánh nặng khi kết hợp với hai động từ

chỉ sự di chuyển mang, đeo. “Mang” nghĩa là đem theo bên mình một vật thể nào

đó và di chuyển nó đến một nơi khác, ví dụ “Hàng ngày cô bé mang theo con gấu

bông yêu thích đến lớp”. “Đeo” nghĩa là gắn một vật nào đó vào một bộ phận cơ

thể người, ví dụ, “đeo ba-lô, đeo nhẫn cưới.” Vậy nên, người Việt từ lâu đã xem

nỗi buồn là một vật thể đeo bám lấy con người, khiến cho con người cảm giác

nặng nề như thể đang mang vác một vật nặng. Chẳng hạn, bài thơ Bần nữ than vận

dụng thành ngữ tiếng Việt với ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ GÁNH NẶNG.

(48) Vốn đã biết cái thân kẻ khó,

Có dám đâu đánh đọ với giàu.

Rằng thì mang tủi đeo sầu,

Nói càng ấp úng, nghĩ thêm ngại lời.

(Theo www.vi.wikisource.org, 25/7/2014)

Với đại ý rằng người con gái trong câu chuyện vốn có tài sắc, những mong

sớm lấy được người chồng khá giả, thế mà chỉ vì cái nghèo thành ra duyên phận dở

dang. Nỗi buồn về số phận hẩm hiu của người phụ nữ thời phong kiến ấy càng sâu

thêm, càng dai dẳng hơn nhờ vào việc vận dụng thành ngữ “mang tủi đeo sầu” trong

bài thơ.

Tiếng Anh có ba thành ngữ sử dụng mô hình ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ

102

GÁNH NẶNG:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn 1. bear / carry one's cross 2. sb’s heart sinks 3. sink into despair (for sb) mang vác cây thánh giá tim ai rúng lại chìm vào bể khổ chịu đựng đau khổ cảm thấy đau lòng đau khổ

Nỗi buồn được ví với gánh nặng thông qua việc sử dụng động từ “bear,

carry” (mang vác), “sink” (chìm). Thành ngữ “bear / carry one's cross” xuất phát từ

câu chuyện Chúa Giê-su bị đóng đinh trong kinh thánh của Thiên Chúa giáo. Theo

đó, khi Chúa Giê-su đang bị giải đến nơi hành hình, thì bọn lính La Mã đã chặn một

kẻ qua đường có tên là Simon, một người dân của thành phố Cyrene (nay là phần

phía đông của Lybia), và yêu cầu vác cái cộc gỗ lớn hình thập tự giá đến nơi hành

hình đấy. Từ đó, thành ngữ “bear/ carry one’s cross” (mang cây thánh giá) biểu

trưng cho sự đau khổ của Chúa Giêsu, và mở rộng hơn, là sự đau khổ của tất cả mọi

người.

2.3.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn với miền nguồn THIẾU SINH KHÍ

Khi trình bày những mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc buồn, Kövecses [103,

tr.25-26] đã giới thiệu mô hình ẩn dụ BUỒN LÀ THIẾU SINH KHÍ với ví dụ minh

họa “This was disheartening news” (Đây là tin tức đau lòng). Thiếu sinh khí tức là

thiếu sức sống, thiếu sự tươi mới, và chúng tôi ghi nhận có 40 thành ngữ tiếng Việt

sử dụng hình ảnh liên quan đến miền nguồn THIẾU SINH KHÍ để biểu thị nỗi buồn

nhưng ở những cấp độ mạnh nhẹ khác nhau. Trong đó, ở cấp độ biểu hiện thấp, có

10 thành ngữ tiếng Việt sử dụng miền nguồn ẩn dụ này.

1. Gan rầu ruột héo 6. Nẫu gan nẫu ruột

2. Rầu như dưa 7. Nẫu ruột nẫu gan

3. Héo gan héo ruột 8. Nẫu ruột rầu gan

4. Héo hon ruột tằm 9. Ủ liễu phai đào

5. Héo ruột héo gan 10. Mặt ủ mày chau

Các thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc buồn nêu trên có sử dụng các từ

có liên quan đến miền nguồn THIẾU SINH KHÍ: “héo, ủ, nẫu, rầu”. “Héo” nghĩa là

103

“(cỏ cây hoa lá) mềm rũ ra và teo tóp lại vì thiếu nước” [53, tr.432]; “ủ” nghĩa là

“héo rũ xuống, không tươi” [53, tr.1085], “nẫu” là “đã trở thành mềm nhũn đến

mức như sắp rữa ra (thường nói về hoa quả)” [53, tr.663], “rầu” nghĩa là “buồn

trong lòng” [53, tr. 825]. Việc kết hợp từ miêu tả tính chất hoa quả trái cây trong

giai đoạn thiếu nước (héo, ủ) hoặc cung cấp quá nhiều nước (nẫu) với bộ phận cơ

thể người (gan, ruột, mặt, mày) mang lại sắc thái nghĩa biểu trưng cao cho thành

ngữ tiếng Việt. Hai thành ngữ tiếng Việt “mặt ủ mày chau, ủ liễu phai đào” đều sử

dụng từ “ủ”, có nghĩa là (cây cỏ, hoa lá) héo rũ, không tươi.

Bên cạnh đó, miền nguồn THIẾU SINH KHÍ còn được thể hiện trong 12

thành ngữ tiếng Việt sử dụng hình ảnh cái chết để biểu thị ý niệm THIẾU SINH

KHÍ cực cấp. Còn nỗi đau buồn nào sâu hơn nỗi đau của sinh ly tử biệt. Với lối

sống trọng tình cảm của người Việt thì khi một người trong gia đình mất đi, nỗi đau

ấy càng thêm khắc khoải.

1. Buồn như cha chết 7. Chết không nhắm mắt được

2. Chết cả ruột 8. Chết nữa đời người

3. Chết cay chết đắng 9. Kẻ khuất người còn

4. Chết dần chết mòn 10. Khóc như cha chết

5. Chết dở sống dở 11. Thừa chết thiếu sống

6. Chết đắng chết cay 12. Mặt như đưa đám

Trong khi đó, thành ngữ tiếng Anh có 3 đơn vị sử dụng miền ý niệm này

bằng động từ “cry” (khóc) và “die” (chết).

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn

1. cry one’s eyes out 2. cry over spilled milk 3. die of a broken heart khóc lòi con mắt khóc vì phần sửa đổ đi chết vì tim tan vỡ khóc lóc thảm thiết đau khổ vì chuyện đã rồi đau khổ vì cuộc tình tan vỡ

Chúng ta có thể thấy rằng đối với miền ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ THIẾU

SINH KHÍ thì thành ngữ tiếng Việt biểu thị đa dạng hơn so với thành ngữ tiếng Anh

tương đương, biểu hiện cuộc sống nội tâm sâu sắc của người Việt.

104

2.4. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc giận trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Giận là một trong những cảm xúc nổi bật nhất của con người. Giận là trạng

thái cảm xúc liên quan đến mong muốn làm tổn thương một người hoặc để xua đuổi

người ấy đi. Nếu giận được định nghĩa theo quan điểm chức năng, thì chúng ta phải

hiểu rằng giận có liên quan đến khả năng tự vệ hoặc để khắc phục những khó khăn

gây cản trở cách thức đạt được một mục tiêu nào đó. Cảm xúc giận thường là một

phản ứng với một kích thích cụ thể, cho dù là thật hay tưởng tượng, một mối đe dọa,

một tình huống khó chịu hoặc gây phiền nhiễu, hoặc tình trạng không công bằng,

v.v. Hầu hết các nhà lý luận đồng ý rằng cảm xúc giận có tính chất một chiều, nó

gắn liền với một sự ép buộc để đối phó với bất cứ điều gì gây ra nó. (Kalat và

Shiota, 2007, dẫn lại [135, tr.62])

Cảm xúc giận có lẽ là ý niệm cảm xúc được nghiên cứu nhiều nhất đứng ở

góc độ ngữ nghĩa học tri nhận. Lakoff và Kövecses [115] và Kövecses [103] đã tìm

thấy nhiều miền ẩn dụ gốc hình thành nên cảm xúc giận. Trong phạm vi nghiên cứu

của luận án, chúng tôi dựa vào một số mô hình ẩn dụ tiêu biểu về ý niệm giận của

Lakoff và Kövecses đề xuất để tiến hành khảo sát thành ngữ biểu thị cảm xúc giận

của tiếng Việt và tiếng Anh.

2.4.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn VẬT CHỨA

Miền nguồn VẬT CHỨA cũng được sử dụng để biểu thị cảm xúc giận. Ẩn

dụ loại này được sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống hàng ngày, chi phối việc sử

dụng ngôn ngữ của chúng ta. Số lượng thành ngữ chỉ sự tức giận trong tiếng Việt

qua ẩn dụ GIẬN LÀ MỘT CHẤT LỎNG NÓNG TRONG VẬT CHỨA ít hơn so

với tiếng Anh. Chúng tôi thống kê được hai thành ngữ nhóm này và ẩn dụ dựa vào

trải nghiệm của cơ thể với các bộ phận bên trong cơ thể như gan, mật làm vật chứa:

sôi gan nổi mật, bầm gan sôi máu. Bên cạnh đó, các hình thức cải biến từ vựng của

loại thành ngữ này cũng được ghi nhận: bầm gan tím ruột, giận sôi máu, giận trào

máu, giận tím mặt.

Một đặc trưng trong thành ngữ tiếng Việt đó là sử dụng tên bộ phận cơ thể

người để biểu thị cảm xúc giận. Các bộ phận cơ thể người được sử dụng với mật độ

105

lớn trong thành ngữ mà chúng tôi khảo sát gồm có gan, ruột, lòng, mật và mặt. Để

biểu đạt cơn giận, thường có các tính từ chỉ màu sắc, nhiệt độ, mức độ đi liền với

gan, ruột và lòng là bầm, nóng, tím, thâm, đầy (chẳng hạn như các thành ngữ: bầm

gan tím ruột, thâm gan tím ruột, đầy gan đầy ruột, v.v.). Ngoài ra còn có các từ chỉ

tâm trạng đi kèm là tức (tức đầy ruột, tức lộn ruột), căm (căm gan tím ruột) hay các

động từ cháy, đốt (cháy lòng cháy ruột, cháy ruột đốt gan). Giận, không hài lòng

cũng làm cho nét mặt bị biến đổi, có thể bị sưng lên, nặng hơn hay sa xuống, nên

thành ngữ có những câu : mặt nặng mày nhẹ, nặng mặt sa mày, mặt sưng mày sỉa,

sưng mặt sưng mày, mặt nặng như chì, mặt nặng như đá đeo. Không những vậy,

giận còn làm cho mặt biến đổi màu sắc: đỏ mặt tía tai hay mặt đỏ tía tai hay làm

cho dáng vẻ trông hung tợn: sát khí đằng đằng.

(49) Nghe báo đê vỡ, quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát mắng, đe doạ

cách cổ, bỏ tù người báo tin... vẫn say sưa với ván bài sắp ù to.

(Trích Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn)

Mô hình ẩn dụ MẮT LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC GIẬN được biểu hiện

trong 6 thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc giận như sau: chướng tai gai mắt, trái

tai gai mắt, ngang tai chướng mắt, mắt như nảy (đổ) lửa, phùng má trợn mắt, tức

nổ mắt, tức lòi con ngươi. Như đã trình bày ở phần cảm xúc vui và buồn, đôi mắt là

bộ phận quan trọng của cơ thể con người. Biểu hiện của đôi mắt cho chúng ta biết

loại cảm xúc mà người giao tiếp có thể sở hữu. Vì vậy, mắt trở thành vật chứa cảm

xúc. Hình ảnh đôi mắt trong biểu hiện cảm xúc giận thường đi kèm với các từ ngữ

biểu lộ sự khó chịu, chẳng hạn “gai”, “chướng”, “trợn”, “nổ”. Gai mắt cũng nghĩa là

chướng mắt, nhìn thấy không chịu được, còn trợn mắt có nghĩa là mở căng ra hết

cỡ. Nổ mắt là kiểu nói khoa trương, với ý nghĩa là làm cho mắt tưởng chừng như bật

vỡ ra đột ngột và mạnh, biểu trưng cho cơn giận tột độ. Việc kết hợp ý niệm hoán

dụ giữa từ mắt với các từ ngữ này trong sáu thành ngữ nêu trên tạo hiệu ứng mạnh

mẽ cho ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận, khiến người giao tiếp có thể dễ dàng cảm nhận

được cơn giận của người đối diện.

106

(50) “… Hoạt động phản đối của người Việt Nam trong vụ giàn khoan 981

bắt nguồn từ "hành vi ăn cướp" phi pháp của Bắc Kinh với những thủ đoạn thâm

độc, “phùng má trợn mắt”…” (Trích Báo Đài Loan: Vụ 981 Trung Quốc coi

thường luật pháp thủ đoạn thâm độc, www. giaoduc.net, 16/5/2014)

Tiếng Anh có 15 thành ngữ biểu lộ cảm xúc giận theo mô hình ẩn dụ GIẬN

LÀ MỘT CHẤT LỎNG NÓNG TRONG VẬT CHỨA:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận

1. blow a fuse 2. blow a gasket 3. blow one’s lid 4. blow one's cork 5. blow one's stack 6. blow one's top 7. breathe fire 8. flip one’s lid 9. give vent to sth 10. have a low boiling nổ cầu chì cuốn phăng dây thừng thổi bay nắp đậy thổi bay nút chai thổi ống khói thổi bay con vụ thở ra lửa bật nắp đậy tạo lối thoát khí có điểm sôi thấp đùng đùng nổi giận đột nhiên tức giận nổi đóa phát khùng lên nổi nóng giận phát điên lên lộ vẻ giận dữ nổi giận đùng đùng bộc lộ sự tức giận dễ nổi cáu point

11. blow off steam 12. have steam coming out la cho hả giận hết sức tức giận

thổi hơi nước khiến hơi nước bốc ra khỏi tai xả hơi nước làm ai sôi máu phun ra máu la cho hả hơi bớt giận làm ai hết sức tức giận tỏ ra giận dữ

of one’s ears 13. let off steam 14. make one's blood boil 15. spit blood

Những thành ngữ nêu trên khiến chúng ta có thể liên tưởng đến hình ảnh về

ngọn lửa ở nhiều cấp độ khác nhau. Vật chứa đựng là cơ thể con người đang tức

giận với ngọn lửa cháy bên trong. Tiếng Anh dựa trên kinh nghiệm nhập thân với

vật chứa là toàn bộ cơ thể cùng với kinh nghiệm lao động qua hình ảnh hơi nước

trong một xã hội công nghiệp, mà con người thường bị ức chế do áp lực của cuộc

sống vội vã và kỷ luật nghiêm khắc. Các thành ngữ này biểu đạt mức độ của cơn

giận gần tương ứng với nghĩa đen của chúng.

Johnson [96, tr.88] quan sát thấy Lakoff và Kövecses đã lập luận rằng những

cảm xúc như cơn giận có thể được coi là một mô hình của CHẤT LỎNG NÓNG

107

TRONG VẬT CHỨA. Bằng cách này, nhiều phép ẩn dụ có thể được xây dựng: cảm

xúc có thể được đun nhỏ lửa, trào lên, đun sôi lên, phun ra và phát nổ khi áp suất

tích tụ. Để trở lại trạng thái cân bằng, con người có thể biểu hiện hoặc phát lộ cảm

xúc.

Một mô hình ẩn dụ khác là GIẬN LÀ KHÍ NÉN cũng có liên quan đến miền

nguồn VẬT CHỨA. Ẩn dụ này dựa trên kinh nghiệm sinh lý cơ thể: khi giận

người ta cảm thấy ức chế vượt quá tầm kiểm soát và bùng nổ. Chẳng hạn trong

tiếng Việt, có 6 thành ngữ sử dụng mô hình ẩn dụ này:

1. Bầm gan lộn ruột 4. Thâm gan tím ruột

2. Bầm gan tím ruột 5. Nộ khí xung thiên

3. Bầm gan sôi máu 6. Sát khí đằng đằng

Các nhà phong cách học xem thành ngữ kiểu như bầm gan tím ruột là ngoa

dụ, còn có tên gọi khác là phóng đại, khoa trương, thậm xưng, tức là phương thức

cường điệu một mức độ, tính chất, đặc điểm nào đó của sự vật [30, tr.215]. Những

thành ngữ loại này có thể được tìm thấy khá nhiều trong lớp thành ngữ biểu thị cảm

xúc tiếng Việt.

So với tiếng Việt, tiếng Anh có nhiều hơn gấp hai lần số lượng thành ngữ sử

dụng miền nguồn KHÍ NÉN:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận

1. blow a fuse 2. blow a gasket 3. blow off steam 4. blow one’s lid 5. blow one's cork 6. blow one's stack 7. blow one's top 8. go through the roof 9. have steam coming out đùng đùng nổi giận đột nhiên tức giận la cho hả giận nổi đóa phát khùng lên nổi nóng giận phát điên lên nỗi trận lôi đình hết sức tức giận

of one’s ears 10. let off steam 11. pop one's cork 12. vent one’s spleen nổ cầu chì cuốn phăng dây thừng thổi hơi nước thổi bay nắp đậy thổi bay nút chai thổi ống khói thổi bay con vụ đi xuyên qua mái nhà khiến hơi nước bốc ra khỏi tai xả hơi nước giật nút chai của ai đó trút sự hằn học la cho hả hơi bớt giận giận phát khùng lên làm ai giận

108

Các dẫn chứng nêu trên cho thấy thành ngữ tiếng Anh có xu hướng biểu đạt

cảm xúc giận bộc lộ ra ngoài chứ không kìm chế che dấu trong lòng. Đây có lẽ do

đặc tính của người Anh Mỹ là thẳng thắn, bộc lộ trực tiếp cảm xúc của họ ra bên

ngoài. Do vậy, hành vi giận cũng phát lộ ra ngoài qua sự vận động của bộ phận cơ

thể, có thể nhìn thấy rõ, chẳng hạn như thổi (blow). Những hình tượng khá thông

dụng trong đời sống phương Tây cũng được tìm thấy như là mô hình văn hóa đặc

trưng với hơi nước (steam) và các vật dụng như cầu chì (fuse), dây thừng (gasket),

ống khói (stack), nắp đậy (lid). Chúng là sản phẩm công nghiệp của phương Tây,

gắn liền với đời sống sinh hoạt của họ. Mô hình ẩn dụ cảm xúc giận trong tiếng

Anh đã sử dụng các hình tượng này như là một kinh nghiệm xã hội.

Chúng ta có thể thấy sự khác biệt trong tiếng Việt khi vận dụng miền nguồn

KHÍ NÉN để biểu thị cơn giận. Thành ngữ tiếng Việt sử dụng ẩn dụ KHÍ NÉN để

biểu thị cảm xúc kìm nén, trong khi đó, tiếng Anh có xu hướng bộc lộ ra bên ngoài.

Đặc trưng văn hóa cộng đồng và văn hóa lúa nước tạo cơ hội cho người Việt hợp

tác quây quần trong đời sống hàng ngày, ứng xử sẽ mềm dẻo hơn. Trần Ngọc Thêm

[44] cho rằng “Nếu nói khái quát người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm

trọng nhưng vẫn thiên về âm hơn” [44, tr.56]. “Âm” lạnh biểu trưng cho tính khí

trung hòa, còn “dương” nóng thể hiện tính khí nóng nảy. Mặt khác, chúng tôi phát

hiện thấy trong tiếng Việt chỉ có trạng thái bị đè nén về mặt sinh lý thông qua các

bộ phận cơ thể bị thâm, bầm, tím.

2.4.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

Thông thường, ẩn dụ phương hướng được coi là đặc trưng cho việc biểu hiện

ý niệm cảm xúc vui hay buồn (xem Lakoff và Johnson [114], Barcelona [61]). Tuy

nhiên, hai ẩn dụ LÊN – XUỐNG chỉ là hai trong số các ẩn dụ ý niệm phương

hướng, vì phương hướng không chỉ có hai hướng lên, xuống, mà còn có ra, vào,

trên, dưới, trong, ngoài. Và ẩn dụ phương hướng cũng có thể được tìm thấy trong

nhóm các thành ngữ biểu thị cảm xúc giận trong tiếng Việt và tiếng Anh. Trong các

thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy có 7 thành ngữ biểu thị miền nguồn

109

hướng LÊN và 3 thành ngữ biểu thị miền nguồn hướng XUỐNG. Những thành ngữ

biểu thị miền nguồn hướng LÊN bao gồm:

1. Nộ khí xung thiên 5. Bầm gan sôi máu

2. Giãy lên như đỉa phải vôi 6. Sôi gan nổi mật

3. Giãy lên như bị ong châm 7. Tức đầy ruột

4. Không đội trời chung

Ba thành ngữ biểu thị miền nguồn hướng XUỐNG bao gồm:

1. Sa mày nặng mặt

2. Mặt nặng mày nhẹ

3. Mặt nặng như đá đeo

Khi cơn giận bốc cao (xung thiên) thì cơn giận có xu hướng bị đẩy lên cao

theo hướng thẳng đứng. Khi một chất lỏng sôi, đó là hiện tượng thay đổi trạng thái

từ dạng lỏng sang dạng khí, và khí thì bốc lên cao; do vậy, sôi gan hay sôi máu tức

là cơn giận đang lên cao đến tột độ. Trong thành ngữ tức đầy ruột, thì sự giận dữ

được ví như sự đầy trong ruột, là một trạng thái căng, anh ách, khó chịu, chứa đựng

quá nhiều, trạng thái đến hết mức có thể chứa, cho nên cũng có hướng lên trên.

Ngược lại, nặng là một tính từ có định hướng xuống, như thể khi chúng ta

đeo một hòn đá vào người, dưới sức hút của trọng lực sẽ khiến vật thể ấy kéo người

ấy xuống. Trong bài thơ “Nhân tình thế thái”, nhà thơ Nguyễn Công Trứ (1778-

1859), sau bao năm lăn lộn trong chốn quan trường, đã nhận ra mặt trái của tình

cảnh làm quan đã tìm đường rút lui khỏi công danh và quyền lợi. Trong đoạn thơ

này ông dùng thành ngữ “sa mày nặng mặt” để hiển lộ nỗi buồn đau của mình:

(51) Gớm chết nhân tình thế thái,

Lạt nồng coi chiếc túi đầy vơi.

Trông tốt màu lựa ý theo hơi,

Giọng thù phụng ngọt ngào đủ mực.

Khi giở quẻ sa mày nặng mặt,

Thói đảo điên khủng khỉnh không dời.

Nghe ra thời cũng buồn cười,

110

Nghĩ lại từ đây phải chạy…

Tính phương hướng trong thành ngữ tiếng Việt biểu thị cơn giận có thể được

lý giải nhờ vào học thuyết Âm dương Ngũ hành, Như đã trình bày, có năm chiều

hướng tương ứng với ngũ hành, từ đó sắc thái cảm xúc cũng được hiển lộ: khi dùng

sức để đỡ dựng một cây cột lên phải dùng sức bẩy một vật nặng lên, sức mạnh của

thân ảnh hưởng đến cảm xúc mạnh mẻ như giận [38, tr.225-226].

Tiếng Anh ghi nhận nhiều thành ngữ biểu thị cảm xúc giận với mô hình ẩn

dụ PHƯƠNG HƯỚNG, trong đó gồm 3 thành ngữ với mô hình ẩn dụ hướng

XUỐNG (thành ngữ thứ 1 đến 3 trong bảng biểu) và 20 thành ngữ với mô hình ẩn

dụ hướng LÊN (thành ngữ thứ 4 đến 23).

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

giận sôi gan cháy với ngọn lửa xanh thấp

có điểm sôi thấp làm phát cáu dễ nổi cáu

dồn ai vào tường bật nắp đậy thổi bay tay cầm vượt ra khỏi làm trổi dậy sự giận dữ dựng lưng ai đó lên làm ai rất bực mình nổi giận đùng đùng tức điên lên chọc ai giận làm cho ai bực tức phát cáu

đi xuyên qua mái nhà dựng con khỉ lên nổi trân lôi đình phát cáu

nâng cánh tay lên chạm trần nhà chạm mái nhà nhảy lên nhảy xuống làm tóc gáy dựng đứng bực tức khó chịu đùng đùng nổi giận đùng đùng nổi giận phản ứng giận dữ chọc ai đó giận

gây bực mình

xoa ngược ai đó theo cách sai lầm nâng sự bực dọc la lối giận dữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận 1. burn with a low blue flame 2. get under one’s skin bên dưới da của ai đó 3. have a low boiling point 4. drive sb up the wall 5. flip one’s lid 6. fly off the handle 7. take a rise out of 8. get one’s dander up 9. get/put one’s back up 10. go through the roof 11. have one’s monkey up 12. up in arms about 13. hit the ceiling 14. hit the roof 15. jump up and down 16. make one’s hackles rise 17. rub sb up the wrong way 18. raise cain (with sb or sth) 19. raise one’s hackles dựng tóc gáy lên chọc ai đó giận

111

nâng địa ngục gây om sòm

nâng cọc ném vòng nâng con quỷ la lối om sòm quá tức giận

nâng ma quỷ gây náo loạn 20. raise hell (with sb or sth) 21. raise hob with sb 22. raise the devil (with sb or sth) 23. raise the dickens (with sb or sth)

Với nhóm thành ngữ có mô hình ẩn dụ hướng XUỐNG, ba thành ngữ này sử

dụng tính từ “low” (thấp) và giới từ “under” (bên dưới). Với nhóm thành ngữ có mô

hình ẩn dụ hướng LÊN, các thành ngữ này sử dụng giới từ chỉ hướng lên “up” (có 7

thành ngữ tiếng Anh sử dụng giới từ “up” biểu thị cơn giận), động từ hay danh từ

chỉ hướng như “raise” (nâng lên), “rise” (mọc lên), “fly” (bay), “flip” (thổi), “hit”

(đánh) hoặc danh từ không gian liên quan đến độ cao như “roof” (mái nhà),

“ceiling” (trần nhà). Có thể nhận định rằng cơn giận được xem như là một chất lỏng

trong vật chứa, dưới áp suất và nhiệt độ nên chất lỏng bị đun sôi, đẩy đến một nhiệt

độ nhất định và bùng nổ.

Bên cạnh đó, khi bùng nổ, ngoài hai hướng cơ bản là LÊN và XUỐNG, cơn

giận có thể được ẩn dụ ý niệm hóa với miền nguồn là hướng ra chung quanh của

chủ thể con người, như 6 thành ngữ tiếng Anh sau đây biểu hiện:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận 1. drive/ send sb round đưa ai đến khúc quanh làm cho ai điên đầu

the bend

2. bent out of shape rất tức giận

quá bực bội giận dữ hết sức tức giận 3. get off one’s bike 4. go crackers 5. have steam coming out of one’s ears

bị vặn vẹo không còn nguyên hình dạng ra khỏi xe gây tiếng nổ khiến hơi nước bốc ra khỏi tai ra khỏi tường làm ai bực mình

6. off the wall

Có thể thấy miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG có tác động không nhỏ đến việc

kiến tạo thành ngữ cảm xúc giận của tiếng Anh.

112

2.4.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

Lực tác động được biểu hiện thông qua hành vi tấn công của động vật tạo

nên miền nguồn phong phú làm cơ sở cho ẩn dụ cảm xúc giận trong tiếng Việt.

Thành ngữ tiếng Việt sử dụng miền nguồn ẩn dụ LỰC TÁC ĐỘNG với hành vi tấn

công hoặc bị tấn công trong việc kiến tạo nghĩa cho thành ngữ biểu thị cơn giận.

1. Tức như bò đá 6. Phùng má trợn mắt

2. Hăng máu vịt 7. Đánh như két, thét như lôi

3. Cấm cẳn như chó cắn ma 8. Con gà tức nhau tiếng gáy

4. Chó cắn càn 9. Giẫy lên như bị ong châm

5. Như chó nhai giẻ rách

Những thành ngữ này biểu thị sự bực bội không thể giải tỏa được. Hãy xét

thành ngữ “cấm cẳn như chó cắn ma”. Loài chó có vai trò rất quan trọng đối với

văn hóa người Việt. Theo quan niệm dân gian, chó có giác quan đặc biệt có thể

phát hiện ra ma quỷ. Còn xét về mặt khoa học, loài chó có thính giác rất nhạy, có

thể nghe thấy những âm thanh con người không cảm nhận được. Vì vậy, chó sủa về

đêm cũng có thể vì “hồn ma” hay những âm thanh đó khiến nó cảm thấy cáu kỉnh

(cấm cẳn). Hình tượng đó được liên hệ với người đang ở trạng thái bực bội, tức

giận. Còn thành ngữ tiếng Việt tức như bò đá diễn tả sự tức tối, ấm ức trong lòng,

như thể một người bị bò đá trúng vậy.

Tương tự, những hành vi đe dọa, phòng thủ và tấn công của động vật tạo cơ

sở xây dựng 10 thành ngữ tiếng Anh với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG sau đây:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận

1. make the fur fly gây sự, tranh cãi

2. make the feathers fly 3. ruffle one’s feathers 4. foam at the mouth 5. get one’s dander up 6. get/put one's back up 7. make one's hackles rise 8. raise one's hackles 9. rattle one's cage làm lông bay đi làm lông vũ bay đi làm rối lông vũ sùi bọt mép làm trổi dậy sự giận dữ dựng lưng ai đó lên làm tóc gáy dựng đứng dựng tóc gáy lên khua cái chuồng của ai gây sự, tranh cãi làm ai nổi cáu cực kỳ tức giận làm cho ai bực tức phát cáu chọc ai đó giận chọc ai đó giận làm điều gì gây bực bội

113

10. snap (bite) a person's head (nose) off làm vỡ đầu (mũi) ra từng mảnh lớn tiếng với ai một cách giận dữ

Những thành ngữ trên đều sử dụng hình ảnh điển hình của loài vật khi giận.

Hình ảnh sùi bọt mép của động vật hay hình ảnh chuồng thú bị kẻ quấy phá bằng

cách khua ầm ĩ là những hình ảnh rất đặc trưng cho loài vật dữ tợn bị chăn dắt

trong khu vực nuôi nhốt.

2.4.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn LỬA

Murphy [128] giới thiệu hai cách giải thích khái quát cho biểu thức ẩn dụ,

mà ông gọi là phiên bản mạnh và phiên bản yếu. Theo đó, phiên bản mạnh cho rằng

một số ý niệm không được hiểu thông các biểu thức ngôn ngữ biểu thị chúng mà chỉ

bằng việc tham chiếu về mặt ẩn dụ đến một miền khác. Nói cách khác, sự tình này

được hiểu thông qua mối quan hệ với một sự tình khác mà không phải là hiện thực

(theo nghĩa đen) của cùng một thực thể, mà thông qua kinh nghiệm trực tiếp của

chúng ta với môi trường sống xung quanh. Ví dụ, chúng ta chưa hiểu rõ cấu trúc

cảm xúc và vì vậy chúng ta nghĩ đến cảm xúc thông qua nhiệt độ, điều mà chúng ta

hiểu rõ hơn. Ví dụ, trong biểu thức ẩn dụ “Lee is a block of ice” (Lee là một khối

băng đá), việc hiểu cảm xúc của Lee xuất phát từ việc hiểu miền đích “a block of

ice” (một khối băng đá) theo quan điểm kinh nghiệm bản thân về nhiệt độ để phán

đoán rằng “Lee rất lạnh lùng, không có cảm xúc.”

Phiên bản yếu cho rằng chúng ta không nghĩ về nhiệt độ thực tế khi xem xét

những cảm xúc, mà thay vào đó chúng ta phát triển một cấu trúc ý niệm về cảm xúc

hoặc bất kỳ một cấu trúc ý niệm nào. Tuy nhiên, sự tồn tại của phép ẩn dụ lời nói có

hệ thống trong văn hóa giao tiếp của chúng ta đã ảnh hưởng đến cấu trúc ý niệm

nhằm phù hợp với phép ẩn dụ. Đó là, cấu trúc của miền cảm xúc đã bị ảnh hưởng

bởi nhiều ẩn dụ tình cảm liên quan đến nhiệt độ.

Ý niệm GIẬN được hiểu qua ý niệm LỬA, một biểu hiện hiện thực của nhiệt

độ, nhờ vào mô hình ẩn dụ ánh xạ. Lửa là một thực thể tỏa ra nhiệt, có thể cháy, có

thể dập tắt và duy trì bằng than, củi, dầu,v.v. GIẬN là miền ý niệm đích, được nhận

thức thông qua các từ ngữ của miền ý niệm nguồn LỬA. Trong mô hình ẩn dụ

114

GIẬN LÀ LỬA, cơ sở của ánh xạ chính là sự tri nhận về thân nhiệt được tạo ra do

phản ứng sinh lý của cơn giận, từ đó liên tưởng đến ngọn lửa. Mô hình GIẬN LÀ

LỬA xuất hiện đồng thời cả trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.

Tiếng Việt có 12 thành ngữ biểu thị cơn giận sử dụng mô hình ẩn dụ liên

quan đến lửa:

1. Lửa (cháy) đổ thêm dầu 7. Mặt đỏ tía tai

2. Đổ dầu vào lửa 8. Cháy ruột cháy gan

3. Mắt như nảy / đổ lửa 9. Cháy ruột đốt gan

4. Như dẫm phải lửa 10. Cháy gan cháy ruột

5. Nóng gan nóng phổi 11. Hét ra lửa

6. Đỏ mặt tía tai 12. Mặt đỏ như lửa

Bốn thành ngữ đầu sử dụng trực tiếp hình ảnh về ngọn lửa để biểu thị mức

độ giận dữ. Ngọn lửa đang cháy vậy mà còn đổ thêm dầu vào, tức là cung cấp thêm

nhiên liệu để duy trì và làm bùng ngọn lửa, cũng giống như cơn giận của một người

đang diễn ra thì có sự tác động từ người khác sẽ khiến cho cơn giận có nguy cơ tăng

cao hơn. Khi giận, đồng tử của mắt co lại, các mạch máu ở tròng trắng xung quanh

đồng tử sẽ nổi lên làm cho mắt giống như có lửa bên trong vậy; hoặc ví như một

người đi trên đường, bỗng nhiên do bất cẩn giẫm phải cục than lửa, sẽ khiến người

đó theo phản xạ co chân lại, cơn đau đột ngột xuất hiện, làm thay đổi tâm trạng cảm

xúc theo hướng tiêu cực như bực mình hay tức giận. Sáu thành ngữ còn lại sử dụng

hiệu ứng của lửa, đó là sức nóng được cảm nhận bên trong cơ thể, có thể đốt cháy

bộ phận bên trong cơ thể người và biểu hiện đỏ bừng khuôn mặt và hai vành tai.

Chẳng hạn trong ví dụ (52), cảm xúc giận của nhân vật được biểu hiện thông qua

thành ngữ “cháy ruột cháy gan” có giá trị nghĩa biểu trưng sâu sắc.

(52) “Những tấm bưu thiếp được phép gửi qua bưu điện giữa hai miền lúc ấy

bao giờ cũng chỉ có vài chữ vắn tắt “Cả nhà vẫn mạnh”, “Cố gắng học tập, không

cần lo cho nhà”… Chúng tôi cháy ruột cháy gan khi nghe tin về những cuộc thảm

sát hàng loạt ở Vĩnh Trinh, Ngân Sơn, Hướng Điền, Sơn Mỹ, tin Rạch Lùm, Khánh

115

Hưng, Khánh Hội bị thả bom rải thảm.” (Trích Bức tường áo nâu, www.tuoitre.vn,

25/8/2014).

Trong tiếng Anh, chúng tôi ghi nhận có 8 thành ngữ có sử dụng miền nguồn

LỬA để biểu thị sự tức giận:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận

1. add fuel to the fire 2. add fuel to the flame 3. breathe fire 4. burn with a low blue làm ai giận thêm làm ai giận thêm lộ vẻ giận dữ giận sôi gan flame

5. fire a volley at sb 6. hot under the collar 7. hot and bothered 8. in the heat of the làm ai bực mình rất bực mình trong lúc nóng giận moment thêm nhiên liệu vào lửa thêm nhiên liệu vào lửa thở ra lửa cháy với ngọn lửa xanh thấp ném quả bóng đến ai nóng dưới cổ áo nóng và phiền phức trong sự sôi sục của thời gian

Số liệu trên đây cho thấy hai ngôn ngữ đều sử dụng lược đồ hình ảnh LỬA.

Theo Lakoff và Kövecses, cơ chế sinh lý học của con người là như nhau ở các nền

văn hóa khác nhau nên chúng có chung một ý niệm hóa về cảm xúc. Tuy nhiên, mỗi

nền văn hóa có thể chọn các ý niệm hóa cảm xúc theo cách riêng của họ nhưng vẫn

nằm trong phạm vi ràng buộc của cơ chế sinh lý học phổ quát. Các thành ngữ tiếng

Việt sử dụng từ mô tả bộ phận cơ thể (ruột, gan, mắt, mặt) kết hợp cùng ý niệm lửa

để biểu thị cấp độ mạnh yếu khác nhau của cơn giận, trong khi thành ngữ tiếng Anh

sử dụng hình ảnh có thể nhìn thấy bên ngoài như cổ áo (collar), ngọn lửa (fire) để

mô tả sự bực mình hay tức giận.

2.4.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn MÀU SẮC

Màu sắc có ảnh hưởng đến tâm lý và cảm xúc con người. Trong ngôn ngữ,

các từ ngữ chỉ màu sắc có thể phản ảnh được tâm lý văn hóa dân tộc. Như

Mazurova [125] nhận định, các ý niệm được biểu thị bằng phương tiện từ ngữ màu

sắc là một trong nhiều bộ phận cấu thành của thành ngữ tiếng Anh. Mỗi loại màu

sắc có ý nghĩa và chức năng riêng với từng loại cảm xúc. Việc cảm nhận màu sắc là

116

tương tự nhau đối với mọi người nhưng sự kiến giải về chúng là khác nhau giữa các

nền văn hóa.

Ẩn dụ cấp độ tổng loại CẢM XÚC LÀ MÀU SẮC có nhiều mô hình ẩn dụ

cấp độ cụ thể, tuy nhiên chúng có cùng một định hướng chung: tất cả cảm xúc thuộc

loại ẩn dụ này có thể được biểu lộ thông qua việc thay đổi sắc diện trên khuôn mặt.

Có hai thái cực của loại ẩn dụ CẢM XÚC LÀ MÀU SẮC. Một thái cực đối lập là ở

giữa cấp độ gam màu sáng và tối. Một thái cực còn lại là một phổ màu sắc, trên phổ

màu này chia làm nhiều màu, được bố trí từ màu xanh, đỏ, đen, trắng, xám, vàng,

v.v. có vai trò là từ chỉ định cho các loại cảm xúc. Nhìn chung, nghĩa liên tưởng của

gam màu sáng trong tri nhận văn hóa của người Việt và người Anh-Mỹ mang nghĩa

tích cực, trong khi nghĩa liên tưởng của gam màu tối thường mang nghĩa tiêu cực.

Do vậy, ẩn dụ cấp độ tổng loại CẢM XÚC LÀ MÀU SẮC có tác động đến miền

nguồn cảm xúc giận trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh. Giận là loại cảm xúc

được cho là tiêu cực, nên màu sắc để biểu thị cho loại cảm xúc mạnh này cũng có

gam màu mạnh và tối. Thành ngữ tiếng Việt ghi nhận có 9 đơn vị tổ hợp sử dụng

miền nguồn MÀU SẮC để biểu thị cơn giận:

1. Căm gan tím ruột 6. Đỏ mặt tía tai

2. Bầm gan tím ruột 7. Mặt như đỏ lửa

3. Bầm gan sôi máu 8. Mặt đỏ tía tai

4. Tím gan tím ruột 9. Tím như quả bồ quân

5. Thâm gan tím ruột

Qua quan sát nhóm thành ngữ này, chúng tôi nhận thấy người Việt xưa có xu

hướng dùng màu sắc có gam màu mạnh như “đỏ” và gam màu tối như “bầm”,

“thâm”, “tím” để biểu đạt cảm xúc giận. Màu đỏ tạo ra liên tưởng theo hướng tích

cực và tiêu cực; theo hướng tích cực thì màu đỏ liên tưởng đến tính cách năng động,

mạnh mẽ và đam mê, theo hướng tiêu cực, thì màu đỏ thường được liên tưởng đến

tính hung hăng, tính tàn bạo, sự dữ dội và cuồng nhiệt. Về mặt sinh học, khi tức

giận, nhịp tim và huyết áp tăng lên, nên tim đẩy lượng máu đổ dồn về các bộ phận

khác trong cơ thể như khuôn mặt, tay chân, v.v. tạo cảm giác nóng ran, nên khi thấy

117

một người “”mặt đỏ tía tai” hay “mặt đỏ như lửa” là chúng ta biết rằng người ấy

đang rất giận.

(53) Có một chuyện rất vui, một đồng chí cấp cao bị ông Tỷ cho vào tờ căn

cước “nghề ở đợ”, đồng chí cao cấp đỏ mặt tía tai: “Sao lại là nghề ở đợ?”. Ông

Tỷ tỉnh như không: “Cái mặt của đồng chí như vậy thì đề như vậy, nếu đồng chí

muốn đề nghề gì tôi sẽ chấp hành nhưng nếu đồng chí bị bắt thì đừng trách tôi”.

(Trích Dân chơi, Nguyễn Quang Sáng)

Còn đối với gam màu tối như “bầm”, “thâm”, “tím” được kết hợp với bộ

phận bên trong cơ thể như “gan” “ruột”, thì thành ngữ tiếng Việt đã ứng dụng quan

hệ giữa phủ tạng và tình chí trong mối quan hệ ngũ hành. Theo đó, tình chí nộ

(giận) có liên hệ đến can (gan) và đởm (mật). Gan có chức năng tàng trữ máu, điều

tiết huyết, giữ gân cơ ổn định. Khi tức giận nhiều sẽ làm cho gan nóng, khiến cho

gan trở nên sậm màu lại.

Trong khi đó, tiếng Anh ghi nhận 5 thành ngữ biểu đạt cảm xúc giận sử dụng

miền nguồn MÀU SẮC như sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận

1. a red rag to a bull 2. be purple with rage 3. burn with a low blue chọc giận ai đó giận tím tái giận sôi gan

flame 4. see red 5. see blood mảnh vải đỏ cho bò tím vì giận cháy với ngọn lửa xanh thấp thấy màu đỏ thấy máu tức giận giận điên tiết

Chúng ta có thể phát hiện rằng nhóm thành ngữ tiếng Anh này cũng sử dụng

gam màu tối và mạnh như đỏ (red, blood), xanh dương đậm (low blue), và tím

(purple), nên việc vận dụng miền nguồn MÀU SẮC với gam màu mạnh nhằm ánh

xạ ẩn dụ đến miền đích là cảm xúc giận có những nét tương đồng, minh chứng một

phần nào đó cho quan điểm về tính phổ quát của cảm xúc thuộc hai nền văn hóa

không giống nhau.

118

2.4.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn SỰ KHÓ CHỊU CỦA

CƠ THỂ

Khi cơ thể con người không khỏe, “khó chịu”, thì người đó có khuynh hướng

mất kiểm soát cảm xúc bản thân, dẫn đến tình huống dễ nổi cáu. Đây là một miền

nguồn ẩn dụ quan trọng của ngôn ngữ học tri nhận nhằm biểu thị cảm xúc giận

trong việc sử dụng ngôn ngữ. Chúng tôi ghi nhận tiếng Việt có 17 thành ngữ sử

dụng phép ẩn dụ về SỰ KHÓ CHỊU CỦA CƠ THỂ như sau:

1. Tím gan tím ruột 10. Bầm gan sôi máu

2. Thâm gan tím ruột 11. Chạm phải gai

3. Cắt gan tím ruột 12. Đỏ mặt tía tai

4. Bầm gan lộn ruột 13. (Nghe như) đấm vào tai

5. Bầm gan tím ruột 14. Tức hộc máu

6. Đầy gan đầy ruột 15. Tức lòi con ngươi

7. Tức ruột căm gan 16. Tức lộn ruột

8. Nóng gan nóng phổi 17. Tức lộn tiết

9. Sôi gan nổi mật

Sự khó chịu cơ thể theo tri nhận của người Việt được đặc trưng hóa thông

qua sự tổn hại hoặc xâm hại các bộ phận cơ thể như: gan, ruột, phổi, máu (tiết), con

ngươi (mắt), v.v. Sự khó chịu được biểu thị bằng các từ mang nghĩa tiêu cực thuộc

phạm trù nhiệt độ (nóng, sôi), phạm trù màu sắc (bầm, đỏ), phạm trù vật chứa (đầy),

phạm trù hoạt động sinh tồn (ăn, uống), v.v. Thành ngữ loại này sử dụng miền ý

niệm thuộc về ẩn dụ sinh lý theo cách phân loại của Apresjan [59].

Trong khi đó, thành ngữ tiếng Anh cũng ghi nhận miền ẩn dụ SỰ KHÓ

CHỊU CỦA CƠ THỂ thông qua 11 thành ngữ sau đây:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận 1. bad blood between A xấu máu giữa A và B

and B 2. spit blood 3. draw blood 4. a pain in the neck phun ra máu rút máu một cơn đau ở cổ sự tức giận hoặc ác ý giữa A và B tỏ ra giận dữ tỏ ra rất giận dữ bực mình

119

5. fed up to the back teeth cảm thấy bực tức

6. bite one’s lips 7. foam/ froth at the cảm giác buồn buồn ở phía răng cùng cắn môi sùi bọt mép mím môi nén giận cực kỳ tức giận mouth

8. have one’s guts for garters

9. look at sb cross-eyed

10. throw a fit 11. put one’s nose out of có bụng phải dùng nút dây lưng nhìn ai với đôi mắt chau vào nhau ném một cơn giận kéo mũi ra khỏi khớp nối tức giận và trừng phạt ai nặng nề nhìn ai một cách tức giận vô cùng tức giận chọc giận ai đó

joint

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cơn giận được thể hiện bằng việc sử dụng kết

hợp tên gọi bộ phận cơ thể như: răng (teeth), cổ (neck), môi (lip), miệng (mouth),

mũi (nose), mắt (eye), máu (blood), bụng (gut), v.v. Cả hai nhóm thành ngữ tiếng

Việt và tiếng Anh thuộc miền ẩn dụ sự khó chịu của cơ thể đều có sử dụng tên các

bộ phận cơ thể con người để biểu đạt sắc thái cảm xúc giận. Điều này có thể được

lý giải dựa trên quan điểm cho rằng con người là trung tâm của vũ trụ, và tình cảm

hay cảm xúc chính là thuộc tính quan trọng của con người khiến con người có thể

phân biệt được với các loài sinh vật khác. Tuy nhiên, việc sử dụng từ ngữ tên gọi bộ

phận cơ thể của hai ngôn ngữ được khảo sát lại khác nhau. Theo đó, phần lớn các

thành ngữ chỉ cảm xúc giận tiếng Việt có tần suất sử dụng những từ chỉ bộ phận bên

trong cơ thể con người rất cao, đó là từ gan (11 lần), ruột (8 lần).

Một điểm tương đồng thú vị là tiếng Việt có 4 thành ngữ biểu thị cơn giận sử

dụng từ máu, gồm có ăn gan uống máu, bầm gan sôi máu, tức hộc máu, tức lộn tiết

và tiếng Anh có 3 thành ngữ sử dụng từ máu (blood): bad blood, spit blood, draw

blood. Về mặt sinh lý học, khi tức giận, nhịp tim và huyết áp tăng lên, nếu lặp lại

nhiều lần sẽ dẫn đến rối loạn lưu thông máu trong động mạch vành, tạo thành những

mảng bám và tích lại nhanh hơn đưa tới chứng bệnh đông mạch vành. Có lẽ vì sự

trải nghiệm sinh lý này nên trong thành ngữ của tiếng Việt và tiếng Anh mới xuất

hiện từ máu (blood) để thể hiện cảm xúc giận.

120

Kövecses [103] kết luận rằng ẩn dụ cảm xúc xuất hiện từ những sự nghiệm

thân nhiều lần, một lý do vì sao cảm xúc con người xuyên qua nhiều nền văn hóa

đều tuân thủ theo các quá trình sinh lý cơ bản trong cơ thể con người và phần cơ thể

tương tác với thế giới bên ngoài.

2.4.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc giận với miền nguồn SỰ XÂM PHẠM

Khi con người giận lên, họ có xu hướng biểu thị cơn giận ra bên ngoài và

dùng một hành động nào đó để xâm phạm hay tấn công người khác. Do vậy,

Kövecses [103] đưa ra một mô hình ẩn dụ của cảm xúc giận: NGUYÊN DO GIẬN

LÀ SỰ XÂM PHẠM LÃNH ĐỊA. Qua khảo sát thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

biểu thị cảm xúc giận, chúng tôi phát hiện có nhiều thành ngữ sử dụng miền ẩn dụ

SỰ XÂM PHẠM. Theo đó, tiếng Việt có 10 thành ngữ sau:

1. Chửi bóng chửi gió 6. Chửi như vặt thịt

2. Chửi chó mắng mèo 7. Chửi chùm chửi lấp

3. Chửi như tát nước vào mặt 8. Chửi chùm chửi lợp

4. Chửi như hát hay 9. Chửi mèo quèo chó

5. Chửi như chó ăn vã mắm 10. Mắng như tát nước vào mặt

Khi cảm thấy giận, người ta có thể dùng vũ lực để tấn công hay xâm phạm

người khác, hoặc thốt ra những lời xúc phạm cay độc để làm tổn tại tình cảm hay

danh dự của người khác. Qua phân tích 10 thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc

giận sử dụng miền ẩn dụ SỰ XÂM PHẠM, chúng tôi nhận thấy hầu hết các thành

ngữ đều dùng lời lẽ để biểu lộ cảm xúc giận, mà không dùng vũ lực để mô tả hành

vi xâm phạm. Thành ngữ chứa động từ “chửi” vận dụng phương thức so sánh, một

dạng yếu của ẩn dụ, để làm giảm đi nghĩa tiêu cực của từ “chửi”, đồng thời làm tăng

tính hình tượng của thành ngữ. Trong khi đó ở tiếng Anh, chúng tôi không phát hiện

thấy hiện tượng sử dụng ngôn ngữ tương tự.

Tiếng Anh cũng có những thành ngữ biểu thị cảm xúc giận vận dụng miền

ẩn dụ SỰ XÂM PHẠM. Có 7 thành ngữ tiếng Anh sử dụng miền nguồn ẩn dụ này:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc giận

1. hit the ceiling chạm trần nhà đùng đùng nổi giận

121

2. hit the roof 3. look daggers at sb đùng đùng nổi giận hằm học nhìn ai

4. pop one's cork 5. rattle one's cage 6. rub sb up the wrong giận phát khùng lên làm điều gì gây bực bội gây bực mình way

7. tear one's hair (out) chạm mái nhà nhìn như chỉa mũi dao găm vào ai giật nút chai của ai đó khua cái chuồng của ai xoa ngược ai đó theo cách sai lầm giật, bứt tóc ai đó tức tối, giận dữ

2.5. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc sợ trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Sợ là cảm xúc tiêu cực xuất hiện khi con người nhận thức các mối đe dọa đối

với họ. Đây là một cơ chế sinh lý tồn tại cơ bản xảy ra khi phản ứng với một kích

thích cụ thể, chẳng hạn như đau đớn thể xác hoặc nguy hiểm đe dọa. Nói ngắn gọn,

sợ là khả năng nhận ra nguy hiểm, có thể trốn tránh hoặc đối đầu với nó. Lakoff và

Kövecses [115] và Kövecses [103] cũng tìm thấy một số miền ẩn dụ gốc hình thành

nên cảm xúc sợ. Chúng tôi chọn lọc một số mô hình ẩn dụ tiêu biểu về khái niệm sợ

hãi của Lakoff và Kövecses để tiến hành khảo sát thành ngữ biểu thị cảm xúc sợ của

tiếng Việt và tiếng Anh.

2.5.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn VẬT CHỨA

Miền nguồn VẬT CHỨA cũng được sử dụng để kiến tạo ẩn dụ cảm xúc với

ý niệm sợ. Trong đó, mô hình ẩn dụ ánh xạ MẮT LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC SỢ

được tìm thấy trong 5 thành ngữ tiếng Việt như sau: mắt la mày lét, mắt lăng mắt

vược, mắt lơ mày láo, mắt tròn mắt dẹt, mắt trước mắt sau.

Như chúng tôi đã trình bày về bộ phận bên ngoài cơ thể ở các phần trên, mắt

là bộ phận cơ thể được sử dụng nhiều nhất trong việc kiến tạo ý niệm cảm xúc,

trong đó có nỗi sợ. Nỗi sợ của con người được bộc lộ qua biểu hiện của mắt, như

đảo mắt nhanh, nhìn quanh nhìn quất hay nhìn hướng xuống đất. Mắt la mày lét

nghĩa là mắt hướng xuống thấp, lắm la lắm lét, không dám nhìn thẳng, còn mắt tròn

mắt dẹt tả vẻ sợ hãi, nhớn nhác, thường với số đông.

(54) … Cuối cùng, khi Kunta được ra khỏi lều, cả hai cổ chân lại bị cùm,

phần lớn những người đen khác đều né tránh anh mắt la mày lét sợ đến gần anh và

122

vội vã lảng đi chỗ khác như thể anh là một loại ác thú nào đó. Chỉ có bà già nấu

bếp và ông lão thổi tù và là dám nhìn thẳng vào anh…

(Trích Cội rễ, chương 48, Alex Haley, dịch giả Dương Tường,

www.vnthuquan.org, 28/10/2014).

Trong khi đó, thành ngữ tiếng Anh ghi nhận 14 đơn vị sử dụng miền nguồn

VẬT CHỨA này để biểu đạt ý niệm cảm xúc sợ.

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sợ

trong sự kinh sợ trong nỗi sợ và run rẩy

1. in a funk 2. in fear and trembling 3. jump out of one’s skin nhảy ra khỏi da 4. butterfly in stomach 5. break out in a cold bướm trong dạ dày vã mồ hôi lạnh sợ xanh mặt trong trạng thái sợ sệt giật nảy mình cảm thấy lo lắng bồn chồn rất sợ sweat

6. bring sb out in a cold khiến ai rất sợ sweat

7. freeze one’s blood 8. make one’s blood run mang ai ra trong mồ hôi lạnh làm máu đóng băng làm máu chảy lạnh làm ai sợ hết hồn chết khiếp cold

rất lo lắng sợ hãi nín thở vì sợ hãi khiến ai lo sợ

9. sweat blood 10. with bated breath 11. have a threat hanging over one’s head 12. give sb heart failure làm ai đó sợ hãi

13. have one’s heart in đổ máu với hơi thở bị giảm có sự đe dọa treo trên đầu ai cho ai sự thất bại của trái tim có trái tim trong miệng ai hết hồn

one’s mouth

14. heart misses/ skips a trái tim lỗi nhịp đập tim thót lại vì sợ

beat

Với việc sử dụng giới từ chỉ không gian in (trong), out of (ra khỏi), và tên bộ

phận cơ thể con người như head (đầu), heart (tim) hay nội tạng cơ thể khác như

blood (máu), breath (hơi thở), những thành ngữ tiếng Anh nêu trên biểu hiện được ý

niệm VẬT CHỨA với mô hình ẩn dụ cấp độ tổng loại CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ

VẬT CHỨA CẢM XÚC SỢ.

123

2.5.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

Miền nguồn ẩn dụ phương hướng cũng được tìm thấy trong các thành ngữ

biểu thị cảm xúc sợ. Qua khảo sát nhóm thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc sợ,

chúng tôi tìm thấy 8 thành ngữ với mô hình ẩn dụ PHƯƠNG HƯỚNG:

1. Dựng tóc gáy 5. Rợn tóc gáy

2. Long tóc gáy 6. Hồn vía lên mây

3. Sởn gai ốc 7. Hồn bay phách lạc

4. Sởn da gà 8. Hồn lạc phách xiêu

Một đặc tính của thành ngữ thể hiện cảm xúc sợ của tiếng Việt là mô tả hình

ảnh tiêu biểu của việc biểu hiện phát lộ ra bên ngoài nỗi sợ hãi thường bắt gặp ở con

người, như dựng tóc gáy, rợn tóc gáy, long tóc gáy, sởn tóc gáy, sởn da gà, sởn gai

ốc. Về mặt biểu hiện sinh lý học, các triệu chứng của cảm xúc sợ gồm: đôi mắt mở

to, môi căng, mày chau, nhảy dựng lên, khô miệng, nhiệt độ cơ thể giảm, cơ bắp

căng, không thể di chuyển, lông và tóc dựng đứng lên, v.v. Theo đó, triệu chứng

lông và tóc dựng đứng lên được biểu hiện bằng hình ảnh ẩn dụ trong tiếng Việt với

việc sử dụng các động từ “dựng, rợn, long, sởn”. Bằng mắt thường chúng ta khó có

thể nhận thấy tóc sau gáy bị dựng lên. Đó là một cảm giác tức thì xảy ra khi một

người nào đó quá kinh hãi, ví dụ như bước vào một ngôi nhà hoang hay đến một

khu vực hẻo lánh về đêm. Cảm giác này thực sự chỉ xảy ra cho những người đã trải

nghiệm cảm xúc sợ. Điều này cũng tương tự khi da có cảm giác rờn rợn, bị biến đổi

màu da và bề mặt của da trông sần sùi hơn. Nếu xét về hướng, thì đây là biểu hiện

của hướng LÊN khi lông tóc mọc dựng lên hay da gà nổi lên. Hay như đối với các

thành ngữ “hồn vía lên mây”, “hồn bay phách lạc”, “hồn lạc phách xiêu”, hồn, vía,

phách là những ý niệm tâm linh, biểu thị phần tinh thần của con người, thường

được cho là nhẹ hơn so với phần thể xác của con người. Khi nỗi sợ với cường độ

mạnh xuất hiện đột ngột, con người có thể bị bất tỉnh, lúc đó được coi là hồn, vía,

phách đã “bay lạc” hay “lên mây” rồi. Như vậy, miền nguồn ẩn dụ hướng LÊN

cũng được biểu thị với sự bay lạc và lên mây của hồn, vía, phách.

124

Học thuyết Âm dương Ngũ hành về chiều hướng phát triển của vạn vật trong

không gian có thể lý giải phần nào cho tính phương hướng trong thành ngữ tiếng

Việt biểu thị nỗi sợ. Với năm chiều hướng của thị giác con người tương ứng với ngũ

hành, cùng với việc biểu hiện ở hướng sức trong hoạt động của toàn thân con người

tác động vào tự nhiên, và dáng đầu cổ khi nói, cảm xúc sợ có thể được biểu đạt: khi

bị rơi từ trên xuống, khi đu trên cao thũng người xuống thì thấy hoảng sợ [38,

tr.225-226].

Trong khi đó thành ngữ tiếng Anh biểu thị nỗi sợ cũng được kiến tạo dưới

tác động của miền ẩn dụ PHƯƠNG HƯỚNG. Chúng tôi ghi nhận thành ngữ tiếng

Anh có 5 đơn vị biểu thị cảm xúc sợ có sử dụng miền nguồn ẩn dụ hướng LÊN với

việc sử dụng giới từ up (lên) hoặc hành động như stand on end (đứng lên), tuy

không chứa giới từ chỉ phương hướng, nhưng ẩn ý là hướng lên.

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sợ

1. get the wind up 2. put the wind up the trở nên hoảng sợ làm ai đó khiếp sợ person

3. make one’s hair stand làm ai sợ dựng tóc gáy làm gió thổi lên dựng cho gió thổi lên một người làm cho tóc gáy đứng lên on end

4. break out in a cold vã mồ hôi lạnh rất sợ sweat

5. be a weight off one’s làm hết lo sợ đem cái nặng ra khỏi tâm trí ai

mind

Như vậy có thể nhận thấy, cả thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, qua khảo

sát, đều dùng miền nguồn ẩn dụ hướng LÊN để biểu thị ý niệm cảm xúc sợ.

2.5.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

Phản ứng cảm xúc sợ cũng được xem như những chuyển động được thúc đẩy

bởi yếu tố bên ngoài với tác động của lực. Khi xét các thành ngữ tiếng Việt được

cấu trúc hóa bởi ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ, chúng tôi thấy có 17 thành ngữ sử dụng

miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG trong việc ánh xạ sang miền đích cảm xúc sợ.

1. Chạy như chó phải pháo 9. Mặt cắt không ra máu

125

2. Chạy như chuột 10. Rờ rẫm như xẫm

3. Chạy như ma đuổi 11. Run như gà bị cắt tiết

4. Chạy thốc chạy tháo 12. Sợ mướt mồ hôi

5. Chạy thục mạng 13. Sợ run cả người

6. Chạy trối chết 14. Toát mồ hôi

7. Gãi đầu gãi tai 15. Thằn lằn đứt đuôi

8. Kêu như xé vải 16. Trốn như chuột

Trong 16 thành ngữ tiếng Việt nêu trên, con người bị tác động bởi các yếu tố

ngoại vi, biểu hiện qua lớp động từ như chạy, gãi, kêu, cắt, run, toát, đứt, trốn, v.v.

Đây là những động từ biểu thị sự tác động hay thúc đẩy từ lực tác động bên ngoài.

Trong đó, có những thành ngữ vận dụng miền nguồn cơ sở của ẩn dụ ý niệm

NGUYÊN DO LÀ LỰC, thông qua hành động “chạy, trốn” ở 7 thành ngữ tiếng

Việt, hoặc biểu hiện sinh lý của hành vi sợ, thông qua các hành động “gãi, mướt,

run, toát” ở 6 thành ngữ tiếng Việt của bảng trên. Trong khi đó, tiếng Anh có 15 tổ

hợp thành ngữ biểu thị cảm xúc sợ vận dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG như

sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sợ 1. break out in a cold vã mồ hôi lạnh rất sợ sweat

2. bring sb out in a cold khiến ai rất sợ sweat

3. freeze one's blood 4. frighten sb out of one's mang ai ra trong mồ hôi lạnh làm máu đóng băng hù dọa ai đến mất trí làm ai sợ hết hồn làm ai sợ hết hồn wits

5. frighten sb to death hù dọa ai đến chết

6. frighten the horses hù dọa ngựa

đe dọa ai làm sợ chết khiếp làm cho ai sợ hết hồn hết vía khiến cho ai hoảng sợ khiến đôi mắt ai đó e sợ

7. frighten the living daylights out of sb 8. frighten the wits out of làm ai sợ dựng tóc gáy sb

9. frighten/ scare the hell hù dọa trí khôn của ai biến mất hù dọa sự tối tăm làm cho ai rất sợ hãi

126

out of sb

giữ hơi thở

10. hold one’s breath 11. jump out of one’s skin nhảy ra khỏi da 12. make one’s blood run làm máu chảy lạnh nín thở do quá sợ hãi giật nảy mình chết khiếp cold

13. make sb quake in their run rẩy vì sợ hãi boots

14. make sb's flesh creep / làm sởn gai ốc crawl

15. make sb's hair stand làm ai sợ dựng tóc gáy khiến ai run rẩy trong đôi ủng của họ làm thớ thịt có cảm giác nhột làm cho tóc gáy đứng lên on end

Các thành ngữ này được ẩn dụ hóa thông qua miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG,

thể hiện qua các động từ như “break out” (vã), “bring out” (mang ra khỏi),

“frighten” (hù dọa), “hold” (giữ), “jump” (nhảy), “make” (khiến). Chúng là những

động từ biểu thị lực tác động vào chủ thể, và xem nỗi sợ như là một vật thể có thể di

chuyển được.

2.5.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn MÀU SẮC

Miền nguồn MÀU SẮC cũng được tìm thấy trong nhóm các thành ngữ biểu

thị cảm xúc sợ thông qua mô hình ẩn dụ tổng loại CẢM XÚC LÀ MÀU SẮC.

Thành ngữ tiếng Việt có 4 đơn vị được ghi nhận như sau: sợ tái xanh tái tía, tái

xanh tái xám, mặt xám mày xanh, mặt vàng như nghệ. Dựa vào yếu tố sinh lý của

nỗi sợ, người Việt đã sử dụng những gam màu tối như “tái”, “xanh”, “xám”, “vàng

nghệ” để biểu lộ cảm xúc sợ. Cơn hoảng sợ thường đến bất ngờ và lên cao độ trong

thời gian rất ngắn. Người bị sợ hãi tột độ cảm giác khó chịu trong người, tim đập

mạnh, tức ngực, thở gấp, muốn nghẹt thở, lạnh toát mồ hôi, v.v. Hiển lộ bên ngoài

là nét mặt với nước da đã mất sắc, trở nên xám. Đây cũng được xem là loại ẩn dụ

sinh lý theo quan điểm của Apresjan [59].

(62) … Một bữa con chị lội qua cái ao cạn nước hái keo dại túm đầy vạt áo.

Hai chị em được một bữa say keo nhớ đời. Con em ăn xong buồn nôn, đau bụng rồi

kêu nhột đít. Chổng mông thấy “con rắn” ngo ngoe con em tái xanh tái xám ré. Con

chị cuống cuồng òa khóc… (truyện Gặp lại ấu thơ, Quế Hương)

127

Qua khảo sát, chúng tôi ghi nhận có 2 thành ngữ tiếng Anh biểu đạt nỗi sợ

với miền nguồn MÀU SẮC:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sợ

khiến đôi mắt ai đó e sợ khiến cho ai hoảng sợ

1. frighten the living daylights out of sb 2. show the white feather trình diện bộ lông trắng tỏ thái độ sợ sệt

Một điều thú vị là hai thành ngữ này không sử dụng miền nguồn là những

gam màu tối như trong thành ngữ tiếng Việt, mà dùng gam màu sáng như là ánh

sáng ban ngày (daylight) và màu trắng (white) để biểu thị cảm xúc sợ hãi.

Thành ngữ “Frighten the living daylights out of sb” chứa cụm danh từ

“living daylights”, về mặt từ nguyên học, trước tiên nó được dùng như là tiếng lóng

để ám chỉ “đôi mắt”, về sau mở rộng ý nghĩa cho các giác quan trọng yếu khác của

con người (theo www.phrases.org.uk). “Khiến đôi mắt ai đó e sợ” nghĩa là làm cho

ai đó vô cùng hoảng sợ, khiến người đó có thể bất tỉnh, làm cho thần sắc của người

ấy biến khỏi khuôn mặt và ánh mắt của người đó.

(56) The bombing of the World Trade Center has frightend the living

daylights out of most Americans. (Vụ nổ bom trung tâm thương mại thế giới đã

khiến hầu hết người Mỹ sợ chết khiếp!) (theo New York Times, 18/4/2014)

2.5.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn KẺ THÙ ẨN NẤP

Con người sợ vì nhiều lẽ, sợ bóng đêm, sợ con vật nào đó (rắn, rết), bị ai đó

trêu ghẹo mang tính bất ngờ như hù dọa từ sau lưng hoặc lẫn trốn đâu đó,v.v.

Nguyên do của những nỗi sợ này là phản xạ tự nhiên, vốn dĩ tồn tại hiển nhiên trong

tiềm thức của con người. Con người có thể sợ do những việc không vui đã xảy ra

như bị giáo viên phạt do đi học muộn hoặc không thuộc bài, bị tiêm thuốc khi bệnh,

bị kẻ khác ức hiếp, v.v. Nguyên do của cảm xúc sợ này xuất phát từ sự trải nghiệm

trong quá khứ mang lại. Trong số những nguyên do từ sự trải nghiệm cuộc sống

mang lại, kẻ có quan hệ thù địch là nguyên do gây ra nỗi sợ cấp độ cao. Cấp độ nỗi

sợ tăng nhiều khi kẻ thù không xuất hiện trước mặt mà lại ẩn trốn đâu đó khiến cho

con người luôn trong tình trạng nơm nớp lo sợ và bị bất ngờ.

128

Tiếng Việt cũng ghi lại dấu ấn của miền ý niệm ẩn dụ KẺ THÙ ẨN NẤP

thông qua 12 thành ngữ biểu đạt cảm xúc sợ sau đây:

1. Cá trê chui ống 7. Chó ăn vụng bột

2. Lấm lét như quạ chui chuồng lợn 8. Trốn như chuột

3. Chấp chới như quạ đậu chuồng 9. Ru rú như gián ngày

lợn 10. Run như dế

4. Len lét như rắn mồng năm 11. Run như gà bị cắt tiết

12. Mặt như gà cắt tiết 5. Nhát như thỏ (đế)

6. Nhát như cáy

Các thành ngữ nêu trên mô hình hóa ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ bằng những

hình ảnh của loài vật. Thông qua quan sát hành vi sợ hãi của các loài vật nuôi như

chó, gà (chó ăn vụng bột, run như gà bị cắt tiết) hay các loài động vật hoang dã

sống chung quanh con người như chim, quạ, cá, rắn, thỏ, cáy, chuột, gián, dế. Một

nét chung của những loài động vật này là hình dáng bé nhỏ, dễ bị tổn thương, dễ bị

tấn công bởi các loài động vật lớn hơn. Do vậy, chúng trở thành mồi cho các loài

động vật ăn thịt, đồng thời cũng là loài vật bị con người tiêu diệt. Để tồn tại, chúng

phải trốn vào hang hoặc ẩn nấp ở nơi mà con người bắt gặp chúng. Khi ra ngoài,

chúng thường lấm la lấm lét, và quan sát cẩn thận trước khi di chuyển. Dựa vào

hình ảnh này mà người Việt xây dựng các với miền nguồn KẺ THÙ ẨN NẤP để

biểu thị cảm xúc sợ.

Qua khảo sát nhóm thành ngữ tiếng Anh biểu thị nỗi sợ, chúng tôi không

phát hiện thành ngữ nào có miền ẩn dụ KẺ THÙ ẨN NẤP cả. Điều này một lần nữa

khẳng định sự khác biệt cơ bản về bình diện văn hóa giữa hai ngôn ngữ Việt và

Anh.

2.5.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn THỰC THỂ SIÊU

NHIÊN

Tâm linh hay thực thể siêu nhiên là những chủ đề không mới trong văn hóa

người Việt. Theo quan niệm dân gian, người Việt từ xa xưa đã có tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên và thần thánh. Trong tác phẩm Văn hoá Việt Nam đỉnh cao Đại Việt,

129

Nguyễn Đăng Duy [12] đã viết: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con

người vào lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc do con người tưởng tượng ra những vị

thần linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời sống,

số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng

ấy” [12, tr.351]. Dưới góc độ văn hoá học, Nguyễn Hồng Dương [13] cho rằng tôn

giáo là một hiện tượng văn hoá tinh thần phản ánh sự nhận thức của con người về

thế giới xung quanh, về cuộc sống xã hội biểu hiện thông qua những hành vi ứng xử

của họ. Nhận thức và hành vi của cộng đồng tôn giáo luôn được thể hiện ở hai mặt:

tâm linh và xã hội. Về mặt tâm linh, thông qua các nghi lễ thực hành tôn giáo con

người bày tỏ nềm tin và tình cảm sâu sắc của mình đối với lực lượng siêu nhiên vô

hình, cũng qua đó con người thoả mãn những nhu cầu và khát vọng của họ trong

cuộc sống trần tục. Về mặt xã hội, những chuẩn mực đạo đức được quy định trong

giáo lý, giáo luật có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử của các tín đồ trong cuộc

sống.

Thành ngữ tiếng Việt có 22 trường hợp sử dụng miền nguồn ẩn dụ ý niệm

THỰC THỂ SIÊU NHIÊN để biểu thị nỗi sợ:

1. Ba hồn bảy vía 13. Kinh hồn mất vía

2. Ba hồn chín vía 14. Kinh hồn táng đởm

3. Bạt vía kinh hồn 15. Mặt tái mét, nói phét thành thần

4. Chạy như ma đuổi 16. Mất vía kinh hồn

5. Hết hồn hết vía 17. Phù thủy thấy ma

6. Hồn bay phách lạc 18. Sợ hết hồn

7. Hồn lạc phách xiêu 19. Sợ kinh hồn

8. Hồn vía lên mây 20. Sợ mất vía

9. Hồn xiêu phách lạc 21. Thần hồn nát thần tính

10. Khiếp vía kinh hồn 22. Yếu bóng vía

11. Kinh hồn bạt vía

12. Kinh hồn bỏ vía

130

Trong nhận thức dân gian, người Việt quan niệm rằng con người có hai

phần: phần xác và phần hồn. Một số dân tộc coi phần hồn gồm hồn, vía và phách.

Vía được hình dung như phần trung gian giữa thể xác và hồn. Hồn (yếu tố gốc Hán)

được giải nghĩa là “thực thể tinh thần mà tôn giáo và triết học duy tâm cho là độc

lập với thể xác, khi nhập vào thể xác thì tạo ra sức sống và tâm lý của con người.”

Ví dụ, người chết hiện hồn về, hồn về chín suối [53, tr.461]. Phách “thường dùng đi

đôi với với hồn, nghĩa là vía, tạo nên sức mạnh tinh thần của con người theo quan

niệm xưa” [53, tr.762]. Trong quan niệm của người Tày, người Thái và người Kinh

thì phách được hiểu là một yếu tố vô hình tồn tại phụ thuộc vào thể xác, được coi là

tạo nên phần tinh thần của mỗi người, khi con người chết thì cũng mất đi (khác với

hồn, độc lập với thể xác). Tuy có sự dị biệt giữa hồn và vía về nghĩa như trên đã

nói, nhưng sự đồng nhất có tính chất phạm trù về nghĩa giữa hai từ là hiển nhiên. Vì

thế, hồn và vía có thể kết hợp với nhau để tạo thành một từ ghép với nghĩa khái quát

[21, tr.31]. Hai phần xác và phần hồn này vừa gắn bó vừa tách biệt. Khi con người

còn sống, hồn nhập vào xác điều khiển hành vi của con người. Khi con người chết,

phần hồn rời khỏi thể xác, còn thể xác của họ hoà vào cát bụi, phần hồn vẫn tồn tại

và chuyển sang sống ở một thế giới khác (cõi Âm). Ở cõi Âm (được mô phỏng từ

cõi Dương), mọi linh hồn đều có các nhu cầu như cuộc sống nơi trần thế.

Về mặt tri nhận luận, với nguyên lý “dĩ nhân vi trung”, một học thuyết lấy

con người làm trung tâm của vũ trụ và là mục đích của tất cả những sự kiện diễn ra

trong thế giới, con người là ý niệm về thế giới đa chiều. Con người có hai tầng “ra

đa” để thu nhận thông tin: cơ thể và linh hồn. Linh hồn con người là phạm vi chưa

có dấu chân của nhận thức khoa học. Tuy ánh sáng khoa học chưa soi rọi vào cõi

linh hồn, thế nhưng trong dân gian, sự tồn tại của linh hồn đã được thừa nhận từ lâu

và được ghi lại trong ngôn ngữ và trong văn hóa cúng bái. Sự có mặt của linh hồn

(phách, vía) trong ngôn ngữ và trong văn hóa dân tộc là mối quan tâm của ngôn ngữ

học tri nhận [6, tr.46-47].

Trong cuộc sống con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh, sa cơ,

lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo, v.v. luôn đe doạ sự bình an của con người. Con người

131

còn thiếu tự tin vào chính bản thân khi phải đối mặt giải quyết các vấn đề trên trong

cuộc sống của chính bản thân họ. Họ luôn mong muốn có sự giúp đỡ của các thế lực

khác nhau, đặc biệt là lực lượng siêu nhiên ở “thế giới bên kia” che chở, nâng đỡ.

Từ quan niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn

đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ mang lại rủi ro, quấy nhiễu

cuộc sống của những người đang sống. Trong cuộc sống, càng về già, cái chết luôn

là nỗi ám ảnh đối với con người, nhưng con người không muốn nó diễn ra, ngay cả

khi cuộc sống của họ nơi dương thế luôn đầy rẫy khó khăn và trắc trở, nhưng họ lại

luôn phải đối mặt với nó.

Hai thành ngữ ba hồn bảy vía và ba hồn chín vía có sự lý giải khá thú vị về

các con số ba, bảy, chín. Theo y học cổ truyền giải thích, cơ thể con người có chín

lỗ gọi là cửu khiếu, là cửa thông thương giữa bên trong và bên ngoài cơ thể. Người

xưa nhận xét thấy cửu khiếu của con người vị trí được xếp lấy Nhân trung (giữa mũi

và môi trên, đường giữa) làm trung tâm: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, một miệng, một

tiền âm (lỗ tiểu), một hậu âm (hậu môn) [11, tr.40-41]. Theo Đào Duy Anh [1,

tr.203-204], đàn ông có ba hồn phụ vào tam tiêu và bảy phách (vía) phụ vào cửu

khiếu. Tam tiêu là miền trên dạ dày là thượng tiêu, miền giữa dạ dày là trung tiêu và

miền trên bàng quang là hạ tiêu. Thất khiếu là bảy cái lỗ trên mặt: hai mắt, hai tai,

hai lỗ mũi và miệng.

Thành ngữ tiếng Anh mà chúng tôi khảo sát không ghi nhận lại trường hợp

nào sử dụng miền ẩn dụ ý niệm thực thể siêu nhiên để biểu thị cảm xúc sợ cả.

2.5.7. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ với miền nguồn BỆNH TẬT

Sợ thường được gán với thái độ tiêu cực, và khi con người sợ hãi hoặc nỗi sợ

diễn ra trong thời gian dài thì tất yếu dẫn đến bệnh tật về thể xác hoặc tinh thần. Xét

về mặt ngôn ngữ, thành ngữ tiếng Việt khi biểu thị nỗi sợ đã sử dụng những từ ngữ

liên quan đến khả năng biểu lộ vẻ ngoài của bệnh tật. Chúng tôi ghi nhận có 10

thành ngữ tiếng Việt biểu thị nỗi sợ với miền nguồn BỆNH TẬT:

1. Tay chân rụng rời 3. Nhũn như con chi chi

2. Rờ rẫm như xẩm

132

4. Mặt tái mét, nói phét thành 7. Mặt cắt không ra máu

thần 8. Mặt như chàm đổ

5. Mặt tái xanh tái xám 9. Sợ tái xanh tái tía

6. Mặt cắt không còn hột máu 10. Run như chó phải bả

Trong khi đó, tiếng Anh có 5 thành ngữ thông qua việc miêu tả hành vi tiêu

biểu của một người bị bệnh để bộc lộ cảm xúc sợ:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sợ

1. break out in a cold vã mồ hôi lạnh rất sợ sweat

sợ đến lạnh chân làm ai cảm thấy run sợ làm ai sợ hãi 2. have cold feet 3. give sb a shivers 4. give sb the screaming abdabs

có bàn chân bị lạnh cho ai đó sự run rẩy cho ai đó sự tấn công la thét (do mê sảng vì dùng rượu quá nhiều) trong nỗi sợ và run rẩy trong trạng thái sợ sệt 5. in fear and trembling

Các triệu chứng tiêu biểu của một người khi phát bệnh có thể tìm thấy trong

6 thành ngữ tiếng Anh diễn tả nỗi sợ như: mồ hôi lạnh (cold sweat), bàn chân bị

lạnh (cold feet), run rẩy (shiver, trembling), la hét (screaming), v.v. Trong khi đó,

thành ngữ tiếng Việt lại khai thác nhiều các biểu hiện trên khuôn mặt khi một người

hoảng sợ như thay đổi trạng thái của bộ phận cơ thể: mặt chuyển sang trạng thái tái

xanh, hoặc xanh xao, tay chân bị mỏi rã rời không nhấc lên được, tay chân run lẩy

bẩy, cơ thể giãn ra (nhũn), v.v. Cho dù thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh miêu tả

các triệu chứng của một người bệnh có khác nhau, nhưng cả hai nhóm thành ngữ

này đều khai thác miền nguồn ẩn dụ ý niệm tương tự nhau, đó là BỆNH TẬT.

2.6. Ẩn dụ ý niệm về cảm xúc yêu trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Cảm xúc yêu nhận được sự quan tâm từ nhiều lĩnh vực nghiên cứu, trong đó

có ngành tâm lý và ngôn ngữ học. Từ “yêu” có thể có nhiều nghĩa, bao gồm cảm

xúc một người nào đó có được về con người, động vật, đất nước, các hoạt động, các

loại thực phẩm, sách báo, v.v. Các học giả và các nhà nghiên cứu có xu hướng tập

trung vào tình yêu trong bối cảnh về quan hệ. Hai chuyên gia tình yêu Reis và Aron

133

(2008) định nghĩa yêu là “một mong muốn bước vào, duy trì hoặc mở rộng mối

quan hệ gần gũi, gắn kết và liên tục với người khác hoặc thực thể khác” (dẫn lại

[135, tr.359].

Tình yêu cũng được các nhà nghiên cứu phân loại, trong đó một cách phân

biệt được biết đến rộng rãi giữa các loại tình yêu, đầu tiên được đề xuất bởi

Berscheid và Walster (1978, dẫn lại [135, tr.359]), là giữa tình yêu nồng nàn, một

trạng thái khao khát mãnh liệt cho sự hợp nhất với nhau, và tình yêu thỏa hiệp, là

loại cảm xúc chúng ta dành cho những người mà cuộc sống của chúng ta gắn chặt

vào họ. Một giả thuyết khác đã được Sternberg (1986, dẫn lại [135, tr.359]) đề nghị,

còn được gọi là tam giác tình yêu, trong đó tình yêu được cấu thành từ ba thành tố:

niềm đam mê (một trạng thái hưng phấn và khao khát dành cho người khác), sự thân

mật (sự gần gũi và quan tâm dành cho người khác), và sự cam kết (sự gắn bó với

một người và quyết định được ở bên người đó). Nói chung, niềm đam mê có xu

hướng được liên tưởng đến tình yêu đam mê, còn sự thân mật và cam kết có xu

hướng được liên tưởng đến tình yêu thỏa hiệp, mặc dù bất kể đặc điểm nào trong ba

đặc điểm tình yêu này có thể được liên tưởng đến một trong hai loại tình yêu nêu

trên. Một quan điểm tiến bộ về tình yêu đã trở nên ngày càng phổ biến. Các nhà lý

thuyết học, chẳng hạn Reis và Aron (2008, dẫn lại [135, tr.360]) đã lập luận rằng cả

tình yêu nồng nàn và tình yêu thỏa hiệp rất hữu ích cho sự sinh tồn của các giống

loài. Tình yêu đam mê dẫn đến việc thu hút, có thể được liên tưởng đến các cá nhân

tham gia vào các mối quan hệ giao phối, đủ lâu để dẫn đến việc sinh sản thành

công. Tình yêu thỏa hiệp, trong đó bao gồm tình yêu giữa cha mẹ và tình yêu của

cha mẹ đối với con cái, làm tăng khả năng sinh tồn của đứa con.

Khi luận bàn về ẩn dụ ý niệm yêu trong ngôn ngữ học, Kövecses [99] gợi ý

rằng các loại khác nhau của mô hình tri nhận yêu xuất phát từ ba miền nguồn chính:

ẩn dụ, hoán dụ và “các ý niệm hữu quan” [99, tr.122], trong đó các ý niệm hữu quan

gồm có yêu thích, ham muốn tình dục, sự thân mật, sự khao khát, cảm giác yêu

mến, sự quan tâm, sự tôn trọng, và tình bạn. Các ý niệm hữu quan này xác định

phạm vi thái độ đối với những người được yêu và có xu hướng được xây dựng dựa

134

trên vị trí trung tâm của tình yêu. Theo Kövecses [99, tr.125], một số ý niệm mang

tính ngoại vi so với khái niệm điển mẫu của tình yêu, ví dụ như tình bạn và sự tôn

trọng, một số khác thì gần hơn, chẳng hạn như sự quan tâm, trong khi đó một số ý

niệm khác rất gần với khái niệm điển mẫu của tình yêu, ví dụ như yêu thích và cảm

giác yêu mến. Việc phân loại này xem ra khá chủ quan vì rất nhiều ý niệm phụ

thuộc vào các mối quan hệ tình yêu của cá nhân. Chẳng hạn, sự tôn trọng có thể

đóng vai trò quan trọng hơn trong mối quan hệ này so với mối quan hệ khác.

2.6.1. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn VẬT CHỨA

Việc tạo lập nghĩa cho thành ngữ biểu thị cảm xúc yêu cũng bị chi phối bởi

miền nguồn VẬT CHỨA với mô hình cấp độ tổng quát THỰC THỂ LÀ VẬT

CHỨA HAY KHU VỰC ĐƯỢC BAO BỌC. Mô hình ẩn dụ này có thể được cụ thể

hóa bằng hai mô hình ẩn dụ: THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG HAY TRẠNG THÁI

CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA và CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA.

Với mô hình ẩn dụ THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG HAY TRẠNG THÁI CẢM

XÚC LÀ VẬT CHỨA, thành ngữ tiếng Anh ghi nhận 5 tổ hợp thành ngữ biểu thị

yêu có sử dụng yếu tố thực thể trừu tượng hay trạng thái cảm xúc (love/ yêu).

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc yêu

1. a love nest 2. cupboard love 3. eternal triangle 4. fall in love 5. head over heels in love tổ ấm tình yêu tình yêu thực dụng tình yêu tay ba phải lòng ai yêu say đắm cái tổ tình yêu cái tủ tình yêu tam giác vĩnh cửu rơi vào tình yêu cắm đầu vào đế giày trong tình yêu

Qua quan sát, chúng ta có thể thấy cảm xúc yêu trong 5 thành ngữ này được

mã hóa thông qua miền nguồn ẩn dụ VẬT CHỨA của các trạng thái như cái tổ (nest

trong thành ngữ “a love nest”), cái tủ (cupboard trong thành ngữ “cupboard love”),

tam giác (triangle trong thành ngữ “eternal triangle”). Đây là những vật thể cụ thể

có chức năng chứa đựng (cái tổ, cái tủ) hoặc bị bao bọc bởi đường ranh chia cách

khỏi thế giới bên ngoài (tam giác) nhưng lại được sử dụng để miêu tả cảm xúc yêu,

một trạng thái cảm xúc trừu tượng. Chính điều này tạo nên nghĩa ẩn dụ cho các

135

thành ngữ với mô hình VẬT CHỨA. Hai thành ngữ tiếng Anh “fall in love” và

“head over heels in love” đều vận dụng chức năng của giới từ chỉ không gian “in”

(trong) để biểu thị cảm xúc yêu và xem cảm xúc yêu như một vật chứa. Trong khi

đó, về khía cạnh này, chúng tôi chưa phát hiện thấy trong tiếng Việt có thành ngữ

biểu thị yêu sử dụng mô hình ẩn dụ THỰC THỂ TRỪU TƯỢNG HAY TRẠNG

THÁI CẢM XÚC LÀ VẬT CHỨA.

Một mô hình khác của ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn VẬT CHỨA

được xem phổ biến là mô hình ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA với khả năng

vận dụng các bộ phận cơ thể người là vật chứa cảm xúc yêu. Qua khảo sát khối ngữ

liệu về thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc yêu, chúng tôi nhận thấy có 8 thành

ngữ sử dụng tên các bộ phận cơ thể người làm vật chứa cảm xúc yêu.

1. Có mặt thì mắng, vắng mặt thì 5. Đầu mày cuối mắt

thương 6. Mật rót vào tai

2. Thay lòng đổi dạ 7. Thương miệng thương môi

3. Tối mày say mặt 8. Thương thân tủi phận

4. Một mặt hai lòng

Việc sử dụng tên các bộ phận cơ thể trên khuôn mặt như mặt, mày, mắt, tai,

môi, miệng hay nội tạng cơ thể như lòng, dạ trong các thành ngữ tiếng Việt nêu trên

biểu lộ các sắc thái khác nhau của tình yêu cho chúng ta thấy yếu tố kinh nghiệm

luận và luận điểm tri nhận nhập thân có tác động đến khả năng kiến tạo thành ngữ

tiếng Việt cảm xúc yêu. Các bộ phận cơ thể trên khuôn mặt là biểu thị ra bên ngoài

của cảm xúc yêu, còn nội tạng cơ thể như lòng, dạ cho thấy sự sâu kín của tình yêu.

Nói khác đi, lòng, dạ là nơi có không gian rộng rãi, có thể co giản một cách năng

động hơn. Do vậy, các bộ phận chứa bên trong đều ở dạng mềm nên có thể xử lý

vấn đề mềm dẽo hơn. Vị trí của lòng, dạ theo phân bố của cơ thể là ở phía dưới, cho

nên được người Việt tri nhận là nơi “sâu kín”, có thể gửi gắm tâm tư cảm xúc vào

đó, trong đó có cảm xúc yêu. Trong khi đó, thành ngữ tiếng Anh có 7 tổ hợp sử

dụng bộ phận cơ thể như miền nguồn VẬT CHỨA của cảm xúc yêu.

136

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc yêu 1. have one’ heart set on đặt tim vào việc gì sth.

2. head over heels in love cắm đầu vào đế giày trong đang ao ước và mong cầu điều gì yêu say đắm

3. make sheep’s eyes at tình yêu làm mắt cừu sb

4. only have eyes for sb chỉ có đôi mắt dành cho

5. tug at heartstrings giật mạnh dây gân tim

6. wear one’s heart on nhìn ai với vẻ thương yêu nhưng dại khờ chỉ quan tâm và yêu một người cảm nhận tình yêu mãnh liệt biểu lộ tình cảm mang trái tim trên cổ tay áo

one’s sleeve

Trong 7 tổ hợp thành ngữ tiếng Anh này có 3 thành ngữ sử dụng tên gọi là các

bộ phận cơ thể trên khuôn mặt (eyes/ mắt) và bộ phận bên ngoài cơ thể (head/ đầu,

heel/ gót) và 3 thành ngữ sử dụng tên gọi nội tạng cơ thể (heart/ tim). Có thể nhận

thấy rằng điểm giống nhau của hai nhóm thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị

yêu là cả hai nhóm đều vận dụng hình ảnh mắt để miêu tả yêu. Mắt được xem là

công cụ quan trọng của con người để nhìn thế giới, và các cung bậc cảm xúc cũng

theo đó được biểu lộ trong đôi mắt, đặc biệt là yêu.

2.6.2. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

Miền nguồn phương hướng cũng được tìm thấy trong các thành ngữ biểu thị

cảm xúc yêu, dù rằng không nhiều như trong các thành ngữ biểu thị cảm xúc khác,

chẳng hạn như vui, buồn, giận và sợ. Chúng tôi khảo sát và phát hiện chỉ có một

thành ngữ biểu thị cảm xúc yêu có định hướng XUỐNG nhờ vào việc sử dụng từ

“nặng”: nặng gánh tương tư. “Tương tư” nghĩa là “nhớ da diết (thường là người

yêu)” [53, tr.1081]. “Gánh” là “mang, chuyển thường là vật nặng” [53, tr.273].

Gánh tương tư nghĩa là gánh nặng tình yêu, do vậy khi nặng thì “khối nặng tình

yêu” này bị kéo theo hướng đi xuống, do vậy có phương hướng đi xuống.

(57) … Buồn trông phong cảnh quê người,

137

Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.

Não người cữ gió tuần mưa,

Một ngày nặng gánh tương tư một ngày …

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Tiếng Anh có 3 thành ngữ biểu thị cảm xúc yêu sử dụng miền nguồn phương

hướng như sau:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc yêu 7. head over heels in love yêu say đắm

8. jump off the deep end cắm đầu vào đế giày trong tình yêu nhảy ra khỏi một vực sâu

yêu nông nổi, mù quáng yêu ai đó say đắm 9. sweep sb off their feet quét ai bay khỏi chân

Thành ngữ “head over heels in love” với nghĩa đen là cắm đầu vào đế giày

trong tình yêu biểu thị ẩn dụ hướng xuống. Thành ngữ này có nguồn gốc ban đầu

miêu tả người bị ngã, nhưng không phải trong cảm xúc yêu. Khi một người ngã lộn

nhào, có khả năng là chân (feet) hay gót chân (heels) của người ấy đụng phải đầu

nên cụm từ này biểu thị cú ngã đau và nặng (heels over head). Về sau, người Anh sử

dụng phép đảo từ thành “head over heels” để miêu tả người bị rơi vào bể ái tình.

Một ví dụ của thành ngữ này được tìm thấy trong quyển sách tựa đề “Tường thuật

về cuộc sống của David Crockett” (A Narrative of the Life of David Crockett) xuất

bản năm 1834 như sau:

(58) “I soon found myself head over heels in love with this girl.”

(Tôi nhanh chóng thấy mình rơi vào bể tình với cô gái này)

Thành ngữ này biểu thị loại tình yêu đam mê, nếu cường độ của cảm xúc yêu

này quá cao thì người ta thường có thái độ tiêu cực, do vậy nó sở hữu định hướng

xuống. Còn hai thành ngữ “jump off the deep end” (nhảy ra khỏi một vực sâu) và

“sweep sb off their feet” (quét ai bay khỏi chân) lại có xu hướng đi lên. Tình yêu có

thể chấp cánh cho con người bay lên, biểu thị cảm xúc tích cực.

(59) Jane is great, but there is no need for Jim to jump off the deep end.

(Jane thì tuyệt đấy, nhưng đâu nhất thiết Jim phải yêu say đắm thế.)

138

2.6.3. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG

Như đã trình bày ở nội dung trước, cảm xúc được ý niệm hóa là lực và tác

động của cảm xúc được coi như là tác động của lực. Cảm xúc có thể được ý niệm

hóa thành nội lực đi vào bên trong con người hay thành ngoại lực do những “sự

kiện” bên ngoài tác động đến bản thể con người. Khi xét các thành ngữ tiếng Việt

được cấu trúc hóa bởi ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu, chúng tôi thấy có 7 thành ngữ sử

dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG như sau:

1. Con chấy cắn đôi 5. Mật rót vào tai

2. Chia bùi sẻ ngọt 6. Yêu nhau lắm, cắn nhau đau

3. Chia cay sẻ đắng 7. Yêu nhau rào dậu cho kín

4. Dính nhau như kẹo

Tuy nhiên, có ba thành ngữ tiếng Việt biểu thị tình yêu nhưng ở cung bậc

khác cũng sử dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG: nài hoa ép liễu, nát đá phai

vàng, thay lòng đổi dạ. Đây là ba thành ngữ biểu thị ý nghĩa tiêu cực trong tình yêu:

sự cưỡng bức, nài ép để chiếm được xác thân cũng như tình yêu của một người phụ

nữ (nài hoa ép liễu), sự tan vỡ hay phai nhạt của một tình yêu chung thủy (nát đá

phai vàng), hay sự phụ bạc và không chung thủy của người yêu (thay lòng đổi dạ).

Để biểu thị mức độ biểu đạt cao của ý nghĩa tiêu cực, thì cả ba thành ngữ này đều sử

dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG với các động từ biểu hiện cường độ cao như

nài, ép, nát, phai, thay, đổi. Những động từ này làm sự vật hay sự việc bị tác động

sẽ biến đổi hình thái có thể theo hướng tiêu cực.

Trong khi đó, tiếng Anh có 8 thành ngữ vận dụng miền nguồn LỰC TÁC

ĐỘNG nhằm kiến tạo nên ý nghĩa yêu thương:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc yêu

1. carry a torch for 2. fall for sb hook, line and yêu thầm nhớ trộm mê tít

phải lòng ai

sinker 3. fall in love 4. get a crush on sb 5. jump off the deep end yêu nông nổi, mù quáng mang ngọn lửa cho ai ngã vào ai lưỡi câu, sợi dây và chì lưới rơi vào tình yêu có một cú huých vào ai say mê nhảy ra khỏi một vực sâu

139

6. sweep sb off their feet 7. tug at the heartstrings

8. wear one’s heart on one’s yêu ai đó say đắm kích động những tình cảm sâu kín nhất biểu lộ tình cảm quét ai bay khỏi chân kéo căng các thớ cơ của tim mang trái tim trên cổ tay áo

sleeve

Những động từ sử dụng trong những thành ngữ này là những động từ biểu thị

lực tác động, như: mang (carry, wear), rơi (fall), đẩy (crush), nhảy (jump), quét

(sweep), kéo (tug).

2.6.4. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn SỰ HỢP NHẤT

Theo Kövecses [103], ý niệm chủ đạo, hay ẩn dụ chủ đạo, trong hệ thống

tình yêu là ý niệm HỢP NHẤT, ít nhất được xem xét dựa vào một số phép kéo theo

ẩn dụ khác nhau và khả năng kiến tạo từ vựng trên một số miền nguồn như là SỰ

HỢP NHẤT TỪ HAI THÀNH PHẦN BỔ SUNG NHAU, MỐI QUAN HỆ, SỰ

GẦN GỦI. Các thành phần tạo nên một tổng thể được ví như hai kẻ yêu nhau trong

một cuộc tình. Trong trường hợp lý tưởng, họ chia sẻ cảm xúc yêu, có thể ở một

mức độ tương đương nhau, và sống với nhau trong sự đồng cảm [98, tr.56]. Tương

tự, khi SỰ HỢP NHẤT bị phá vỡ, người này sẽ không còn yêu người kia nữa.

Tiếng Việt có 9 thành ngữ biểu thị tình yêu vận dụng ẩn dụ ý niệm YÊU LÀ

SỰ HỢP NHẤT CÁC THÀNH PHẦN:

1. Ăn một mâm, nằm một chiếu

2. Dính nhau như kẹo

3. Đồng sinh đồng tử

4. Đồng thanh tương ứng

5. Đồng ưu cộng lạc

6. Chia ngọt sẻ bùi

7. Chia bùi sẻ ngọt

8. Chia cay sẻ đắng

9. Thương miệng thương môi

140

Biểu hiện sự hợp nhất các thành phần trong những thành ngữ này là việc chia

sẻ (thông qua việc sử dụng từ đồng, chia, sẻ), hay việc cùng chung nhau trong sinh

hoạt hàng ngày (thành ngữ ăn một mâm, nằm một chiếu), hay những hình tượng sự

vật lúc nào cũng chung nhau (môi, miệng). Chúng tôi ghi nhận tiếng Anh có 4 thành

ngữ biểu thị tình yêu được kiến tạo bởi miền ẩn dụ SỰ HỢP NHẤT:

Nghĩa nguyên văn Nghĩa thành ngữ

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc yêu

1. much sought after rất được yêu chuộng

2. get a crush on sb 3. only have eyes for sb 4. eternal triangle được tìm kiếm nhiều sau đó có một cú huých vào ai chỉ để mắt đến một ai tam giác vĩnh cữu say mê để ý đến ai đó mối tình tay ba

2.6.5. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn PHÉP THUẬT

Theo định nghĩa phổ biến trong giới phù thủy hiện đại, thì phép thuật

(magic) là một nỗ lực để trải nghiệm và thấu hiểu những qui luật tự nhiên trong vũ

trụ, để tương tác một cách hiệu quả với vũ trụ theo những qui luật này. Hoặc nói

một cách dễ hiểu hơn, thì phép thuật là việc quan sát, học hỏi những qui luật tự

nhiên, rồi vận dụng những qui luật này để biến những cái có sẵn quanh ta thành một

cái mới hay hơn mà ta yêu thích. Tính chất huyền bí của phép thuật được dùng để

so sánh với tình yêu qua mô hình ẩn dụ YÊU LÀ PHÉP THUẬT bởi vì tình yêu

cũng có quyền năng có thể điều khiển con người mà không thể giải thích được.

Tiếng Việt ghi nhận 6 thành ngữ biểu thị tình yêu với mô hình miền nguồn

PHÉP THUẬT:

1. Ăn phải bùa 4. Mê như ăn phải bùa

2. Bùa mê bả dột 5. Ma đưa lối quỷ dẫn đường

3. Bùa mê thuốc lú 6. Mê mẫn tâm thần

Với ý nghĩa chung là “say mê, ham thích đến nỗi mê muội, mù quáng, tin

theo, và làm theo kẻ khác, không còn phân biệt đúng sai, phải trái, nhằm mục đích

lừa phỉnh, dụ dỗ”, 4 thành ngữ nêu trên có sử dụng từ “bùa”, tiêu biểu cho phép

thuật. Trong các lá bùa, người ta viết những dòng chữ kêu gọi tên các vị thần bảo

141

trợ cho thầy pháp. (theo “Âm binh yểm bùa” nhìn dưới góc độ khoa học,

www.danviet.vn, 30/8/2014). Một trong những thứ bùa ngải được biết đến nhiều

nhất chính là ngải yêu, hay còn gọi là bùa yêu. Đồn đại về nó thì rất nhiều, đại loại

khi đã bị mắc phải thứ bùa này, nạn nhân sẽ bất chấp tất cả để đến với người bỏ bùa

mình, không màng tới tuổi tác hay địa vị. Nhưng thực ra từ thời cổ đại, người ta đã

tìm thấy công thức luyện bùa yêu: một số loài hoa có mùi thơm, chất nước từ cánh

hoa, rễ cây như oải hương, đàn hương có ma lực làm cho lòng người rạo rực, tâm

thần lâng lâng, hay chỉ cần cho đối tượng uống vài giọt nước có tên khoa học là

Nagameru, là đạt được mong ước quyến rũ bạn tình. Do vậy, thành ngữ sử dụng từ

“bùa” sẽ tạo nên nghĩa biểu trưng là tình yêu say mê cho toàn bộ thành ngữ.

(60) …Tôi nhớ hồi còn nhỏ lắm, tôi đã đọc bản dịch Hoàng tử bé của Bùi

Giáng. Ông dùng nhiều từ Hán - Việt, và ẩn ý sâu xa của câu chuyện vượt quá tầm

hiểu biết của một thằng nhỏ lên mười (hay mười một gì đó). Nhưng nó có một ma

lực, mà ta tạm gọi là “bùa mê thuốc lú”, khiến tôi dù không hiểu trọn vẫn yêu thích

cuốn sách.

(Trích Tình yêu văn chương vẫn cháy bỏng, www.teen.tuoitre.vn,

24/12/2013)

Đối với thành ngữ tiếng Anh biểu thị tình yêu, chúng tôi phát hiện có 3 đơn

vị sử dụng miền ẩn dụ PHÉP THUẬT: weave one’s magic over, weave a spell over,

cast a spell over/ on. Cả ba thành ngữ này đều sử dụng từ magic (phép thuật), spell

(bùa mê) để khắc họa loại tình yêu nồng nàn mà người này dành cho người kia

trong quan hệ đôi lứa.

2.6.6. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc yêu với miền nguồn THỨC ĂN

Thực phẩm là một miền ẩn dụ liên quan đến cuộc sống con người, kể cả hành

động “ăn”. Tiếng Việt có 8 thành ngữ biểu thị tình yêu có sử dụng miền nguồn ẩn

dụ THỨC ĂN:

1. Ăn một mâm, nằm một chiếu 5. Thèm nhõ dãi

2. Ăn phải bùa 6. Thương con ngon của

3. Mê như ăn phải bùa 7. Thương con ngon rể

142

4. Mật rót vào tai 8. Lời đường mật

Trong cuộc sống dân dã nông thôn của người Việt xưa, “mâm” “chiếu” là hai

vật dụng quan trọng biểu thị sự sung túc đầm ấm. Người Việt xưa thường dùng cơm

quanh mâm, đồ dùng để đựng bát đĩa bày thức ăn, và ngồi quây quần bên nhau. Tối

được ngủ trên những tấm chiếu đã là cuộc sống êm ấm. Chiếu là một vật dụng

thường làm bằng cói, lát… dùng để nằm hoặc ngồi. Những buổi ăn uống hoặc nghỉ

ngơi thư giản tạo cho con người một cuộc sống nhàn hạ, hạnh phúc. Thành ngữ “ăn

một mâm, nằm một chiếu” thể hiện được tình yêu thương của vợ chồng trong cảnh

nông thôn.

(61) Trong lời nói chân tình đó; không câu nệ, không đòi hỏi, không công

lao mà chứa một tinh thần vị tha đầy tình người. Liễu không thể dối lòng trước một

con người mã thượng như thế. Cuộc đời biến đổi tất cả. Không bao lâu họ ăn một

mâm, nằm một chiếu. Năm sau cả hai sinh được một con trai.

(Trích “Người bán củi”, Võ Công Liêm)

Với thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi không phát hiện sử dụng miền nguồn ẩn

dụ THỨC ĂN.

2.7. Tiểu kết

Kết quả khảo sát ở chương 2 cho thấy sự đa dạng và phong phú của khả

năng vận dụng mô hình ẩn dụ cảm xúc của lý thuyết ẩn dụ ý niệm và lược đồ hình

ảnh trong thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Việt và tiếng Anh. Kết quả khảo sát

được thể hiện ở bảng biểu sau đây:

Vui

Buồn

Giận

Sợ

Yêu

Tổng cộng

S T T

Việt

Anh

Việt

Anh

Việt

Anh

Việt

Anh

Việt

Anh Việt Anh

29

26

16

9

31

27

5

14

8

13

77

101

1

10

14

17

4

6

28

8

5

1

3

37

59

2

9

22

11

25

14

10

15

17

10

8

81

60

3

0

6

0

6

4

11

9

11

9

5

3

3

3

3

Miền nguồn Số lượng thành ngữ VẬT CHỨA PHƯƠNG HƯỚNG LỰC TÁC ĐỘNG ÁNH SÁNG VẬT SỞ HỮU GÁNH

6

143

22

3

22

3

7

NẶNG THIẾU SINH KHÍ LỬA

12 9 17

8 5 11

4

2

12 13 17

8 7 11

10

7

10

7

11

12

0

12

0

12

22

0

22

0

13

10

5

10

5

14

11

4

11

4

15

6

3

6

3

16

8

0

8 9 MÀU SẮC SỰ KHÓ 10 CHỊU CỦA CƠ THỂ SỰ XÂM PHẠM KẺ THÙ ẨN NẤP THỰC THỂ SIÊU NHIÊN BỆNH TẬT SỰ HỢP NHẤT PHÉP THUẬT THỨC ĂN

17

Tổng cộng

8 352

0 286

Bảng thống kê trên cho chúng ta thấy trong số 17 miền nguồn khảo sát, ba

miền nguồn VẬT CHỨA, PHƯƠNG HƯỚNG, LỰC TÁC ĐỘNG được vận dụng

một cách phổ quát vào cả trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh của năm loại

cảm xúc. Ẩn dụ biểu thị cảm xúc chủ yếu dựa vào tính nghiệm thân và trải nghiệm

cơ thể nên tính phổ quát cao. Các miền nguồn cụ thể và đặc trưng cho từng loại

cảm xúc còn lại đều phát hiện thấy tồn tại song song ở hai ngôn ngữ. Tùy theo

từng loại cảm xúc và cường độ của nó, ẩn dụ cũng được biểu hiện theo mức độ

tương ứng. Kinh nghiệm về cơ thể cũng là miền nguồn quan trọng tạo cơ sở hình

thành ẩn dụ cảm xúc. Yếu tố văn hóa và môi trường cũng có vai trò quan trọng đối

với kiến tạo nghĩa của thành ngữ mang nghĩa ẩn dụ. Đây là cơ sở tạo nên sự khác

biệt lớn nhất giữa ẩn dụ trong tiếng Anh và trong tiếng Việt.

Qua việc khảo sát khối ngữ liệu thành ngữ tiếng Việt và thành ngữ tiếng

Anh biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu và trình bày các miền

nguồn ẩn dụ của tiếng Việt và tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy tiếng Anh chủ yếu

vận dụng toàn bộ cơ thể nhưng tiếng Việt thường kết hợp ẩn dụ bộ phận cơ thể với

kinh nghiệm cơ thể, tôn giáo, văn hóa và môi trường. Vấn đề đặt ra là mặc dù

144

thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị cùng một loại cảm xúc và chịu sự chi

phối của cùng mô hình ẩn dụ ý niệm của ngữ nghĩa học tri nhận, thì việc vận dụng

hệ thống ẩn dụ cảm xúc trong dịch nghĩa thành ngữ này xảy ra như thế nào trong

thực tế sử dụng ngôn ngữ giao tiếp. Chưa kể các trường hợp khi mà thành ngữ

tiếng Việt và thành ngữ tiếng Anh được kiến tạo từ các mô hình ẩn dụ khác nhau

thì việc dịch tương đương nghĩa sẽ ra sao. Nội dung này sẽ được bàn kỹ ở chương

3 của luận án.

145

CHƯƠNG 3

VIỆC SỬ DỤNG ẨN DỤ Ý NIỆM CẢM XÚC TRONG DỊCH

THÀNH NGỮ TỪ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT

3.1. Tiểu dẫn

Từ những kết quả đạt được về mặt lý luận và qua phân tích ẩn dụ ý niệm cảm

xúc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh ở chương 2, chúng tôi muốn khảo sát

việc vận dụng hệ thống ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong việc dịch thành ngữ biểu thị

cảm xúc từ tiếng Anh sang tiếng Việt, từ đó có thể đưa ra một số nhận định và đề

xuất các thủ pháp cho công việc dịch thuật thành ngữ. Đây là nhiệm vụ cần thiết

cho các công trình ngôn ngữ học so sánh đối chiếu, vì theo Bùi Mạnh Hùng [26,

tr.88], trong các phạm vi ứng dụng của ngôn ngữ học đối chiếu thì, ngoài việc ứng

dụng vào lĩnh vực dạy học ngoại ngữ, có thể nói đến những lĩnh vực khác của nó

như dịch thuật và nghiên cứu về lý luận dịch thuật. Ông cho rằng tuy là hai lĩnh vực

có mục đích khác nhau, nhưng việc nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ và lý thuyết

cũng như thực tiễn dịch thuật có mối quan hệ rất hiển nhiên. Hai lĩnh vực này có

một điểm tương đồng quan trọng là cả hai đều quan tâm đến việc xem xét cùng một

nội dung được thể hiện bằng những cách khác nhau như thế nào. Vì vậy, hai hướng

nghiên cứu này có thể bổ sung cho nhau, thành quả nghiên cứu ở lĩnh vực này có

thể góp phần thúc đẩy sự phát triển ở lĩnh vực kia.

Nội dung chương này chủ yếu tập trung vào việc khảo sát một số từ điển

thành ngữ song ngữ Anh-Việt để xem xét việc chuyển dịch thành ngữ tiếng Anh

biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu sang tiếng Việt được thực hiện

như thế nào và có chú ý đến ẩn dụ ý niệm cảm xúc đặc trưng trong hệ thống tiếng

Việt và tiếng Anh hay không. Đồng thời, nhằm qua đó, chúng tôi có những đề xuất

cụ thể cho việc vận dụng lý thuyết ẩn dụ ý niệm và ẩn dụ ý niệm cảm xúc vào công

tác dịch thuật thành ngữ, bổ sung ngữ liệu và phương pháp cho các từ điển thành

ngữ song ngữ Anh-Việt, tiến tới thúc đẩy việc xây dựng từ điển thành ngữ song ngữ

Việt-Anh, phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của người học tiếng Anh trong nước.

146

3.2. Một số vấn đề liên quan đến lý thuyết dịch thành ngữ và dịch ẩn dụ

Nhằm xây dựng nền tảng lý thuyết luận cho nội dung khảo sát việc vận dụng ý

niệm cảm xúc của năm vị từ vui, buồn, giận, sợ, yêu trong việc chuyển dịch nghĩa

thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt của một số từ điển thành ngữ song ngữ Anh-

Việt, chúng tôi trình bày hai nhóm vấn đề liên quan đến lý thuyết dịch thành ngữ và

lý thuyết dịch ẩn dụ, và từ đó đúc kết một khung lý thuyết để dựa vào đó tiến hành

nghiên cứu và khảo sát thành ngữ tiếng Anh.

3.2.1. Các vấn đề về lý thuyết dịch thành ngữ

Việc nghiên cứu các chiến lược dịch thuật thành ngữ tiếng Anh không phải

là một nội dung hoàn toàn mới. Về lý thuyết dịch, nói chung, dịch nguyên văn, hay

còn gọi là dịch sát ý, thường được coi là chiến lược dịch thuật kém hiệu quả khi áp

dụng vào dịch thành ngữ từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích. Nghĩa đen ở đây

được hiểu là nghĩa trực tiếp, nghĩa định danh của từ loại hiện diện trong thành ngữ.

Newmark [130] nhấn mạnh rằng: “…Thành ngữ không nên bao giờ được dịch theo

cách từ đối từ, bởi vì thành ngữ có khi là từ thông tục có khi là tiếng lóng, nên

thường rất khó tìm được từ đồng nghĩa ở ngôn ngữ đích mà có tính tương đồng cao

về độ không trang trọng… Do người dịch quen lối sử dụng ngôn ngữ hàng ngày của

họ, nên thường họ không sử dụng thành ngữ khi dịch, trừ khi họ phải tra cứu từ

điển…” [130, tr.125-126]. Tuy nhiên, 10 năm sau, Newmark [132, tr.61] lại nhìn

nhận một khía cạnh tích cực của dịch nguyên văn rằng: “Dịch nguyên văn thành

ngữ của ngôn ngữ đích cũng có thể hữu ích như một cách thức để hiểu và ghi nhớ

thành ngữ ấy. Sự khác biệt giữa nghĩa đen (do phương thức dịch từ đối từ mà có) và

nghĩa toàn khối của thành ngữ phải được trình bày rõ ràng.”

Larson [122, tr.142] khẳng định: “Các nguyên tắc dịch thuật có thể áp dụng

vào dịch thành ngữ cũng tương tự như dịch các từ loại khác. Đôi khi sẽ là cần thiết

để dịch thành ngữ bằng một biểu thức không mang tính bóng bẩy, nhưng đôi khi

một thành ngữ được dùng đúng chỗ trong ngôn ngữ nguồn có thể tạo được hiệu ứng

tốt. Và cũng sẽ có những từ trong ngôn ngữ nguồn không phải là thành ngữ, nhưng

tốt nhất nên được dịch bằng một thành ngữ.”

147

Theo Larson [122, tr.15-16], dịch thuật được chia làm hai loại, dịch thuật

dựa vào hình thức (form-based translation) và dịch thuật dựa vào nghĩa (meaning-

based translation). Dịch thuật dựa vào hình thức cố gắng bám vào hình thức của

ngôn ngữ nguồn và cũng được biết đến như là dịch nguyên văn; trong khi đó, dịch

thuật dựa vào nghĩa cố gắng chuyển tải ý nghĩa của một bản văn ngôn ngữ nguồn

thông qua hình thái tự nhiên của ngôn ngữ đích. Loại này còn được gọi là dịch

thành ngữ (idiomatic translation), nó sử dụng các hình thái tự nhiên của ngôn ngữ

đích, cả về mặt kết cấu ngữ pháp và chọn lựa từ vựng, để đưa vào trong bản dịch.

Tuy nhiên, trong thực tế, thật khó lòng dịch chỉ theo một kiểu, dịch thành ngữ hay

dịch nguyên văn. Các phương thức dịch thuật thường hòa trộn cả hai kiểu dịch

nguyên văn và dịch thành ngữ. Mục tiêu chủ yếu của người dịch là bản dịch thành

ngữ. Newmark [131, tr.46] phát biểu rằng dịch thành ngữ tái tạo thông điệp của bản

văn gốc nhưng có xu hướng bóp méo sắc thái ý nghĩa bởi do thích sử dụng các cụm

từ thông tục hay thành ngữ mà chúng lại không tồn tại trong bản văn gốc.

Chiến lược dịch thành ngữ được đề nghị nhiều nhất là dịch chúng bằng một

thành ngữ tự nhiên của ngôn ngữ đích có ý nghĩa tương tự như thành ngữ ở ngôn

ngữ nguồn. Nida và Taber [133, tr.106] loại trừ chiến lược dịch nguyên văn và đề

nghị ba chiến lược dịch cho các thành ngữ: dịch thành ngữ bằng biểu thức không có

tính thành ngữ; dịch thành ngữ bằng thành ngữ; dịch biểu thức không có tính thành

ngữ bằng thành ngữ. Nida và Taber cho rằng phần lớn các thành ngữ của ngôn ngữ

nguồn thường được chuyển sang thành biểu thức không có tính thành ngữ của ngôn

ngữ đích, mặc dù một cách lý tưởng là tìm ra một thành ngữ của ngôn ngữ đích có ý

nghĩa tương tự như thành ngữ của ngôn ngữ nguồn. Baker [60, tr.71-78] có quan

điểm tương tự và đã đề xuất bốn chiến lược dịch thuật chủ yếu liên quan đến thành

ngữ và biểu thức cố định như sau:

1) Sử dụng một thành ngữ có ý nghĩa và hình thức của một thành ngữ tương

đương của ngôn ngữ đích. Baker [60, tr. 72] giải thích rằng “chiến lược này sử dụng

một thành ngữ trong ngôn ngữ đích, mà thành ngữ ấy chuyển tải ý nghĩa gần tương

đương ý nghĩa của thành ngữ ở ngôn ngữ nguồn và nó bao gồm các mục từ vựng

148

tương đương”. Đây là cách tốt nhất để dịch tất cả các khía cạnh của cấu trúc ngữ

nghĩa của thành ngữ. Bằng phương pháp này, người dịch sử dụng một thành ngữ

trong ngôn ngữ đích có ý nghĩa tượng trưng tương tự nhau, nghĩa là có chứa các

hình ảnh tương tự như trong thành ngữ của ngôn ngữ nguồn, và duy trì cùng một

đặc điểm cảm xúc và phong cách ngôn từ. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng mặc dù

chiến lược này có vẻ là một giải pháp lý tưởng, nhưng nó còn phụ thuộc vào phong

cách, ngữ vực và hình thái tu từ của văn bản ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.

2) Sử dụng một thành ngữ có nghĩa tương tự nhưng hình thức không giống

với thành ngữ của ngôn ngữ nguồn. Baker giải thích: “Thường có thể tìm thấy một

thành ngữ hoặc biểu thức cố định trong ngôn ngữ đích mà có nghĩa tương tự như

nghĩa của các thành ngữ hoặc biểu thức nguồn, nhưng lại bao gồm đơn vị từ vựng

khác nhau” [60, tr.74].

3) Chiến lược dịch diễn giải. Chiến lược này có xu hướng được sử dụng khi

ý niệm, biểu hiện thông qua từ vựng ngôn ngữ nguồn, được từ vựng hóa sang ngôn

ngữ đích nhưng xuất hiện với một hình thái khác, và khi tần suất mà theo đó một

hình thái nào đấy trong văn bản nguồn cao hơn đáng kể được coi là tự nhiên trong

ngôn ngữ đích [60, tr.37]. Chiến lược dịch diễn giải cho đến nay được xem là

phương cách phổ biến nhất của việc dịch thành ngữ khi chúng ta không thể tìm thấy

sự trùng khít giữa thành ngữ của ngôn ngữ đích với thành ngữ của ngôn ngữ nguồn,

hoặc trong trường hợp có vẻ như không thích hợp để sử dụng thành ngữ trong ngôn

ngữ đích vì sự khác biệt trong văn phong của ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.

4) Chiến lược dịch bằng cách lược bỏ. Khi giải thích chiến lược này, Baker

đã nêu rằng: “Cũng như với từ đơn, thành ngữ đôi khi có thể bị bỏ qua hoàn toàn

trong khi dịch các văn bản đích. Có thể là vì nó không thực sự tương hợp trong

ngôn ngữ đích, ý nghĩa của nó không thể dễ dàng được diễn giải, hoặc vì lý do văn

phong” [60, tr.77].

Tuy nhiên, Baker [60, tr.72] nhấn mạnh rằng khả năng chấp nhận hoặc từ

chối sử dụng bất kỳ chiến lược nào nêu trên phụ thuộc vào một số khía cạnh như:

149

a) Ngữ cảnh trong đó một thành ngữ gợi ý được dịch. Ngữ cảnh đề cập đến

một môi trường ngôn ngữ mà ngay trong đó một đơn vị ngôn ngữ như từ, cụm từ,

hay thành ngữ có thể xuất hiện. Vì không phải lúc nào cũng tường minh, đơn vị

ngôn ngữ ấy có thể được ẩn giấu lẫn vào trong các thành tố lân cận khác được sử

dụng trong một văn bản.

b) Sự phù hợp hay không phù hợp của việc sử dụng biểu thức thành ngữ

trong một ngữ vực được biểu hiện trong ngôn ngữ đích;

c) Tầm quan trọng của các mục từ vựng cụ thể cấu thành nên thành ngữ và

cho dù các mục từ ấy được sử dụng khai thác ở nơi khác trong văn bản nguồn.

3.2.2. Các vấn đề về lý thuyết dịch ẩn dụ

Các vấn đề về dịch ẩn dụ và khả năng dịch các loại ẩn dụ đã được nhiều nhà

nghiên cứu và các nhà lý thuyết dịch thuật quan tâm trong nhiều thập kỷ (Nida và

Taber [133]; Larson [122]; Newmark ([130], [131]); Snell-Hornby [141]). Nhìn

chung, xu hướng nghiên cứu về dịch ẩn dụ trong những năm qua cho thấy rằng các

học giả đã đề xuất một số quy trình dịch để hỗ trợ các dịch giả bất cứ khi nào họ

phải đối mặt với các vấn đề về việc phải chuyển dịch đầy đủ các phép ẩn dụ từ một

ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác và giúp độc giả hiểu sâu sắc hơn những văn

bản được dịch. Các quy trình đó có thể được tóm tắt như sau:

1. Cung cấp một phép ẩn dụ khác trong văn bản đích

2. Bỏ qua phép ẩn dụ trong văn bản đích

3. Cung cấp các ẩn dụ tương tự trong các văn bản đích

4. Cung cấp một lối diễn giải về nghĩa đen của ẩn dụ trong văn bản đích

5. Cung cấp một phép ẩn dụ với thông tin bổ sung trong văn bản đích

Hiraga [91], Mandelblit [123], và Schaffner [137], đã nghiên cứu dịch ẩn dụ

từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận, và các nghiên cứu của họ chủ yếu chịu ảnh hưởng

từ Lakoff và Johnson [113] về ý niệm ẩn dụ. Lakoff và Johnson [113] đưa ra một

quan điểm mới xem ẩn dụ như là một chức năng tri nhận cơ bản giúp độc giả hiểu

thế giới và để cấu trúc các ý niệm trừu tượng. Theo quan điểm của họ, hệ thống ý

niệm của con người, khi xét về khía cạnh suy nghĩ và hành vi, về bản chất mang

150

tính ẩn dụ [113, tr.3]. Từ quan điểm của phương pháp tri nhận, chúng ta có thể phân

biệt các ẩn dụ ý niệm với các biểu thức ẩn dụ. Các biểu thức ẩn dụ ở cấp độ ngôn

ngữ học là những biểu hiện của phép ẩn dụ ý niệm ở cấp độ tri nhận. Do đó khi đề

cập đến dịch ẩn dụ, bản dịch của các biểu thức ẩn dụ có thể được phân biệt dựa vào

việc bản dịch có sử dụng điều kiện ánh xạ tương tự hoặc sử dụng điều kiện ánh xạ

khác biệt. Trong trường hợp sử dụng điều kiện ánh xạ tương tự, ngôn ngữ nguồn và

ngôn ngữ đích cùng sử dụng một phép ẩn dụ giống nhau nhằm ý niệm hóa một khái

niệm cụ thể, trong khi ở trường hợp sử dụng điều kiện ánh xạ khác biệt, ngôn ngữ

nguồn và ngôn ngữ đích ý niệm hóa một khái niệm cụ thể bằng cách sử dụng các

phép ẩn dụ khác nhau. Nghiên cứu về dịch ẩn dụ phần lớn từ góc độ miêu tả và tập

trung vào cách thức mà mô hình ẩn dụ và biểu thức ẩn dụ được xử lý trong bản dịch

thực tế. Hiraga [91] thông qua một nghiên cứu so sánh tiếng Mỹ và tiếng Nhật đã

thành lập bốn tổ hợp có thể có của các ẩn dụ ý niệm và ẩn dụ ngôn ngữ để xem xét

sự tương đồng và khác biệt của chúng. Hiraga đưa ra bốn khả năng kết hợp giữa các

ý niệm ẩn dụ và các biểu thức ẩn dụ như sau:

1. Các miền ý niệm ẩn dụ tương tự và các biểu thức ẩn dụ tương tự;

2. Các miền ý niệm ẩn dụ tương tự nhưng các biểu thức ẩn dụ khác nhau;

3. Các miền ý niệm ẩn dụ khác nhau nhưng các biểu thức ẩn dụ tương tự;

4. Các miền ý niệm ẩn dụ khác nhau và các biểu thức ẩn dụ khác nhau.

Theo đó, ở khả năng kết hợp thứ nhất, thông qua mô hình ẩn dụ THỜI GIAN

LÀ TIỀN BẠC, ý niệm THỜI GIAN được cấu trúc hóa về mặt ẩn dụ bằng ý niệm

TIỀN BẠC cả trong ngôn ngữ và văn hóa của người Mỹ và người Nhật. Hiraga [91,

tr.152] nhận định khả năng dịch nghĩa theo loại này hầu như không gặp trở ngại gì.

Trong khả năng kết hợp thứ hai, đó là hai nền văn hóa có những ý niệm ẩn

dụ tương tự nhau nhưng lại được biểu lộ bằng những biểu thức ẩn dụ khác nhau,

những biểu thức ẩn dụ thường tận dụng những cách dùng thành ngữ đặc trưng cho

cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó, nhằm phản ánh những hiện tượng văn hóa như

truyền thống, tập tục, lịch sử, tôn giáo, văn học, thể thao, v.v. Chẳng hạn như ý

niệm CUỘC SỐNG được xem như là THỂ THAO trong cả hai nền văn hóa Mỹ-

151

Nhật. Tuy nhiên, các biểu thức ẩn dụ biểu thị ý niệm thể thao ở Mỹ là về BÓNG

CHÀY, trong khi đó, ý niệm VÕ SU-MÔ được biểu hiện bằng các từ ngữ trong các

biểu thức ngôn ngữ ở Nhật. Theo Hiraga [91, tr.154], khó khăn của loại này đó là

đòi hỏi dịch giả phải hiểu biết các mô hình văn hóa ẩn sau những biểu thức ẩn dụ

đang xem xét.

Khả năng kết hợp thứ ba là hai nền văn hóa không cùng chung miền ý niệm

ẩn dụ nhưng lại sử dụng những biểu thức ẩn dụ tương tự nhau. Loại kết hợp này

đáng lưu ý nhất trong bốn loại vì có khả năng gây hiểu nhầm nhiều nhất. Tuy nhiên,

do ý niệm ẩn dụ nằm bên dưới các biểu thức ngôn ngữ là khác nhau cho nên việc

hiểu nghĩa cũng khác nhau. Ví dụ, tiếng Nhật có biểu thức ngôn ngữ “Aitsu-wa

amai” tương tự với biểu thức “You are sweet” của tiếng Mỹ, nhưng người Nhật hiểu

biểu thức ấy có nghĩa là “Anh chưa trưởng thành, còn chất phát và yếu đuối”. Trong

khi đó, người Mỹ hiểu biểu thức tương tự “You are sweet” như là một lời khen,

nghĩa là “Bạn thật dễ thương”. Như vậy, với biểu thức ngôn ngữ tương tự nhau

nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau, tiếng Mỹ có mô hình ẩn dụ NGỌT LÀ TỐT, còn

tiếng Nhật có mô hình ẩn dụ NGỌT LÀ XẤU. Mặc dù khả năng kết hợp này rất

quan trọng đứng trên quan điểm so sánh văn hóa, nhưng rất khó để tìm ra minh

chứng ngôn ngữ cho nó.

Cuối cùng, khả năng kết hợp thứ tư đó là hai nền văn hóa có ý niệm ẩn dụ

khác nhau và biểu thị chúng bằng những biểu thức ẩn dụ khác nhau. Loại kết hợp

này cho thấy sẽ khó trong giao tiếp xuyên văn hóa nếu không có kiến thức về ẩn dụ,

về biểu thức ngôn ngữ và những hiện tượng văn hóa ẩn sau chúng. Tuy nhiên, khả

năng giao tiếp sai lệch của loại này sẽ giảm so với khả năng kết hợp thứ ba vì khi

được dịch nguyên văn, các biểu thức ẩn dụ sẽ trở nên vô nghĩa. Hiraga [91, tr.160-

161] minh họa bằng mô hình ẩn dụ Ý TƯỞNG THÌ TRONG ĐẦU (IDEAS ARE

IN THE MIND) của tiếng Mỹ và mô hình ẩn dụ Ý TƯỞNG THÌ TRONG BỤNG

(IDEAS ARE IN HARA/BELLY) với việc sử dụng các biểu thức ẩn dụ khác nhau.

Ngược lại với Hiraga [91], Mandelblit [123] đề xuất phương pháp cho dịch

ẩn dụ gọi là “giả thuyết dịch tri nhận” dựa vào khung văn hóa - tri nhận. Giả định

152

cơ bản trong phương pháp này là dịch giả phải so sánh các ánh xạ giữa các miền mà

chúng tồn tại trong cả ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích, dựa trên thực tế là phép

ẩn dụ được căn cứ vào hệ thống ý niệm của người nói một ngôn ngữ cụ thể.

Mandelblit đề xuất hai kịch bản cho phương pháp này: (1) điều kiện ánh xạ tương tự

sẽ được dùng nếu không có sự thay đổi ý niệm xảy ra giữa hai ngôn ngữ, và (2) điều

kiện ánh xạ khác biệt trong trường hợp xuất hiện sự thay đổi ý niệm từ ngôn ngữ

nguồn sang ngôn ngữ đích. Phương pháp “giả thuyết dịch tri nhận” còn lập luận

rằng các biểu thức ẩn dụ dường như khó dịch hơn và mất thời gian nhiều hơn mỗi

khi chúng vận dụng các miền tri nhận khác nhau so với biểu thức ngôn ngữ đích

tương đương. Giả thuyết chỉ ra rằng khó khăn gặp phải trong bản dịch của các ẩn dụ

với miền tri nhận khác nhau nên phải dựa vào việc tìm kiếm ánh xạ ý niệm thay thế,

tức là, sự tương đương về mặt tri nhận đối với các ẩn dụ ngôn ngữ nguồn từ trong

ngôn ngữ đích. Schaffner [137] thảo luận về một số ứng dụng của lý thuyết ẩn dụ tri

nhận khi dịch ẩn dụ. Về cơ bản dựa trên lý thuyết ẩn dụ ý niệm, dịch ẩn dụ không

chỉ là một vấn đề của việc dịch một biểu thức ẩn dụ cụ thể trong ngôn ngữ nguồn

sang ngôn ngữ đích mà còn liên quan đến các hệ thống ý niệm trong văn hoá nguồn

và văn hóa đích. Do đó, cần cân nhắc thận trọng khi dịch ẩn dụ theo khung lý thuyết

ẩn dụ ý niệm, đó là các quy trình áp dụng trong việc xác định các ẩn dụ ý niệm và

sự chuyển di của chúng từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích.

Kövecses [104] quan tâm đến tính quy luật của những cách thức mà theo đó

ẩn dụ ý niệm được biểu thị về mặt ngôn từ trong các ngôn ngữ khác nhau, cụ thể là

tiếng Anh và tiếng Hungary. Kövecses [104, tr.131] đã nghiên cứu bốn vấn đề sau:

(1) đặc trưng ra sao khi nghĩa biểu trưng được thể hiện bằng phương tiện của một

hoặc nhiều mô hình ẩn dụ ý niệm trong các ngôn ngữ khác nhau; (2) liệu nghĩa trừu

tượng có thể được biểu hiện hoàn toàn theo nghĩa nguyên văn hay không; (3) những

chi tiết tinh tế về những khác biệt trong các biểu thức ngôn ngữ của cùng một ẩn dụ

ý niệm là gì; và (4) đặc trưng ra sao khi bối cảnh văn hóa mà ẩn dụ ý niệm được

nhúng vào có ảnh hưởng đến biểu thức ngôn ngữ của những ẩn dụ đó. Qua phân

tích hai mô hình ẩn dụ cùng tồn tại trong cả tiếng Anh và tiếng Hungary, đó là

153

THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC và TÌNH YÊU LÀ MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH, theo

bốn phạm trù đã nêu trên, Kövecses [104, tr.141] đi đến kết luận rằng có năm khả

năng để dịch nghĩa biểu trưng giống nhau từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, cụ

thể như sau:

Các khả năng Hình thức từ Nghĩa nguyên Ẩn dụ ý niệm

văn Giống Nghĩa biểu trưng Giống Giống Khác

Khác Giống Giống Khác

Khác Giống Khác Khác

Khác Khác Khác Khác

Khác Khác Không sử dụng ẩn dụ Giống (thông qua việc diễn nghĩa)

Khả năng xảy ra nhiều nhất Khả năng xảy ra thấp hơn Khả năng xảy ra thấp nhất Tác phẩm văn chương biểu Nghĩa trưng được biểu thị theo lối dịch diễn giải

Năm khả năng dịch nghĩa biểu trưng giống nhau từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ

khác (theo Kövecses [104, tr.144])

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là Kövecses [104] chỉ khảo sát các trường hợp liên

quan đến biểu thức ngôn ngữ tự do, tức là những cụm từ trong đời sống thường

nhật, chỉ trừ khả năng thứ tư là các biểu thức ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương.

Các trường hợp này không bao gồm đối tượng khảo sát là tổ hợp thành ngữ.

Bên cạnh đó, một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất một dịch giả phải đối

mặt là việc chuyển dịch thành ngữ mang tính ẩn dụ. Newmark [130, tr.105] khẳng

định rằng: “Trong khi vấn đề cốt yếu của dịch thuật là chọn lựa bao quát một

phương pháp dịch cho một văn bản, thì vấn đề cụ thể quan trọng nhất là dịch ẩn

dụ.” Dịch ẩn dụ thường gây khó cho dịch giả bởi lẽ các mô hình ẩn dụ mang tính

văn hóa và đòi hỏi phải hiểu biết sâu sắc về chúng. Do vậy, việc chuyển dịch các

mô hình ẩn dụ từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích đòi hỏi phải hiểu biết sâu sắc

154

về nền tảng văn hóa và hệ thống ẩn dụ ý niệm của cả hai ngôn ngữ cho dù chúng

thuộc hai ngữ hệ khác nhau.

Dịch thuật và văn hóa là hai yếu tố không tách rời nhau, và điều này càng

đúng trong việc dịch ẩn dụ. Các giá trị, ý tưởng, giả định và thái độ làm nên văn

hóa. Mặc dù có thể có điểm tương đồng về văn hóa trong cách đối mặt với những

vấn đề chung, mỗi người có cách tiếp cận và phương pháp riêng biệt để hiểu một

hiện tượng, để ứng phó với các tình huống đặc biệt, để nói lên ý tưởng và niềm tin,

để chia sẻ suy nghĩ hoặc thông điệp và để khám phá các vấn đề nhằm giải quyết

chúng. Nhờ vào nền tảng và kinh nghiệm khác nhau, cộng đồng của các nền văn

hóa khác nhau sẽ có tri thức về thế giới khác nhau. Nhận thức khác nhau về thực tại

thể hiện rằng các mô hình ẩn dụ kết hợp các đặc trưng văn hóa và điều kiện văn hóa

tác động đến cách thức mà các đặc trưng này được diễn giải. Vì vậy, điều đó có thể

đưa đến hệ quả là việc không thể dịch ẩn dụ chủ yếu phụ thuộc vào mức độ tương

hợp văn hóa của hai ngôn ngữ. Snell-Hornby [141] nhận định rằng: “Mức độ biểu

thị khả năng dịch được của một văn bản thì dao động theo mức độ mà văn bản đó

được lồng vào nền văn hóa cụ thể của nó, và nó cũng dao động theo khoảng cách

phân định nền văn hóa của văn bản nguồn và đối tượng đích về vấn đề thời gian và

địa điểm” [141, tr.41]. Snell-Hornby đi đến kết luận rằng: “Vấn đề thiết yếu đặt ra

bởi các phép ẩn dụ trong dịch thuật là các nền văn hóa khác nhau, dẫn đến ngôn ngữ

cũng khác nhau, đã ý niệm hóa và tạo ra các biểu tượng trong việc thay đổi cách

thức và các định dạng, và do đó ý nghĩa của một phép ẩn dụ thường mang tính văn

hóa cụ thể” [141, tr.57].

Từ hai khía cạnh của dịch thuật mà chúng tôi quan tâm có liên quan đến đối

tượng nghiên cứu của luận án, đó là thành ngữ và ẩn dụ ý niệm cảm xúc, chúng tôi

muốn khảo sát hai khía cạnh dịch thuật này được các dịch giả người Việt xử lý và

giải quyết như thế nào khi chuyển dịch thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sang

tiếng Việt.

155

3.3. Khảo sát việc sử dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong dịch thành ngữ từ tiếng

Anh sang tiếng Việt

3.3.1. Phương pháp và ngữ liệu khảo sát

Như đã trình bày bên trên, mục đích của chương này là điều tra mức độ ẩn dụ

ý niệm cảm xúc của năm nhóm thành ngữ biểu thị cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu

có thể được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt nhằm qua đó đúc kết những chiến

lược và thủ pháp dịch thuật mà một dịch giả có thể sử dụng khi chuyển nghĩa thành

ngữ tương ứng. Ngữ liệu cho phần nghiên cứu khảo sát này được chúng tôi thu thập

từ 4 quyển từ điển thành ngữ đơn ngữ tiếng Anh đã nêu ở phần mở đầu của luận án

với số lượng 339 thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc, cụ thể vui: 77 đơn

vị thành ngữ, buồn: 60 đơn vị, giận: 111 đơn vị, sợ: 65 đơn vị, yêu: 26 đơn vị, được

chọn lựa theo tiêu chí đặc điểm nhận dạng của thành ngữ trong chương 1.

Quy trình tiến hành khảo sát gồm các công đoạn sau đây:

Bước 1: Dựa vào danh sách thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc,

chúng tôi tra cứu phần dịch tiếng Việt tương đương của chúng (xem phụ lục 5) từ

sáu quyển từ điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt [16], [28], [29], [40], [47], [49] đã

được trình bày ở tiểu mục 0.4 của phần Dẫn nhập của luận án này.

Bước 2: Tiến hành dịch sát ý thành ngữ tiếng Anh của năm loại cảm xúc

sang tiếng Việt. Mục đích là để hiểu nghĩa nguyên văn của chúng, chuẩn bị cho

bước so sánh đối chiếu hai bản dịch, một bản diễn nghĩa của thành ngữ tiếng Anh

(xem phụ lục 4) và một bản dịch nghĩa tiếng Việt của chúng (xem phụ lục 5).

Bước 3: Tiến hành khảo sát, phân loại, so sánh và đối chiếu các thành ngữ

theo các chiến lược được sử dụng để dịch thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt.

Nhằm xem xét đánh giá việc vận dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ hay

cụm từ dịch tương đương của sáu quyển từ điển song ngữ thành ngữ nêu trên, dựa

trên phân loại của Hiraga [91], chúng tôi chọn và sắp xếp các chiến lược dịch thành

ngữ với yếu tố ẩn dụ ý niệm thành bốn loại cơ bản như sau:

a) Cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức ngôn ngữ

b) Cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức ngôn ngữ

156

c) Khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng cùng biểu thức ngôn ngữ

d) Khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và khác biểu thức ngôn ngữ

Bên cạnh đó, thông qua khảo sát, chúng tôi phát hiện ra có khá nhiều tổ hợp

thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc được dịch sang tiếng Việt bằng lối

dịch diễn giải, nên chúng tôi cũng đưa chiến lược này vào diện khảo sát phân tích,

thành loại thứ 5, dựa trên quan điểm của Kövecses [104].

Biểu thức ngôn ngữ trong trường hợp của luận án chúng tôi xem xét sẽ gồm ba

loại tổ hợp: (1) tổ hợp thành ngữ, (2) tổ hợp ngữ cố định, và (3) tổ hợp ngữ tự do.

Trong đó, chúng tôi quan tâm nhiều đến hai loại tổ hợp đầu, đó là tổ hợp thành ngữ

và tổ hợp ngữ cố định.

Chúng ta có thể thấy rằng các loại từ điển thường khác nhau về cấu trúc và nội

dung nhằm thực hiện những mục đích và nhiệm vụ khác nhau của chúng. Qua

nghiên cứu khảo sát, chúng tôi nhận thấy một số đặc điểm chung của sáu quyển từ

điển này như sau:

1. Các quyển từ điển này chọn lọc nguồn thành ngữ tiếng Anh để biên dịch

sang tiếng Việt từ các tài liệu có tiếng như: Handbook of American Idioms and

Idiomatic Usage, English Idioms Dictionary (dẫn theo [29]), Oxford Idioms

Dictionary (dẫn theo [16]), Macmillan Idioms Dictionary, Longman American

Idioms Dictionary, NTC’s American Idioms Dictionary (dẫn theo [47]), The Oxford

Idioms Dictionary for Learners of English (dẫn theo [49]), v.v.

2. Những thành ngữ tiếng Anh, theo các dịch giả của sáu quyển từ điển này nêu

ra trong phần dẫn nhập và lời giới thiệu, bao gồm những thành ngữ thường dùng

trong công tác và đời sống xã hội, với dung lượng của mỗi quyển từ điển khác nhau

từ 1.000 đơn vị [28], 6.000 đơn vị [29], 8.000 đơn vị [47], 10.000 đơn vị [28, 49],

đến 18.000 đơn vị [40].

3. Các quyển từ điển này được biên soạn chủ yếu theo lối tường giải, nghĩa là

các dịch giả đã cố gắng phản ánh một cách trung thành những gì đã có trong các

quyển từ điển thành ngữ tiếng Anh mà họ chọn dịch vào tiếng Việt. Có một số ít các

mục từ được biên soạn theo phương cách đối chiếu, nghĩa là các dịch giả cố gắng

157

đưa thêm các thành ngữ hay cụm từ tự do tiếng Việt được cho là tương đương với

những thành ngữ tiếng Anh.

4. Các quyển từ điển này khi chuyển dịch nghĩa của những thành ngữ tiếng Anh

sang tiếng Việt có sử dụng các tục ngữ và ca dao của Việt Nam [29, 47], hay cung

cấp ngữ cố định hoặc thành ngữ tiếng Việt tương đương [49]. Tuy nhiên, các tác giả

này đều thừa nhận việc tìm được một ngữ tương đương trong tiếng Việt quả không

dễ, vì phần lớn những giải thích đều chỉ nêu mục đích hoặc tình huống sử dụng của

thành ngữ chứ không giải thích ý nghĩa của thành ngữ đó, hoặc có chăng chỉ được

một phần vì ngôn ngữ nào cũng có nét đặc thù và không hẳn là từ nào cũng có từ

tương đương trong ngôn ngữ khác.

3.3.2. Kết quả khảo sát dịch thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt ở các từ

điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt

Qua khảo sát sáu quyển từ điển song ngữ Anh-Việt với số lượng 339 đơn vị

thành ngữ tiếng Anh theo năm loại chiến lược dịch thuật đã nêu, chúng tôi sẽ lần

lượt trình bày kết quả thu được của từng chiến lược dịch thành ngữ, tiến hành phân

tích lý giải những phương thức dịch này và có những đề xuất cụ thể cho việc dịch

thuật các thành ngữ biểu thị cảm xúc từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

3.3.2.1. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

sang tiếng Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức ngôn ngữ

Như trên đã trình bày, biểu thức ngôn ngữ mà luận án chúng tôi xác định khi

nghiên cứu là thành ngữ và ngữ cố định. Do vậy, qua khảo sát ngữ liệu là những

thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc được chuyển dịch sang tiếng Việt,

chúng tôi ghi nhận hai trường hợp: (1) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng thành

ngữ tương đương nghĩa nguyên văn và (2) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng

ngữ cố định tương đương nghĩa nguyên văn.

Đối với trường hợp (1) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng thành ngữ

tương đương nghĩa nguyên văn, chúng tôi ghi nhận 4 thành ngữ tiếng Anh biểu thị

hai loại cảm xúc giận và sợ được các dịch giả chuyển dịch bằng thành ngữ tiếng

Việt tương đương với cùng miền ẩn dụ ý niệm, cụ thể như sau:

158

Thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh Thành ngữ tiếng Việt tương ứng trong các từ điển được tra cứu

GIẬN

1. Add fuel to the fire/ flame

2. A face like thunder Đổ thêm dầu vào lửa ([40] [49] [28]) Lửa cháy đổ thêm dầu [16] Mặt đằng đằng sát khí [49]

SỢ

3. Make one’s hair stand on end

4. Make one’s flesh creep (Làm cho ai) rợn tóc gáy [29] Dựng tóc gáy ([49],[28]) Làm sởn gai ốc [49]

Chúng tôi nhận thấy các dịch giả của những quyển từ điển thành ngữ song

ngữ Anh-Việt khảo sát đã chuyển dịch khá sát sao những thành ngữ từ tiếng Anh

sang tiếng Việt bằng việc đề xuất thành ngữ tiếng Việt bao gồm việc sử dụng các

mục từ vựng tương đương. Theo đó, cặp thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt (1) có

cùng mô hình ẩn dụ GIẬN LÀ LỬA, cặp thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt (2) với

cùng mô hình ẩn dụ GIẬN LÀ KHÍ NÉN, hai cặp thành ngữ tiếng Anh và tiếng

Việt (3) và (4) với cùng mô hình ẩn dụ CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA CẢM XÚC. Phát

hiện này phần nào minh chứng cho ý niệm phổ quát của cảm xúc mà Wierzbicka

[150] đã nêu khi cho rằng tất cả các ngôn ngữ đều có từ ngữ tương đương, mặc dù

không nhất thiết phải giống hệt nhau về ý nghĩa biểu hiện cơ học của cảm xúc tiêu

cực.

Đối với trường hợp (2) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng ngữ cố định

tương đương nghĩa nguyên văn, qua khảo sát khối ngữ liệu gồm 339 đơn vị thành

ngữ biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu của 6 quyển từ điển thành

ngữ song ngữ Anh-Việt, chúng tôi ghi nhận 25 đơn vị thành ngữ tiếng Anh được

chuyển dịch nghĩa bằng việc sử dụng ngữ cố định tương đương trong tiếng Việt với

cùng một ẩn dụ ý niệm, cụ thể như sau:

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc Ngữ cố định tiếng Việt trong các từ điển được tra cứu

VUI

1. A ray of sunshine 2. As happy as a king 3. As happy as a lark Tia nắng ấm [49] Sướng như vua [40] Vui như chim sơn ca [28]

159

4. Grin from ear to ear

5. Jump for joy 6. On cloud nine

7. Stir one’s blood Cười toe toét, cười ngoác đến mang tai [49] Nhảy lên vì vui sướng [40] Đến chín tầng mây [49] Trên chín tầng mây [16] Sướng như ở chín tầng mây [28] Khơi dậy bầu máu nóng [49]

BUỒN

8. A black day 9. A long face 10. A sob story 11. Beat one’s breast

12. Empty nest syndrome 13. In a bad mood 14. Rub salt in the wound 15. Sick at heart Một ngày đen tối/ đen đủi [49] Thuỗn mặt ra [49] Chuyện sướt mướt [49] Tự đấm vào ngực [40] Vò đầu bứt tai [49] Hội chứng ổ không [49] Tâm trạng khó chịu [29] Xát muối vào vết thương [49] Khổ tâm [49]

GIẬN

16. Drive sb up the wall 17. Foam at the mouth

18. Let off steam 19. Make one’s blood boil 20. In a huff Dồn ai vào chân tường ([29], [49],[28]) Tức sùi bọt mép ([40], [49]) Giận sùi bọt mép [16] Xả hơi [49], la cho đã hơi hả giận [28] Làm cho ai giận sôi máu ([49],[28]) Trong cơn giận/ giận dữ ([29],[40],[28])

SỢ

21. Break out in a cold sweat 22. Can’t stand the pace 23. Get cold feet 24. Make one’s hair stand on end Toát mồ hôi lạnh [49] Không chịu đựng nỗi áp lực [49] Sợ cóng chân [28] Tóc dựng ngược lên [40]

YÊU

25. Only have eyes for sb Chỉ để mắt đến ai [49]

Các trường hợp khảo sát này cho thấy các cụm từ tiếng Việt được nêu có

cùng ẩn dụ ý niệm và cùng biểu thức ngôn ngữ với thành ngữ tiếng Anh. Tuy dịch

sát ý (hay còn gọi dịch nguyên văn) không được coi là phương thức dịch thành ngữ

tối ưu như đã trình bày ở tiểu mục 3.2.1 của chương 3, nhưng việc dịch sát ý trong

25 trường hợp nêu trên vẫn phản ánh đúng nghĩa nguyên bản của thành ngữ tiếng

Anh và phản ánh được nét biểu trưng về văn hóa dân tộc, về kinh nghiệm sống của

người Việt. Chẳng hạn, khi vui, người Anh có thể nói “as happy as a lark”, còn

160

người Việt thì nói “vui như chim sơn ca”. Hai biểu thức thành ngữ này trong tiếng

Việt và tiếng Anh có thể được xem là tương đương nhau về hình thức cấu trúc so

sánh (as …as/ như), về nghĩa từ vựng (happy/ vui, lark/ chim sơn ca) và cả về ẩn

dụ ý niệm (VUI LÀ SINH THỂ).

(62) She's (as) happy as a lark with her ten dollar pay raise, even though the

long-term prospects for the business are not good.

Cô ấy vui như chim sơn ca khi được tăng lương thêm 10 đô-la, mặc dù

viễn cảnh lâu dài về công việc thật không sáng sủa.

Hay như khi biểu thị nỗi buồn, tiếng Anh có thành ngữ “beat one’s breast”

(đấm vào ngực). Thành ngữ này vận dụng miền nguồn LỰC TÁC ĐỘNG kết hợp

với kinh nghiệm luận khi quan sát hành vi con người lúc đau buồn. Đây là sự phổ

quát của mô hình văn hóa khi biểu thị cảm xúc buồn, và còn có thể tìm thấy sự phổ

quát này trong thành ngữ biểu thị cảm xúc giận, chẳng hạn như foam at the mouth

(giận sùi bọt mép), make one’s blood boil (làm ai giận sôi máu). Khi cảm thấy sợ,

con người có xu hướng biểu hiện những hành vi mang tính nghiệm thân như toát

mồ hôi lạnh / break out in a cold sweat, lạnh chân / get cold feet, hay tóc gáy dựng

đứng lên / make one’s hair stand on end.

3.3.2.2. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

sang tiếng Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức ngôn

ngữ

Do biểu thức ngôn ngữ mà luận án chúng tôi quan tâm khi khảo sát ngữ liệu từ

những thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc được chuyển dịch sang tiếng

Việt là thành ngữ và ngữ cố định, chúng tôi chia thành hai trường hợp xem xét: (1)

cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng sử dụng thành ngữ không tương đương nghĩa

nguyên văn và (2) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng sử dụng ngữ cố định không

tương đương nghĩa nguyên văn.

Ở trường hợp (1) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng sử dụng thành ngữ không

tương đương nghĩa nguyên văn, chúng tôi ghi nhận có 5 tổ hợp thành ngữ tiếng Anh

161

trong khối ngữ liệu khảo sát của luận án được các dịch giả dịch sang tiếng Việt bằng

phương thức sử dụng thành ngữ tiếng Việt tương đương nghĩa nguyên văn.

Thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh Thành ngữ tiếng Việt tương ứng trong các từ điển được tra cứu

VUI

1. Like a cat that got the ice-cream 2. Like a cat that ate the canary (mãn nguyện) như mèo no mỡ [49] (mãn nguyện) như mèo no mỡ [49]

BUỒN

3. Down in one’s mouth Mặt ủ mày chau [49]

SỢ

4. Afraid of one’s own shadow 5. Sweat blood Sợ bóng sợ gió [47] Sợ toát mồ hôi [49]

Chúng tôi nhận thấy khi sử dụng các thành ngữ tiếng Việt làm bản dịch cho

các thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui, buồn và sợ như trên, các dịch giả đã

dịch những thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt khá hiệu quả bằng cách chuyển

tải ý nghĩa của thành ngữ tiếng Anh, ngôn ngữ nguồn, sang ý nghĩa tương đương

của thành ngữ tiếng Việt, ngôn ngữ đích, bao gồm việc sử dụng các mục từ vựng

khác biệt. Chẳng hạn, hai thành ngữ tiếng Anh biểu thị niềm vui “like a cat that got

the ice-cream, like a cat that ate the canary” (nghĩa nguyên văn: như con mèo ăn

kem, như con mèo ăn chim hoàng yến) được dịch sang tiếng Việt bằng thành ngữ

“như mèo no mỡ” (thực ra là thành ngữ tiếng Việt “như mèo thấy mỡ”). Hình tượng

con mèo được sử dụng trong cả hai thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Cả hai cặp

thành ngữ Anh-Việt này đều kích hoạt mô hình ẩn dụ TRẠNG THÁI CẢM XÚC

VUI LÀ VẬT SỞ HỮU. Tuy nhiên, do văn hóa Anh-Việt khác biệt nên dẫn đến

hình tượng con mèo được gắn với những hình ảnh văn hóa đặc trưng khác nhau: “ăn

kem”, “ăn chim hoàng yến” trong tiếng Anh và hình ảnh “ăn mỡ” trong tiếng Việt.

Điều này tạo nên sức hấp dẫn cho thành ngữ biểu thị cảm xúc về mặt ý niệm ẩn dụ.

(63) After the meeting John looked like the cat that swallowed the canary. I

knew he must have been a success.

Sau cuộc họp John trông mãn nguyện như mèo no mỡ. Tôi biết anh ta ắt

hẵn đã thành công lắm.

162

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc buồn “down in one’s mouth” được

các dịch giả dịch sang tiếng Việt bằng thành ngữ “mặt ủ mày chau”. Cả hai thành

ngữ này đều chia sẻ miền nguồn ẩn dụ hướng xuống trong mô hình ẩn dụ ý niệm

BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG. Còn thành ngữ tiếng Anh biểu lộ nỗi lo sợ ‘afraid of

one’s own shadow” có mô hình ẩn dụ SỢ LÀ MỘT KẺ THÙ ẨN NẤP, là mô hình

ẩn dụ của thành ngữ tương đương tiếng Việt “sợ bóng sợ gió”.

Thành ngữ tiếng Anh “sweat blood” và thành ngữ tiếng Việt tương đương

“sợ toát mồ hôi” cùng biểu thị mô hình ẩn dụ CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ VẬT

CHỨA CẢM XÚC GIẬN. Mô hình ẩn dụ cụ thể này xuất phát từ ẩn dụ cấp độ

tổng loại của cấu trúc cảm xúc NHỮNG PHẢN ỨNG CẢM XÚC LÀ NHỮNG

CHUYỂN ĐỘNG ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI YẾU TỐ NGOẠI VI, theo đó hành vi

sweat (đổ, tiết ra) được hiểu là một lực tác động từ bên ngoài, có thể từ một sự việc

hay một con vật khiến cho người đó sợ đến nỗi cơ thể phải tiết ra một chất dịch,

trong trường hợp này là máu (blood), nhằm phản ứng lại với nỗi sợ ấy. Tương tự,

trong tiếng Việt, với thành ngữ “sợ toát mồ hôi” chất dịch được tiết ra là mồ hôi,

tuy khác nhau về mục từ vựng nhưng đều biểu lộ phản ứng của cơ thể trước nỗi sợ,

bắt nguồn từ phép nghiệm thân.

Đối với trường hợp (2) cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng sử dụng ngữ cố

định không tương đương nghĩa nguyên văn, qua khảo sát chúng tôi đếm được 12

thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu được dịch

sang tiếng Việt tuy cùng ý niệm ẩn dụ nhưng sử dụng ngữ cố định không tương

đương so với thành ngữ tiếng Anh.

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc Ngữ cố định tiếng Việt trong các từ điển được tra cứu

VUI

life of Nhảy cỡn lên [40] Sống như ông hoàng [49] live the 1. Kick up one’s heels 2. Lead/ Riley

3. The seventh heaven 4. Walk on air Sung sướng như ở trên chín tầng mây xanh [28] Như được lên tiên [40] Sướng như đi trên mây [49]

BUỒN

163

5. A long face 6. Be in the doldrums 7. With a heavy heart Vẻ mặt buồn hiu [16] Xuống tinh thần, sa sút tinh thần [16] (cảm thấy) lòng nặng trĩu [49]

GIẬN

8. Blow a fuse 9. Blow one’s top 10. Flip one’s lid 11. Hit the ceiling 12. Blow one’s cool Đùng đùng nổi giận [49] Nổi đóa [49], giận tím mặt [49] Nổi giận đùng đùng [49] Đùng đùng nổi giận [49] Nổi nóng [28]

Sự khác biệt về biểu thức ngôn ngữ biểu hiện ý niệm cảm xúc giữa hai ngôn

ngữ, trong trường hợp đang xét là các ngữ cố định tiếng Anh và tiếng Việt biểu thị

các loại cảm xúc, là do trường từ vựng gây ra. Mỗi ngôn ngữ phát triển hệ thống từ

vựng tương ứng, đặc trưng cho cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Có khả năng là hai

hệ thống từ vựng này chứa những từ hay ngữ đặc trưng cho nền văn hóa của dân tộc

đó, mà trong ngôn ngữ kia không tìm thấy được. Và điều này thể hiện rõ qua 12 tổ

hợp thành ngữ tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt bằng các ngữ cố định mà các

ngữ này không chứa từ vựng tương đương với từ vựng kiến tạo nên thành ngữ tiếng

Anh. Kiến thức nền chính là những hiểu biết ngoài ngôn ngữ liên quan đến khái

niệm từ vựng, là những tri thức thường trực trong ý thức cộng đồng người bản ngữ

được tàng trữ trong trí não của họ về một sự vật hay hiện tượng của đời sống thể

hiện ở một từ hay một thành ngữ nào đó. Chính kiến thức nền góp phần vào sự

thông hiểu và giải mã sang tiếng Việt của các dịch giả.

Kết quả thu được qua khảo sát đó là có 12 thành ngữ tiếng Anh được dịch

sang tiếng Việt bằng cách sử dụng ngữ cố định trong tiếng Việt với cùng ẩn dụ ý

niệm thuộc ba loại cảm xúc vui, buồn và giận. Trong đó, 3 thành ngữ tiếng Anh

biểu thị niềm vui được dịch sang tiếng Việt vẫn giữ nguyên ẩn dụ ý niệm so với

thành ngữ của ngôn ngữ nguồn. Miền ẩn dụ ý niệm cảm xúc VUI LÀ HƯỚNG

LÊN, VUI LÀ RỜI KHỎI MẶT ĐẤT được biểu thị trong các thành ngữ tiếng Anh

như “kick up one’s heels”, “the seventh heaven”, “walk on air” vẫn được kích hoạt

và biểu đạt trong phần dịch tiếng Việt với các thành ngữ như “nhảy cỡn lên”, “sung

sướng như ở trên chín tầng mây xanh”, “sướng như đi trên mây”. Việc tìm hiểu

164

nguồn gốc văn hóa của thành ngữ cũng mang lại kiến thức nền để tri nhận thành

ngữ. Chẳng hạn đối với thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc vui “kick up one’s

heels” với nghĩa biểu trưng của tổ hợp thành ngữ là “rất vui vẻ, hào hứng, phấn

khởi, mãn nguyện”, sử dụng hình ảnh ẩn dụ về con ngựa, khi được thả vào cánh

đồng rộng lớn, thường phi nước đại, thỉnh thoảng có hành động đá hất chân sau lên

không trung, biểu hiện sự vui mừng vì được phóng thích ra ngoài. Thành ngữ này

có dịch giả dịch thành “nhảy cởn lên” với mô hình ẩn dụ VUI LÀ HƯỚNG LÊN,

và như thế cả hai thành ngữ này cùng kích hoạt miền nguồn HƯỚNG LÊN khi ánh

xạ đến miền đích ý niệm vui qua lược đồ ẩn dụ tri nhận.

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị niềm vui “lead/ live a life of Riley” (tạm dịch:

“có hay sống theo cuộc đời của Riley”) có mô hình ẩn dụ VUI LÀ ĐỊA VỊ CAO

TRONG XÃ HỘI. Tuy nhiên, để hiểu được mô hình ẩn dụ của thành ngữ này cần

tìm về nguồn gốc của nó. Giả thuyết cho sự ra đời thành ngữ này xuất phát từ một

số học giả Mỹ khi cho rằng Riley (ban đầu được viết là "Reilly") đề cập đến một

nhân vật xuất hiện vào những năm 1890. Riley, một người quản lý khách sạn, đã trở

nên nổi tiếng với phát ngôn “cả thành phố New York sẽ bơi trong rượu vang khi

Nhà Trắng và Quốc hội là của tôi” vào thời điểm nếu ông trở thành Tổng thống Hoa

Kỳ [90, tr.502]. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Do vậy, thành ngữ “live or

lead the life of Riley” diễn tả một cuộc sống vui vẻ, lý tưởng, sa hoa, và từ “Riley”

biểu thị địa vị cao trong xã hội. Cho nên, thành ngữ này kích hoạt mô hình ẩn dụ

VUI LÀ ĐỊA VỊ CAO TRONG XÃ HỘI. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt, dịch giả

của quyển từ điển (4) đã dịch là “sống như ông hoàng” với cùng miền ẩn dụ, mà

theo chúng tôi đó là một bản dịch hợp lý.

(64) He got to live the life of Reily after inheriting a huge amount of money.

(Ông ấy đã sống như ông hoàng sau khi thừa kế món tiền khổng lồ.)

Hay như thành ngữ “the seventh heaven” (tạm dịch: thiên đường thứ bảy) đề

cập đến Thiên đường thứ bảy của nhà tiên tri Muhammad, được cho là “vượt qua

khỏi sức mạnh của sự mô tả”. Mỗi người sinh sống ở nơi đó thì to lớn hơn cả trái

đất này và có 70.000 cái lưỡi nói chừng ấy ngôn ngữ, tất cả đều đồng ca ngợi Thánh

165

Allah. Cảnh giới thứ bảy cũng được xem là cảnh giới tốt đẹp nhất. Do vậy, thành

ngữ này có ý nghĩa là “cao điểm, trạng thái tốt nhất của tâm trạng” [90, tr.744].

Nhưng khi dịch thành ngữ này sang tiếng Việt thì văn hóa tín ngưỡng Phật giáo của

Việt Nam được biểu lộ thay vì tín ngưỡng đạo Hồi. Theo thuyết giáo của đạo Phật,

cõi trời được chia thành chín tầng, gọi là cửu phạm, là thế giới của các thiên nhân

trong cõi Thiền và nơi mà các bậc tu thiền có thể tái sinh về đấy tùy theo đức hạnh

và giác ngộ của họ (Theo www.phathoc.net/tu-dien-phat-hoc, ngày truy cập

18/10/2013). Đây là cõi tiên, thoát khỏi những muộn phiền của thế tục, nên được

hiểu tương đương với niềm an lạc. Nên khi dịch thành ngữ “the seventh heaven”

sang tiếng Việt, có dịch giả dịch thành “trên chín tầng mây” với mô hình ẩn dụ VUI

LÀ RỜI KHỎI MẶT ĐẤT, tương ứng với mô hình ẩn dụ mà thành ngữ tiếng Anh

biểu thị.

(65) She was in seventh heaven when she received the acceptance letter to

medical school.

Cô ấy vui sướng như trên chín tầng mây khi nhận được thư chấp thuận

vào học trường y khoa.

Trong 3 thành ngữ tiếng Anh biểu thị nỗi buồn “a long face, be in the

doldrums, with a heavy heart”, miền ẩn dụ ý niệm BUỒN LÀ HƯỚNG XUỐNG,

BUỒN LÀ VẬT THỂ NẶNG cũng được tìm thấy trong tiếng Việt thông qua các

ngữ cố định tương ứng “vẻ mặt buồn hiu, xuống tinh thần, sa sút tinh thần, lòng

nặng trĩu”. Khi biểu thị cảm xúc giận, 5 thành ngữ tiếng Anh có sử dụng ý niệm ẩn

dụ GIẬN LÀ NỔ TUNG. Các thành ngữ ấy gồm có: “blow a fuse, blow one’s top,

flip one’s lid, hit the ceiling, blow one’s cool”. Khi dịch 5 thành ngữ tiếng Anh này

sang tiếng Việt, các dịch giả đã đưa ra các cụm từ tương ứng có cùng miền ẩn dụ:

“đùng đùng nổi giận, nổi đóa, nổi giận đùng đùng, nổi nóng”.

166

3.3.2.3. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

sang tiếng Việt sử dụng khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng cùng biểu thức ngôn

ngữ

Qua khảo sát khối ngữ liệu gồm 339 đơn vị thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm

loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu, chúng tôi chưa phát hiện tổ hợp thành ngữ

tiếng Anh nào mà khi được dịch sang tiếng Việt sử dụng cùng biểu thức ngôn ngữ

nhưng lại thể hiện các miền ẩn dụ cảm xúc khác nhau. Thành ngữ mang đậm nét

bản sắc văn hóa dân tộc, thường có nghĩa hình tượng được hình thành từ mối liên

tưởng với nền từ vựng phản ánh một hiện thực đặc thù của người bản ngữ. Đây

chính là những trở ngại cho việc giải mã cơ cấu nghĩa thành ngữ, nhất là đối với

những người bản ngữ của một ngôn ngữ khác. Điều này cũng phù hợp với nhận

định của Hiraga [91] khi nghiên cứu về dịch ẩn dụ từ góc độ miêu tả và tập trung

vào cách thức mà mô hình ẩn dụ và biểu thức ẩn dụ được xử lý trong bản dịch thực

tế. Hiraga đã cho rằng trong bốn khả năng kết hợp giữa các ý niệm ẩn dụ và các

biểu thức ẩn dụ, thì khả năng “Các miền ý niệm ẩn dụ khác nhau nhưng các biểu

thức ẩn dụ tương tự” rất khó để tìm ra minh chứng ngôn ngữ cho nó, đặc biệt là về

phương diện thành ngữ.

3.3.2.4. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

sang tiếng Việt sử dụng khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và khác biểu thức ngôn ngữ

Ở nội dung khảo sát ngữ liệu này, chúng tôi chia thành hai trường hợp: (1)

khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng thành ngữ không tương đương nghĩa nguyên

văn và (2) khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng ngữ cố định không tương đương

nghĩa nguyên văn.

Đối với trường hợp (1) khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng thành ngữ

không tương đương nghĩa nguyên văn, chúng tôi ghi nhận 6 thành ngữ tiếng Anh

biểu thị ba loại cảm xúc vui, giận và sợ được các dịch giả chuyển dịch bằng thành

ngữ tiếng Việt không tương đương về từ vựng và ẩn dụ ý niệm cảm xúc.

167

Thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh Thành ngữ tiếng Việt tương ứng trong các từ điển được tra cứu

VUI

1. Be all smiles (mặt) tươi như hoa [49]

GIẬN

2. As mad as a hornet 3. Frighten the wits out of sb 4. Vent one’s spleen 5. Hit the ceiling Nổi tam bành [28] (Làm ai sợ) dựng tóc gáy [49] Giận cá chém thớt [29] Nổi trận lôi đình [28]

SỢ

6. Shake like a leaf Run như cầy sấy [49]

Việc sử dụng các thành ngữ tiếng Việt làm bản dịch cho các thành ngữ tiếng

Anh biểu thị các loại cảm xúc cho thấy tính hiệu quả của cách chuyển tải ý nghĩa

của thành ngữ tiếng Anh sang ý nghĩa tương đương của thành ngữ tiếng Việt mà

không sử dụng các mục từ vựng tương đương. Hãy xét cặp thành ngữ Anh-Việt “as

mad as a hornet” / “nổi tam bành”. Với ý nghĩa “rất tức giận”, cơn giận được so

sánh với hình ảnh con ong bắp cày. Đây là loài ong hung dữ và hay tấn công người.

Khi có người chọc vào tổ ong, cả đàn ong túa ra trông rất giận dữ và tấn công kẻ

phá tổ. Cơn giận của một người được so sánh với tính chất hung hăng của ong bắp

cày cũng đủ để chúng ta có thể hình dung sự tức giận mạnh mẽ đến chừng nào.

Thành ngữ này kích hoạt mô hình ẩn dụ GIẬN LÀ ĐIÊN RỒ. Tuy nhiên, tiếng Việt

không có thành ngữ nào sử dụng hình tượng của ong bắp cày hay loài ong nói

chung để biểu thị sự giận dữ của con người. Cho nên, thành ngữ này được các dịch

giả dịch sang thành ngữ tiếng Việt tương đương là “nổi tam bành”. Theo lý thuyết

của Đạo Gia, thì Tâm Thức hay Tâm Thần của con người đều ở vào ba nơi. Một ở

Óc (đầu), hai ở Tim (ngực) và ba ở Dạ Dày (bụng). Ba nơi ấy Đạo Gia gọi là Tam

Thi gồm Thượng Thi, Trung Thi và Hạ Thi. Cả ba Tam Thi được chủ đạo bởi ba

ông thần họ Bành: Thượng Thi do Bành Cứ (có sách viết là Bành Sư), Trung Thi do

Bành Chất và Hạ Thi do Bành Kiêu. Ba ông thần ấy gọi là Tam Bành, chuyên xúi

dục người ta nóng nảy giận dữ, làm điều sai trái xằng bậy, để những ngày Canh

Thân lên tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế phạt người này mau chết, nhằm giúp ba

168

ông thần được tự do, khỏi phải theo dõi để tâu báo nữa. Do sự tích trên, mỗi khi

người ta nóng nảy giận dữ làm điều trái lẽ mất khôn thì gọi là nổi cơn Tam Bành

[37, tr.63]. Đứng về khía cạnh ẩn dụ để xem xét thì thành ngữ nổi tam bành có thể

được xếp vào loại thành ngữ ẩn dụ có mô hình GIẬN LÀ MỘT THỨ BẬC XÃ

HỘI CAO.

(66) He was as mad as a hornet when he heard what she said about him.

Anh ta nổi cơn tam bành khi nghe những điều cô ấy nói về mình.

Khi biểu thị nỗi sợ, người Anh có thành ngữ “shake like a leaf” (đung đưa

như chiếc lá), có nghĩa là “rất run sợ”. Phép tỉ dụ này xuất hiện rất sớm ở một số

truyện ngụ ngôn Pháp (thế kỷ XIII), về sau được đại thi hào người Anh Geoffrey

Chaucer (thế kỷ XIV) cải biến thành “to quake like an aspen leaf” (rung lên giống

như một chiếc lá dương). Nó được nhiều nhà văn sử dụng trong suốt nhiều thế kỷ.

Hình ảnh lá dương với phiến lá phẳng lắc lư đong đưa trong làn gió nhẹ [58, tr.361].

Tác giả của quyển từ điển (4) dịch thành “run như cầy sấy”, một thành ngữ trong

tiếng Việt so sánh nỗi sợ như con cầy (con chó) run rẩy khi bị ướt mưa phải hong

khô bên bếp lửa. Trong trường hợp này, miền ẩn dụ tri nhận của hai thành ngữ

tương đương về mặt ý nghĩa được vận dụng từ miền nguồn SINH THỂ với một bên

là thực vật (chiếc lá) và một bên là động vật (con cầy). Cả hai hình tượng này xuất

phát từ kinh nghiệm luận của hai dân tộc khác nhau, một bên là khí hậu lạnh giá nơi

cây dương mọc phổ biến với một bên khí hậu nhiệt đới không thích hợp cho loại

cây này phát triển, nhưng lại phù hợp cho loài cầy sinh sống. Mô hình văn hóa đặc

trưng cho cuộc sống của người Anh và người Việt đã được biểu thị bằng hai thành

ngữ này, cho thấy rằng dịch giả cần có sự tinh tế trong tìm kiếm bản dịch tương

đương.

(67) I saw her just before her talk and she was shaking like a leaf.

Tôi gặp cô ấy trước khi cô ấy thuyết trình và cô đang run như cầy sấy.

Tuy nhiên, chúng tôi đề xuất thêm ba thành ngữ tiếng Việt có nghĩa tương

đương với thành ngữ tiếng Anh “shake like a leaf”: run như chó phải bả, run như

gà bị cắt tiết, run như thằn lằn đứt đuôi. Cả ba thành ngữ này có đặc điểm sử dụng

169

lược đồ hình ảnh SINH VẬT (chó, gà, thằn lằn) phổ biến trong tâm thức người

Việt.

Đối với trường hợp (2) khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và sử dụng ngữ cố định

không tương đương nghĩa nguyên văn, qua khảo sát chúng tôi đếm được 29 thành

ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc được dịch sang tiếng Việt bằng việc sử

dụng ngữ cố định không tương đương nghĩa nguyên văn so với thành ngữ tiếng

Anh và kích hoạt mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc khác nhau.

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc Ngữ cố định tiếng Việt trong các từ điển được tra cứu

VUI

1. Like a dog with two tails 2. On top of the world Sướng rơn [49] Thích thú mê ly [28]

BUỒN

3. As miserable as sin 4. Cry over spilled milk 5. Have a bad hair day 6. Hit sb where it hurts Buồn như hoa bí buổi chiều [49] Giống như tò vò khóc nhện [29] Một ngày xui xẻo [49] Đánh trúng điểm yếu [49]

GIẬN

7. Bad blood 8. Have a cow 9. Look daggers at sb 10. Lose one’s nerve/ temper 11. See red Mối ác cảm [49] Phát cáu [49] Hằn học nhìn [49] Mất bình tĩnh [49] Điên tiết [49]

SỢ

12. Frighten one out of one’s wits 13. Frighten the wits out of sb 14. Give a person a nasty (bad) Sợ chết khiếp [49] Làm ai sợ xanh mặt [49] Làm ai hết hồn [49] turn

15. Have butterflies in one’s Bồn chồn trong dạ [16] stomach

16. Have one’s heart in one’s mouth

17. Have kittens 18. Heart misses a beat 19. In a funk (blue funk) 20. Jump out of one’s skin 21. Like a cat on hot bricks 22. Make one’s blood cold run 23. Make one’s flesh creep Như ngồi trên đống lửa [49] Sợ hết hồn [16] Như ngồi đống lửa [49] Tim thót lại [49] Sợ xanh mặt [40] Giật nảy mình ([40], [49]) Đứng ngồi không yên [49] Ớn lạnh cả xương sống [49] Làm nổi da gà [49]

170

24. Struck dumb Điếng người [49], chết lặng đi [49]

YÊU

25. An old flame 26. Carry a torch for 27. Fall in love 28. Love at first sight 29. Wear one’s heart on one’s Người tình cũ [47] Yêu thầm nhớ trộm [28] Phải lòng ai ([29],[40],[28]) Tiếng sét ái tình ([49],[28]) Ruột để ngoài da [40]

sleeve

Như đã trình bày, trường từ vựng của hai ngôn ngữ, trong trường hợp này là

tiếng Anh và tiếng Việt, có thể gây nên sự khác biệt về biểu thức ngôn ngữ biểu

hiện ý niệm cảm xúc giữa hai ngôn ngữ. Do mỗi ngôn ngữ phát triển hệ thống từ

vựng đặc trưng, nên có hai khả năng xảy ra giữa hai hệ thống từ vựng của hai cộng

đồng ngôn ngữ. Khả năng thứ nhất là sự tương tự về mặt biểu hiện mà từ vựng của

hai hệ thống cùng xem xét đến. Khả năng thứ hai là hệ thống từ vựng của ngôn ngữ

này chứa những từ hay ngữ mà trong ngôn ngữ kia không tìm thấy được. Sự tương

quan của hai hệ thống từ vựng này sẽ dẫn đến hai phương thức chuyển dịch nghĩa.

Phương thức thứ nhất là dịch giả có thể chuyển dịch các đặc ngữ ấy tương đối dễ

dàng nhờ vào sự tương đương về mặt từ vựng. Trong quy trình dịch nghĩa thành

ngữ mà chúng tôi đã nêu có giai đoạn phân tích nghĩa nguyên văn của thành ngữ

tiếng Anh để hiểu rõ cơ chế tạo nghĩa thành ngữ trước khi tiến hành dịch nghĩa sang

một ngôn ngữ khác. Chính trong giai đoạn này dịch giả tìm thấy được các mục từ

hay ngữ tương tự với văn bản gốc, rồi từ đó đưa vào bản dịch của ngôn ngữ đích.

Phương thức thứ hai là dịch giả có thể chuyển dịch các đặc ngữ ấy bằng dịch diễn

giải sử dụng từ vựng của ngôn ngữ đích mà không tương đương trong ngôn ngữ

nguồn. Đây là phương thức diễn nghĩa gây nhiều khó khăn cho dịch giả vì để có thể

đề xuất các ngữ cố định tương đương cho thành ngữ tiếng Anh, họ phải trải qua

công đoạn phân tích và nhận diện ẩn dụ ý niệm ẩn chứa trong thành ngữ ấy. Tuy

nhiên, việc chuyển ngữ theo phương thức thứ hai vẫn có thể thực hiện được nhờ dựa

vào kiến thức nền. Kiến thức nền chính là những hiểu biết ngoài ngôn ngữ liên quan

đến khái niệm từ vựng, là những tri thức thường trực trong ý thức cộng đồng người

171

bản ngữ được tàng trữ trong trí não của họ về một sự vật hay hiện tượng của đời

sống thể hiện ở một từ hay một thành ngữ nào đó.

Chẳng hạn, trong thành ngữ Anh biểu thị giận “see red” (tạm dịch: thấy màu

đỏ), thành tố see chỉ khái niệm từ vựng về hành vi, hoạt động, thành tố red chỉ khái

niệm từ vựng về màu sắc, và chúng có những từ tương đương hoàn toàn ở nghĩa

biểu niệm trong tiếng Việt (nhìn / đỏ), song ở nghĩa vị ngoại biên của chúng, see và

red lại nằm trong mối liên tưởng với trường ngữ nghĩa phái sinh tồn tại trong đời

sống người bản ngữ tiếng Anh nhưng có thể khuyết ở các dân tộc khác: đó là quan

niệm của người châu Âu về nguồn gốc môn thể thao đấu bò tót và việc đấu sĩ sử

dụng mảnh vải đỏ để khiêu khích con bò. Có một thành ngữ tiếng Anh tương tự

nghĩa với “see red” là “like a red rag to a bull” (tạm dịch: như một mảnh vải đỏ

dành cho con bò tót). Thành ngữ này được dịch sang tiếng Việt là “điên tiết”, và

cụm từ “điên tiết” được định nghĩa là “tức giận đến cao độ, thường có những cử chỉ,

hành động thô bạo không kiềm chế nổi” [53, tr.318]. Nếu dựa theo phản ứng tức

giận không kiềm chế và thô bạo của con bò trong đấu trường khi đối mặt với mảnh

vải đỏ và đấu sĩ, chúng ta có thể đồng ý với cách sử dụng cụm từ “điên tiết” của

tiếng Việt để dịch thành ngữ tiếng Anh “see red”. Tuy nhiên, cả hai lối dụng từ khác

nhau này kích hoạt hai mô hình ẩn dụ khác nhau: thành ngữ tiếng Anh “see red” có

mô hình ẩn dụ cụ thể GIẬN LÀ MÀU SẮC, xuất phát từ miền ẩn dụ tổng loại CẢM

XÚC LÀ MÀU SẮC, còn ngữ cố định tiếng Việt “điên tiết” có mô hình ẩn dụ

GIẬN LÀ ĐIÊN RỒ.

(68) Thinking about those poor little kids and all the others just made me see red.

Chỉ nghĩ đến mấy đứa trẻ nghèo hèn và tất cả bọn người kia cũng đủ làm tôi

điên tiết.

(Tác phẩm The Endless Game của Bryan Forbe)

Thử xét một trường hợp thành ngữ tiếng Anh khác. Khi biểu thị tình yêu,

thành ngữ tiếng Anh “carry a torch for” có ý nghĩa “yêu thương ai đó một cách đơn

phương”. Nguồn gốc của thành ngữ này hiện nay chưa được xác định rõ, nhưng

thành ngữ này có thể bắt đầu được sử dụng từ thập niên 30 của thế kỷ XX. Một số

172

học giả cho rằng nguồn gốc của từ “torch” (ngọn đuốc) là từ vị thần Venus (Nữ thần

Sắc đẹp và Ái tình La-mã), thường cầm cây đuốc. Một số tác giả khác cho rằng

thành ngữ này ra đời do ca sĩ nhạc Broadway của Mỹ Tommy Lyman sáng tác một

dòng nhạc gọi là “torch song”, một bài hát tình yêu lãng mạn, thường nói về một ca

sĩ than vãn cho mối tình đơn phương, hoặc khi người này không biết gì về sự tồn tại

của người kia, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ yêu đương [90, tr.155]. Thành ngữ

tiếng Anh này biểu thị mô hình ẩn dụ ý niệm YÊU LÀ LỬA. Khi chuyển dịch sang

tiếng Việt, các dịch giả của quyển từ điển [28] sử dụng cụm từ “yêu thầm nhớ

trộm”, là cụm từ cải biến so với thành ngữ “yêu vụng nhớ thầm”, để dịch thành ngữ

tiếng Anh “carry a torch for”. Thành ngữ tiếng Việt này kích hoạt mô hình ẩn dụ ý

niệm cảm xúc YÊU LÀ SỰ CHE DẤU.

(69) Terry has been carrying a torch for Liz for years, but she seems not to

notice.

Terry đã yêu thầm nhớ trộm Liz nhiều năm nay, nhưng dường như cô ấy

không quan tâm đến.

Hay như trường hợp thành ngữ tiếng Anh “like a dog with two tails” biểu thị

cảm xúc vui mừng là một biểu hiện kinh nghiệm quan sát của người Anh. Ở các

nước phương Tây, người dân rất yêu quý các loài thú nuôi và chó là một trong

những thú nuôi được con người yêu thương và gắn bó. Thành ngữ này xuất phát từ

thực tế là khi một con chó đón người chủ đi làm về, hay sau một chuyến đi xa, nó

vẫy đuôi qua lại rất nhanh, tạo một ảo giác như thể nó có hai đuôi. Khi dịch thành

ngữ này sang tiếng Việt, dịch giả của quyển từ điển [49] sử dụng cụm từ “sướng

rơn”, một khẩu ngữ có ý nghĩa “cảm thấy sung sướng đến mức rộn lên trong lòng”

[53, tr.880]. Đối với người Việt, chó là vật nuôi trung thành, gắn bó với con người

từ bao đời nay. Trong bộ phận thành ngữ biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận,

sợ, yêu của tiếng Việt, chúng tôi phát hiện 12 tổ hợp thành ngữ có sử dụng từ “chó”:

1. Tiu nghỉu như chó cụp đuôi: buồn bã, thất vọng

2. Cắm cẳn như chó cắn ma: cách nói khi giận

3. Chửi chó mắng mèo: mượn cớ chửi cái khác để biểu thị sự tức giận

173

4. Chửi như chó ăn vã mắm: chửi nhiều, chửi tới tấp do giận

5. Đá mèo quèo chó: có thái độ bực dọc, tức giận gián tiếp qua cử chỉ, hành

động có tính thô bạo

6. Chửi mèo quèo chó: tương tự “đá mèo quèo chó”

7. Làu bàu (hoặc lầu bầu) như chó hóc xương: ăn nói làu bàu, cằn nhằn liên

tục gây cảm giác khó chịu, bực tức

8. Lầm lầm như chó ăn vụng bột: có vẻ mặt xịu xuống, tỏ ra bực bội, tức tối

nhưng không nói ra

9. Như chó nhai giẻ rách: nói lên sự bực bội; nói lải nhải, lặp đi lặp lại, bắt

mọi người phải nghe điều quá nhàm chán đến mức khó chịu

10. Chạy như chó phải pháo: chạy rất nhanh, chạy miết vì quá hoảng sợ

11. Chó ăn vụng bột: hành vi lấm lét, sợ sệt, hoảng loạn, được biểu hiện rành

rành ra, không che giấu nổi

12. Run như chó phải bả: quá sợ, run bắn lên, run cầm cập

Các tổ hợp thành ngữ có sử dụng từ “chó” nêu trên biểu thị nỗi buồn (1 thành

ngữ), cơn giận (8 thành ngữ), và nỗi sợ (3 thành ngữ), nhưng chúng tôi chưa phát

hiện thành ngữ nào trong số đó biểu thị niềm vui. Các tổ hợp có chứa từ “chó” đều

gắn với các cảm xúc tiêu cực (buồn, giận, sợ). Điều này cũng phù hợp với phát hiện

của hai học giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa [30, tr.179] khi hai ông cho

rằng trong cách nghĩ của người Việt, ngoài các loài vật thường gây ấn tượng xấu

như lợn (béo như lợn, ngu như lợn), khỉ (nhăn như khỉ, làm trò khỉ), vịt (chạy như

vịt, quang quác như vịt), cú (hôi như cú, cú rình nhà ma), thì loài chó cũng được

xem thuộc nhóm loài vật này: ngu như chó, ăn chó cả lông, đen như chó mực, chó

phản chủ, v.v. Do vậy, chúng ta không thể thực hiện được việc dịch nghĩa thành

ngữ “like a dog with two tails” bằng một thành ngữ tương đương trong tiếng Việt

sao cho có cùng một ý niệm ẩn dụ hay hình ảnh biểu trưng, và hình tượng “dog”

trong tiếng Anh và “chó” trong tiếng Việt nêu trên là một ví dụ điển hình. Từ đó

nhiệm vụ đặt ra cho dịch giả là bên cạnh việc hiểu rõ nội dung ý nghĩa và chức năng

của thành ngữ cũng như nét đặc trưng văn hóa của dân tộc trong ngôn ngữ nguồn,

174

người dịch phải có khả năng dịch tương đương sang ngôn ngữ đích để có thể dịch

một cách hợp lý những thành ngữ không có sự trùng khít về ẩn dụ ý niệm hay hình

tượng ẩn dụ.

(70) When his parents surprised him with the present he wanted so badly,

Andrew was like a dog with two tails.

Khi ba mẹ của Andrew tạo sự ngạc nhiên cho nó bằng một món quà mà

cậu bé vô cùng thèm khát, cậu bé đã mừng rơn.

Tuy nhiên, khi xem xét các thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc vui, chúng

ta cũng có thể tìm thấy những thành ngữ có nét nghĩa tương tự với thành ngữ “like a

dog with two tails” nhưng sử dụng miền nguồn ẩn dụ với mô hình văn hóa đặc

trưng dân tộc Việt, chẳng hạn “hí hửng như ngô được vàng, như (nắng) hạn (hán)

gặp mưa rào, vui như (mở, trẩy) hội, vui như sáo, v.v.” Việc tiến hành thu thập và

phân tích ẩn dụ ý niệm cảm xúc ở chương 2 đã giúp tăng khả năng lựa chọn những

thành ngữ tương ứng trong cả hai ngôn ngữ Việt-Anh, tạo hiệu quả tốt hơn trong

bản dịch.

Khi biểu thị cảm xúc yêu, thành ngữ tiếng Anh “wear one’s heart on one’s

sleeve” (tạm dịch: đeo trái tim trên tay áo) với ý nghĩa là “để lộ tình cảm của mình,

nhất là tình yêu đối với ai” sử dụng hình tượng trái tim (heart) khá độc đáo. Nguồn

gốc ra đời của thành ngữ này phần nào giải thích cho sự độc đáo của nó.

Hendrickson [84, tr.613] cho rằng có lẽ William Shakespeare (1564-1616), một nhà

văn, nhà thơ, nhà viết kịch người Anh vĩ đại nhất trên thế giới, là người đã kiến tạo

nên thành ngữ này trong tác phẩm Othello (1604): “I will wear my heart upon my

sleeve / For daws [crows] to peck at …” (Tôi sẽ đặt trái tim mình vào cổ tay áo/ Để

cho quạ mổ vào…). Một giả thuyết khác cho rằng thành ngữ này có thể có nguồn

gốc từ các giải đấu thời Trung cổ, khi các thí sinh chưng diện các dải ruy-băng mà

những người phụ nữ họ yêu đã tặng họ để đeo trên tay áo trong các cuộc thi. Đó

cũng là một hình thức thể hiện tình yêu của họ dành cho người yêu. Tác giả của

quyển từ điển [40] đã dịch thành ngữ này thành “ruột để ngoài da”, có nghĩa “tả tính

người thật thà, trong bụng nghĩ gì đều nói ra hết” [53, tr.838]. Theo chúng tôi, cụm

175

từ dịch tương đương tiếng Việt này là hợp lý cho thành ngữ tiếng Anh “wear one’s

heart on one’s sleeve” vì khi phân tích nghĩa ẩn dụ của hai thành ngữ, chúng ta có

thể phát hiện điểm chung của chúng về phương diện ẩn dụ và tri nhận văn hóa, mặc

dù về biểu thức từ vựng là khác nhau.

(71) Sally’s nervous boyfriend wore his heart on his sleeve when he asked

Sally to marry him.

Anh bạn trai của Sally, thuộc loại người ruột để ngoài da, đã căng thẳng

khi anh ấy đề nghị Sally cưới anh ta.

3.3.2.5. Khảo sát phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh

sang tiếng Việt theo phương pháp dịch diễn giải

Phần lớn các tổ hợp thành ngữ biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ,

yêu trong tiếng Anh được diễn giải nghĩa sang tiếng Việt tương ứng. Chúng ta thử

quan sát 5 ví dụ minh họa của phương pháp dịch diễn giải thành ngữ biểu thị năm

loại cảm xúc từ khối ngữ liệu khảo sát.

- Be in one’s element: Ở trong một tình huống quen thuộc, rất thích thú và có

khả năng làm việc tốt [47]; làm việc gì bạn thích và làm tốt việc đó, nhất là với

những người cũng giống như bạn [49]; ở trong môi trường quen thuộc hay ưa

thích; làm những gì người ta sở trường và ưa thích [16].

- Add insult to injury: Làm cho tình trạng vốn tồi tệ trở nên tồi tệ hơn; hoặc

gây thương tổn thêm cho người khác vốn đã bị tổn thương rồi [47]; làm tổn thương

tình cảm hoặc gây tổn hại cho người đã bị tổn thương rồi [49]; làm tình huống

càng thêm tệ hại [28]; làm cho mối quan hệ với môt người khác càng tệ hơn bằng

cách làm mếch lòng cũng như thật sự gây tổn thương cho người đó [16].

- A red rag to a bull: Hành động hay lời nói nào đó mà chắc chắn sẽ làm cho

ai nổi giận, điên tiết lên hoặc mất bình tĩnh [47]; chắc chắn làm cho người nào đó

hết sức giận dữ hoặc thậm chí trở nên hung bạo [49]; có thể gây ra sự phẫn uất,

giận dữ, bạo lực, … mạnh mẽ [16].

- At one’s wit's end: Hết lý, hết phương cách, không biết nghĩ thế nào [40];

hết sức lo lắng về một vấn đề vì đã thử qua tất cả các giải pháp nghĩ ra được nhưng

176

vẫn chưa đạt được kết quả - tình trạng bế tắc [47]; quá bối rối hoặc lo lắng đến nỗi

bạn không biết nên làm gì; vô phương kế [49]; suy nghĩ nát óc; hết ý kiến; hết

phương (để giải quyết một vấn đề) [28]; không biết làm hay nói gì tại vì lo lắng hay

tuyệt vọng [16].

- Head over heels in love (with sb): Yêu thương ai say đắm đến mức không

quan tâm đến bất cứ chuyện gì khác [47]; yêu nhau thắm thiết [28].

Phương pháp dịch diễn giải đã không giữ lại hình ảnh ẩn dụ của thành ngữ

gốc, làm mất đi ẩn dụ tính trong các thành ngữ tiếng Anh. Chẳng hạn như thành ngữ

tiếng Anh “a red rag to a bull” biểu thị ý nghĩa “chọc giận ai đó” sử dụng hình ảnh

ẩn dụ tấm vải đỏ và con bò tót trong trận đấu bò của đấu sĩ. Tuy nhiên, lối dịch diễn

giải của những quyển từ điển khảo sát đã bỏ qua hình ảnh ẩn dụ tấm vải đỏ và con

bò tót.

Tính không tương đương hoàn toàn trong khi chuyển dịch nghĩa thành ngữ từ

tiếng Anh sang tiếng Việt cũng cần được xét đến. Một vấn đề khá rõ ràng là không

phải mọi từ ngữ trong tiếng Anh (cũng như trong bất kỳ thứ ngôn ngữ nào khác)

đều có từ tương đương trong tiếng Việt. Do không bị bó buộc phải khiên cưỡng tạo

ra từ tương đương rất ép như trong trường hợp biên soạn một cuốn từ điển đối

chiếu, các soạn giả bỏ qua những trường hợp mà tiếng Việt không có từ tương

đương để người sử dụng tự sáng tác lấy trong hoàn cảnh thích hợp [51]. Do vậy, các

soạn giả, bên cạnh việc sử dụng các chiến lược dịch khác nhau, vẫn ứng dụng chiến

lược dịch diễn giải vào việc biên soạn thành ngữ ghi trong từ điển song ngữ Anh-

Việt. Trong việc biên dịch thành ngữ, cụ thể trong phạm vi thành ngữ biểu thị cảm

xúc tiếng Việt và tiếng Anh, việc dịch diễn giải là cần thiết vì qua những định nghĩa

có phần dịch diễn giải, độc giả sẽ hiểu rõ hơn các khái niệm về văn hóa, tộc người,

về truyền thống ứng xử ẩn chứa trong cái vỏ âm thanh tiếng nước ngoài, đồng thời

có thể định hướng đúng nghĩa cơ bản của từ tiếng Anh, do đó loại bỏ được tính mập

mờ khi chọn từ tiếng Việt tương đương.

Qua các trường hợp khảo sát nguồn ngữ liệu có sử dụng chiến lược dịch diễn

giải, chúng ta dễ nhận thấy ngữ cảnh mà thành ngữ tiếng Anh có thể được sử dụng

177

đã được diễn giải bằng tiếng Việt, giúp người tra cứu hiểu rõ hơn ngữ cảnh ấy, từ đó

sử dụng chính xác hơn trong các ngữ cảnh giao tiếp bằng tiếng Việt mà họ muốn áp

dụng. Tuy nhiên, vấn đề cần nhìn nhận ở đây là, mặc dù dịch diễn giải có lợi ích là

tường minh ngữ cảnh giao tiếp, nhưng có thể xảy ra tình huống rằng người sử dụng

khó có thể lựa chọn biểu thức tương đương trong tiếng mẹ đẻ để ứng dụng vào dịch

thuật cho tốt hơn. Chẳng hạn, trong ví dụ “He's in his element when he's doing

woodworking”, người ta có thể dịch dựa theo phần giải nghĩa đã ghi trong từ điển

song ngữ là: “Anh ấy đang trong môi trường ưa thích khi anh ta làm đồ gỗ.” Câu

dịch này nghe không được tự nhiên, dù rằng người nghe có thể suy đoán được ít

nhiều ý nghĩa của “in his element”. Thay vào đó, chúng ta có thể dịch câu này như

sau: “Anh ấy như cá gặp nước khi anh ta làm đồ gỗ.” Với cách vận dụng thành ngữ

hợp lý trong ngữ cảnh này, người sử dụng ngôn ngữ sẽ làm cho biểu thức lời nói trở

nên tự nhiên với người bản ngữ hơn, và thành ngữ vận dụng đúng cách cũng sẽ trở

nên bóng bẩy hơn. Chúng tôi rất đồng tình với ý kiến của Hirsch và cộng sự trong

quyển “Tân từ điển về hiểu biết văn hóa” [86, tr.59] khi đề cập đến thành ngữ đã

cho rằng cũng như mỗi cá nhân đều có chữ ký đặc trưng và duy nhất của mình, thì

mỗi ngôn ngữ cũng có thành ngữ đặc trưng và duy nhất của riêng nó. Trước tiên

phải hiểu rằng từ “idiom” (thành ngữ) có gốc từ nguyên tiếng Hy Lạp là “idio”, có

nghĩa là một chữ ký duy nhất. Do vậy, mỗi ngôn ngữ chứa đựng những cụm từ mà

khi dịch theo kiểu từ đối từ (nghĩa nguyên văn) sang ngôn ngữ khác có thể sẽ trở

nên hoặc vô nghĩa hoặc khó hiểu.

Nói tóm lại, từ việc dựa vào miền ẩn dụ ý niệm mà thành ngữ tiếng Anh

chứa đựng, chúng ta có thể truy tìm một thành ngữ hay ngữ cố định tương ứng cho

chúng thông qua phân tích ẩn dụ ý niệm cảm xúc được trình bày trong chương 2.

3.4. Những đề xuất cho việc dịch thành ngữ biểu thị ẩn dụ ý niệm cảm xúc

tiếng Anh sang tiếng Việt

3.4.1. Một vài đề xuất cụ thể qua cuộc khảo sát

Nội dung trước trình bày kết quả khảo sát thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm

loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu được chuyển dịch sang tiếng Việt từ khối ngữ

178

liệu rút trích từ sáu quyển từ điển thành ngữ song ngữ Anh-Việt. Ở phần này,

chúng tôi có một vài đề xuất cho các trường hợp cụ thể khi xem xét năm phương

thức dịch thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc sang tiếng Việt.

Trong phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh sang tiếng

Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức ngôn ngữ như đã trình

bày ở tiểu mục 3.3.2.1 của chương 3, qua khảo sát 25 thành ngữ tiếng Anh theo

phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh sang tiếng Việt sử dụng

cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức ngôn ngữ, chúng tôi thấy có 3 thành

ngữ tiếng Anh “on cloud nine”, “beat one’s breast” và “rub salt in the wound” có

thể được chuyển nghĩa sang tiếng Việt bằng thành ngữ tiếng Việt tương đương

thay vì sử dụng ngữ cố định, như bảng biểu dưới đây.

Thành ngữ cảm xúc tiếng Anh

1. On cloud nine 2. Beat one’s breast 3. Rub salt in the wound Thành ngữ cảm xúc tiếng Việt tương ứng được đề xuất Lên tận mây xanh Nghe như đấm vào tai Ruột đau (xát) như muối Đau như xát muối

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị niềm vui “on cloud nine” (trên tầng mây thứ

chín) được 3 từ điển dịch là “Đến chín tầng mây (4), Trên chín tầng mây [16],

Sướng như ở chín tầng mây [28]”. Ba bản dịch này biểu hiện tường minh ý nghĩa

của thành ngữ này. Thành ngữ tiếng Anh “on cloud nine” có hai giả thuyết giải

thích về sự ra đời của nó. Theo giả thuyết phương Tây, “cloud nine” là cụm từ

được dùng đầu tiên bởi Cục thời tiết của Mỹ (the US Weather Bureau) vào năm

1950, theo đó các nhà khí tượng học phân loại mây theo con số, và số chín (9) là

tầng mây cao nhất nơi hiện tượng mây tích mưa trông rất đẹp xảy ra [90, tr. 613].

Một giả thuyết khác của phương Đông là từ đạo Phật khi cho rằng “cloud nine”

(tầng thứ chín) là cõi niết bàn, một trong những cảnh giới cao nhất của quá trình

được khai sáng trở thành đức Bồ Tát, người tu hành đắc đạo, đức độ cao dày, có

lòng từ bi bác ái, cứu nhân độ thế, phổ độ chúng sinh. Do vậy nó được dùng với ý

nghĩa là “rất vui”.

179

(72) Amy was on cloud nine when she passed the exam.

(Amy như đang ở chín tầng mây khi cô ấy vượt qua kỳ thi.)

Tuy nhiên, trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt, chúng ta có thể tìm thấy một

thành ngữ có cùng miền ẩn dụ: “lên tận mây xanh”. Mây xanh là khoảng không trên

trời cao, nơi chỉ nhìn thấy một màu xanh. Lên tận mây xanh tức là người nào đó

được nâng đến một khoảng không trên trời cao, cao hơn so với trạng thái thường

thấy của một người bình thường. Từ đó nghĩa biểu trưng của thành ngữ này là “tâng

bốc, tán dương, ca ngợi hết mức làm cho sung sướng, ngất ngây” [52] hay “chỉ sự

sung sướng tột cùng khi người ưa nịnh được người khác hết lời tâng bốc, tán dương

không tiếc lời” [3]. Nếu chỉ xét việc sử dụng từ của thành ngữ này so với “on cloud

nine”, chúng ta dễ nhận ra sự tương đương về mặt từ vựng (cloud / mây xanh),

nhưng nếu xét về mặt dụng học thì nghĩa của hai thành ngữ không tương đương

nhau. Cả hai thành ngữ đều biểu thị cảm xúc vui tột độ, nhưng thành ngữ tiếng Việt

“lên tận mây xanh” biểu hiện hành vi tâng bốc, xu nịnh, khen ngợi.

Thành ngữ tiếng Anh biểu thị nỗi buồn “rub salt in the wound” (xát muối vào

vết thương), thông qua phép nghiệm thân cho rằng vết thương khi bị xát muối vào

sẽ gây nên cơn đau thể xác rất nhiều, từ đó liên tưởng đến nỗi buồn tinh thần cao

độ. Thành ngữ này được nhóm tác giả quyển từ điển [49] dịch thành “xát muối vào

vết thương”. Lối dịch này chủ ý nêu được nghĩa cơ sở của thành ngữ, tuy nhiên

nếu tác giả giới thiệu thành ngữ có nghĩa tương đương trong tiếng Việt thì giá trị

biểu cảm và ý nghĩa văn hóa của thành ngữ sẽ được người sử dụng đánh giá cao.

Trong tiếng Việt, chúng ta có thành ngữ “ruột đau (xót) như xát muối” có thể có ý

nghĩa tương tự. Như vậy, việc cung cấp một thành ngữ của ngôn ngữ đích có biểu

hiện ý niệm ẩn dụ tương tự cho thành ngữ của ngôn ngữ nguồn sẽ giúp cho người

học thêm yêu mến tiếng mẹ đẻ của mình, nhận thấy được cơ sở lý luận phổ quát và

những đặc trưng cơ bản trong việc nghiên cứu và học tập thành ngữ.

Trong phương thức dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh sang tiếng

Việt sử dụng cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức ngôn ngữ như đã

trình bày ở tiểu mục 3.3.2.2 của chương 3, khi xét trường hợp (1) cùng ẩn dụ ý

180

niệm cảm xúc nhưng sử dụng thành ngữ không tương đương nghĩa nguyên văn,

chúng tôi không ghi nhận tổ hợp thành ngữ tiếng Anh nào trong khối ngữ liệu khảo

sát của luận án được các dịch giả dịch sang tiếng Việt bằng phương thức sử dụng

thành ngữ tiếng Việt tương đương về nghĩa biểu trưng. Điều này cho thấy một thực

trạng khi chuyển dịch nghĩa thành ngữ, các dịch giả chưa quan tâm đúng mức đến

tính tương đương về nghĩa biểu trưng ẩn dụ cảm xúc của thành ngữ. Do vậy, chúng

tôi cho rằng kết quả phân tích đặc điểm ẩn dụ ý niệm cảm xúc trong thành ngữ

tiếng Việt có so sánh với thành ngữ tiếng Anh tương ứng được trình bày ở chương

2 sẽ là nguồn tham khảo cần thiết cho cá dịch giả nhằm tìm ra thành ngữ tiếng Việt

tương đương trong khi dịch thành ngữ tiếng Anh.

Thành ngữ vốn là nơi lưu giữ những trầm tích văn hóa đặc sắc, những nét

truyền thống về cuộc sống sinh hoạt, lao động, học tập của con người sử dụng ngôn

ngữ ấy. Chính vì thế có những thành ngữ khi chuyển dịch sang tiếng Việt nếu dịch

sát từng từ sẽ trở nên xa lạ hoặc thậm chí vô nghĩa với người Việt [14, tr.72]. Qua

phân tích phương thức dịch diễn giải như đã trình bày ở tiểu mục 3.3.2.5 của

chương 3, chúng tôi có đề xuất rằng sau phần diễn giải hay tường giải ý nghĩa hoặc

cách dùng của một thành ngữ biểu thị cảm xúc tiếng Anh, tác giả cần chêm vào

thành ngữ hoặc biểu thức cố định mà được xem là gần nghĩa hoặc có cùng ý niệm

với thành ngữ của ngôn ngữ nguồn. Điều này giúp cho người sử dụng vẫn có thể

hiểu trọn vẹn nghĩa của thành ngữ thông qua phần dịch diễn giải ngắn gọn, nhưng

vẫn có thể tra cứu được biểu thức ngôn ngữ tương đương. Hiển nhiên, chúng ta

không thể tìm được thành ngữ của ngôn ngữ đích (trong trường hợp này là tiếng

Việt) có thể vừa khít về ngữ nghĩa và cách dùng với bản gốc (tiếng Anh) vì hai

ngôn ngữ thuộc hai ngữ hệ khác nhau, thuộc hai nền văn hóa khác nhau, nhưng sự

gợi mở của soạn giả trong những trường hợp này là cần thiết.

3.4.2. Một số đề xuất về việc ứng dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc vào quy trình

dịch thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt

Từ những nội dung khảo sát, phân loại và phân tích các bản dịch tiếng Việt của

các thành ngữ tiếng Anh biểu thị cảm xúc từ sáu quyển từ điển thành ngữ song ngữ

181

Anh-Việt đã nêu, chúng tôi xin được góp một vài đề xuất về việc ứng dụng ẩn dụ ý

niệm cảm xúc vào quy trình dịch thành ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt.

 Các soạn giả từ điển song ngữ nên nghiên cứu và vận dụng lý thuyết ẩn dụ ý

niệm của ngữ nghĩa học tri nhận với các nguyên lý cơ bản, các mô hình ẩn dụ ý

niệm và lược đồ hình ảnh cụ thể để có thể ứng dụng những thành quả mà khung lý

thuyết này đã mang lại cho người sử dụng ngôn ngữ. Kết quả phân tích và nhận

định chi tiết về mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc của thành ngữ tiếng Việt và tiếng

Anh được trình bày trong chương 2 sẽ là một tham khảo hữu ích làm sáng rõ thêm

những mô hình ẩn dụ và mô hình văn hóa ẩn sau những thành ngữ loại này.

 Khi biên soạn từ điển dạng này, ngoài những thông tin thông thường của một

cuốn từ điển thành ngữ song ngữ, soạn giả cần bổ sung thông tin về các sắc thái ý

nghĩa theo các phong cách khác nhau của từ trong tiếng Anh và tiếng Việt, ngoài

những từ ngữ tương đương còn có phần giải thích nghĩa bằng tiếng Việt. Biên soạn

từ điển theo hướng này sẽ tạo nên một loại từ điển hỗn hợp đối dịch - giải thích.

Phần đối dịch giúp người sử dụng chọn lựa được thành ngữ hay biểu thức phù hợp

trong ngôn ngữ đích, còn phần giải thích giúp người sử dụng hiểu tường minh ngữ

cảnh mà thành ngữ ấy xuất hiện. Trong đó, phần đối dịch được chú trọng hơn phần

giải thích.

 Dịch thành ngữ, đặc biệt thành ngữ biểu thị cảm xúc, đòi hỏi các bước của

quy trình dịch được thực hiện chặt chẽ, trong đó phải lưu ý đến việc chuyển dịch ẩn

dụ ý niệm cảm xúc, xem ra đây là một công việc rất khó khăn. Dịch giả trước tiên

phải xác định một bản dịch tốt phải có giá trị tương đương với nguyên bản về mọi

phương diện, nội dung cũng như hình thức. Theo Cao Xuân Hạo [25], tính tương

đương của một bản dịch so với nguyên bản có thể phân tích thành hai bình diện:

bình diện nhận thức và bình diện xúc cảm. Theo đó, tính tương đương trên bình

diện nhận thức là kết quả của việc sử dụng những yếu tố phụ trợ về khái niệm mà

người dịch đưa vào bản dịch để bổ sung cho ngữ nghĩa của nguyên bản. Trên bình

diện xúc cảm, không thể có một lý thuyết chung để xác định mức độ tương đương

về tính xúc cảm giữa một bản dịch với nguyên bản, vì sự khác nhau giữa các ngôn

ngữ có thể nói là muôn hình vạn trạng.

182

 Do vậy, trong trường hợp dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc từ tiếng Anh sang

tiếng Việt, dịch giả có thể cung cấp một phép ẩn dụ tương tự hay khác biệt trong

văn bản đích, hoặc sử dụng một phép ẩn dụ với thông tin bổ sung trong văn bản

đích. Bên cạnh đó, sự tương ứng trong cách vận dụng giữa ẩn dụ ý niệm và biểu

thức ẩn dụ sẽ đặt ra cho dịch giả một nhiệm vụ quan trọng là lựa chọn cách dịch tốt

nhất, và dĩ nhiên điều này còn phụ thuộc phần lớn vào kinh nghiệm luận của dịch

giả.

 Thành ngữ có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa biểu trưng. Trong hai loại nghĩa

này, nghĩa biểu trưng mới là nghĩa đích thực của thành ngữ. Chính trong loại nghĩa

này, thành tố văn hóa của mỗi dân tộc được thể hiện khá rõ ràng. Do đó, có thể nói

nghĩa biểu trưng của thành ngữ cũng chính là nghĩa ẩn dụ của nó. Việc chuyển dịch

nghĩa ẩn dụ này của thành ngữ chính là công việc cốt yếu của dịch giả làm sao phải

đạt được ba tiêu chuẩn tín, đạt, nhã trong dịch thuật để đánh giá chất lượng bản

dịch, mà thành tố văn hóa với các mô hình tương ứng lại là cái bản sắc riêng gắn

liền với ngôn ngữ thì không thể nào chuyển dịch được. Điều này là rào cản lớn đối

với dịch giả khi chuyển dịch nghĩa của thành ngữ từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ

đích. Thế nên, để đảm bảo việc chuyển dịch nghĩa biểu trưng của thành ngữ được

hiệu quả, chúng tôi đề nghị quy trình dịch thành ngữ ẩn dụ cảm xúc với các công

đoạn sau đây:

(1) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của thành ngữ

nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn, nghĩa là phải nắm bắt chính xác nghĩa biểu

trưng của thành ngữ và hiểu rõ kết cấu từ vựng tổ hợp nên thành ngữ;

(2) Phân tích thành ngữ nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn để hiểu sâu mô

hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc mà thành ngữ ấy chứa đựng. Để thực hiện công đoạn

này dễ dàng hơn, nội dung chương 1 và chương 2 của luận án có thể là một nguồn

tham khảo hữu ích giúp người dịch phân tích và hiểu rõ cơ chế hình thành ẩn dụ ý

niệm cảm xúc cũng như các miền nguồn cơ sở và đặc trưng cho thành ngữ tiếng

Việt và tiếng Anh;

(3) Sử dụng các thủ pháp dịch thành ngữ, như trong chương 3 đã phân tích 5

phương thức dịch thành ngữ, ưu tiên lựa chọn phép ẩn dụ tương tự cho thành ngữ

183

nguyên bản, nếu không tìm thấy phép ẩn dụ tương tự, thì cung cấp một phép ẩn dụ

khác;

(4) Tìm kiếm trong ngôn ngữ đích phần dịch nghĩa tương đương với nguyên

bản, đảm bảo không làm mất đi hay thay đổi nghĩa biểu trưng của thành ngữ nguyên

bản, ưu tiên lựa chọn biểu thức tương đương trong ngôn ngữ đích là thành ngữ hay

ngữ cố định sao cho phù hợp cả về nghĩa ẩn dụ, mô hình văn hóa và văn cảnh của

phát ngôn.

3.5. Tiểu kết

Qua khảo sát sáu quyển từ điển song ngữ Anh-Việt với số lượng 339 đơn vị

thành ngữ tiếng Anh theo năm loại chiến lược dịch thuật đã nêu, kết quả thống kê

tần suất sử dụng và tỉ lệ phân phối của từng chiến lược dịch đối với việc chuyển ngữ

thành ngữ tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu như sau:

Ví dụ minh họa Chiến lược dịch thành ngữ

Tần suất sử dụng 29 Tỉ lệ % 8,6 %

Chiến lược 1 Cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc và cùng biểu thức ngôn ngữ

17 5,0 %

Chiến lược 2 Cùng ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức ngôn ngữ

0 0 % GIẬN LÀ LỬA: Add fuel to the flame / Đổ thêm dầu vào lửa VUI LÀ RỜI KHỎI MẶT ĐẤT: walk on air/ đi trên mây không tìm thấy

Chiến lược 3 Khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng cùng biểu thức ngôn ngữ

35 10,3 %

Chiến lược 4 Khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc và khác biểu thức ngôn ngữ

Chiến lược 5 Dịch diễn giải 257 76,1 %

YÊU LÀ LỬA: carry a torch for / YÊU LÀ SỰ CHE DẤU: yêu vụng nhớ thầm A red rag to a bull/ Hành động hay lời nói nào đó mà chắc chắn sẽ làm cho ai nổi giận, điên tiết lên hoặc mất bình tĩnh

184

Có thể nói, kết quả khảo sát và phân tích các chiến lược vận dụng ẩn dụ ý

niệm cảm xúc trong dịch nghĩa thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt, giới hạn năm

loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu, chỉ ra rằng mức độ khó khăn của việc dịch

thành ngữ mà dịch giả phải đối mặt sẽ gia tăng theo trình tự sau đây: (chiến lược 5)

Dịch theo lối diễn giải, không sử dụng ý niệm ẩn dụ cảm xúc, (chiến lược 2) Cùng

ẩn dụ ý niệm cảm xúc nhưng khác biểu thức ngôn ngữ, (chiến lược 1) Cùng ẩn dụ ý

niệm cảm xúc và cùng biểu thức ngôn ngữ, (chiến lược 4) Khác ẩn dụ ý niệm cảm

xúc và khác biểu thức ngôn ngữ, và (chiến lược 3) Khác ẩn dụ ý niệm cảm xúc

nhưng cùng biểu thức ngôn ngữ.

Như chúng ta cũng đã thấy từ kết quả khảo sát, không kể đến chiến lược 5

khi dịch thành ngữ tiếng Anh sang tiếng Việt bằng cách diễn giải nghĩa nguyên văn

của chúng mà không vận dụng ẩn dụ ý niệm cảm xúc, thì sự phong phú về khả năng

dịch tương đương thành ngữ biểu thị cảm xúc từ tiếng Anh sang tiếng Việt chính là

ở chiến lược 2, đó là hai nền văn hóa cùng chung các ý niệm ẩn dụ cảm xúc cơ sở

nhưng lại biểu thị chúng bằng các biểu thức ẩn dụ khác nhau. Việc đồng sở hữu các

ý niệm ẩn dụ cảm xúc nghĩa là có chung cách thức nhìn nhận thế giới của hai dân

tộc. Việc hiểu rõ những khác biệt là quan trọng trong khi so sánh đối chiếu hai ngôn

ngữ, nhưng càng quan trọng hơn khi tìm thấy những tương đồng trong việc nhận

diện ẩn dụ ý niệm cảm xúc của chúng. Hai dân tộc, tuy sử dụng hai ngữ hệ khác

nhau và hai nền văn hóa khác nhau, nhưng lại tương đồng nhau về khả năng cảm

nhận thế giới chung quanh. Một bên là tiếng Việt - ngôn ngữ đơn lập và phân tích

tính đến triệt để, còn một bên là tiếng Anh - vốn thuộc loại hình khuất chiết hay

biến hình và tính tổng hợp cao; một dân tộc sở hữu nền văn hóa nông nghiệp mang

tính chất trọng tĩnh với lối tư duy tổng hợp và một bên có nền văn hóa du mục mang

tính chất trọng động đi theo lối tư duy phân tích [55b]. Đây là nền tảng cốt yếu để

có được một thái độ cởi mở nhằm tăng cường sự hiểu biết các nền văn hóa và các

dân tộc khác nhau.

185

KẾT LUẬN

Với cấu trúc gồm ba chương, luận án đã đi sâu nghiên cứu và phân tích ẩn

dụ ý niệm cảm xúc, giới hạn trong năm loại cảm xúc cơ bản vui-buồn-giận-sợ-yêu,

biểu đạt trong thành ngữ tiếng Việt và thành ngữ tiếng Anh dưới góc nhìn ngữ

nghĩa học tri nhận. Kết quả của luận án được thể hiện ở các vấn đề sau đây:

1. Về mặt lý luận, có thể khẳng định ngữ nghĩa học tri nhận coi trọng sự tri

nhận trong nghiên cứu nghĩa, đề cao sự tri giác và năng lực tư duy, phản ánh đầy đủ

thế giới khác quan cùng với nhân tố chủ thể con người dưới lăng kính ngôn ngữ ở

các cấp độ và bình diện phân tích, miêu tả các hiện tượng ngôn ngữ. Với bốn

nguyên lý chủ đạo bao gồm: (1) luận điểm nghiệm thân, (2) cấu trúc ý niệm, (3)

biểu hiện nghĩa mang tích bách khoa, và (4) quá trình ý niệm hóa trong kiến tạo

nghĩa, ngữ nghĩa học tri nhận đã đóng góp và làm sáng rõ lý thuyết ẩn dụ ý niệm

khi khẳng định rằng ẩn dụ thuộc về phạm trù nhận thức, do vậy cần phân tích nó

thông qua mô hình ánh xạ hay lược đồ hình ảnh, và dựa vào kinh nghiệm luận.

2. Ẩn dụ ý niệm có thể được xem là thành tựu nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ

học theo trường phái ngôn ngữ học tri nhận, hay ở phạm vi hẹp hơn, ngữ nghĩa học

tri nhận. Ẩn dụ ý niệm có thể được chia thành hai cấp độ: ẩn dụ ý niệm cấp độ tổng

loại, xuất phát từ trải nghiệm chủ quan của con người về thế giới khách quan, và ẩn

dụ ý niệm cấp độ cụ thể, là những mô hình ẩn dụ tương ứng với các mô hình văn

hóa đặc trưng của những người nói ngôn ngữ đó. Trong mối quan hệ bao quát và

rộng lớn đó, ẩn dụ ý niệm cảm xúc được cho là một loại ẩn dụ mang tính đặc trưng

và được biểu hiện ở các cấp độ ngôn ngữ khác nhau, nhưng trong phạm vi của luận

án này, nó được nghiên cứu ở cấp độ thành ngữ. Ẩn dụ ý niệm cảm xúc xuất phát từ

hệ thống ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN miêu tả các ý niệm hóa ẩn dụ của mối quan

hệ ý niệm giữa hai hay nhiều thực thể, bao gồm các sự kiện và sự thay đổi trạng

thái. Hệ thống ẩn dụ CẤU TRÚC SỰ KIỆN tạo tiền đề lý tưởng cho sự xuất hiện

CẤU TRÚC Ý NIỆM CẢM XÚC và các mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc liên quan.

Theo đó, cấu trúc ý niệm cảm xúc bao gồm CẢM XÚC LÀ VỊ TRÍ, CẢM XÚC

186

LÀ LỰC VẬT LÝ, NHỮNG PHẢN ỨNG CẢM XÚC LÀ NHỮNG CHUYỂN

ĐỘNG ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI YẾU TỐ NGOẠI VI. Bên cạnh đó, lý thuyết

lược đồ hình ảnh và mô hình ẩn dụ VẬT CHỨA cũng tham gia vào việc kiến tạo

nên các ý niệm phức tạp hơn, trong đó có ẩn dụ ý niệm cảm xúc.

3. Ngôn ngữ và văn hóa là hai phạm trù liên hệ khắng khít và bổ sung cho

nhau. Ngôn ngữ phản ánh mô hình văn hóa của người nói ngôn ngữ ấy, và văn hóa

tham gia tích cực vào việc kiến tạo nên các biểu thức của ngôn ngữ. Văn hóa của

một dân tộc được biểu hiện bằng các mô hình văn hóa đặc trưng, mang dấu ấn nhận

thức sâu sắc của từng cá thể thuộc dân tộc ấy, trải qua một thời gian lâu xa để có

thể hình thành nên một hệ thống các mô hình nhận thức tư duy của cả một dân tộc.

Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ đồng thời là một thành tố văn hóa nên nó mang

trong mình những đặc trưng văn hóa dân tộc, biểu tượng dân tộc. Ở phương diện

này, thành ngữ được coi như một thực thể văn hóa, trong đó yếu tố làm bộc lộ rõ

nhất đặc trưng văn hóa dân tộc là nét nghĩa, tàng trữ phản ánh những mối liên

tưởng với hiện thực đời sống của mỗi cộng đồng. Kết quả phân tích đặc điểm ẩn dụ

ý niệm năm loại cảm xúc của thành ngữ tiếng Việt trong thế so sánh với thành ngữ

tiếng Anh tương ứng đã chỉ ra rằng hai dân tộc tuy cách xa về mặt địa lý, nhưng

vẫn có những điểm tương đồng về cách thức kiến tạo ngôn ngữ do chịu sự chi phối

của tính phổ quát khi tri nhận thế giới khách quan. Bên cạnh đó, dĩ nhiên sự khác

biệt về văn hóa cũng để lại những trầm tích đặc trưng khác nhau của hai ngôn ngữ.

4. Ẩn dụ biểu thị cảm xúc chủ yếu dựa vào tính nghiệm thân và trải nghiệm cơ

thể nên tính phổ quát rất cao. Luận án đã khảo sát 17 miền nguồn ẩn dụ ý niệm của

năm loại cảm xúc, trong đó có ba miền nguồn VẬT CHỨA, PHƯƠNG HƯỚNG,

LỰC TÁC ĐỘNG được vận dụng một cách phổ quát vào cả trong thành ngữ tiếng

Việt và tiếng Anh. Các miền nguồn cụ thể và đặc trưng cho từng loại cảm xúc còn

lại bao gồm ÁNH SÁNG, VẬT SỞ HỮU, GÁNH NẶNG, THIẾU SINH KHÍ,

LỬA, MÀU SẮC, SỰ KHÓ CHỊU CỦA CƠ THỂ, SỰ XÂM PHẠM, KẺ THÙ

ẨN NẤP, THỰC THỂ SIÊU NHIÊN, BÊNH TẬT, SỰ HỢP NHẤT, PHÉP

THUẬT, THỨC ĂN. Hầu hết các ẩn dụ ý niệm đều xuất hiện song song ở hai ngôn

187

ngữ. Tùy theo từng loại cảm xúc và cường độ của nó, ẩn dụ cũng được biểu hiện

theo mức độ tương ứng. Kinh nghiệm về cơ thể cũng là miền nguồn quan trọng tạo

cơ sở hình thành ẩn dụ cảm xúc. Theo đó, miền nguồn VẬT CHỨA để kiến tạo nên

thành ngữ biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng Anh sử dụng tên gọi các bộ

phận bên trong và các bộ phận bên ngoài cơ thể. Miền nguồn PHƯƠNG HƯỚNG

với hai hướng cơ bản HƯỚNG LÊN và HƯỚNG XUỐNG chủ yếu được vận dụng

nhằm xây dựng ẩn dụ cảm xúc của đối tượng thành ngữ. Bên cạnh đó, miền nguồn

LỰC TÁC ĐỘNG với hai thể loại nội lực, là những “sự kiện” bên trong như tư

tưởng, niềm tin và cảm xúc, và ngoại lực, là những “sự kiện” bên ngoài tác động

đến bản thể con người cũng được luận án xem xét thấu đáo thông qua mô hình sức

mạnh vật lý và sức mạnh thiên nhiên. Còn miền nguồn NHIỆT ĐỘ, thông qua lược

đồ hình ảnh LỬA cũng là miền nguồn đặc trưng biểu thị cảm xúc của thành ngữ.

Các miền nguồn ẩn dụ cụ thể cũng được luận án khảo sát phân tích.

5. Nhiều trường hợp ẩn dụ ý niệm trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu

thị cảm xúc đều được bao trùm bởi phương thức tư duy hoán dụ với hai loại quan

hệ hoán dụ NGUYÊN DO và TOÀN THỂ-BỘ PHẬN dựa trên nguyên lý nhập thân

và phản ứng sinh học của cơ thể. Tuy hoán dụ ý niệm không phải là phương thức

chủ yếu xem xét của luận án, nhưng nó lại có tương tác đến ẩn dụ ý niệm, tạo cơ sở

thiết lập nên nhiều mô hình ẩn dụ cảm xúc khác nhau.

6. Chúng ta có thể nhận thấy sự tương đồng trong biểu hiện ẩn dụ ý niệm cảm

xúc của thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh bộc lộ ở chỗ thành ngữ của cả hai ngôn

ngữ này đều sử dụng kinh nghiệm hiện thân và các mô hình ẩn dụ tri nhận phổ

quát, và các mô hình văn hóa chung của nhân loại. Tuy nhiên, thông qua kết quả

khảo sát ở chương 2 và chương 3, chúng ta có thể tìm thấy nhiều dữ liệu ngôn ngữ

của thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị năm loại cảm xúc vui, buồn, giận,

sợ, yêu minh họa cho sự khác biệt về mô hình văn hóa và tri nhận theo hướng thành

ngữ tiếng Việt ẩn chứa nhiều yếu tố nghĩa biểu trưng sáng tạo và tinh tế. Điều này

không hề phủ định tính sâu sắc và chặt chẽ của thành ngữ tiếng Anh, mà chỉ thông

188

qua phân tích khảo sát nguồn dữ liệu thì vấn đề này mới được cảm nhận rõ ràng

hơn.

7. Cơ chế hình thành nghĩa của thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh biểu thị

năm loại cảm xúc vui, buồn, giận, sợ, yêu chủ yếu dựa trên kinh nghiệm hiện thân

phổ quát trong sự tương tác với văn hóa và môi trường dẫn đến sự tương đồng và

khác biệt ở các ngôn ngữ. Do vậy, việc dịch thành ngữ cũng cần tuân thủ nguyên

tắc này. Theo chúng tôi, quy trình dịch thành ngữ ẩn dụ cảm xúc cần có bốn công

đoạn: (1) Phân tích những đặc trưng trong nội dung và hình thức của thành ngữ

nguyên bản trong ngôn ngữ nguồn; (2) Phân tích mô hình ẩn dụ ý niệm cảm xúc mà

thành ngữ nguyên bản chứa đựng; (3) Sử dụng các thủ pháp dịch thành ngữ nhằm

lựa chọn một phép ẩn dụ phù hợp; (4) Tìm kiếm trong ngôn ngữ đích một phần

dịch tương đương với nguyên bản, đảm bảo không làm mất đi hay thay đổi nghĩa

biểu trưng của thành ngữ nguyên bản. Dĩ nhiên, cách phân ra thành công đoạn như

trên không nhất thiết phải là một quá trình gồm những giai đoạn lần lượt kế tiếp

nhau theo trật tự thời gian. Khi dịch thành ngữ cần khai thác triệt để yếu tố phổ

quát và tính hệ thống, đồng thời cần chỉ ra nét đặc trưng tư duy văn hóa ở các

trường hợp khác biệt nhằm giúp cho người sử dụng ngôn ngữ có sự lựa chọn tốt

hơn về thành ngữ trong giao tiếp của họ.

8. Tri thức về ẩn dụ ý niệm cảm xúc được chọn lọc và trình bày trong luận án

này có thể được dùng làm tài liệu cho người dạy khi khai thác và tìm hiểu sâu hơn

những nội dung ngữ nghĩa phong phú và đa dạng của thành ngữ tiếng Anh để

truyền đạt cho người Việt khi học dịch thuật. Nhờ đó, khi đã hiểu được bức tranh ý

niệm của năm loại cảm xúc, người học các phân môn dịch thuật sẽ thuận lợi hơn

trong việc nắm bắt các kỹ thuật và thủ pháp dịch thành ngữ, cảm nhận được nét

đặc trưng mang tính tri nhận nghiệm thân trong cách biểu đạt cảm xúc cơ bản, xét

từ góc độ văn hóa và tư duy của người bản ngữ.

9. Việc nghiên cứu ẩn dụ ý niệm cảm xúc trên đối tượng thành ngữ tiếng Việt

và tiếng Anh từ bình diện ngữ nghĩa học tri nhận theo chúng tôi là một hướng tiếp

cận mới. Tuy nhiên, cũng cần có những công trình nghiên cứu mở rộng theo

189

hướng nghiên cứu khối liệu để tiếp tục xác định cụ thể hơn những cơ chế đặc trưng

của thành ngữ ở những phạm trù ý niệm khác. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu hệ

thống hoán dụ ý niệm cảm xúc trên đối tượng thành ngữ cũng là một hướng đi

mới, hứa hẹn nhiều khám phá quan trọng, có thể góp phần hữu ích về mặt ứng

dụng vào việc biên soạn từ điển thành ngữ song ngữ và giáo trình dịch thuật, phục

vụ cho việc giảng dạy ngôn ngữ ở các cấp học. Nghiên cứu tiếng Việt có so sánh

đối chiếu với các ngôn ngữ khác từ bình diện ngôn ngữ học tri nhận giúp ta hiểu

sâu hơn bản sắc của tiếng Việt, linh hồn của dân tộc Việt và sự phong phú, đa dạng

của các ngôn ngữ khác trên thế giới.

190

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Trần Thế Phi (2013), Thành ngữ tiếng Việt biểu thị cảm xúc buồn (đối sánh với

thành ngữ tiếng Anh), Tạp chí Khoa học xã hội, số 06(178)-2013 (tr.32-38),

TP.HCM.

2. Trần Thế Phi (2014), Từ ngữ và cách biểu thị cảm xúc trong tiếng Việt và tiếng

Anh, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 3(29), 5-2014 (tr.23-27), Hà

Nội.

3. Trần Thế Phi (2014), Biểu thị niềm vui trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh,

Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 21(6/2014) (tr.110-117), Đại học Sài Gòn,

TP.HCM.

4. Trần Thế Phi (2014), Chức năng ý niệm của thành ngữ biểu thị cảm xúc giận dữ

trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư,

số 5(31), 9-2014 (tr.40-45), Hà Nội,

5. Trần Thế Phi (2015), Dịch thành ngữ biểu thị cảm xúc vui – buồn từ tiếng Anh

sang tiếng Việt, Kỷ yếu hội thảo khoa học Ngữ học toàn quốc 2015 (tr.498-503),

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Trần Thế Phi (2016), Ẩn dụ ý niệm cảm xúc sợ trong thành ngữ tiếng Việt và

tiếng Anh, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 15(4/2016) (tr.30-35), Đại học Sài Gòn,

TP.HCM.

191

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

[1] Đào Duy Anh (2014), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa Thông tin, Hà

Nội.

[2] Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

[3] Việt Chương (2009), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, NXB Tổng

hợp Đồng Nai, Đồng Nai.

[4] Lê Văn Chưởng (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Trẻ, TP.HCM.

[5] Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[6] Trần Văn Cơ (2009), Khảo luận ẩn dụ tri nhận, NXB Lao động Xã hội, Hà

Nội

[7] Trần Văn Cơ (2011), Ngôn ngữ học tri nhận - Từ điển tường giải và đối chiếu,

NXB Phương Đông, Hà Nội.

[8] Nguyễn Đức Dân (1986), Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ- Sự vận dụng, Tạp

chí Ngôn ngữ, số 3, tr.1-11.

[9] Nguyễn Đức Dân (1996), Lô gich và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[10] Nguyễn Đức Dân (2011), Nỗi oan thì, là, mà, NXB Trẻ, TP.HCM.

[11] Ngô Anh Dũng (2008), Y lý y học cổ truyền, NXB Y học, Hà Nội.

[12] Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hoá Việt Nam đỉnh cao Đại Việt, NXB Hà

Nội, Hà Nội.

[13] Nguyễn Hồng Dương (2004) , Tôn giáo trong mối quan hệ văn hoá và phát

triển ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

[14] Hữu Đạt (2009), Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp tiếng Việt, NXB

Giáo dục VN, TP.HCM.

[15] Nguyễn Công Đức (1995), Bình diện cấu trúc hình thái-ngữ nghĩa của

thành ngữ tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ khoa học, Viện Ngôn ngữ học.

[16] Trần Phong Giao (2010), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Giao thông vận

tải, TP.HCM.

192

[17] Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

[18] Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

[19] Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

[20] Võ Kim Hà (2011), Ẩn dụ tiếng Việt nhìn từ lý thuyết nguyên mẫu (so sánh

với tiếng Anh và tiếng Pháp), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh – Đại học khoa học xã hội và nhân văn, TP.HCM.

[21] Hoàng Văn Hành (1998), “Hồn, vía, phách”, Ngôn ngữ và đời sống, số

1(27), tr.31.

[22] Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1999), Kể chuyện thành ngữ tục ngữ, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[23] Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

[24] Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt: Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ

nghĩa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[25] Cao Xuân Hạo (2006), “Suy nghĩ về dịch thuật”, truy cập từ

http://vnn.vietnamnet.vn/vanhoa/chuyende/2006/01/533571/ (10/3/2012)

[26] Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB Giáo dục, TP.HCM.

[27] Phan Thế Hưng (2010), Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên cứ

liệu tiếng Việt và tiếng Anh), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm Thành

phố Hồ Chí Minh, TP.HCM.

[28] Trần Vũ Khanh (2003), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thanh Niên,

TP.HCM.

[29] Nguyễn Văn Khi, Bạch Thanh Minh (2008), Từ điển thành ngữ Anh-Việt,

Viện Ngôn ngữ học, NXB Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM.

[30] Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2009), Phong cách học tiếng Việt, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

193

[31] Nguyễn Lân (1989), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam, NXB Tổng hợp

TP.HCM, TP.HCM.

[32] Hồ Lê (1995), Quy luật ngôn ngữ, Quyển 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[33] Trần Long (2006), Sự thể hiện tính biểu cảm của tiếng Việt về mặt từ vựng

và ngữ pháp (có so sánh với tiếng Anh), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Viện Khoa học

xã hội vùng Nam bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

[34] Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009), Thành ngữ tiếng Việt (tái bản lần 3),

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[35] Hoàng Diệu Minh (2002), So sánh cấu trúc-chức năng của thành ngữ và tục

ngữ tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện khoa học Xã hội tại TP.HCM.

[36] Vũ Đức Nghiệu (2007), Những đơn vị từ vựng biểu thị tâm lý, ý chí, tình cảm

có yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người trong tiếng Việt, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 23, tr.156-163, Hà Nội.

[37] Đức Nguyên, 2000, Cao Đài từ điển, quyển 3, truy cập từ

http://www.daotam.info/booksv/CaoDaiTuDien/e-book-pdf/index.html

[38] Lê Văn Sửu (1998), Học thuyết Âm dương Ngũ hành, NXB Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

[39] Nguyễn Thị Tân (2003), Thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, Luận án tiến

sĩ ngữ văn, Viện ngôn ngữ học.

[40] Lã Thành (2006), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thông tấn xã Việt Nam,

Hà Nội.

[41] Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, NXB khoa học Xã hội, Hà Nội.

[42] Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, NXB Phương Đông, TP.HCM.

[43] Lý Toàn Thắng (2010), “Dạy học tiếng Việt như một ngoại ngữ: nhìn từ góc

độ ngôn ngữ học tri nhận và ngôn ngữ học văn hoá”, tài liệu lưu hành nội bộ.

[44] Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

[45] Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

194

[46] Nguyễn Thị Thuận (2003), Danh hóa động từ chỉ trạng thái tình cảm với

“nỗi”, “niềm”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 6(92)-2003, tr.2-7, Hà Nội.

[47] Nguyễn Minh Tiến (2004), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Trẻ, TP.HCM.

[48] Phạm Minh Tiến (2007), Đặc điểm thành ngữ so sánh tiếng Hán (có đối

chiếu với tiếng Việt), Luận án tiến sỹ ngữ văn, Viện ngôn ngữ học.

[49] Trung tâm biên soạn dịch thuật sách Sài Gòn (2004), Từ điển thành ngữ Anh-

Việt, NXB Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM.

[50] Cù Đình Tú (1994), Phong cách và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

[51] Viện Ngôn ngữ học, (1993), Từ điển Anh-Việt, NXB TP.HCM, TP.HCM.

[52] Viện Ngôn ngữ học (2003a), Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn Hóa,

Hà Nội.

[53] Viện ngôn ngữ học (2003b), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

[54] Bùi Khắc Việt (1981), “Thành ngữ đối tiếng Việt”, Giữ gìn sự trong sáng

của tiếng Việt về mặt từ ngữ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[55] Nguyễn Ngọc Vũ (2008), Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có

yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, Luận

án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM.

[56] Trần Quốc Vượng (chủ biên), 2015, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục

Việt Nam, Hà Nội.

Tài liệu tiếng Anh:

[57] Ammer, Christine (1997), American Heritage Dictionary of Idioms, Forbes

Inc., New York.

[58] Ammer, Christine (2001), The Facts On File Dictionary of Clichés, Third

Edition, New York.

[59] Apresjan, Valentina (1997) “Emotion Metaphors and Cross-Linguistic

Conceptualisation of Emotions”. Cuadernos de Filología Inglesa, 179-195,

195

(Retrieved from www.dialnet.unirioja.es/descarga/articulo/2526528.pdf ,

accessed 15 May 2013)

[60] Baker, Mona (1992), In Other Words, Routledge, London.

[61] Barcelona, Antonio (1986), “On the Concept of Depression in American

English: A Cognitive Approach.” Revista Canaria de Estudios Ingleses 12:7-35.

[62] Bednarek, Monika (2008), Emotion Talk Across Corpora, Palgrave

MacMillan, Great Britain.

[63] Carlson, Neil R. (1990), Psychology, the science of behaviour, 3rd edition,

Allyn and Bacon, Boston.

[64] Cowie, A. P., Mackin, R., McCaig, I. and R. Isabel (1996), Oxford

Dictionary of English Idioms, OUP, Oxford.

[65] Crystal, David (2004), The Cambridge Encyclopedia of the English

Language, CUP, Cambridge.

[66] Crystal, David (2008), A Dictionary of Linguistics and Phonetics 6th edition,

Blackwell.

[67] Dewaele, Jean-Marc (2010), Emotions in Multiple Languages, Palgrave

Macmillan, UK.

[68] Dirven, René, and Günter Radden (2001), Cognitive English Grammar, John

Benjamins, Amsterdam.

[69] Evans V., Bergen B. and Zinken J (2007), ‘The Cognitive Linguistics

Enterprise: An Overview’, in V. Evans, B. Bergen and J. Zinken (eds), The

Cognitive Linguistics Reader, Equinox, London.

[70] Evans, Vyvyan and Green, Melanie (2008), Cognitive Linguistics: an

Introduction, 153-245, Edinburgh University Press, Edinburgh.

[71] Fauconnier, Gilles (1994), Mental Spaces, CUP, Cambridge.

[72] Fauconnier, Gilles (1997), Mappings in Thought and Language. Cambridge

University Press, Cambridge.

[73] Fauconnier, Gilles and Turner, Mark (2002), The Way We Think: Conceptual

Blending and the Mind’s Hidden Complexities, Basic Books, New York.

196

[74] Fernando, Chitra (1996), Idioms and idiomaticity, OUP, Oxford.

[75] Fernando, Chitra and Flavell, R. (1981). On Idiom, Critical Views and

Perspectives. Exeter Linguistic Studies, University of Exeter.

[76] Fowler, H. W. and Fowler, F. G. (1990), The Concise Oxford Dictionary of

Current English, OUP, Oxford.

[77] Geeraerts, Dirk (1994), Diachronic Prototype Semantics, OUP, Oxford.

[78] Geeraerts, Dirk (2010), Theories of Lexical Semantics, OUP, New York.

[79] Geiger, R. A. , B. Rudzka-Ostyn, eds. (1993), Conceptualizations and

Mental Processing in Language, Mouton de Gruyter, Berlin.

[80] Gibbs, Raymond W (1994), The Poetics of Mind: Figurative Thought,

Language, and Understanding, CUP, Cambridge.

[81] Gibbs, Raymond W. (1990), “Psycholinguistic Studies on the Conceptual

Basis of Idiomaticity,” Cognitive Linguistics 1–4, 417–451.

[82] Gibbs, Ray and Colston, H. (1995), “The cognitive psychological reality of

image schemas and their transformations,” Cognitive Linguistics 6, 347-378.

Reprinted in (2006) Cognitive linguistics: Basic readings. D. Geeraerts (Ed.),

Mouton, Berlin.

[83] Gibbs, Raymond W., and Jennifer O’Brien (1990), “Idioms and Mental

Imagery: The Metaphorical Motivation for Idiomatic Meaning,” Cognition 36,

35–68.

[84] Gramley, Steve and Patzold, K. M. (2004), A Survey of Modern English,

Routledge, London.

[85] Goossens, L. (2002) “Metaphtonymy: The Interaction of Metaphor and

Metonymy in Expressions for Linguistic Action”. In: R. Dirven and R. Pörings

(eds.), Metaphor and Metonymy in Comparison and Contrast. Berlin: Mouton

de Gruyter, 349-378.

[86] Grant, Lynn and Bauer, L. (2004), ‘Criteria for Re-Defining Idioms: Are we

Barking up the Wrong Tree?’. In Applied Linguistics 25:38-61. (Retrieved from

http://applij.oxfordjournals.org/cgi/reprint/25/1/38 , accessed 26 January 2010)

197

[87] Guralnik, David et al, (1982), Webster’s New World Dictionary of the

American Language , New York.

[88] Halliday, Michael (1973), Explorations in the Functions of Language,

Edward Arnold, London.

[89] Halliday, Michael (1985), An Introduction to Functional Grammar,

Routledge, London and New York.

[90] Hendrickson, Robert (2008), The Facts On File Encyclopedia of Word and

Phrase Origins, Fourth Edition, New York.

[91] Hiraga, Masako (1991), Metaphor and Comparative Cultures. In P.G.J.

Fendos (Ed.). Crosscultural Communication: East and West, Volume 3, 149-

166, Tai Cheng Publishing, Taiwan.

[92] Hirsch E. D., Joseph F. Kett, James Trefil (2002), The New Dictionary of

Cultural Literacy, Houghton Mifflin Company, New York.

[93] Jackendoff, Ray (1983), Semantics and Cognition, the MIT press,

Cambridge.

[94] Jackson, Howard (1988), Words and Their Meaning, Longman University

Press, London.

[95] Jackson, Howard and E. Ze Amvela (2001), Words, Meaning and

Vocabulary: An Introduction to Modern English Lexicology, Continuum,

London.

[96] Johnson, Mark (1987), The Body in the Mind: The Bodily Basis of Meaning,

Imagination and Reason, Chicago University Press, Chicago.

[97] Kövecses, Zoltán (1986), Metaphors of Anger, Pride, and Love: A Lexical

Approach to the Structure of Concepts, John Benjamins, Amsterdam.

[98] Kövecses, Zoltán (1988a), Emotion Concepts, Springer-Verlag, New York.

[99] Kövecses, Zoltán (1988b), The Language of Love: The Semantics of Passion

in Conversational English, Bucknell University Press, Lewisburg, London and

Toronto.

198

[100] Kövecses, Zoltán (1991), Happiness: A definitional effort. Metaphor and

Symbolic Activity 6, 29-46.

[101] Kövecses, Zoltán (2002), “Emotion concepts: Social Constructionism and

Cognitive Linguistics”, in Susan R. Fussell (ed.), The Verbal Communication of

Emotions- Interdisciplinary Perspectives, 109-124, Lawrence Erlbaum

Associates, Inc., London.

[102] Kövecses, Zoltán (2003), Language, Figurative Thought, and Cross-Cultural

Comparison, in Metaphor and Symbol, 18(4), 311–320, Lawrence Erlbaum

Associates, Inc.

[103] Kövecses, Zoltán (2004), Metaphor and Emotion: Language, Culture, and

Body in Human Feeling, CUP, Cambridge.

[104] Kövecses, Zoltán (2005), Metaphor in Culture: Universality and Variation.

CUP, Cambridge.

[105] Kövecses, Zoltán (2010), Metaphor: A Practical Introduction, OUP, New

York.

[106] Kövecses, Zoltán, Gary B. Palmer and Rene Dirven (2003), “Language and

emotion: The interplay of conceptualisation with physiology and culture”, in

Rene Dirven and Ralf Parings, , Metaphor and Metonymy in Comparison and

Contrast, Mouton de Gruyter, New York.

[107] Kövecses, Zoltán, and Péter Szabó (1996), “Idioms: A View from Cognitive

Semantics,” Applied Linguistics 17, 326–355.

[108] Lakoff, George (1987), Women, Fire, and Dangerous Things: What

Categories Reveal About the Mind, University of Chicago Press, Chicago.

[109] Lakoff, George (1989), “Some Empirical Results about the Nature of

Concepts,” Mind and Language 4, 103-129.

[110] Lakoff, George (1990), “The Invariance Hypothesis: Is Abstract Reason

Based On Image-Schemas?”, Cognitive Linguistics 1.1, 39-74.

[111] Lakoff, George (1993a), The Contemporary Theory of Metaphor. In Ortony,

A. (ed), Metaphor and Thought, 202-251, CUP, Cambridge.

199

[112] Lakoff, George (1993b), “The Internal Structure of the Self.” Paper

presented at the Annual Berkeley-Ucsd Cognitive Linguistics Conference, La

Jolla, California, in Spaces, Worlds, And Grammar, ed. G. Fauconnier and E.

Sweetser, University Of Chicago Press, Chicago.

[113] Lakoff, George and Johnson, Mark (1980), Metaphors we live by, University

of Chicago Press, Chicago.

[114] Lakoff, George and Johnson, Mark (1999), Philosophy in the flesh: The

embodied mind and its challenge to western thought, Basic Books, New York.

[115] Lakoff, George and Kövecses, Zoltán (1987), “The cognitive model of anger

inherent in American English”. In: D. Holland and N. Quinn (eds.), Cultural

Models in Language and Thought, 195-221, CUP, New York.

[116] Lakoff, George, Espernson, Jane, and Goldberg, Adele. (1989), Master

metaphor list, University of California at Berkeley, Berkeley.

[117] Lakoff, George and Turner, Mark (1989), More Than Cool Reason: A Field

Guide to Poetic Metaphor, The University of Chicago Press, Chicago.

[118] Langacker, Ronald (1987), Foundations of cognitive grammar. Vol. 1,

Theoretical prerequisites, Stanford University Press, Stanford.

[119] Langacker, Ronald (1991), Foundations of Cognitive Grammar, vol. 2,

Descriptive Application, Stanford University Press, Stanford.

[120] Langacker, Ronald (1997), Consciousness, Construal, and Subjectivity, in

Maxim I. Stamenov (ed), Language Structure, Discourse and the Access to

Consciousness. [Advances in Consciousness Research, 12]

[121] Langlotz, Andreas (2006), Idiomatic Creativity, a cognitive-linguistic model

of idiom-representation and idiom-variation in English, John Benjamins

Publishing Company, Philadelphia.

[122] Larson, Mildred L. (1984), Meaning-Based Translation: A Guide to Cross-

Language Equivalence, University Press of America, Lanham.

[123] Mandelblit, Nili (1995), The Cognitive View of Metaphor and its

Implications for Translation Theory. In M. Thelen and B. Lewandowska-

200

Tomaszczyk (Eds.). Translation and Meaning, 483-495, Universitaire Pars

Maastricht, Maastricht.

[124] Martin, J.R. and White, P.R.R. (2005), The Language of Evaluation:

Appraisal in English, Palgrave Macmillan, New York.

[125] Mazurova, Vera (2009), “Color Terms in English Idioms”, (Retrieved from

http://cc.joensuu.fi/linguistics/idioms2006/abstracts/mazurova.pdf, accessed 26

May 2009).

[126] McCarthy, Michael et al (1998), Cambridge International Dictionary of

Idioms, CUP, Cambridge.

[127] McMullen and Conway (2002), Conventional Metaphors for Depression, in

Susan R. Fussell (ed), The Verbal Communication of Emotions-

Interdisciplinary Perspectives, , 167- 182, Lawrence Erlbaum Associates, Inc.,

London.

[128] Murphy, G. (1996), “On metaphoric representation”, Cognition 60, 173-204

(Retrieved from www.psych.nyu.edu/murphy/MetaRep_96.pdf, accessed

20/10/2012)

[129] Nerlich, B. and Clark, D. (2007), Cognitive linguistics and the history of

linguistics, in Geeraerts and Cuycken (eds), The Oxford handbook of Cognitive

Linguistics, OUP, Oxford.

[130] Newmark, Peter (1981), Approaches to Translation, Pergamon Press,

Shanghai Foreign Language Education Press, Shanghai.

[131] Newmark, Peter (1988), A Textbook of Translation, Prentice Hall, New

York.

[132] Newmark, Peter (1991), About Translation, Multilingual Matters, UK.

[133] Nida, E.A. and C.R. Taber (1969), The theory and practice of translation,

Brill.

[134] Niemeier, Susanne (2003), “Straight from the Heart: Metonymic and

Metaphorical Explorations”. In: A. Barcelona (ed.), Metaphor and Metonymy at

the Crossroads: A Cognitive Perspective, 195-211, Mouton de Gruyter, Berlin.

201

[135] Reevy, Gretchen (2010), Encyclopedia of emotion, Greenwood, USA.

[136] Ruiz De Mendoza Ibanez (1996), “Blended Spaces and the Pragmatic

Approach to Cognition.” In Beatriz Penas (ed), The Intertextual Dimension of

Discourse, 233-44, Zaragoza.

[137] Schaffner, Christina (2004), “Metaphor and Translation. Some Implications

of a Cognitive Approach”, Journal of Pragmatics, Vol 36(7), 1253-1269.

[138] Schnoebelen, Tyler (2009), Linguistic theory and emotion: a tour of

pragmatics, sociolinguistics, computational linguistics, [Retrieved from

http://www.stanford.edu/~tylers/emotions.shtml, accessed 20 May 2012]

[139] Siefring, Judith (2004), Oxford Dictionary of English Idioms, 2nd edition,

OUP, Oxford.

[140] Sinclair, J. McHardy (2009), Collins COBUILD Advanced Dictionary,

Heinle Cengage Learning, New York

[141] Snell-Hornby, Mary (1988), Translation Studies. 2nd Edition, John

Benjamins, Amsterdam.

[142] Soanes, Catherine et al (2006), Oxford English Dictionary, OUP, Oxford.

[143] Spears, Richard A. (2000), NTC’s English idioms dictionary, 3rd edition,

National Textbook Company, Illinois.

[144] Sweetser, Eve (1990), From etymology to pragmatics: metaphorical and

cultural aspects of semantic structure, CUP, Cambridge.

[145] Sweetser, Eve (1999), Compositionality and blending: semantic composition,

in a cognitively realistic framework, in T. Janssen and G. Redeker (eds),

Cognitive Linguistics: Foundations, Scope and Methodology, 129–62, Mouton

de Gruyter, Berlin.

[146] Talmy, Leonard (2001), Toward a cognitive semantics, volume 1:

Concept structuring systems, the MIT Press, Cambridge.

[147] Taylor, John R. (1992), “How many meanings does a word have?”,

Stellenbosch Papers in Linguistics, Vol. 25, 1992, 133-168

202

[148] Turner, Mark (1991), Reading minds: The study of English in the age of

cognitive science, Princeton University Press, Princeton.

[149] Wierzbicka, Anna (1985), Lexicography and Conceptual Analysis, Karoma,

Ann Arbor.

[150] Wierzbicka, Anna (1999), Emotions Across Languages and Cultures:

Diversity and Universals, CUP, UK.

[151] Wierzbicka, Anna and Harkins, J. (2001), “Introduction”, in J. Harkins and

A. Wierzbicka (eds.), Emotions in Crosslinguistic Perspective, 1–34, Mouton

De Gruyter, Berlin.

[152] Ye, Veronica Zhengdao (2001), “An inquiry into ‘sadness’ in Chinese”, In J.

Harkins and A. Wierzbicka (eds.), Emotions in Crosslinguistic Perspective, 359-

404, Mouton De Gruyter, Berlin.

[153] Yu, Ning (1998), The contemporary theory of metaphor: A perspective

from Chinese, John Benjamins Publishing Company, Amsterdam.

203

PHỤ LỤC 1

BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ VIỆT - ANH

ẩn dụ bản thể ontological metaphor

ẩn dụ cấp độ cụ thể specific-level metaphor

ẩn dụ cấp độ tổng loại generic-level metaphor

ẩn dụ cấu trúc structural metaphor

ẩn dụ cấu trúc sự kiện the EVENT STRUCTURE metaphor

ẩn dụ CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA BODY IS A CONTAINER metaphor

ẩn dụ định hướng orientational metaphor

ẩn dụ gốc master metaphor

ẩn dụ hình ảnh image-metaphor

ẩn dụ quy ước conventional metaphor

ẩn dụ sinh lý physiological metaphor

ẩn dụ TRẠNG THÁI LÀ VỊ TRÍ STATES ARE LOCATIONS metaphor

ẩn dụ tri giác perceptual metaphor

ẩn dụ tri nhận cognitive metaphor

ẩn dụ TRÍ ÓC LÀ VẬT CHỨA MIND IS A CONTAINER metaphor

ẩn dụ văn hóa cultural metaphor

ánh xạ mapping

bán thành ngữ semi-idioms

bản thể self

biểu hiện nghĩa meaning representation

biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ metaphorical linguistic expression

biểu trưng hóa symbolization

biểu tượng tinh thần mental representation

cấu trúc ngữ nghĩa semantic structure

cấu trúc ý niệm conceptual structure

chiến lược suy luận inferencing strategies

204

chủ thể subject

cơ chế tri nhận cognitive mechanism

cơ sở kinh nghiệm experiential basis

đặt nền móng (cơ sở) grounding

dịch bằng cách lược bỏ translation by omission

dịch diễn giải translation by paraphrase

dịch nguyên văn/ dịch sát ý literal translation

dịch theo kiểu từ đối từ word-for-word translation

điều kiện ánh xạ khác biệt different mapping condition

điều kiện ánh xạ tương tự similar mapping condition

đơn vị nội tâm mental unit

động cơ ý niệm conceptual motivation

giả thuyết dịch tri nhận cognitive translation hypothesis

hiện thực hóa phi ngôn ngữ nonlinguistic realization

kiến tạo constitute

kiến thức, tri thức knowledge

kinh nghiệm tiền ý niệm preconceptual experience

ký hiệu symbol

luận điểm tri nhận nhập thân embodied cognition thesis

lực vật lý physical force

lược đồ hình ảnh image schema

lý thuyết hòa trộn ý niệm conceptual blending theory

lý thuyết thẩm định appraisal theory

miền đích target domain

miền nguồn source domain

mô hình lý tưởng hóa idealized model

mô hình văn hóa cultural model

nền ground

nền tảng kinh nghiệm experiential grounding

205

sense nét nghĩa

figurative meaning nghĩa biểu trưng

cognitive linguistics ngôn ngữ học tri nhận

semantics ngữ nghĩa học

ngữ nghĩa học tri nhận cognitive semantics

register ngữ vực

invariance hypothesis nguyên tắc bất biến

embodied nhập thân hóa

taxonomy phân loại

utterance phát ngôn

blend phép hòa trộn

universal phổ niệm, phổ quát

project phóng chiếu

phương tiện phối cảnh perspectivization

meaning construction quá trình tạo nghĩa

conceptualisation quá trình ý niệm hóa

entailment quan hệ kéo theo

simile so sánh

containment sự chứa đựng

sự đồng nhất đa hợp composite unity

euphoria sự phấn khích

cognition sự tri nhận

thành ngữ (theo nghĩa) nguyên văn literal idioms

thành ngữ cố định frozen idioms

thành ngữ nghĩa biểu trưng non-literal idioms

thành ngữ thuần pure idioms

thực thể ý niệm conceptual entities

tính bách khoa encyclopaedic

tính cố định cú pháp syntactic frozenness

206

tính không kết hợp non-compositionality

tính không trang trọng informality

tính lưỡng nghĩa ambiguity

tính quy ước conventionality

tinh thần, tư duy, trí óc mind

tính thiết chế hóa institutionalization

tính tổ hợp compositeness

tính toàn vẹn từ vựng lexical integrity

tính tối nghĩa semantic opacity

tri giác perception

văn hóa học so sánh cross-cultural

vật chứa container

ý niệm ngôn ngữ linguistic concept

ý niệm từ vựng lexical concept

207

PHỤ LỤC 2

BẢNG ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH - VIỆT

ambiguity tính lưỡng nghĩa

appraisal theory lý thuyết thẩm định

blend phép hòa trộn

BODY IS A CONTAINER metaphor ẩn dụ CƠ THỂ LÀ VẬT CHỨA

cognition sự tri nhận

cognitive linguistics ngôn ngữ học tri nhận

cognitive mechanism cơ chế tri nhận

cognitive metaphor ẩn dụ tri nhận

cognitive semantics ngữ nghĩa học tri nhận

cognitive translation hypothesis giả thuyết dịch tri nhận

composite unity sự đồng nhất đa hợp

compositeness tính tổ hợp

conceptual blending theory lý thuyết hòa trộn ý niệm

conceptual entities thực thể ý niệm

conceptual motivation động cơ ý niệm

conceptual structure cấu trúc ý niệm

conceptualisation quá trình ý niệm hóa

constitute kiến tạo

container vật chứa

containment sự chứa đựng

conventional metaphor ẩn dụ quy ước

conventionality tính quy ước

cross-cultural văn hóa học so sánh

cultural metaphor ẩn dụ văn hóa

cultural model mô hình văn hóa

different mapping condition điều kiện ánh xạ khác biệt

208

embodied nhập thân hóa

embodied cognition thesis luận điểm tri nhận nhập thân

tính bách khoa encyclopaedic

quan hệ kéo theo entailment

sự phấn khích euphoria

cơ sở kinh nghiệm experiential basis

nền tảng kinh nghiệm experiential grounding

nghĩa biểu trưng figurative meaning

thành ngữ cố định frozen idioms

generic-level metaphor ẩn dụ cấp độ tổng loại

nền ground

đặt nền móng (cơ sở) grounding

mô hình lý tưởng hóa idealized model

lược đồ hình ảnh image schema

ẩn dụ hình ảnh image-metaphor

chiến lược suy luận inferencing strategies

tính không trang trọng informality

tính thiết chế hóa institutionalization

nguyên tắc bất biến invariance hypothesis

kiến thức, tri thức knowledge

ý niệm từ vựng lexical concept

tính toàn vẹn từ vựng lexical integrity

ý niệm ngôn ngữ linguistic concept

thành ngữ (theo nghĩa) nguyên văn literal idioms

dịch nguyên văn/ dịch sát ý literal translation

ánh xạ mapping

ẩn dụ gốc master metaphor

quá trình tạo nghĩa meaning construction

biểu hiện nghĩa meaning representation

209

mental representation biểu tượng tinh thần

mental unit đơn vị nội tâm

metaphorical linguistic expression biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ

mind tinh thần, tư duy, trí óc

MIND IS A CONTAINER metaphor ẩn dụ TRÍ ÓC LÀ VẬT CHỨA

non-compositionality tính không kết hợp

nonlinguistic realization hiện thực hóa phi ngôn ngữ

non-literal idioms thành ngữ nghĩa biểu trưng

ontological metaphor ẩn dụ bản thể

orientational metaphor ẩn dụ định hướng

perception tri giác

perceptual metaphor ẩn dụ tri giác

perspectivization phương tiện phối cảnh

preconceptual experience kinh nghiệm tiền ý niệm

project phóng chiếu

pure idioms thành ngữ thuần

physical force lực vật lý

physiological metaphor ẩn dụ sinh lý

register ngữ vực

self bản thể

semantic opacity tính tối nghĩa

semantic structure cấu trúc ngữ nghĩa

semantics ngữ nghĩa học

semi-idioms bán thành ngữ

sense nét nghĩa

similar mapping condition điều kiện ánh xạ tương tự

simile so sánh

source domain miền nguồn

specific-level metaphor ẩn dụ cấp độ cụ thể

210

STATES ARE LOCATIONS metaphor ẩn dụ TRẠNG THÁI LÀ VỊ TRÍ

structural metaphor ẩn dụ cấu trúc

chủ thể subject

ký hiệu symbol

biểu trưng hóa symbolization

tính cố định cú pháp syntactic frozenness

miền đích target domain

phân loại taxonomy

the EVENT STRUCTURE metaphor ẩn dụ cấu trúc sự kiện

translation by omission dịch bằng cách lược bỏ

translation by paraphrase dịch diễn giải

phổ niệm, phổ quát universal

phát ngôn utterance

word-for-word translation dịch theo kiểu từ đối từ

211

PHỤ LỤC 3

BẢNG LIỆT KÊ THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT BIỂU THỊ NĂM LOẠI CẢM XÚC

VUI – BUỒN – SỢ - GIẬN – YÊU

[52] Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển thành ngữ Việt Nam, NXB Văn Hóa, Hà Nội.

[31] Nguyễn Lân (1989), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam, NXB Tổng hợp TP.HCM,

TP.HCM.

[34] Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (2009), Thành ngữ tiếng Việt (tái bản lần 3), NXB KHXH,

Hà Nội.

[3] Việt Chương (2009), Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, NXB Tổng hợp Đồng Nai,

Đồng Nai.

Ghi chú: Các ô đánh dấu chéo (X) nghĩa là không tìm thấy định nghĩa trong quyển tử điển tương ứng của cột đó. 3.1. CÁC THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT BIỂU THỊ CẢM XÚC VUI

[52]

[31]

[34]

[3]

X

Tỏ ý dễ dãi không đòi hỏi gì hơn.

Thành ngữ tiếng Việt 1. Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ

Làm được bao nhiêu thì mừng bấy nhiêu được nhiều hay ít gì cũng quý cả.

X

Tỏ ý dễ dãi không đòi hỏi gì hơn.

2. Có nếp mừng nếp, có tẻ mừng tẻ

Có cả con trai con gái.

3. Cờ mở

X

X

trống giong

4. Cú có vọ

Cảnh đám đông nhộn nhịp, ồn ào, có cờ bay trống đánh gây khí thế. X

mừng

Mừng cho bạn bè người thân khi họ ăn nên làm ra.

Nói lên cái tinh thần yêu thông cảm với họ hàng, bè bạn.

Bằng lòng với kết quả đã đạt được mà không đòi hỏi quá cao, quá khắt khe. Hài lòng với kết quả được, đạt không đòi hỏi quá cao, quá khe khắt. Tưng bừng náo nhiệt, với vẻ hứng khởi, khích lệ lòng người. Có tình cảm thân tình, trân trọng và trước mừng vui những kết quả của nhau.

5. Cười bò

X

Cười lăn ra.

X

X

lê bò càng

6. Cười đứt

X

X

X

ruột

7. Cười lăn

X

Cười nhiều quá đến đau cả bụng. Cười lăn ra.

X

Buồn cười quá đến nỗi phải bò người ra.

cười bò 8. Cười nên

X

X

X

tiếng khóc

9. Cười nôn

X

X

ruột

Buồn cười quá như ruột cuộn lên.

10. Cười ngặt

X

Nói người buồn rầu nhưng gượng cười. Cười đến nỗi ruột gan như đảo lộn. Cười đến nghiêng

X

X

212

cười nghẹo

11. Cười như

Cười giòn giã, liên tiếp.

ngả cả người. Cười giòn giã liên tiếp.

Cười giòn giã, liên tiếp.

Cười dồn, cười rung cả người, cười quên thôi.

Cười rộ và to tiếng Cười to, rộ lên

nắc nẻ 12. Cười như

X

Cười to, rộ lên từng đợt.

liên

X

phá 13. Cười như

X

X

Cười giòn, tiếp.

pháo ran

14. Cười ra

X

X

X

nước mắt

15. Cười vỡ

X

tưởng

X

X

bụng

16. Cửu hạn

X

X

phùng cam vũ

Cười gượng vì thực ra trong lòng đương đau đớn. Cười quá như vỡ bụng. Nắng hạn gặp mưa rào.

17. Chim sổ

X

X

X

lồng

túng

18. Chuột sa

X

chĩnh gạo

Chỉ người đang gặp vận hỉ bỗng vớ được điều may.

Giễu người nghèo để được sống trong một hoàn cảnh đầy đủ.

19. Đồng cam cộng khổ

Cùng chia sẻ vui buồn với nhau.

Lúc vui sướng và khi gặp hoạn nạn cùng có nhau.

Lúc khổ sở cũng như lúc sung sướng phải có nhau.

X

X

20. Được lời như cởi tấm lòng

Nghe nói mà vui mừng.

lòng

21. Hả (hởi) lòng hả (hởi) dạ

Rất hài lòng, thỏa mãn phấn khởi.

Nói đến sự vui vẻ quá độ, sự thỏa mãn cùng cực.

Khổ lâu ngày gặp được sung dịp sướng. Vui sướng, tự do, phóng vì thoát khỏi được sự kìm hẹp tù túng. May mắn, gặp được nơi sung sướng, đầy đủ một cách tình cờ, ngẫu nhiên. Cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, lúc sướng vui, hoạn nạn đều có nhau. Cảm thấy hả hê, hồ hởi, sướng vui vì trong những lời nói động viên, thỏa đáng với điều mình làm điều với hoặc mình mong muốn. Vui sướng, lòng đầy phấn khích vì thỏa mãn, được ý nguyện của mình.

X

22. Hí hửng

Nói vẻ vui mừng vì đã đạt được ý nguyện hoặc vì người khác đã làm đẹp lòng mình Chê người tỏ vẻ mừng rỡ quá mức.

như ngô được vàng

Mừng rỡ, thích thú với vẻ đầy thỏa mãn

23. Khổ tận

Nói đến nỗi vui mừng quá lớn của người bỗng nhiên gặp được chuyện may. Hết khổ thì lại sung sướng.

cam lai

Hết đắng lại ngọt, hết khổ sở đến sung sướng.

X

24. Lên tận

Nói cảnh sung sướng vui vẻ sau khi bị đau khổ buồn rầu. X

mây xanh

Hết đau khổ, bất hạnh thì đã đến sung sướng hạnh phúc. tán bốc, Tâng dương, ca ngợi hết mức làm cho sung sướng, ngất ngây.

Chỉ sự sung sướng tột cùng khi ưa nịnh được người hết lời tâng bốc.

213

X

X

Tả sự vội vàng hấp tấp vì vui mừng.

25. Lon xon như con gặp mẹ

26. Mát dạ hả

Vội vàng, đi lại hấp tấp do có tâm trạng phấn chấn, vui mừng. X

X

lòng

Hài lòng, thỏa mãn, phấn khởi.

27. Mát gan

X

mát ruột

Rất hài lòng, thỏa mãn và hồ hởi.

Hài lòng, thỏa mãn, phấn khởi.

Khi lòng dạ được hả hê thỏa mãn không còn ưu tư thắc mắc gì nữa. Đây là sự hài lòng mỹ mãn, trong lòng không còn phiền muộn điều gì.

28. Mát lòng

X

X

hả dạ

Hài lòng, thỏa mãn, phấn khởi.

29. Mát lòng

X

X

mát dạ .

Hài lòng, thỏa mãn, phấn khởi.

30. Mát lòng

X

X

mát ruột

Hài lòng, thỏa mãn, phấn khởi.

31. Mát mày

X

mát mặt

Cảm thấy hả hê khoan khoái, thỏa mãn trong lòng. Cảm thấy hả hê khoan khoái, thỏa mãn trong lòng. Cảm thấy hả hê khoan khoái, thỏa mãn trong lòng. Dễ chịu, thoải mái, đỡ vất vả hơn.

Dễ chịu, thoải mái (đời sống).

32. Mặt tươi

X

như hoa

Vui mừng, phấn khởi.

Được vui mừng vì đời sống đầy đủ hoặc vì con cái làm rạng danh gia đình. Khen người tươi tỉnh và đẹp.

X

33. Mở cờ

trong bụng

Vui mừng hồ hởi trong lòng.

Nói lên trạng thái hết sức vui mừng.

Là nét mặt rạng rỡ tươi trẻ hoan lạc không ưu tư không lo nghĩ gì. Sự vui mừng đang rạo rực trong lòng khi gặp một điều may, tin vui.

34. Mở lòng

X

X

mở dạ

Sống cởi mở,bộc lộ tâm tư tình cảm.

35. Mở mày

Xởi lởi, cởi mở thể hiện tâm tư tình cảm của mình trước người khác. X

mở mặt

Có thể hãnh diện trước mọi người.

Được rạng rỡ, hãnh diện, tự hào.

36. Múa tay

trong bị

Vui mừng, phấn khởi, đắc thắng ngầm.

Mừng thầm, vui sướng phấn khởi ngầm, thầm kín trong lòng.

Hành động ngầm không bộc lộ ra người hoặc vì bị kiềm chết hoặc vì khả năng có hạn.

Nói đến sự hãnh diện của mình với mọi người xung quanh do thành đạt công việc mang lại. Chỉ kẻ tầm thường nhút nhát chỉ muốn người ta dọn cỗ cho xơi còn mình làm việc nhẹ nhàng dễ dãi.

37. Mừng

X

X

X

mặt, bắt tay

Tả cảnh vui mừng khi gặp người bạn thân lâu ngày mới thấy.

38. Mừng

Vui mừng phấn

X

Rất mừng, mừng

Nói đến nỗi mừng

214

như (bắt) được vàng

hết sức như người được vàng.

quá lớn lao bất chợt đến với mình.

X

X

khởi như người bắt được vàng bạc châu báu. Mừng vui phấn khởi.

Rất mừng, mừng hết sức như thấy cha hồi sinh

39. Mừng như (hơn) cha chết sống lại (dậy)

X

X

40. Mừng như bắt được của

Rất mừng, mừng hết sức như người được vàng.

41. Mừng ơi

Vui mừng phấn khởi như người bắt được vàng bạc châu báu. X

X

X

là mừng.

Nói lên sự mừng rỡ tột độ khi gặp người thân lâu ngày xa cách.

42. Nở gan

X

nở ruột

Nói tình trạng vui vẻ thỏa thuê.

43. Nở mày

X

X

nở mặt

Phấn khởi, sung sướng, thỏa mãn. Sung sướng, hân hoan, mừng rỡ.

44. Nở mặt

X

X

Sung sướng, hân hoan, mừng rỡ.

nở mày

45. Nở như

Sung sướng, thỏa mãn trong lòng. Sung sướng hãnh diện thể hiện nét mặt hân hoan rạng rỡ. Sung sướng, hãnh diện, thể hiện trên nét mặt hân hoan, rạng rỡ.

X

X

gạo rang

Thường dùng với nghĩa bóng chỉ câu chuyện vui vẻ, rộn ràng.

46. Nở ruột

X

X

nở gan

47. Nở từng

X

khúc ruột

Phấn khởi, sung sướng, thỏa mãn. Phấn khởi, sung sướng, thỏa mãn.

Sung sướng, thỏa mãn trong lòng. Cảm thấy hết sức thỏa mãn, hả hê trong lòng.

X

X

48. Nhởn nhơ như phường chèo

Vui vẻ, không để tâm gì đến, coi như có không chuyện gì xảy ra.

Chỉ người đang có nỗi vui khôn xiết hay được hãnh diện vô cùng, khoan khoái hết mức. Chỉ người có tính vô tư, vô lo lúc nào cũng thảnh thơi vui thú, không cần làm gì cho mệt thân.

X

X

49. Như (nắng) hạn (hán) gặp mưa rào

Rất đúng lúc, thỏa mãn được điều mong mỏi da diết.

50. Như bắt

X

X

được của

Đáp ứng, thỏa mãn được mong ước, khát khao ghê gớm. Rất mừng, mừng hết sức như người được vàng.

51. Như bắt

X

X

được vàng

Rất mừng, mừng hết sức như người được vàng.

Tỏ sự mừng rỡ của mình khi gặp lại một người thân yêu đã xa cách lâu ngày. Tỏ sự mừng rỡ của mình khi gặp lại một người thân yêu đã xa cách lâu

215

ngày.

52. Như cá

X

X

gặp nước

Gặp người, gặp hoàn cảnh thỏa mãn lòng mong muốn, khát khao.

Gặp dịp có điều kiện thuận lợi hợp với ý muốn của mình, để hoạt động.

53. Như chim

X

sổ lồng

Được tự do, tung hoành thoát khỏi tù túng, bó buộc.

Vui sướng, được tự do, thoát vòng tù túng.

54. Như mèo

thấy mỡ

Rất thèm muốn, khao khát.

Rất thèm muốn, muốn giành ngay lấy.

Giễu người tỏ vẻ hăm hở trước thứ gì mình thèm muốn.

55. Như mở

X

X

Rất phấn khởi, vui mừng.

cờ trong bụng (lòng)

X

56. Như nở từng khúc ruột

Rất vui sướng, thoản mãn vì được khen ngợi, đánh giá cao.

57. Như rồng

gặp mây

Gặp may mắn được thoả nguyện.

Thấy hết sức mĩ mãn, sung sướng, mừng vui với lời khen, sự đánh giá cao của người khác. Gặp người, gặp hoàn cảnh, thỏa mãn lòng mong muốn, khát khao.

Gặp người, gặp hoàn cảnh, thỏa mãn lòng mong muốn, khát khao.

X

X

58. Như trút được gánh nặng

Thoát khỏi nỗi lo toan đè nặng trong lòng.

59. Như xẩm

bắt (vớ) được gậy

Tả sự vui mừng vì được thoả lòng mong ước.

Sung sướng, gặp may mắn đúng lúc, đúng dịp.

60. Tay bắt

mặt mừng

Gặp may, có được cái đang cần, trong khi đang không biết đường nào mà xoay xở. Vui mừng, hân hoan, phấn khởi do lâu ngày mới gặp.

Hai người bạn lâu năm gặp nhau tỏ vẻ vui mừng.

Gặp gỡ vui vẻ, mừng rỡ, hân hoan.

61. Tấp tửng

X

Vui mừng như muốn nhảy lên.

như trẻ được (cái) bánh

Vui mừng, sung sướng đến mức như muốn nhảy cẫng lên.

62. Tươi như

hoa

Có vẻ mặt vui vẻ tươi tắn.

Tả người vui vẻ, tươi tỉnh lắm.

Vẻ mặt rất vui vẻ, tươi tỉnh.

Con người thoát cảnh khổ cảnh tù ngục thì còn nỗi mừng nào lớn hơn. Chỉ một hành động vồ vập do quá thèm muốn ham thích của một người đối với một thứ. Sự vui mừng đang rạo rực trong lòng, khi gặp điều may mắn hay đón một tin vui. Chỉ người đang có nỗi vui khôn xiết hay được hãnh diện vô cùng, khoan khoái hết mức. Chỉ người có tài lại gặp vận may nên có điều kiện thăng tiến rất nhanh. Nói đến việc giải quyết được điều mà mình lo lắng bấy lâu nên cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Chỉ đến sự may mắn bất chợt đến với mình trong khi mình quá cần đến nó. Bà con bằng hữu lâu ngày gặp lại nhau ai cũng tỏ ra ân cần và chào nhau rối rít. Trẻ em được bánh thì mừng ra mặt, chúng hí hửng nhảy tung tăng, nhưng ở người lớn rất khó coi. Nét mặt tươi tắn của người nào đó

216

63. Thấy đâu

X

đang có chuyện vui vẻ trong lòng. X

âu đấy

Được thế nào bằng lòng thế ấy, không đòi hỏi gì hơn.

X

64. Vui lòng

X

hả dạ

Bằng với lòng những gì có được, không đòi hỏi gì hơn. Rất hài lòng, thỏa mãn phấn khởi.

65. Vui như

X

Tả cảnh vui của một đám đông.

(mở, trẩy) hội

66. Vui như

X

Nói vẻ vui mừng vì đã đạt được ý nguyện hoặc vì người khác đã làm đẹp lòng mình. Cảnh vui vẻ, náo nhiệt rất vui sướng, phấn khởi. Rất vui sướng, phấn khởi.

mở cờ (trong bụng)

Vui vẻ, hồn nhiên.

Nói niềm vui lớn, khiến trong lòng phấn khởi. X

67. Vui như

X

sáo

68. Vui như

Vui vẻ nhộn nhịp. Rất vui sướng,

tết

phấn khởi.

Vui sướng, náo nức, phấn khởi trong lòng. Vui sướng, náo nức, phấn khởi trong lòng. Vui vẻ hồn nhiên, nói cười luôn miệng. Vui sướng, náo nức, phấn khởi trong lòng.

Chỉ những cuộc vui rộn rã tiếng cười, ai cũng thấy thoải mái.

3.2. CÁC THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT BIỂU THỊ CẢM XÚC BUỒN

[52]

[34]

[3]

[31]

X

Thành ngữ tiếng Việt 1. Ăn cay uống đắng

Chịu đựng đau đớn, khổ nhục không dám kêu ca oán than.

Phải nhẫn nhục chịu đựng đều cay đắng mà không dám kêu ca, oán than gì.

Người vì một nỗi oan khuất nào đó mà chưa thể nói ra, nên đành nén cam chịu mãi những lời đay nghiến cay độc và sự khinh miệt của người ta đối với mình.

X

X

2. Ăn cay nuốt đắng

Chịu đựng nhiều đau khổ mà không dám nói ra.

X

3. Ăn đất nằm sương

Tả cảnh sống khổ sở xa nhà.

Sống ngoài sương gió, gian khổ, vất vả.

X

4. Bắc thang lên hỏi ông trời

Trước một điều bất công, không hợp lí không còn biết kêu cứu ai

Cố chịu đựng cực hình, khổ cực để ghi nhớ mà phục thù. Nếm chịu nhiều khó khổ, gian khăn. Bất lực, chẳng còn hy vọng vào ai, chẳng biết dựa vào người nào để bày tỏ, điều bất công, vô lý.

X

5. Buồn như cha chết

Buồn bã tột độ như thể mất đi người cha yêu dấu.

Rất buồn , buồn da diết như mất người cha.

Sự hoàn toàn bất lực, hoàn toàn chịu bó tay, vô phương tự giải quyết, mà cũng không biết trông cậy vào sự giúp đỡ của một ai Buồn não ruột, cái buồn dai dẳng không tài nào

217

khuây khỏa được, càng nhớ càng buồn hơn. X

Rất buồn, buồn bứt rứt trong lòng.

6. Buồn như chấu (trấu) cắn

Rất buồn, buồn lắm, không có gì vui.

X

Rất buồn, buồn như bị ruồng bỏ.

7. Buồn như đĩ về già

Buồn sâu thẳm, nỗi buồn của kẻ bị phế thải, bị ruồng bỏ, bất lực.

Buồn quá vì chung quanh có vẻ trống trải không có gì vui. Kẻ làm đĩ là chỉ nhờ vào nhan sắc lúc về già thì không còn nhan sắc nữa, vui làm sao được. X

X

Rất buồn, buồn như bị ruồng bỏ.

8. Buồn xo buồn mị

Buồn sâu thẳm, nỗi buồn của kẻ bị phế thải, bị ruồng bỏ, bất lực. X

X

X

Rất buồn, buồn như bị ruồng bỏ.

X

X

9. Buồn xo buồn rụi 10. Buốt như kim châm

Đau buồn quá vì tiếc của.

X

X

11. Cầm lòng cho đậu

Nỗi đau đớn thấm thía này chỉ có khi lòng ta bị xúc phạm hay nỗi oan ức mà không thể thanh minh. Thấy người ta hoạn nạn mà mình quay mặt đi thì “cầm lòng không đậu” được.

X

X

X

12. Cầm lòng không đậu

X

13. Cay như ngậm bồ hòn

Cười gượng vì thực ra trong lòng đang đau đớn.

Kìm nén được nỗi xúc cảm lòng thương đau , trước những cảnh ngộ eo le bất hạnh của người đời. Không kìm nén được nỗi xúc cảm lòng thương đau, trước những cảnh ngộ éo le bất hạnh của người đời. Cay cú vì thua thiệt mà không làm gì được hay không dám tỏ thái độ gì.

X

Một cái lỗi do mình gây ra không dám trách cứ ai, ai chê phải chịu, cố tạo vui vẻ mặc dù bên trong ngậm đắng nuốt cay khổ sở. X

14. Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau

Tự dày vò trong nỗi đau đớn thầm lặng.

X

Lời nói mỉa mai hay cay độc của ai làm cho mình đau khổ hay tự mình suy nghĩ mà cảm thấy việc không gỡ được mà lòng đau đớn. Tỏ thái độ buồn bã, thất vọng.

15. Chép miệng thở dài

Tỏ thái độ buồn bã, chán nản.

Khi gặp chuyện buồn không có bạn

218

X

thân để giãi bày tâm sự thì nỗi buồn cứ thế mà tăng, lòng dạ xốn xang, đứng ngồi không yên. X

X

X

Lời than thở khi bị thiệt hại lớn.

16. Chết cả ruột 17. Chết cay chết đắng

Phải chịu đựng đau đớn không nói ra được.

X

X

X

X

X

18. Chết dần chết mòn 19. Chết đắng chết cay

Phải chịu đựng đau đớn, cay đắng, không nói ra được.

20. Chết dở sống dở

Đau lòng, khổ tâm quá mức. Đau đớn chịu đựng sự thất thiệt lớn mà không nói ra được. Héo hắt, tàn lụi dần. Đau đớn chịu đựng sự thất thiệt lớn mà không nói ra được. Bị đau đớn nặng nề tưởng chừng như đã có thể chết.

Nói cảnh sống khó khăn quá, hoặc một vấn đề khó giải quyết.

Sống điêu đứng cơ cực hoặc đau đớn, mệt mỏi như sắp chết.

21. Chết không nhắm mắt được

Khổ sở, nhục nhã và hổ thẹn trước tội lỗi của mình thân hoặc người của mình.

Nói lên sự đau khổ chua xót của cha mẹ trước những tội lỗi xấu xa của con cái.

Chết không thanh thản,lúc chết vẫn mang theo nỗi trăn trở, day dứt trong lòng.

X

Trong đời sống nhiều lúc ta gặp những trường hợp nan giải không thể giải quyết được, tiến thoái lưỡng nan. Vì quyến luyến một người thân nào đó vào phút cuối không được gặp hay oan ức một điều gì chưa giải tỏa hoặc vi tội lỗi mình gây ra cho ai đó. X

X

22. Chết nữa đời người

X

X

Sống lầm lũi, khổ cực, sống mà như trong một chết quãng thời gian dài. Buồn chán ủ rũ, không muốn làm gì cả.

23. Con ruồi đậu mép không muốn (buồn) đuổi

24. Của đau con xót

Tỏ ý tiếc một vật gì người ta đã lấy mất của mình.

Tài sản, con cái bị xâm phạm thì ai chẳng đau lòng xót ruột.

Trong lòng có chuyện buồn chán, trời sập đến nơi mà không thèm để ý. Khi buồn não ruột thì buông xuôi tất cả, không ai muốn làm gì nữa. Mất thì ai cũng tiếc, nhưng mất con thì tiếc hơn, đau hơn gấp bội.

X

X

25. Cười dở khóc dở

Của cải của mình phải nhọc nhằn lam ra mà bị hỏng ai mà chẳng bực bội tức tối, xót xa. Cố gắng cười trong buồn bực, đau khổ đáng phải khóc.

Đau đớn, khổ cực vì làm ăn thất bát hay gặp những chuyện không hay.

219

X

26. Cười ra nước mắt

Phải ngượng cười khi trong lòng đầy đau khổ.

Cười gượng vì thực ra trong lòng đương đau đớn.

27. Đa sầu đa cảm

Dễ xúc động hay ủy mị, buồn thương.

Chê người có tính uỷ mị hơi một chút cũng buồn rầu, xúc động.

Trong lòng đau khổ đến khóc được mà vẫn phải gượng cười. Tâm trạng buồn hay xúc động, buồn rầu, thương cảm.

28. Đắng như ngậm bồ hòn

Đau đớn âm thầm không dám nói.

Miệng cảm thấy rất đắng phải chịu đựng điều gì cay cực.

Âm thầm chịu đựng đau khổ, cố dằn nén trong lòng không biểu hiện ra ngoài.

Chỉ người có tính ủy mị gặp chuyện gì thương tâm một chút là dễ gây xúc động, khóc gió thương mây. Khi gặp chuyện cay đắng nhưng vẫn phải cắn răng chịu đựng, không dám than thở với ai.

X

X

X

29. Đau đầu buốt óc

X

30. Đau lòng xót ruột

Có trạng thái đau đớn, nhức nhối đầu óc. Đau đớn, xót xa, tiếc thương cao độ.

Tỏ ý đau buồn trước một việc xảy ra đáng tiếc.

Nói đến nỗi thương tiếc quá chừng như mất mát một người thân, như bị người yêu ruồng bỏ.

X

X

X

31. Đau như búa bổ

Đau xót quá.

X

Đau đớn, xót xa tột độ.

32. Đau như cắt

Đau xót quá.

X

Đau đớn, xót xa tột độ.

33. Đau như cắt (xét) ruột

X

Đau một cách ê ẩm và thấm thía.

X

X

Đau đớn, xót xa tột độ. Đau đớn, xót xa tột độ.

Đầu đau lắm, đến mức có cảm giác như bị búa nện. Đau đớn, xót xa trong lòng đến mức tựa như dao cắt. Đau đớn, xót xa trong lòng đến mức tựa như dao cắt. Đau đớn xót xa đến tột cùng. Đau đớn xót xa đến tột cùng.

X

X

X

X

X

Đau thật, đau cao độ, khó quên được. X

Đau xót quá.

X

Buồn đau, héo hắt ở trong lòng. Đau đớn xót xa đến tột cùng. Đau đớn xót xa đến tột cùng.

34. Đau như dần 35. Đau như dao cắt 36. Đau như đau đẻ 37. Dầu như dưa 38. Đau như đứt ruột 39. Đau như hoạn

Lời phàn nàn của người đàn ông khi bị thua thiệt.

Đau đớn, xót xa tột độ. Quá đau đớn vì thua thiệt, mất mát.

Nói đến sự thiệt thòi quá lớn mà mình bị tranh đoạt quá lớn.

X

Đau xót quá.

X

X

X

40. Đau như rứt thịt 41. Đau như thiến

Đau đớn xót xa đến tột cùng.

Quá đau đớn vì thua thiệt, mất mát.

Nói thiệt thòi quá lớn làm mình bị tranh đoạt hay mất

220

mát.

X

X

42. Đau như xát muối

Đau đớn xót xa tột độ.

Đau xót quá.

X

Đau đớn xót xa tột độ.

X

X

X

43. Đau xé (ruột) 44. Day dứt như quạ rỉa mồi

X

Đau đớn âm thầm không dám nói ra.

45. Đeo sầu ngậm tủi

Đau đớn, xót xa trong lòng tựa như bị xát muối vào vết thương hay ở ruột gan. Đau đớn xót xa đến tột cùng. Cảm thấy bứt rứt, khổ tâm mãi không thôi. Nén chịu, dằn lòng tủi đựng chịu nhục, sầu muộn.

X

46. Dở cười dở mếu

Chịu đựng đau đớn, khổ nhục không dám kêu ca oán than. Đau đớn, khổ cực vì làm ăn thất bát hay gặp những chuyện không hay.

Ở vào tình cảnh khổ, buồn đau phiền, lo sợ đến phát khóc.

47. Dở khóc dở cười

trong Buồn bực lòng nhưng vẫn phải gượng cười.

Đau đớn, khổ cực vì làm ăn thất bát hay gặp những chuyện không hay.

Cố gắng cười trong buồn bực, đau khổ đáng phải khóc.

X

Khóc lóc, đau đớn khổ cực.

48. Dở khóc dở mếu

Ở vào tình cảnh đau khổ, buồn phiền, lo sợ đến phát khóc.

Gặp chuyện ương ương dở dở, không đáng khóc nhưng không thể mỉm cười. Gặp chuyện ương ương dở dở, không đáng khóc nhưng không thể mỉm cười. Gặp chuyện ương ương dở dở, không đáng khóc nhưng không thể mỉm cười.

X

X

X

Lúc nào cũng âu sầu, buồn bã. Đau đớn vô cùng. Khóc lóc đau đớn

49. Đứng tủi ngồi sầu 50. Đứt gan đứt ruột

Đau đớn xót xa đến tột cùng.

khổ cực.

Nói đến sự đau đớn tột cùng, tựa hồ như ruột gan đều bị ai làm cho tan nát.

X

X

X

Đau đớn, xót xa tột độ.

X

X

X

X

X

X

Khóc lóc, đau đớn khổ cực. Khóc lóc, đau đớn khổ cực.

X

X

X

X

X

X

51. Đứt ruột cháy gan 52. Đứt ruột đứt gan 53. Đứt từng khúc ruột 54. Gan rầu ruột héo 55. Gió dập mưa dồn

X

56. Gió thảm mưa sầu

Nói gió mưa gợi nỗi đau buồn.

Buồn đến nẫu ruột nẫu gan. Có tâm trạng xáo trộn, đầy buồn đau, nhớ thương. Gió mưa nhiều, gây cảm giác não nùng, sầu thảm.

Chỉ cảnh mưa dầm, gió bấc , rét mướt diễn ra từ ngày này sang ngày khác. Bên ngoài nhuốm màu áo não khiến lòng

221

người cũng sầu não khôn nguôi.

lóc

sướt

Khóc sướt mướt.

X

X

X

57. Giọt châu tầm tã 58. Giọt dài giọt ngắn

Khóc mướt. Khóc lóc sụt sùi sầu thảm.

Nói người đương khóc thảm thiết.

X

59. Giọt ngắn giọt dài

Khóc lóc sụt sùi sầu thảm.

Khóc sụt sùi, không cầm được nước mắt. Khóc sụt sùi, không cầm được nước mắt.

X

60. Héo gan héo ruột

Quá lo lắng giày vò trong lòng.

Quá buồn phiền, lo lắng trong lòng giày vò, day dứt.

X

Nói lòng đau xót ngấm ngầm.

61. Héo hon ruột tằm

Đau đớn, xót xa, héo hắt thầm lặng, ngấm ngầm trong lòng trong dạ.

Chỉ những giọt nước mắt tức tưởi thi nhau tuôn trào cho những lời than tiếng thở nghẹn ngào vì một oan ức, mất mát phải chịu đựng. Nói đến sự đau đớn tột cùng, buồn khổ vô hạn vì sự buồn phiền quá lớn nào đó đến mình. Nói đến sự bồn chồn lo lắng, lẫn đau khổ vì một chuyện riêng tư nào đó.

Héo ruột,

X

62. héo gan

Quá lo lắng giày vò trong lòng.

Quá lo lắng bôn chồn, giày vò trong lòng đến khô héo cả gan ruột.

63. Hờn duyên tủi phận

Tủi khổ vì duyên phận hẩm hiu.

Than thở buồn phiền về duyên phận hẩm hiu.

X

64. Kẻ khuất người còn

Sự đau đớn, mất mát khi người thân bị chết.

Nói người nào buồn rầu hết sức mà không muốn nói với ai nỗi đau khổ của mình. Lời than thở của người phụ nữ có duyên phận hẩm hiu. Nói đến sự đau xót khi người thân đã chết.

X

65. Kêu trời trách đất

Kêu la, oán trách trời đất.

Kêu van, than thở về số phận, nỗi khổ của mình.

Người sống ở đời mà không gặp được những điều như sở nguyện. Khi yêu thương nhau phải cách biệt âm dương thì còn gì đau đớn cho bằng. Người đời khi gặp điều gì oan ức hay có chuyện buồn phiền, than thân trách phận mong trời soi hết nỗi oan ức, khổ đau.

X

X

X

66. Khóc dở cười cũng dở

X

67. Khóc dở mếu dở

Khóc lóc, đau đớn khổ cực.

Đau buồn, khổ sở vì thua lỗ thất thiệt.

Nói trạng thái đau buồn nhưng không dám tỏ ra. Nói người đang ở trong cảnh buồn khổ vì thua lỗ hoặc vì tiếc của. Nói người vì lí do gì đó khóc quá

68. Khóc đứng khóc ngồi

Khóc lóc nhiều không nguôi ngớt.

Khóc lóc liên miên không dứt.

Chỉ đến việc đau buồn quá độ khiến

222

nhiều.

khóc mãi khôn nguôi.

X

X

X

69. Khóc gió than mây

X

X

70. Khóc hết nước mắt

Sầu não, u buồn một cách vu vơ, không chính đáng. Khóc nhiều triền miên, đến mức như khô cạn nước mắt.

X

X

71. Khóc mướn khóc vay

Sự đau khổ tột cùng mà mình phải chịu đựng nên càng khóc càng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Thấy một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt cảm thấy xót xa, thương cảm.

Khóc lóc thảm thiết.

72. Khóc như cha chết

Thương cảm đau đớn trước cảnh ngộ của một người khác một cách giả dối không thành thật. Khóc lóc thảm thiết sướt mướt.

Nói về người nào khóc lóc thảm thiết.

Chỉ người khóc than quá thảm thiết, lăn lộn tức tưởi.

X

X

X

73. Khóc như gió như mưa 74. Khóc như mưa (như gió)

Khóc nhiều khóc sướt mướt. Khóc nhiều khóc sướt mướt.

Khóc sướt mướt, khóc nhiều. Khóc sướt mướt, khóc nhiều.

X

75. Khóc như ri

Khóc la ầm ĩ, nhiều tiếng khóc cùng một lúc.

Khóc râm ran , nhiều tiếng khóc cùng một lúc.

X

X

Khóc sướt mướt, khóc thiệt nhiều do quá thương cảm Tiếng khóc của nhiều người cùng hòa quyện vào nhau nghe vang cả một vùng. X

76. Lời nói đau hơn roi vọt

Nhiều khi lời nói người ta làm cho mình đau khổ. Đau quá

X

77. Lời nói tựa nhát dao

X

Lời nói sâu sắc, thâm làm thúy, lòng người đau khác. Đau đớn xót xa đến tột cùng

Lời nói mỉa mai chạm tự ái và danh dự người khác làm người ta đau đớn. Nỗi đau đớn khôn cùng không sao tả xiết được.

X

X

78. Lòng đau như (dao) cắt 79. Mang tủi đeo sầu

Buồn tủi, tự ti vì thân phận thấp hèn của mình.

Mặt buồn, ủ rũ.

X

80. Mặt như đưa đám

Thân thể đau đớn, mệt mỏi Đau đớn, xót xa tột độ trong lòng. Chịu đựng hờn hờn giận sầu tủi một cách thầm lặng. Mặt buồn ủ rũ như vẻ mặt người đưa đám tang.

81. Mặt ủ mày chau

Có vẻ mặt u sầu rầu rĩ, khổ đau.

Tả người buồn rầu ủ rũ.

Vẻ mặt buồn rầu, đau khổ.

Nói đến kẻ mặt mày ủ rủ, buồn xo vì đang lo nghĩ một chuyện gì quan trọng lắm. Người đang có chuyện buồn phiền thì mặt mày ủ dột, cau có biếng nói biếng cười.

223

82. Máu chảy ruột mềm

ruột

Anh chị em với nhau phải thương xót nhau.

Tình thương yêu, xót xa giữa những người ruột thịt, cùng nòi giống.

Đau xót thương yêu khi những người thịt người cùng nòi giống của mình bị tàn sát, bị thương đau.

X

X

Nói đến tình cốt nhục. Nếu một người bị bệnh, cả nhà buồn. Nếu một người mất đi thì cả nhà đau khổ như chính mình bị đứt từng khúc ruột. X

83. Mây sầu gió thảm

X

84. Mua não chác sầu

Tự gây ra đau khổ, sầu não.

Nói người bỗng tỏ ra buồn rầu, sầu thảm.

X

85. Mua sầu chuốc não

Tự gây ra đau khổ, sầu não.

Sầu thảm, buồn đau đến nỗi trời đất cũng nhiễm buồn. Tự gánh lấy, tự chốc lấy sầu não, buồn tủi. Tự gánh lấy, tự chốc lấy sầu não, buồn tủi.

X

Người có tính ủy mị, lúc nào cũng sầu thảm với những chuyện không đâu. X

Tả cảnh đau buồn thê thảm. X

X

X

Quá lo lắng giày vò trong lòng. Quá lo lắng giày vò trong lòng.

86. Muôn thảm nghìn sầu 87. Não gan não ruột 88. Nát gan nát ruột

Sầu não, đau buồn thê thảm. Tâm trạng buồn bã đau đớn rối bời. Quá buồn phiền, lo lắng trong lòng giày vò, day dứt.

Nói đến sự đau đớn tột cùng, buồn khổ vô hạn vì sự buồn phiền quá lớn nào đó đến mình.

X

X

89. Nát như dưa

Nói người nào buồn rầu hết sức mà không muốn nói với ai nỗi đau khổ của mình.

X

90. Nát như tươm

Trong trạng tâm rối bời, mệt mỏi, đau đớn, trăm mối lo nghĩ mà chưa có lối thoát. Tâm trạng rối bời tả tơi tan nát.

Đau đớn, buồn phiền.

91. Nát như tương

Đau đớn buồn phiền.

Ở trong tâm trạng rối bời, tả tơi, tan nát.

Chê một tổ chức nào đó không giữ nề nếp kỉ cương.

92. Nát ruột nát gan

Quá lo lắng, giày vò trong lòng.

Quá buồn phiền, lo lắng trong lòng giày vò, day dứt.

Chê tổ chức nào không còn giữ được nề nếp kỉ cương.

Nát ngướu ra thành những mảnh nhỏ, vô phương cứu chữa được. Tình hình thoái hóa quá độ gần như bị tiêu tan, hủy hoại không còn phương cứu chữa. Sự đau đớn tột cùng, buồn khổ vô hạn vì một sự buồn phiền quá lớn nào đó đến với mình. X

93. Nẫu gan nẫu ruột

Quá lo lắng, giày vò trong lòng.

Quá buồn phiền, lo lắng trong lòng giày vò, day dứt.

Nói sự suy nghĩ lâu ngày về một nỗi buồn rầu, đau xót.

X

94. Nẫu ruột nẫu gan

Quá buồn phiền, lo lắng trong lòng

Quá lo lắng, giày vò trong lòng.

Khi có chuyện buồn phiền quá độ

224

giày vò, day dứt.

X

thì lòng dạ con người nóng rang lên, xốn xang khó chịu. Người ta cảm tưởng như ruột gan bị nát tan thành những mảnh vụn. X

95. Nẫu ruột rầu gan

Quá lo lắng, giày vò trong lòng.

96. Ngậm bồ hòn làm ngọt

Đau xót mà phải nhẫn nhịn.

Đó là trường hợp mình phải gặm nhấm cái lỗi do mình lỡ gây ra.

Chịu đựng đau khổ nhẫn nhục, không dám kêu ca,oán than, có khi còn tỏ ra lấy thế làm vui.

97. Ngậm đắng nuốt cay

Có sự đau xót trong lòng mà không thể nói ra.

Chịu đựng đau đớn, khổ nhục, không dám kêu ca, oán thán.

Quá buồn phiền, lo lắng trong lòng giày vò, day dứt. Dằn lòng, nén chịu cay đắng, cố tạo vẻ vui bề ngoài để che giấu nỗi chua chát , xót xa trong lòng. Phải nhẫn nhục chịu đựng đều cay đắng mà không dám kêu ca, oán than gì.

Người ta phải gánh chịu cảnh “ngậm đắng nuốt cay” là để tạo ra một mối lợi nào đó cho mình hay cho kẻ khác .

X

X

Nén chịu hờn giận sầu tủi trong lòng.

98. Ngậm hờn nuốt tủi

X

X

99. Nghĩ thối ruột thối gan

Chịu đựng hờn giận sầu tủi một cách thầm lặng. Suy nghĩ nhiều , nung nấu đến lo lắng.

trông

Suy nghĩ nhiều, rất lung, đến mức dằn vặt, dày vò tâm can. Nhăn mặt, khổ sở.

Phản ứng nha7n nhúm mặt lại.

Chê người nào nhăn nhó để tỏ ý bực mình.

Tả người nhăn mặt ra vẻ khổ sở.

100. Nhăn nhó như khỉ ăn gừng (mắm tôm) 101. Nhăn nhó như nhà khó hết ăn

Vẻ mặt cau có,luôn tỏ ra khó chịu, bực bội.

Vẻ mặt cau có, buồn bực như không còn lương ăn.

X

102. Như ngậm bồ hòn

Nói sự ngấm ngầm đau xót, cay đắng.

Ngấm ngầm chịu đựng thiệt thòi cay đắng mà không dám kêu ca, oán than gì.

X

103. Nửa khóc nửa cười

Buồn bực trong lòng nhưng phải ngượng cười.

Ở vào tình cảnh đau khổ, buồn phiền, lo sợ đến phát khóc.

Chỉ sự đau khổ, hoặc quá buồn bực do mất một vật gì quý giá. Nhà hết gạo thì người bị quan cũng phải gục đầu mà khóc đừng nói chi chỉ nhăn nhó chỉ sự xúc động của người nào về sụ việc thương tâm nào đó. Chỉ người đang gặp cảnh oan ức trái ngang nhưng không dám tỏ cùng ai, âm thầm chịu đựng. Gặp chuyện ương ương dở dở, không đáng khóc nhưng không thể mỉm cười.

104. Nửa

X

X

Vừa vui mừng vừa

X

225

mừng nửa tủi

thương cảm sầu tủi.

X

X

X

105. Nước mắt (chảy) vòng quanh 106. Nước mắt cá sấu

Rưng rưng chỉ chực khóc vì cảm kích xúc động. Bề ngoài tỏ ra đau xót bên trong thì dửng dưng.

Giả vờ thông cảm, thương xót để đánh lừa người khác.

Chê kẻ giả dối, bê người ra vẻ thương xót nhưng thực tế chỉ muốn hại người.

Chỉ kẻ giả nhân, giả nghĩa, khóc lóc dối trá, không thành thật với cảm xúc của lòng mình. X

X

Khóc than sụt sùi.

Khóc sụt sùi, khóc nhiều.

X

X

107. Nước mắt dài nước mắt ngắn 108. Nước mắt lưng tròng

Rưng rưng chỉ chực khóc vì cảm kích xúc động.

Chỉ sự xúc động của một người nao về một sự việc thương tâm nào đó.

X

X

Khóc sụt sùi, khóc nhiều.

Khóc lóc sụt sùi sầu thảm.

X

X

X

Khóc nhiều khóc sướt mướt. Buồn rầu sầu não. Buồn rầu quá.

Buồn rầu, ão não.

X

X

X

X

109. Nước mắt ngắn nước mắt dài 110. Nước mắt như mưa 111. Rầu như dưa 112. Rầu rĩ như khỉ chết con

Con người có chuyện buồn cũng rầu rĩ, tứ chi xuội lơ, không buồn cử động, nét mặt u tối, cau có…

X

X

Đau đớn xót xa tột cùng.

Đau đớn xót xa đến tột cùng.

X

X

X

Đau đớn xót xa tột cùng. Đau đớn xót xa tột cùng.

113. Ruột đau (xót) như xát muối (muối xát) 114. Ruột đau như cắt 115. Ruột đau như cắt

Thường dùng để nói lên sự đau xót về tinnh thần.

X

X

Đau đớn xót xa tột cùng.

116. Ruột đau như xát muối.

X

X

Đau đớn xót xa tột cùng.

X

X

117. Ruột rát (xót) như bào 118. Tất tưởi như nợ đuổi sau lưng

Đau đớn xót xa đến tột cùng. Đau đớn xót xa trong lòng, đau như dao cắt. Đau đớn xót xa trong lòng, đau như dao cắt. Ruột rát (xót) như bào. Tất bật, vội vã, lật đật, trông vất vả khổ sở.

119. Tay đứt ruột (dạ) xót

ruột Tình nghĩa thân thuộc, thịt, biết thương xót nhau khi gặp hoạn

Nói người thân của mình mà có sự đau buồn thì mình cũng xót xa.

Tình ruột thịt,thương xót nhau khi gặp hoạn nạn.

Nói đến sự hấp tấp lật đật chạy đôn chạy đáo để lo công kia việc nọ của người nào đó. Nếu bà con có ai gặp rủi ro như đau ốm tai nạn thì anh em trong dòng tộc

226

nạn, tai biến.

120. Thân làm tội đời

Tự mình làm khổ mình.

Tự mình làm khổ mình.

sẽ buồn rầu đau xót. Tự làm khỗ mình , tự đày đọa mình.

Chê người nào tự mình làm khổ mình.

X

X

X

X

121. Than mây khóc gió 122. Thân tàn ma dại

Ủy mị, sầu não, buồn thảm. Thân tàn tạ, ốm yếu, đờ dại, sống lắt lay buồn chán.

123. Than thân trách phận

Đau khổ, than thở về số phận đáng buồn của mình.

Tả cảnh những người ốm đau lâu ngày than gầy, người yếu chỉ còn sống lay lất và chán nản. Nói người ở trong cảnh đau khổ than thở vì phận chẳng may.

Tự oán trách, than thở về số phận không may của mình.

Làm ăn thất bại, đời sống quá thiếu thốn thì người trở thành ngợm, thân xác tiều tụy, không ra thể thống gì. Khuyên mọi người nên biết chịu đựng nên cố gắng phấn đấu thêm nữa để may ra có đời sống tốt đẹp hơn.

X

X

X

X

X

Kêu la, oán trách trời đất. Quá lo lắng, giày vò trong lòng.

124. Than trời trách đất 125. Thắt gan thắt ruột

X

X

Quá lo lắng, giày vò trong lòng.

126. Thắt ruột thắt gan

127. Thở ngắn than dài

Than thở về tình cảnh hay số phận của mình.

Than thở, biểu lộ sự suy tư buồn phiền.

Lo lắng đến mức giày vò tâm can, lòng dạ. Lo lắng đến mức giày vò tâm can, lòng dạ. Than thở với nhiều nỗi buồn phiền, sầu muộn.

Lúc buồn bực một vấn đề gì mà không biết thổ lộ cùng ai hoặc có ẩn ức chưa giải tỏa để thường ưu tư.

X

Gần chết , suýt chết.

128. Thừa chết thiếu sống

chết

Vừa trải qua một việc rất nguy hiểm.

X

X

129. Thương gió nhớ mưa

X

X

130. Thương tâm thảm mục

Chê người mơ mộng yêu thương vẫn vơ. Nói cảnh đau lòng mà mắt mình trông thấy.

Đau đớn đến mức tưởng đi được, gần chết, suýt chết. Mơ mộng, buồn thương, nhớ nhung vẫn vơ. Thương xót đau lòng trước cảnh thương tâm mà mắt mình trông thấy.

X

X

X

131. Thương thân tủi phận

Tự thương xót cho số phận, bản thân mình bị rủi ro bất hạnh.

X

132. Thương vay khóc mướn

Chê người không thành trong thật khi tỏ tình thương.

Chê bai những kẻ không thành thật trong tình cảm.

Thương cảm đau đớn trước cảnh ngộ của một người khác một cách giả dối không thành thật. Ỉu xìu, buồn rầu do

133. Tiu nghỉu

X

Ỉu xìu, buồn bã,

X

227

thất vọng.

Ỉu xìu, buồn bã, thất vọng.

như chó cụp đuôi 134. Tiu nghỉu như mèo bị cắt tai

bị hụt hẫng, thất vọng. Ỉu xìu, buồn rầu do bị hụt hẫng, thất vọng.

Chỉ nét mặt buồn rũ rượi cơ hồ như không thiết tha đến một việc gì nữa.

X

X

135. Tơ chùng phím loan.

Lòng sầu thảm lúc chia ly.

X

136. Trăm cay nghìn (ngàn) đắng

Chịu đựng nhiều nỗi cay đắng tủi nhục.

Chịu mọi sự cay đắng, hết sức khổ nhục.

Vì thất vọng nên buồn rầu lắm, không muốn nói năng, không muốn làm gì. Đàn để dây chùng, không dùng nữa vì buồn rầu . Nói lên tất cả sự đau khổ ngắm ngầm của người nào.

X

X

137. Trăm đắng ngàn cay

Chịu mọi sự cay đắng, hết sức khổ nhục.

X

X

X

X

138. Trăm đường nghìn nỗi 139. Trăng tủi hoa sầu

Chịu đựng nhiều nỗi cay đắng tủi nhục. Bận lòng, nhiều nỗi lo lắng ngổn ngang trong lòng. Tủi sầu, buồn rầu, đau khổ.

140. Ủ liễu phai đào

Có vẻ mặt buồn rầu, nhợt nhạt.

Nói lên mối lo lắng ngổn ngang trong lòng. Nói cảnh buồn rầu của người tình nhân. Tả vẻ mặt buồn của một người phụ nữ đẹp.

Nét mặt buồn rầu, rầu rĩ của người phụ nữ.

X

Nếu liễu mà ủ dột, đào mà tàn phai thì có nghĩa là cô gái đang buồn rầu mà kém tươi nhan sắc. X

141. Xé gan xé ruột

Đau đớn, xót xa tột độ.

X

X

142. Xé ruột xé gan

Đau đớn, xót xa tột độ.

Đau đớn, xót xa đến nhức nhói gan ruột . Đau đớn, xót xa đến nhức nhói gan ruột .

X

X

X

143. Xót gan bào ruột

Khi gặp chuyện buồn phiền quá lớn, đau khổ có khi quặn quại tột cùng, người ta có cảm tưởng bị ai lấy muối chà xát lên gan ruột.

X

X

X

144. Xót liễu vì hoa

X

Thương xót người phụ nữ trong cảnh đau khổ. Nói nỗi lòng đau xót và buồn bã.

Đau xót, buồn phiền, héo hon lòng dạ.

X

X

X

145. Xót như muối, rầu như dưa 146. Xót xa đứt đa lòng ruột

Nói đến sự đau buồn dẳng dai khôn dứt. Sự đau đớn nào cũng dày vò tâm can, chứ không hời hợt bên ngoài.

228

3.3. CÁC THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT BIỂU THỊ CẢM XÚC GIẬN

[52]

[31]

[34]

[3]

Thành ngữ tiếng Việt 1. Ăn gan uống

X

X

máu

Chỉ sự căm thù cực độ.

2. Ba máu sáu

cơn

Nói người phụ nữ nổi cơn tam bành.

Tức giận nổi khùng.

Căm phẫn cao độ, nóng lòng báo thù. Nổi khùng, tức giận, ghen ghét một cách lồng lộn, sôi sục.

3. Bầm gan lộn

Cơn ghen trỗi dậy thì liên tục “đá thúng đụng nia” lại khóc la ỏm tỏi làm phiền lòng cả xóm giềng X

X

ruột

Căm phẫn,uất hận đến cực độ.

4. Bầm gan sôi

X

X

X

máu

5. Bầm gan tím

ruột

Căm thù, oán hờn một cách cao độ. Căm thù, oán hờn một cách cao độ. Căm thù, oán hờn một cách cao độ.

Căm phẫn,uất hận đến cực độ.

Nói tình trạng tức tối vô cùng nhưng chưa nói được ra.

6. Bất cộng đái

Chỉ sự căm giận một người nào đó đến mức độ cao mà chưa thể nói ra được. Không đội trời chung.

thiên

Thù oán sâu sắc, thể cùng không tồn tại trên đời.

Nói đến mối thù sâu sắt giữa hai người.

Hận thù sâu sắc, không thể dàn hòa, chung sống được.

7. Bố vợ phải

X

X

X

đấm

8. Cáu gắt như

X

X

mẻ

Ấm ức mà phải nén chịu, bực bội. Cáu kỉnh, gắt gỏng vẻ khó chịu, tức giận.

9. Cau mặt cau

X

X

X

mày

X

10. Cay như ớt

Rất tức, cay cú vì bị thua thiệt.

Nói đến mối thù sau sắc giữa hai người. Tỏ ý tức giận, bực mình. Bị thua thiệt nặng nề mà không dám kêu ca.

11. Cấm cẳn như

X

Cách nói khi giận.

chó cắn ma

Nói gắt gỏng khó nghe.

Cay cú vì thua thiệt, không làm được gì, không dám tỏ thái độ ra. Nói gắt năng gỏng, đanh, lạnh lùng.

12. Căm gan

X

X

X

ngứa tiết

13. Căm gan tím

Nói lên sự tức giận quá chừng. X

X

ruột

Căm phẫn, uất hận đến cao độ.

X

Gặp chuyện bất bình khiến người ta giận quá đỗi giận đến nỗi phải uất lên không sao nhất thời làm khuây khỏa được X

X

14. Cắn răng

bấm bụng

Cố nén lòng lại, nhẫn nhục, chịu đựng để không biểu lộ thái độ, lòng căm giận, thù ghét ra ngoài.

229

15. Cắn răng

X

X

X

bậm miệng

16. Con gà tức

Cố nén lòng lại, nhẫn nhục, chịu đựng để không biểu lộ thái độ, lòng căm giận, thù ghét ra ngoài. X

nhau tiếng gáy

Ghen tức ghen tỵ nhau.

Nói tâm lí người thường lo ganh đua nhau, không chịu kém người.

Con người ai cũng có tính tự ái và tự ái được xem là con dao hai lưỡi, tự ái đúng chỗ là tốt, nếu sai chỗ thì xấu.

X

17. Cơn tam

X

X

bành

Sự giận dữ ghen tuông đến dữ dằn, nghiệt ngã của đàn bà.

X

18. Chạm phải

X

X

gai

Bực tức, nổi khùng khi bị động chạm tới lòng tự ái.

X

X

19. Chép miệng

Tỏ ý bực tức hoặc chán nản.

chép môi

X

20. Chuốc dữ

Gây ra sự oán thù của người khác đối với mình.

Tự mang lấy sự oán thù giận hờn về mình.

cưu hờn

X

21. Chuốc não

X

Tự mang lấy sự oán thù giận hờn về mình.

cưu hờn

Tỏ thái độ bực tức hoặc tiếc rẻ điều gì. Tự gây ra sự thù hằn, oán hờn cho chính bản thân mình. Tự gây phiền muộn, đau khổ oán hờn cho mình.

X

22. Chửi bóng

X

nhưng tên

chửi gió

X

23. Chửi cạnh

nhưng tên

chửi khóe

Chửi không gọi người ta ra. Chửi không gọi người ta ra.

Không chửi thẳng mượn cái khác để chửi. Không chửi thẳng mượn cái khác để chửi.

X

X

24. Chửi cha không bằng pha tiếng

Khuyên người không nên nhại tiếng của nói người địa phương khác.

25. Chửi chó

mắng mèo

Mượn cớ chửi cái khác để biểu thị sự tức giận.

Chê người nào có vẻ tức giận với người khác bằng cách chửi mắng bâng quơ.

Chửi xa, chửi gần, có tính ảm chỉ, không chửi rõ tên. Nhại tiếng địa người phương khác là xúc phạm, dễ làm người ta tự ái mà phản ứng lại. Mượn cớ mắng chửi cái khác nhằm biểu hiện sự tức giận với người khác.

26. Chửi chùm

X

X

Người ta tỏ nỗi giận của mình bằng chửi xéo nhằm vào con mèo con chó mà chửi để người kia chạnh lòng X

chửi lấp

Chửi tới tấp và to tiếng nhằm che lấp việc làm sai trái chủa mình.

230

27. Chửi lắm,

X

X

X

nghe nhiều.

Lời phản ứng của người bị chửi.

28. Chửi lên

X

X

X

mắng xuống

29. Chửi mèo

X

X

mắng chó

Chửi mèo

Chê người nào có vẻ tức giận với người khác bằng cách chửi mắng bâng quơ. X

X

30. quèo chó

Nói thái độ cạng khóe để tỏ thái độ tức giận, bất bình.

31. Chửi như chó

X

Chê người luôn chửi người khác.

Chửi nhiều chửi san sát.

ăn vã mắm

Bị mắn chửi nhiều, hết lần này đến lần khác. Mượn cớ mắng chửi cái khác nhằm biểu hiện sự tức giận với người khác. Mượn cớ mắng chửi cái khác nhằm biểu hiện sự tức giận với người khác. Chửi nhiều, chửi tới tấp.

32. Chửi như hát

X

X

X

hay

33. Chửi như mất

X

X

Chửi nhiều và chửi thậm tệ.

34. Chửi như ó

X

X

X

35. Chửi như tát

X

nước vào mặt

Chửi nhiều, chửi xối xả.

Chửi thường xuyên, đến mức quen lì, trở thành chuyện bình thường, lúc nào thích chửi là chửi liền. Chửi dai dẳng và thậm tệ. Chửi nhiều to và ầm ỉ. Chửi thậm tệ, liên hồi với lời lẽ cay độc.

36. Chửi như vặt

X

Hễ ai làm phật ý là lớn tiếng xỉ vả hoặc la toáng lên như kẻ hóa rồ với lời độc ác. X

thịt

Chửi đay nghiến độc cay địa, nghiệt.

Chửi xa xả và thậm tệ khiến người nghe chửi phải đau xót.

37. Chửi trùm

X

X

chửi lợp

Chửi lấy được , chửi át không cho người khác cãi lại.

38. Chướng tai

X

gai mắt

Trái lẽ phải, ngang ngược gây khó chịu, bực tức.

39. Day tay mắm

X

miệng

40. Đá mèo quèo

chó

Nói hành động cạnh khóe để tỏ thái độ tức giận , bất bình.

Chửi tới tấp, chửi lấy được, chửi lấn át không cho đối phương cãi lại, chửi lại. Ngang ngược trái lẽ thường, gây sự khó chịu khi nghe khi nhìn. Biểu lộ tính hung hăng, muốn hành động cho hả giận. Mượn cớ mắng chửi cái khác nhằm biểu hiện sự tức giận với người khác.

Chỉ những lời nói vả việc làm khiến người ta phải khó chịu. Chê kẻ làm ra vẻ tức giận, hung hãn. Chê người bực mình với người khác chỉ dồn bực tức của mình vào các con vật trong nhà.

Thái độ của người giận dữ trông thô kệch xấu xí. Giận ai không mắng chửi ngay người đó mà lại chửi xiên chửi xéo chửi người này dằn mặt

231

X

41. Đá mèo quèo(khoèo) rế

Nói hành động cạnh khéo để tỏ thái độ tức giận bất bình.

Mượn cớ mắng chửi cái khác nhằm biểu hiện sự tức giận với người khác.

42. Đá thúng

đụng nia

Nói hành động cạnh khéo để tỏ thái độ tức giận bất bình.

người kia. Khi gặp chuyện bực mình,giận dỗi thì ít khi họ phản ứng bằng lời nói mà gặp gì quăng nấy. Xích míc người này có thể liên lụy đến anh em dòng họ người ta.

Có thái độ bực dọc, tức giận gián tiếp qua cử chỉ, hành động có tính thô bạo

43. Đánh như

X

két, thét như lôi

Nổi nóng, đánh đập thậm tệ, quát tháo ầm ĩ.

Chê người bực mình với người khác chỉ dồn bực tức của mình vào các con vật trong nhà. Chê kẻ làm cho mẹ nóng nảy đánh con.

Đánh nhiều dữ đòn,tiếng roi như tiếng chim két bay.

X

X

44. Đào đất đổ đi Ghét lắm, tức giận lắm, đến mức đối xử tàn nhẫn thậm tệ với nhau.

45. Đằng đằng

X

X

Ám chi người đàn bà chua ngoa, hễ giận ai thì cố bươi móc lên tuổi hay chuyện xấu đời ông cha ra chửi. X

sát khí

46. Đập bàn đập

Tỏ vẻ tức giận.

X

X

ghế

47. Đầy gan đầy

X

X

Chí khí mãnh liệt, bốc lửa hừng hực, được biểu lộ trên nét mặt, như muốn thiêu cháy, tiêu diệt kẻ đối nghịch với mình. Tức quá giận mức, hách dịch muốn tỏ quyền uy của mình với người đang đối thoại. Tức tối, căm giận đến cao độ.

ruột

X

49. Đổ dầu vào

X

lửa

Ám chỉ người đang nổi cơn giận dữ hay thẹn thùng khiến máu nóng dồn hết lên mặt. Người bên ngoài lại chõ mồm vào hùa theo một bên để hai vợ chồng cãi vả lớn hơn.

48. Đỏ mặt tía tai Mặt mày đỏ gay lên, thường do tức giận, do xấu hổ hoặc do chất men kích thích. Tăng thêm sức thích cho kích lòng căm giận hoặc cho chí khí, sức mạnh quật khơi.

50. Gà tức nhau

tâm

lên

X

tiếng gáy

Nói tình trạng tức giận vô cùng. Nói mặt đỏ lên vì tức giận. Đôi khi cũng dung để nói mặt đỏ vì xấu hổ quá. Hai người đang giận nhau thì có người thứ hai châm vào những lời xúi bẩy khiến them càng họ ghét nhau. Nói lí ganh đua, không chịu kém người khác.

Chỉ người hung hăng háo thắng không muốn thua kém một ai.

Ghen tỵ, ganh đua, tức tối trước sự vượt trội của người khác so với mình.

51. Gắt như mắm Hay cáo bắn, gắt

Chê người có tính Hay gắt gỏng, cáu

X

232

(thối, tôm)

hay gắt gỏng.

kỉnh.

52. Ghét cay ghét

X

đắng

53. Ghét đào đất

gỏng với người khác. Căm ghét, ác cảm một cách sâu sắc. X

đổ đi

Có ác cảm sâu sắc với người nào. Có ác cảm sâu sắc với người nào.

Hết sức thù ghét căm giận tột độ. Hết sức thù ghét, căm giận.

Khuyên ta rằng ghét bỏ ai cũng không ích lợi gì cho mình cả trái lại thêm phiền muộn bực dọc.

54. Ghét ngon

X

X

ghét ngọt

Căm thù oán sâu xa.

55. Giận cá chém

thớt

làm

Giận người nào không gì được người ta lại trút giận bực tức lên người khác.

Giận ai nhưng không làm gì được nên nhằm người khác có liên quan để trả thù.

Rất ghét nhưng tỏ thái độ mềm mỏng. Giận một người nào nhưng không làm được gì bèn trút sự bức tức tới người khác hoặc những thứ khác có liên quan.

56. Giận con rận,

X

X

đốt cái áo

làm

Ám chỉ việc vợ hay chồng giận nhau nhưng lại không dám làm gì nhau mà lôi con ra đánh cho đỡ tức. Giận con rận muốn đốt ngay cái áo cho đỡ tức.

57. Giận chồng,

X

X

vật con

làm

Giận người nào không gì được người ta lại trút giận bực tức lên người khác. Giận người nào không gì được người ta lại trút giận bực tức lên người khác.

58. Giận mất

X

tức giận

X

khôn

, Khi người ta không đủ bình tĩnh suy xét nên thường mắc sai lầm.

X

59. Hung hăng

Chê giểu kẻ hung bằng và tợn nhắng.

như nhặng vào chuồng tiêu

Nó I dến lối “ vật con “ của các ông quan hách dịch ngày xưa, hễ cấp trên khiển trách thì hành cấp dưới vô tội vạ. Người đã giận thì máu nóng dồn lên mặt, tính khí hung hăng những muốn đập phá hay la lối, hành vi như điên dại. Kêu la gào thét cho đã cơn giận của mình

Hung hăng, lấc láo, bắng nhắng, tỏ ra hơn người một cách ngu xuẩn.

60. Không đội

X

X

X

trời chung

61. La làng la

xóm

Hận thù sâu sắc, không thể dàn hòa, chung sống được. Kê la nhiêu , phản ứng mạnh trước việc gì.

Kêu la ầm ĩ để vu vạ hoặc thỏa nỗi bực tức.

Kêu ầm ĩ lên để tỏ nỗi bực tức của mình.

62. Làm mình

làm mẩy

Với vẻ giận dỗi, bực bội để hạch sách, đòi hỏi để

Chê kẻ có vẻ hờn dõi, ra vẻ không cần đến ai.

Tỏ thái độ giận dỗi, bực bội, để phản đối hoặc yêu

Đây là hình thức làm mình làm mẩy cho đã cơn giận của mình chỉ một chốc rồi thôi. Người ta nổi giận thì cử chỉ và lời nói không còn giữ

233

sách.

phản đối điều gì đó.

63. Lầm lầm như

X

chó ăn vụng bột

Nói mặt xị xuống vì bực tức nhưng không nói gì.

Có vẻ mặt xịu xuống, tỏ ra bực bội, tức tối nhưng không nói ra.

64. Lẩu bẩu như

X

chó hóc xương

Nói nhỏ trong miệng, vẻ bực tức, khó chịu.

Chê người cứ nói trong lẩm bẩm mồm những lời oán trách.

65. Léo nhéo như

X

mẹ ranh

Nói nhiều, dai dẳng, gây khó chịu.

66. Lửa cháy

(đổ) thêm dầu

thứ

Lòng căm thù, tức giận bị kích động càng tăng thêm gấp bội.

Nói nhiều, gọi luôn mồm với giọng chua đanh, khó chịu. Tăng thêm sức kích thích cho lòng căm giận hoặc cho chí khí, sức mạnh quật khơi.

Hai người đang tức giận nhau người ba châm vào những lời xúi bẩy khiến họ lại càng thêm thù ghét nhau.

67. Mắng như tát

X

nước vào mặt

Tức là mắng mỏ ai dữ tợn lắm.

Mắng chửi xa xả, tới tấp, không để cho kịp hỏi lại.

mứ độ bình thường thường la hét vùng vằn g, quạo quọ nhằm mụ đích người khá xin lỗi, chiều chuộng. Chỉ gương mặt những người lì lợm có lỗi mà không chịu phục thiện, cứ lầm lầm lì lì. Chỉ người ưa nói dai dẳng chuyện không ra gì cũng để tâm lầu bầu mắng nhiếc người khá mãi cho đã ơn tức. Người đã chua ngoa thì khi giận ai họ có hành vi quá quắt. Hai vợ chồng có huyện xích mích thì có người thứ ba chõ mồm vào hùa theo vợ hoặ theo chồng làm cho vợ chồng người ta cãi vã lớn hơn nữa. Vì quá giận nên người ta mới phát cuồng lên mắng xối xả vào mặt người mình giận một hồi đỡ tức.

68. Mặt cách

X

X

X

lòng xa

69. Mặt đỏ như

X

lửa

Nói người mặt đỏ lên vì tức giận.

X

70. Mặt đỏ tía tai

Nói người mặt đỏ lên vì tức giận.

Giận dỗi, mâu thuẫn mà xa lánh nhau. Mặt mày đỏ ửng lên vì bực tức hoặc e thẹn. Mặt mày đỏ ửng lên vì bực tức hoặc e thẹn.

71. Mặt nặng

X

X

mày nhẹ

Có những cử chỉ, lời nói tỏ ra khó chịu, bực bội, tức tối.

Người ta khi giận dữ thì mặt mày đỏ rần lên trông dữ tợn quá chừng. Giận mà không chịu nói cứ giữ kín trong lòng, do đó, lúc nào cũng tỏ ra buồn bực, nhiều khi cau có với mọi người

234

xung quanh

72. Mặt nặng

X

X

như chì

Vẻ mặt lầm lì, bực bội.

73. Mặt nặng

như đá đeo

Vẻ mặt lầm lì, bực bội.

Mặt nặng chịch, lầm lì, tỏ ra bực bội, tức giận. Mặt nặng chịch, lầm lì, tỏ ra bực bội, tức giận.

Chê người xị mặt ra vì bực tức mà không nói ra.

74. Mặt nhăn

X

như bị

Chê người nhăn nhó vì có việc gì bực tức.

Mặt nhăn nhó vì đau đớn, mệt nhọc hoặc bực tức.

Người buồn bực giận hờn hoặc bất mãn một điều gì thì mặt cau có phụng phịu, nặng nề như đá đeo. Là người đang gặp chuyện lo buồn hoặc đau khổ mà chưa có cách giảng giải được.

75. Mắt như nảy

X

X

X

(đổ) lửa

76. Mặt sưng

X

X

mày sỉa

Mắt nhìn dữ dội, tức giận. Giận dỗi đến mức sưng sỉa mặt mày.

Nói mặt nặng ra vì không bằng lòng nhưng không nói ra.

77. Nặng mặt sa

X

X

mày

Giận dỗi, không bằng lòng thể hiện rõ nét mặt.

78. Nóng gan

X

X

nóng phổi

Giận dỗi, mát hờn, bực bội, buồn rầu. Giận dữ đến mức nổi xung lên.

79. Nộ khí xung

thiên

Tức giận cao độ và dữ dội.

Nói sự tức giận ghê gớm.

Tức giận ghê gớm, dữ dội.

Nổi giận, nổi ghen tức.

Nói người phụ nữ nổi giận đùng đùng.

80. Nổi tam bành Nổi cơn tức giận cao độ, không kìm giữ được, thường ở người đàn bà.

81. Nổi trận lôi

đình

Nổi cơn giận dữ ghê gớm.

Giận dữ đùng đùng.

Nổi giận ghê gớm, phát điên khùng.

82. Nuốt giận

làm lành

Không chấp nhặt để bụng, lấy hòa thuận làm trọng.

Khuyên người ta hoà thuận với người đã làm cho mình tức giận.

Khuyên ai nguôi giận tha thu71cho người đã làm nổi giận, bực tức.

83. Ngang tai

X

Mỗi khi có chuyện buồn phiền lo lắng thái quá thì lòng dạ bồn chồn khó chịu ăn không ngon ngủ không yên. Đó là cơn giận dữ dội bốc lên tận trời cao, tức muốn vỡ tung lồng ngực ra tức đến uất lên. Cơn giận nổi lên dữ dội không cần phân biệt đúng sai chỉ muốn đập phá la hét người mình ghét cho đỡ tức. Là cơn giận dữ dội chỉ biết la hét đập phá cho đã nư, không ai tài nào can nổi. Giận nhưng biết nhịn nhục bỏ qua tất cả những lỗi lầm của người lỡ gây ra cho mình. X

chướng mắt

Ngang ngược trái lẽ thường, gây sự

Trái lẽ phải, ngang ngược, gây

235

khó chịu, bực tức.

84. Ngứa ghẻ

hờn ( đòn) ghen

Nghe khó chịu, không thể tiếp thu được.

Nói lên cái sướng thấm thía của con người.

Nói lên sự bực bội chẳng khác nào khi ghẻ bị ngứa ran hoặc khi người ta đánh ghen.

85. Nhăn như

X

X

mặt hổ phù

khó chịu khi nghe khi nhìn. Sự bực tức cao đến mức độ, không thể kiềm giữ lại trong lòng mà phải thể hiện ra lời nói, hành động thô bạo, quá quắt. Mặt mày nhăn nhúm,lộ vẻ cáo giận, đến mức dữ tợn.

Vẻ mặt cau có nổi rõ đường nét nhăn nhúm, dữ tợn như mặt hổ phù trong tranh tượng.

86. Như chó nhai

X

X

giẻ rách

Chê người nào nói dấm dẳng.

87. Như dẫm

X

X

phải lửa

Nói lải nhải, lặp đi lặp lại, bắt mọi người phải nghe điều quá nhàm chán đến mức khó chịu. Giãy nảy, cuống cuồng lên do bị phản ứng quá bất ngờ.

Nói đến người tự nhiên nhảy nhót la hét toán lên do giật mình kinh sợ hoặc do hoảng hốt trước sự việc ngoài sức tưởng tượng đã đột ngột đến với mình.

88. Như đổ thêm

X

dầu vào lửa

thứ

Lòng căm thù, tức giận bị kích động càng tăng thêm gấp bội.

Tăng thêm sức kích thích cho lòng căm giận hoặc cho chí khí, sức mạnh quật khơi.

89. Phùng má

X

trợn mắt

Hai người đang tức giận nhau ba người châm vào những lời xúi bẩy khiến họ lại càng thêm thù ghét nhau. Tả người một cách giận dữ một cách hung tợn.

Vẻ mặt giận dữ, tỏ ra rất hống hách, đe nẹt, dọa dẫm người khác.

90. Ra lườm vào

X

Người quá giận ăn nói quàng xiên như kẻ điên khùng nên cũng không ai để tâm chấp nhất. X

nguýt

91. Sa mày nặng

X

mặt

Có thái độ khó chịu, ganh ghét với những người cùng ở trong nhà. Giận dỗi, mát hờn, bực bội, buồn rầu.

92. Sát khí đằng

X

X

đằng

Nói thái độ khinh bỉ căm ghét đối với người cùng sống trong nhà. Nói thái độ khinh bỉ căm ghét đối với người cùng sống trong nhà. Người có vẻ hung hăng dữ tợn.

Giận dỗi, không bằng lòng thể hiện rõ trên nét mặt. Thái độ cương quyết, quyết liệt với kẻ thù (thể hiện ra vẻ mặt).

93. Sôi gan nổi

Giận dữ, căm thù Nói tâm trạng của Phẫn nộ, tức giận Sự bực tức cùng

236

mật

ghê gớm.

phẫn nộ đến tột độ.

người tức giận đến cực độ.

độ không dễ gì nguôi ngoai trong chốc lát được.

X

94. Tận xương

X

tận tủy

95. Tím gan tím

X

Căm thù rất sâu sắc. Thâm gan, uất hận đến cực độ.

ruột

Chỉ mức độ căm thù cao độ. Căm phẫn, uất hận đến cao độ.

96. Tím như quả

X

Thâm gan, uất hận đến cực độ.

Nói tình trạng tức tối vô cùng nhưng chưa nói được ra. Tả mặt một người đương bực mình.

bồ quân

Mặt tím tái như quả bồ quân, biểu hiện sự bực bội tức tối.

X

97. Tức đầy ruột Tức giận cực độ. 98. Tức hộc máu

X

X Bực tức, tức giận cực độ.

Sự tức giận quá độ đến điên cuồng.

X Giận người nào làm cho mình bực mình đến mức không chịu nổi.

X

99. Tức lòi con

X

ngươi

X

100. Tức lộn ruột

Bực tức, tức giận cực độ Bực tức, tức giận cực độ.

Quá tức tối, bực bội. Tức giận, bực bội đến cực độ.

X

X

101. Tức lộn tiết

Tức cực độ, đến mức sôi máu lên được.

Gặp chuyện không vừa lòng khiến uất ức giận không chịu đựng được. Khi giận thì người ta tức tối gần như điên cuồng, muốn la hét đập phá cho hả cơn giận.

X

102. Tức nổ mắt

X

X

103. Tức nổ ruột

X

Bực tức, tức giận cực độ. Bực tức, tức giận cực độ.

Tức tối, ấm ức.

104. Tức như bò

Bực mình vì một chuyện rất vô lí.

đá

Quá tức tối, bực bội. Tức cực độ, đến mức sôi máu lên được. Bực tức, ấm ức trong lòng.

X

Tức tối, ấm ức.

105. Tức như đấm

bị bông

Tức tối , bực bội ấm ức trong lòng mà không làm gì được.

Sự bực tức quá độ không thể nhịn nổi nữa. Nỗi bực tức chứa trong lòng nhưng cũng đành chịu vì không làm gì được người ta.

X

106. Tức ruột căm

X

Tức giận, căm tức ghê gớm.

gan

X

107. Thâm gan

X

tím ruột

108. Thù không

đội trời chung

Căm phẫn, uất hận đến cực độ. Hận thù sâu sắc, không thể điều hòa, chung sống.

Nói đến mối thù sâu sắt giữa hai người.

Tức giận, uất ức , căm phẫn sâu kín trong lòng. Căm thù, uất hận đến cực độ. Căm thù sâu sắc, một mất một còn, không thể sống chung , không thể tồn tại.

Nói đến những người có mối thù hận nhau sâu sắc đến nỗi phải đi đến chỗ thanh toán nhau chứ không thể sống mà nhìn mặt nhau

237

được.

X

109.

Trái tai gai

mắt

Trái lẽ phải, ngang ngược, gây khó chịu, bực tức.

Ngang ngược trái lẽ thường, gây sự khó chịu khi nghe khi nhìn.

Chỉ những lời nói vả việc làm khiến người ta phải khó chịu.

3.4. CÁC THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT BIỂU THỊ CẢM XÚC SỢ

[52]

[31]

[3]

[34]

Thành ngữ tiếng Việt 1. Ấp a ấp úng

X

X

Chê người sợ sệt hổ xấu hoặc không nói được nên lời.

2. Ba hồn bảy

X

Nửa muốn nói nửa muốn không. Nói mà lúng búng trong miệng như vậy thì không ai hiểu được gì cả. X

vía

Hoảng sợ, kinh hãi, như không còn biết gì nữa.

3. Ba hồn chín

X

vía

Chỉ đến phần hồn của con người.

Hoảng sợ, kinh hãi, như không còn biết gì nữa.

4. Bán sống

bán chết

Thường dùng để gợi một người đang bất tỉnh nhân sự hoặc để gọi một cách giận dữ một đứa trẻ đương mãi chơi. Thường dùng để gợi một người đang bất tỉnh nhân sự hoặc để gọi một cách giận dữ một đứa trẻ đương mãi chơi. Chạy nhanh quá đến mức hết cả hơi.

Gần chết, nguy hiểm đến tính mạng.

Ám chỉ đến sự sợ hãi tột cùng tưởng chừng phải chết đi được.

X

5. Bạt vía kinh

Khiếp sợ quá.

Sợ hãi, khiếp vía.

hồn

X

6. Bò thấy nhà

X

X

táng

7. Bối rối như

X

X

bà sư đẻ

lo

Chế giễu người luống cuống trước một sự việc.

X

8. Bụng nát dạ

X

Tự huyễn hoặc, tự dọa mình sợ hãi.

X

9. Căng như

X

mặt trống

Dốc hết tâm lực, gắng hết sức, cật lực cho việc gì đó. Sợ hãi, khiếp đảm không còn hồn vía. Bỏ chạy một cách vội vàng, hoảng hốt, chạy biến, càng xa càng tốt. túng, hốt Lúng hoảng sợ, không biết xử lí như thế nào để che giấu điều sai phạm. Tự huyễn hoặc rồi gây ra nỗi sợ hãi chính bản cho thân mình. Hết căng sức thẳng, đầu óc như

Chỉ đến tình hình hết sức căng giữa

238

10. Có tật giật

mình

Có lỗi lầm, khuyết điểm, nơm nớp lo bị phát hiện.

hai người không biết đổ vỡ lúc nào Người có lỗi thường thấp thỏm lo âu và khó tránh được người này có cặp mắt tinh ý.

căng ra, muốn nứt vỡ. Bộc lộ thái độ và những dấu hiệu khiến người ta phát hiện mình là người có lỗi, dấu diếm.

Khi mình có khuyết điểm gì muốn giấu cứ là người tưởng chung quanh đã biết khuyết điểm ấy nên cứ ngờ người ta ám chỉ khi đến mình người nói ta chuyện.

11. Chạy như

X

X

X

chó phải pháo

12. Chạy như

X

X

chuột

13. Chạy như ma

X

X

đuổi

Chạy miết, sợ hãi không dám ngoái lại. Chạy miết, vội vã không lúc nào dừng.

14. Chạy thốc

X

X

X

chạy tháo

15. Chạy thục

X

X

X

mạng

16. Chạy trối

X

X

X

chết

17. Chân tay

X

X

rụng rời

Nói sự sửng sốt, hốt hoảng trước một tin tai hoạ lớn.

Việc làm không thẳng thẳng, nên phải nhìn trước nhìn sau.

Lấc cấc, lâng láo, cử chỉ không đường hoàn, lén lút.

18. Chấp chới như quạ đậu chuồng lợn

Chạy rất nhanh, chạy miết vì quá hoảng sợ. loạn, tán Chạy đầy vẻ hốt hoảng, sợ sệt. Chạy rất nhanh, không còn biết gì, nghĩ gì với vẻ hốt hoảng. Chạy rất nhanh và vội vàng, vẻ hốt hoảng. Chạy vội và rất nhanh, vẻ hốt hoảng bất kể mọi chuyện. Chạy vội và rất nhanh, vẻ hốt hoảng bất kể mọi chuyện. Ở trạng thái mệt mỏi, rã rời. Sửng sốt, hốt hoảng, choáng váng trước tin tức hay sự kiện đau đớn. Nhòm ngó nhớn nhác, vẻ lấm lét, không đàng hoàng.

Chỉ người có tà ý nên cử chỉ họ không được tự nhiên như những người bình thường.

X

X

Giểu cách cợt nhìn không thẳng thắn của kẻ gian.

19. Chấp chới như thầy bói cúng thánh

20. Chim bị tên

X

X

X

sợ cành cây cong

Có cử chỉ lén lút, không thẳng thắn đàng hoàng như hành vi của kẻ gian. Luôn giật mình sợ bóng, sợ vía hay có phải ứng đề phòng cảnh giác.

21. Chó ăn vụng Hành vi lấm lét,

X

X

X

239

bột

sệt,

sợ hoảng loạn, được biểu hiện rành rành ra, không che giấu nổi.

22. Chột lòng,

X

X

X

chột dạ

23. Dựng tóc

Sợ hãi, hốt hoảng. Nói đến sự hoảng

Sợ hãi đến rùng rợn.

Có điều gì giấu trong nên giếm luôn sợ luôn người khác biết đến. Sợ quá trước một cảnh rùng rợn.

gáy

24. Đạp vỏ dưa,

X

X

thấy vỏ dừa mà sợ

hồn hoảng vía tưởng như cái chết gần kề không cách nào tránh khỏi. Người nào hễ bị nạn một lần là lần sau để ý cảnh giác.

25. Gãi đầu gãi

X

tai

tỏ

Tả thái độ của người muốn cầu xin gì mà chưa dám nói ra.

Diễn tả sự bối rối mà lí trí chưa giúp phân định phải trái nên khó diễn tả bằng lời.

26. Há miệng

mắc quai

Không dám nói, sợ động đến mình vì đã mắc khuyết điểm.

Chê kẻ vì đã trót lộ nên ăn hối không dám chê trách khi người ta làm chuyện bậy.

27. Hết hồn hết

X

vía

Sợ hãi hoảng hốt đến mức hết hồn hết mật.

Bị tai họa một lần rồi thì thường hay hoảng sợ trước những cảnh tương tự mà trước đó vấp phải. Ở thái e trạng thẹn, ngại ngùng, có điều gì muốn bày nhưng chưa dám nói, thường biểu thị bằng động tác lấy tay gãi đầu, gãi tai. Né tránh, không dám nói khuyết điểm của người khác vì hành động thái quá, sai phạm của mình. Lo lắng, sợ hãi, hoảng hốt đến mức không còn biết gì nữa.

28. Hồn bay

Sợ hãi quá.

X

phách lạc

Sợ hãi, hốt hoảng đến mức không còn hồn vía nữa.

29. Hồn lạc

Sợ hãi quá.

X

phách xiêu

Sợ hãi, hốt hoảng đến mức không còn hồn vía nữa.

30. Hồn vía lên

X

X

mây

Sợ hãi, hốt hoảng rời, rụng đến

Chỉ nguời phạm lỗi lầm hay hành động quá đáng dẫn đến việc không thể nói được người khác. Nói đến sự hoảng hốt do sợ hãi quá mức đến nỗi không còn biết phân biệt gì nữa. Nói đến sự hoảng hồn hoảng vía tưởng như cái chết gần kề không thể nào tránh khỏi. Nói đến sự hoảng hồn hoảng vía tưởng như cái chết gần kề không thể nào tránh khỏi. Sự sợ hãi quá mức, sự hoảng

240

X

31. Hồn xiêu

Sợ hãi quá.

phách lạc

không còn hồn vía gì nữa. Sợ hãi, hốt hoảng đến mức không còn hồn vía nữa.

hốt nên chân tay bủn rủn. Nói đến sự hoảng hồn hoảng vía tưởng như cái chết gần kề không thể nào tránh khỏi.

X

32. Hớt hơ hớt

X

X

hải

X

33. Hú hồn hú

X

Nói lên sự hoảng hốt cuống cuồng trước sự việc xảy ra bất ngờ. Nói lên sự sợ hãi của mình.

vía

X

34. Kêu như xé

X

X

vải

35. Kinh cung

X

chi điểu

Sợ hãi quá mức vì suýt nữa thì lâm vào trạng tình nguy khốn. Kêu ré lên, rú lên, gây cảm giác ghê rợn, kinh hãi. Bị nạn hụt vài lần thì e ngại cảnh giác.

Bị nạn hụt một lần nên nghi ngại, cảnh giác lần sau.

36. Kinh hoàng

Người đã vấp phải một chuyện gì không hay thì từ sau hễ thấy một chuyện gì na ná cũng muốn tránh. Khiếp sợ quá.

X

khiếp vía

Bị nạn hụt một lần nên nghi ngại, cảnh giác lần sau.

37. Kinh hồn bạt

Khiếp sợ quá.

Sợ hãi, hốt hoảng. Chỉ sự sợ hãi quá

vía

độ.

38. Kinh hồn bỏ

Khiếp sợ quá.

X

vía

Bị nạn hụt một lần nên nghi ngại, cảnh giác lần sau.

39. Kinh hồn

X

Sợ hãi, hốt hoảng.

X

mất vía

40. Kinh tâm

X

táng đởm

Sợ hãi hoảng hốt đến mức hết hồn hết mật.

Sợ hãi , khiếp đảm đến mức không còn hồn vía. Sợ hãi , khiếp đảm đến mức không còn hồn vía. Sợ hãi , khiếp đảm đến mức không còn hồn vía. Sợ hãi , khiếp đảm đến mức không còn hồn vía. Lo lắng, sợ hãi, hoảng hốt đến mức không còn biết gì nữa.

X

Bẻn lẽn, từ tốn, tỏ ra không tự nhiên.

Rụt rè, bẽn lẽn, không tự nhiên.

41. Khép nép như dâu mới về nhà chồng

Nói đến sự hoảng hốt do sợ hãi quá mức đến nỗi không còn biết phân biệt gì nữa. Nói đến người nhút nhát gặp ai cũng e lệ, rụt rè, không tự nhiên.

42. Khiếp vía

Khiếp sợ quá.

X

kinh hồn

Sợ hãi hoảng hốt đến mức hết hồn hết mật.

43. Không dám

X

rỉ răng

Kinh hãi hoảng hốt đến mức không còn hồn vía. Không dám hé miệng nói rõ sự

Vì e sợ không dám hé miệng nói

Không dám hé môi tiết lộ vì sợ bị

241

tai họa nên câm nín.

44. Không động

lên sự đau khổ của mình. X

X

(chạm) đến lông chân

Kiêng nể, sợ sệt, không dám động chạm đến.

X

45. Lấm lét như quạ chui chuồng lợn

thật vì e ngại sợ hãi. Kiêng nể, sợ hãi mà không dám có một hành động gì dù nhỏ nhất làm tổn hại đến người nào đó. Có dáng vẻ lén lút, sợ hãi

Cử chỉ của kẻ gian trá sợ người khác bắt gặp.

46. Lẩn như mạ

Tỏ thái độ sợ hãi không dám nhìn thẳng vào người đứng gần. X

X

X

47. Lẩn như

X

trạch

Lẩn tránh, trốn tránh miết , trốn tránh nhanh.

Tỏ thái độ sợ hãi không dám nhìn thẳng vào người đứng gần.

48. Lẩy bẩy như

cao biền dậy non

Run rẩy, yếu ớt, đứng không vững.

Lẩn trốn hoặc né tránh vì ngại gặp hoặc sợ phải lien lụy, chịu trách nhiệm về công việc. Lẩn trốn hoặc né tránh vì ngại gặp hoặc sợ phải lien lụy, chịu trách nhiệm về công việc. Run rẩy, sợ hãi đến mức rụng rời chân tay.

Chê người run sợ chẳng làm được trò trống gì.

49. Len lét như

chuột ngày

Chê người run sợ chẳng làm được trò trống gì.

Sợ sệt, nhút nhát như chuột kiếm ăn ban ngày.

Chỉ những người nhút nhát việc chưa bắt đầu đã ló mồi run sợ vừa làm vừa run. Người có tâm địa không ngay thẳng.

50. Len lét như

Sợ sệt, nhút nhát . Chỉ đến sự khép

rắn mồng năm

Nhút nhát, sợ sệt không có tư thế đàng hoàng, quả cảm. Khép nép, không dám nhìn thẳng với vẻ sợ sệt.

Ép mình một nơi không dám thò đầu ra vì sợ sệt.

nép cố tình né tránh do sợ hãi quá độ.

X

X

Nói rất chạy nhanh vì sợ bị bắt.

51. Long tóc gáy Chạy rất nhanh vì sợ hãi hoặc đi lại tất bật để lo, xoay xở công việc.

52. Lúng búng

X

X

như ngậm hột thị

Nói ấp úng, không thành lời, khó nói.

trả

lời

53. Lúng túng như thợ vụng mất kim

Chỉ cử chỉ vụng về, làm việc gì hỏng việc ấy.

Chê người nói ấp úng, không thành câu, hoặc vì sợ hãi hoặc vì không biết thế nào. Chê người thiếu bình tĩnh, không biết giải quyết vấn đề thế nào.

Bối rối, vụng về, không biết cách giải quyết, cách gỡ cho ra.

Lúng túng, vụng về không biết cách xoay trở tháo gỡ tình trạng vướng mắt, trắc trở.

54. Mặt (mũi) tái

X

X

xanh tái xám

Quá sợ hãi, mặt bị tái đi.

Quá sợ hãi, quá khiếp đảm về một việc gì đó.

242

X

55. Mặt cắt không còn hột máu

Quá sợ hãi, khiếp đảm.

Chỉ sự sợ hãi quá độ

56. Mặt cắt

X

không ra máu

Tả người quá khiếp sợ.

Chỉ sự sợ hãi quá độ.

57. Mắt la mày

lét

Lấm lét, sợ sệt, không đường hoàng.

Sợ hãi, khiếp đảm đến mức mặt tái mét. Sợ hãi, khiếp đảm đến mức mặt tái mét. Nhìn liếc trộm, nhìn không đàng hoàng với vẻ lấm lét, lo sợ.

Tả kẻ gian nhìn ngược nhìn xuôi hoặc người sợ sệt không dám nhìn thẳng.

Là người ưa nhìn trộm kẻ khác, biểu hiện kẻ có lòng tà vọng, không lương thiện.

58. Mắt lăng mắt

X

X

vược

Nhanh chạy, thấp thỏm, chao đảo bên này bên kia.

59. Mắt le mày

X

lét

Mắt nhìn gian tà hoặc sợ sệt, không đường hoàng, thẳng thắn. Lấm lét, sợ sệt, không đường hoàng (cử chỉ).

Nhìn trộm, liếc nhìn không đàng hoàng với vẻ lấm lét, lo sợ.

Tả kẻ gian nhìn ngược nhìn xuôi hoặc người sợ sệt không dám nhìn thẳng.

60. Mắt lơ mày

X

láo

Nhìn ngó với vẻ ngỡ ngàng, nghi hoặc và sợ sệt.

Mắt nhìn ngó ngàng, nghi hoặc, sợ sệt.

61. Mặt như

chàm đổ

Quá sợ hãi, khiếp đảm đến mức mặt biến sắc như màu xanh chàm.

X

62. Mặt tái mét, nói phét thành thần

Nói người tái mặt đi trước những chứng cớ về việc tội lỗi của mình. Chê những kẻ hay khoác lác, tuy bộ mặt vẫn cứ thản nhiên.

Mặt tái xanh, tái xám như màu chàm, do kinh sợ, khiếp đảm. Khoác lác, nói thì to tát, cũng mạnh, nhưng thực chất thì run sợ, đến tái mét cả mặt mày.

63. Mặt tái như

gà cắt tiết

Mặt tái xám do quá sợ hãi, khiếp đảm.

Chỉ người có cái nhìn ngơ ngác như kẻ vô hồn , ngơ ngơ, ngẩn ngẩn. Chỉ người có sắc mặt xanh tái do quá sợ hãi, quá kinh khiếp. Khi sợ hãi thì mặt tái mét như gà cắt tiết. Dù miệng nói mạnh nói bạo người ta biết mình nói phét cho oai. Chỉ nét mặt thất thần do quá sợ hãi.

64. Mặt trắng

X

Nói người tái mặt đi trước những chứng cớ về việc tội lỗi của mình. X

X

như tờ giấy

65. Mắt tròn mắt

X

X

dẹt

Vẻ mặt sợ hãi, khiếp đảm trông như mặt con gà bị cắt lấy hết máu. Mặt trắng không còn máu vì sợ hãi hay bệnh tật. Nhớn nhác, sợ hãi.

66. Mắt trước

mắt sau

Nhớn nhác, thấp thỏm.

Lấm la lấm lét có âm mưu bất chánh.

67. Mặt vàng

Nói kẻ làm bậy sợ người khác nhìn thấy chỉ chực chạy thoát. X

như nghệ

Sắc mặt vàng vì ốm yếu hay quá sợ hãi.

68. Mặt xám

mày xanh

Nhìn với vẻ nhớ nhác, sợ hãi, rụt rè ngạc nhiên. Quan sát trước sau với vẻ lo âu thấp thỏm để kịp ứng phó. Mặt vàng như màu củ nghệ do ốm yếu hay quá sợ hãi. Mặt xanh vì ốm yếu hoặc vì sợ hãi

Tức là mặt tái vì có bệnh hoặc vì

Quá sợ hãi, mặt bị tái đi.

Người ta khi sợ hãi điều gì thì sắc mặt sang vàng, tái xám. Là sắc mặt người do quá sợ hãi, quá

243

khiếp đảm.

sợ.

69. Mặt xanh

khiếp đảm về một việc gì đó. X

mày xám

Quá sợ hãi, mặt bị tái đi.

Tức là mặt tái vì có bệnh hoặc vì sợ.

70. Mất vía kinh

Sợ hãi, hốt hoảng.

X

X

hồn

71. Mềm mỏng

X

X

hơn cua lột

Mặt xanh vì ốm yếu hoặc vì sợ hãi khiếp đảm. Sợ hãi, khiếp đảm đến mức không còn hồn vía. Có thái độ mềm mỏng, ngọt ngào tỏ ra vị nể hoặc sợ hãi.

72. Miệng hùm

gan sứa

Ra vẻ bạo dạn, nhưng thực chất nhút nhát, sợ sệt.

Chê kẻ nói thì ra vẻ mạnh bạo, nhưng thực ra thì nhát.

lòng

Người yếu đuối nhu nhược người khác bắt nạt họ lẳng lặng chịu thua. Chỉ kẻ biết nói phét gặp chuyện thì vội co vòi rút cổ, lấm la lấm lét chạy dài.

X

73. Nơm nớp như cá nằm trên thớt

Bề ngoài ăn nói mạnh bạo, hùng hổ, cảm quả nhưng trong bụng trong thì nhút nhát, run sợ. Ở trong tình trạng lúc nào cũng lo lắng sợ sệt.

Sợ sệt quá vì nguy hiểm đến nơi.

Nói lên sự lo sợ cho sự an toàn sinh mạng của mình.

74. Ngậm hột thị

X

X

Chê người nói ấp úng không nên lời.

75. Nháo nhác

X

như gà lạc mẹ

Im tiếng, không nói ra sự thật vì sợ hãi hoặc vì che giấu điều gì. Nhớn nhác, hoảng hốt.

Tỏ vẻ xáo xác đi tìm một cách lo lắng.

76. Nháo nhác

X

như gà phải cáo

Nơm nớp, hoảng hốt.

Nơm nớp lo sợ nhớn nhác hốt hoảng.

Nói đến tình trạng hỗn loạn. Sợ hãi hốt hoảng. Sự cuống cuồng lo sợ của một số đông người trước hiểm họa. X

Tính nhút nhát, hay sợ sệt.

78. Nhát như thỏ

77. Nhát như cáy Hết sức nhút nhát hơi một tí là tỏ ra e thẹn hoặc sợ sệt. Hết sức nhút nhác và tỏ ra sợ sệt.

(đế)

Tính nhút nhát, hay sợ sệt.

Chê người nhát quá, không bạo dạn. Chê người nhát quá, không bạo dạn.

Kẻ quá nhát gan việc gì chắc mới làm, hơi khó khăn đã vội nhựt chí không dám mạo hiểm.

79. Nhũn như

X

(con) chi chi

Đối xử hết sức nhũn nhặn, chịu lép.

Hết sức khiêm tốn nhườn nhịn người ta, không cải lại, không chống đối.

Thái độ mềm yếu, nhún chịu nhường, chịu lép vế đến mức như sợ sệt.

80. Như sét đánh Bị tác động quá

X

Nói lên sự sửng sốt trước tin buồn đột ngột.

81. Như sét đánh

ngang tai

Nói lên sự sửng sốt trước tin buồn đột ngột.

Bị một sức tác động rất mạnh dữ dội về vật chất hoặc tinh thần. Bị tác động đột ngột, dữ dội làm choáng váng.

mạnh và đột ngột đến mức choáng váng. Bị tác động quá mạnh và đột ngột đến mức choáng váng.

Sự kinh hãi khi đón nhận những tin tức đau buồn quá sức chịu đựng

244

82. Như trời

chấn

X

của mình. X

giáng

83. Phải cung sợ

X

làn cây cong

động Bị mạnh, dữ dội, làm cho kinh hoàng, khiếp đảm. Bị nạn hụt vài lần thì e ngại cảnh giác.

Bị một sức tác động rất mạnh, dữ dội về vật chất hoặc tinh thần. Bị nạn hụt một lần nên nghi ngại, cảnh giác lần sau.

Người đã vấp phải một chuyện gì không hay thì từ sau hễ thấy một chuyện gì na ná cũng muốn tránh. X

84. Phù thủy

X

X

thấy ma

Run sợ đến cực độ.

85. Rờ rẫm như

X

X

X

xẫm

X

Đi chậm chạp, vừa đi vừa dò đường, cử chỉ lần mò, sợ sệt. Sợ hãi, hốt hoảng.

Nói da nổi gai lên vì sợ.

86. Rợn tóc gáy Có cảm giác tóc gáy như dựng ngược do quá kinh sợ.

87. Ru rú như

X

X

X

gián ngày

88. Run như cầy

run nhiều

sấy

E ngại, sợ sệt không dám tiếp xúc với bên ngoài. Quá sợ, run bắn lên, run cầm cập.

Tức lắm.

Sự sợ hãi thái hóa nên run lập cập.

89. Run như chó

Run bắn lên, lẩy bẩy vì quá rét hoặc quá sợ hãi. X

X

X

phải bả

90. Run như dẽ Run bắn lên, lẩy

Run lẩy bẩy.

X

Quá sợ, run bắn lên, run cầm cập. Quá sợ, run bắn lên, run cầm cập.

bẩy vì quá rét hoặc quá sợ hãi. X

91. Run như gà

X

bị cắt tiết

Quá sợ, run bắn lên, run cầm cập.

Là người đang buồn thảm nên không buồn cất nhắc tay chân, ngồi đâu ngồi yên một chỗ.

X

X

X

92. Run như thằn lằn đứt đuôi

93. Sợ bóng sợ

gió

Sợ hão huyền không có gì đáng sợ.

Quá sợ, run bắn lên, run cầm cập. Sợ hão huyền, sợ không có căn cứ xác thực.

Sợ những thứ không đáng sợ, hồn vía thoát khỏi xác.

Sợ một cách vu vơ, hão huyền, không có căn cứ, lí do gì đáng sợ cả.

94. Sợ đến nổi

X

X

X

da gà.

95. Sợ hết hồn

X

X

Nổi sợ của con người là da nổi gai ốc như da gà, luồn theo sống lưng bị lạnh toát. X

X

96. Sợ hết hồn

Tức là sợ quá.

X

Quá sợ hãi như không còn hồn vía. Quá sợ hãi như không còn hồn

245

vía.

97. Sợ kinh hồn

Tức là sợ quá.

X

X

X

98. Sợ mất mật 99. Sợ mất vía

Tức là sợ quá. Tức là sợ quá.

X X

Quá sợ hãi như không còn hồn vía.

100. Sợ mướt mồ

Tức là sợ quá.

X

X

Nỗi sợ của người lên mức tột cùng, hồn vía như thoát khỏi xác. X Nỗi sợ của người lên mức tột cùng, hồn vía như thoát khỏi xác. X

hôi

101. Sợ như đĩ

Sợ quá.

X

thấy cha

Hành động bậy bạ, lo sợ bị trừng phạt.

Sợ hãi, hốt hoảng. Nói đến nỗi sợ hãi

102. Sợ như bò

Sợ điều có thể hại đến mình.

thấy nhà táng

do hốt hoảng mà nên.

103. Sợ run cả

Tức là sợ quá.

X

Sợ hãi, hốt hoảng do đã làm điều bậy bạ mà lo sợ sẽ bị trừng phạt. Quá hốt hoảng, sợ hãi đến mức chạy biến lẫn trốn, không dám ở lại. X

X

người

104. Sợ run như

X

X

X

dẽ

Tức là sợ cuống quít.

105. Sợ tái xanh

X

X

X

tái tía

Sợ quá, mặt xanh xám.

106. Sợ xo bái

X

X

X

công

107. Sởn da gà

X

Tức là sợ cuống quít. Nổi da nổi gà lên vì quá sợ.

Có cảm giác da bị nổi sần lên những nốt như da gà do bị lạnh hoặc quá sợ hãi.

X

108. Sởn gai ốc

Nỗi sợ kinh hoàng bắt đầu từ nội tạng khiến tim đập mạnh và run bắn người lên từng hồi. X

Nổi da nổi gà lên vì quá sợ.

109. Sởn tóc gáy

Sợ hãi đến quá.

Sợ hãi, hoảng hốt.

X

Có cảm giác da bị nổi sần lên như gai ốc do bị lạnh hoặc quá sợ hãi. Có cảm giác tóc gáy như dựng ngược do quá kinh sợ.

X

Mệt quá vì nghe thấy một tin dữ đột ngột.

110. Toát mồ hôi Kinh hãi hoặc quá mệt, đến mức vã mồ hôi trán. Nhút nhát sợ chết. Chê kẻ nhút nhát. Quá muốn sống,

111. Tham sinh

úy tử

nhút nhát, sợ chết.

Khi quá sợ người ta xuất hạn mồ hôi hột. Ở đời ai cũng tham sống sợ chết.

112. Tham sống

Nhút nhát sợ chết. Chê kẻ nhút nhát. Quá muốn sống,

X

sợ chết

113. Thằn lằn đứt

sợ,

kinh

X

nhút nhát, sợ chết. X

đuôi

Run hoàng.

114. Thần hồn nát

Hoảng sợ.

thần tính

Chê người nhút nhát, tự mình

Tự huyễn hoặc, tự dọa mình gây sợ

Nói đến sự run sợ thái hóa, sợ đến nỗi mất hồn mất bình tĩnh Lúc quá sợ sệt thì hồn vía của mình

246

hãi.

tưởng tượng ra những điều đáng sợ hãi.

115. Thất kinh

X

rụng rời

Kinh hồn, hoảng sợ đến mức chân tay rụng rời.

Hoảng sợ đến mức chân tay như không hoạt động được nữa.

như bị lạc lên mây người ta hoảng hốt không còn trí khôn nữa. Lúc quá sợ nhất là sợ hãi đến quá bất ngờ thì phần hồn thoát ra khỏi xác khiến xây xẩm không còn hay biết.

116. Thương cung

X

chi điểu

Bị nạn hụt vài lần thì e ngại cảnh giác.

Bị nạn hụt một lần nên nghi ngại, cảnh giác lần sau.

117. Trốn như

Người đã vấp phải một chuyện gì không hay thì từ sau hễ thấy một chuyện gì na ná cũng muốn tránh. X

X

chuột

Sợ hãi, hốt hoảng bỏ chạy.

X

X

Vì sợ hãi mà phải chạy trốn cho nhanh. Nhút nhát, hay sợ sệt.

118. Yếu bóng vía Non gan hay sợ sệt dễ bị khuất phục.

3.5. CÁC THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT BIỂU THỊ CẢM XÚC YÊU

[34]

[52]

[31]

[3]

X

Thành ngữ tiếng Việt 1. Ăn một mâm, nằm một chiếu

Gần gũi thân thiết nhau.

Cùng sống thân mật.

2. Ăn phải bùa Mê mẩn nghe

Sự tâm đầu ý hợp giữa những người bạn quá thân thiết với nhau. X

theo, làm theo.

3. Bùa mê bả

dột

Mê muội, mù quáng theo người khác. Mê muội, mù quáng theo người khác.

Chê người nào yêu thích rập khuôn ai. Chê trách người nào đắm say người khác đến mức không phân biệt trái phải.

4. Bùa mê

thuốc lú

Mê muội, mù quáng theo người khác.

Chê trách người nào đắm say người khác đến mức không phân biệt trái phải.

5. Cả thèm

X

X

chóng chán

Bị mệ muội, mù quáng, theo, tin và làm theo kẻ khác, không còn phân biệt đúng sai, phải trái. Bị mệ muội, mù quáng, theo, tin và làm theo kẻ khác, không còn phân biệt đúng sai, phải trái. muốn Thèm nhiều, lắm đam mê thì mau chán, chóng phai nhạt.

X

Nói đến người có hành động mù quáng, không sáng suốt nên vướng phải sai lầm đáng tiếc. Nói đến người có hành động mù quáng, không sáng suốt nên vướng phải sai lầm đáng tiếc. Càng thèm muốn ao ước cao bao nhiêu khi có được rồi lại càng chóng chán hơn. X

6. Có mặt thì mắng, vắng mặt thì thương

Thương yêu nhưng phải đối xử nghiêm khắc đễ

Nói cách đối xử với người thân là về dưới trước mặt

247

giữ nề nếp, phép tắc.

tỏ vẻ nghiêm khắc nhưng trong lòng vẫn yêu thương. X

7. Con chấy

tình

X

cắn đôi

Bạn rất thân thiết như ruột thịt. (dùng cho phái nữ)

8. Cười gió cợt

X

X

X

trăng

Có thương yêu quí mến, tận thông cảm, tình giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau như những người ruột thịt. Lẳng làm lơ, duyên, làm dáng một cách tình tứ, thiếu đứng đắn giữa hai kẻ khác giới.

9. Chết mê chết

X

X

X

mệt

10. Chia bùi sẻ

sẻ,

ngọt

Có vui cùng vui, có buồn thì cùng buồn với nhau.

Nói tình đoàn kết tương thân tương ái giữa người với nhau.

11. Chia cay sẻ

X

Bị hấn dẫn lôi cuốn đến mê mệt, trai gái yêu nhau đến say mê đắm đuối. Thương yêu, đùm bọc, sung sướng cùng hưởng, khổ cùng chịu. X

X

đắng

12. Chia ngọt sẻ

bùi

cùng Chia chung hưởng sướng vui hạnh phúc. Thương yêu, đùm bọc, chia sẻ nhau khổ đau, vất vả. Chia sẻ cùng nhau.

Cùng lo lắng và cùng hưởng sung sướng.

Ở đời có vui cùng vui có buồn cùng buồn với nhau.

Nói tình đoàn kết tương thân tương ái giữa người với nhau.

13. Chín nhớ

X

X

mười thương

thương da lúc

14. Dính nhau

X

như kẹo

Gắn bó rất chặt chẽ mật thiết (quan hệ trai gái)

Nhớ diết, không nào nguôi ngoai. Có quan hệ khắng khít, không thể tách rời, chia rẽ được.

15. Đa cảm đa

X

X

tình

Dễ cảm xúc, dễ rung động, tình cảm dồi dào.

Khi người ta thương thì không giận. Chỉ đến những cặp tình nhân yêu nhau tha thiết bịn rịn không rời nhau . Người có tính ủy mị giàu lòng thương nên dễ vui dễ buồn.

X

16. Đa sầu đa

X

X

cảm

17. Đắm nguyệt

X

say hoa

Say đắm, đam mê sắc dục.

Tâm trạng thường hay xúc động, bồn rầu thương cảm. Mê gái, trai gái yêu đương.

18. Đầu mày

cuối mắt

Chê những kẻ đàn ông say mê sắc đẹp quên cả bổn phận. Trai gái liếc nhau một cách kín đáo.

Liếc nhìn ra hiệu cho nhau một cách kín đáo.

Qua con mắt cái nhìn nhau thể hiện sự say đắm của cặp tình nhân.

Diễn tả sự ưng ý bằng lòng một cách nói không cần ngôn ngữ của giới nữ.

248

X

19. Đồng sinh

đồng tử

Cùng sống cùng chết gắn bó chặt chẽ với nhau.

Tình cảm bạn bè gắn bó như keo sơn cũng sẵn sàng sống chết có nhau.

X

X

20. Đồng thanh

tương ứng

Khi cùng có chí như nhau thì thân thiết với nhau.

21. Đồng ưu

X

cộng lạc

Gắn cùng bó, sống cùng chết với nhau, không bao giờ bỏ rơi nhau trong hoạn nạn, khó khăn. Có tâm hồn, chí hướng, đồng điệu, mong muốn có quan hệ thân thiết, trao đổi, báo đáp qua lại. Chia sẻ cùng nhau.

22. Ghen bóng

X

ghen gió

Ghen tuông một cách vu vơ do tính hay suy diễn.

Cùng lo lắng và cùng hưởng sung sướng. Ghen tuông không căn cứ xác thực, ghen không đúng.

Ở đời có vui cùng vui có buồn cùng buồn với nhau. Chỉ sự ghen tuông một cách vu vơ không bằng chứng xác thực nào.

X

23. Hẹn non thề

X

X

biển

Hẹn hò, thề nguyền về sự chung thủy giữa trai gái.

24. Hẹn ngọc thề

X

vàng

Nói hai người yêu nhau hứa hẹn sẽ lấy nhau.

Hứa hẹn, thề thốt một cách chắc chắn, không thể đổi thay.

25. Lời đường

nói

X

mật

Lời ngọt ngào nhằm mục đích lừa phỉnh, dụ dỗ.

ngọt Lời ngào, thường không thực bụng, để dỗ dành, mua chuộc người khác.

26. Mật rót vào

X

X

tai

Nói rất ngọt ngào để lừa dối quyến rũ người khác.

Trai gái yêu nhau thường dựa vào biển rộng, núi cao mà thề, mong mỏi tình yêu bền vững. Dùng để nói với những người mà mình hết mực yêu thương hay là người mà mình cần mưu cầu lợi ích gì đó. Lời nói hết sức ngọt ngào quyến rũ như dỗ dành khiến người nghe phải xiêu lòng.

27. Mây mưa

X

X

đánh đổ đá vàng

yêu

Để cho tình xác thắng được thịt bền tình vững.

28. Mê mẩn tâm

X

thần

Say mê đến mức không biết được phải trái.

Ham muốn xác thịt làm phá vỡ bền yêu tình vững, tình chung thủy vợ chồng. Mê muội, say mê đến mức không phân biệt được đúng sai, phải trái.

29. Mê như ăn

X

Sự say mê đến độ mất cả cảnh giác đến độ u mê không phân biệt được sự đúng sai phải quấy. X

phải bùa

Say mê, ham thích đến nỗi mê muội, không dứt

Yêu đương, say đắm, không dứt ra được.

249

30. Mối tơ vò

X

X

X

31. Một mặt hai

X

X

lòng

ra được. vướng Những mắc, bận lòng khó tháo gỡ ra được. Giả dối tráo trở chung không thủy.

32. Nài hoa ép

X

liễu

Là người phản trắc, miệng hứa một đằng làm một ngả không thể tin cậy được. Chỉ đến việc ép uổng việc giao hoan.

Cưỡng bức , nài ép phụ nữ để thỏa mãn tình dục.

33. Nát đá phai

X

vàng

lòng sao Dù người không bao giờ thay đổi.

Tình yêu chung thủy bị tan vỡ hay bị phai nhạt.

34. Nặng gánh

X

X

tương tư

Trai gái yêu nhau không gặp nhau nên phát ốm.

35. Như đá vọng

X

X

X

phu

36. Say hoa đắm

X

nguyệt

Dùng mọi cách từ dụ dỗ, khẩn khoản nài xin đến cưỡng buộc để bức người phụ nữ phải cho thỏa mãn tình dục. Không giữ được lòng chung thủy, phản bội lại tình cảm đã có. Ở tâm trạng luôn sầu muộn, nhớ nhung, thương nhớ vì sự xa cách của lứa đôi. Lặng lẽ nhẫn nại đợi chồng trở về. Say đắm, đam mê sắc dục.

Mê gái, trai gái yêu đương.

37. Say như điếu

đổ

Say đắm,yêu thích đến mê mẩn, ngây dạy.

Chê những kẻ đàn ông say mê sắc đẹp quên cả bổn phận. Nói trai gái yêu nhau một cách say đắm.

Quá say mê, ham thích, không dứt ra được.

38. Tối mày say

X

X

mặt

Choáng váng đau đầu hoa mắt, mê mẩn theo đuổi tình yêu một cách mù quáng.

Chỉ sự si mê quá đáng của những anh chàng mới yêu lần đầu . Khi làm việc quên ăn quên nghỉ với trăm việc nên không tha thiết đến chuyện gì nữa.

X

39. Tơ chia rũ

thảm

X

tằm

Lòng sầu lúc chia li.

40. Thay lòng

Không chung thủy, phụ bạc.

đổi dạ

Phụ bạc, không trung thành, thủy chung.

Trai gái yêu nhau phải chia li thì đau khổ. Chê kẻ không chung thuỷ vì tư lợi mà phụ bạc.

41. Thầm trông/

Lòng dạ người đời khó hiểu người miệng nói một đằng trong lòng làm một nẻo. X

mong trộm nhớ

Tương tư, trông đợi mong nhớ sâu kín.

42. Thầm yêu

Nói người tương tư trông mong người mình yêu một cách kín đáo. X

X

trộm nhớ

Tương tư, trông đợi mong nhớ sâu kín.

Yêu trong lòng không dám thố lộ, người ngoài không biết. Yêu trong lòng không dám thố lộ, người ngoài

250

43. Thần kinh

X

X

quỷ khóc

Một hành động tàn ác của kẻ thù làm cho thần kinh quỷ khốc.

44. Thương con

không biết. Hành động, lời nguyện hoặc văn chương làm cho quỷ thần cũng phải động lòng, thương xót hoặc xúc động. X

X

ngon của

Vì thương con mà phải chịu thiệt thòi vì con, phải chịu tốn kém vì con.

45. Thương con

X

X

ngon rể

Cha mẹ thương con gái thì chàng rể đỡ tốn kém khi cưới vợ.

X

X

Chịu tốn kém nhiều, vì thương yêu, lo lắng cho tương lai của con cái. Chăm chút, lo lắng cho con gái để kén chọn được chàng rể tử tế, đúng với ý muốn của mình. Thương giả dối, không thực chất.

Giễu kẻ ích kỉ mà lại nói là thương người.

46. Thương gậm xương (cũng) chẳng được 47. Thương gió

X

X

nhớ mưa

X

X

48. Thương miệng thương môi

Mơ mộng, buồn nhớ thương, nhung vẩn vơ. Giả dối, thương yêu theo kiểu.

49. Thương tâm

X

X

thảm mục

Chê người mơ mộng yêu thương vẩn vơ. Giễu kẻ ngoài miệng nói thương yêu, nhưng không giúp ích gì. Nói cảnh đau lòng mà mắt mình trông thấy.

Thương xót, đau lòng trước cảnh tâm mà thương mắt mình trông thấy.

50. Thương thân

X

X

tủi phận

Tự thương xót cho số phận.

51. Thương vay

X

khóc mướn

Chỉ số mình đen đủi không ra gì thì cắn răng chịu đựng than bám khổ thêm thôi. Chê bai những kẻ không thành thật trong tình cảm.

Chê người không thành thực trong khi tình tỏ thương.

thảm, Thương đớn đau trước cảnh ngộ buồn thảm của người khác một cách giả dối, không thành thực.

X

52. Trộm dấu

X

thầm yêu

Yêu ai một cách kín đáo, không dám thổ lộ ra.

X

53. Yêu cây mới

X

Yêu trong lòng, không dám thổ lộ, người ngoài không biết. X

nhớ tới hoa

Vì yêu người nào thì tình cảm lan đến những người thân của người ấy.

251

54. Yêu hoa nen

X

X

X

phải vì cành

X

55. Yêu nhau chín bỏ làm mười

Mọi người cố gắng nhường nhịn.

Nhân nhượng, không cố chấp, bỏ qua cho nhau để giữ thân tình.

X

X

X

56. Yêu nhau lắm , cắn nhau đau

57. Yêu nhau rào

X

X

X

giậu cho kín

58. Yêu thầm

X

X

dấu bụng

Yêu người nào thì phải nể cha mẹ, anh chị của người ấy. Nhân nhượng nhau bỏ qua cho nhau, để tình đoàn kết. Chê những người trước kia mến nhau nay trở nên kình địch nhau. Khi yêu người ta dễ che đậy những sai sót của nhau. Yêu ai một cách kín đáo, không dám thổ lộ ra.

59. Yêu thầm

nhớ trộm

Yêu thầm kín trong lòng, không dám thố lộ.

Yêu ai một cách kín đáo, không dám thổ lộ ra.

Yêu trong lòng, không dám thổ lộ, người ngoài không biết.

Đó là tâm bệnh tương tư vì không bộc lộ tình yêu với ai nên bức phá trong nội tâm đến nỗi ốm liệt giường liệt chiếu. Muốn có tình cảm kết chặt lâu bền phải cố gắng giữ ý tứ nhường nhịn nhau.

60. Yêu thầm

X

nhớ vụng

Yêu thầm kín trong lòng, không dám thố lộ.

Yêu ai một cách kín đáo, không dám thổ lộ ra.

61. Yêu trộm

X

nhớ thầm

Yêu thầm kín trong lòng, không dám thố lộ.

Yêu ai một cách kín đáo, không dám thổ lộ ra.

62. Yêu vụng

nhớ thầm

X

Yêu thầm kín trong lòng, không dám thố lộ.

Yêu ai một cách kín đáo, không dám thổ lộ ra.

Yêu trong lòng, không dám thổ lộ, người ngoài không biết. Yêu trong lòng, không dám thổ lộ, người ngoài không biết. Yêu trong lòng, không dám thổ lộ, người ngoài không biết.

252

PHỤ LỤC 4

BẢNG LIỆT KÊ THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ NĂM LOẠI CẢM XÚC:

VUI – BUỒN – GIẬN – SỢ – YÊU

[139] Siefring, Judith (2004), Oxford Dictionary of English Idioms, 2nd edition, OUP, Oxford.

[126] McCarthy, Michael et al (1998), Cambridge International Dictionary of Idioms, CUP,

Cambridge.

[57] Ammer, Christine (1997), The American Heritage Dictionary of Idioms, Forbes Inc., USA.

[143] Spears, Richard A. (2000), NTC’s English idioms dictionary, 3rd edition, National Textbook

Company, Illinois, USA.

Ghi chú: Các ô đánh dấu chéo (X) nghĩa là không tìm thấy định nghĩa trong quyển tử điển tương ứng của cột đó.

4.1. THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC VUI

[126]

[57]

[139]

[143]

X

X

Thành ngữ tiếng Anh 1. a bowl of

X

cherries

2. a happy

a very pleasant or enjoyable situation or experience X

X

X

accident

3. a ray of

a pleasant situation or event that is not planned or intended X

X

sunshine

sb or sth that brings happiness into the lives of others.

4. a red

X

X

letter day

5. as happy

happy and content

X

sb or sth that makes you feel happy, especially in a difficult situation a special, happy, and important day that you will always remember X

as a clam

a pleasantly memorable, fortunate, or happy day. extremely happy; perfectly contented with your situation.

6. as happy

X

X

X

as a king

7. as happy

X

X

X

as a lark

8. as happy

happy and content

X

completely, or extremely, happy visibly happy and cheerful very happy

as a sandboy

extremely happy; perfectly contented with your situation.

253

X

9. as happy

X

X

very happy

as can be

X

10. as happy

completely happy

X

X

as Larry

X

11. as happy

X

X

very happy

as the day is long

12. be a box

be fine or happy

X

X

X

of birds

X

13. be all

X

X

smiles

look very happy and friendly, especially when other people are not expecting you to

X

X

X

X

X

feel very happy and excited X

14. be as high as a kite 15. be at peace with the world

X

16. be bright

X

X

and breezy

X

17. be flying

X

X

high

X

18. be in a

X

X

be feeling calm and happy because you are satisfied with your life be happy and confident be very excited or happy, often because of the effect of drugs feel extremely happy or pleased

transport of delight/joy

X

X

19. be in one’s element

feel happy and relaxed because you are doing sth that you like doing and are good at

20. be like a

in one’s accustomed or preferred environment, where you feel confident and at ease, often in performing a particular activity. X

X

X

child in a sweetshop

21. be like a

X

X

X

kid in a candy store

be very happy and excited about the things around you, and often to react to them in a way which is silly and not controlled be very happy and excited about the things around you, and often to react to them in a way which is silly and not controlled

254

22. be on the

X

X

tiles

enjoy oneself at night by going out to nightclubs, parties, or bars

23. beer and

X

X

material pleasures

away from home having a wild or enjoyable time and not returning until late in the evening or early in the morning. amusement.

skittles 24. bread and

X

X

circuses

activities that are intended to keep people happy so that they do not complain about problems

material benefits and entertainment employed by rulers or political parties to keep the masses happy and docile.

X

X

very cheerful and eager

25. bright- eyed and bushy- tailed

be full of energy and eager to dothings

26. burst

X

X

X

with joy

27. cakes and

X

be full to the bursting point with happiness material pleasures

ale

merrymaking.

X

X

X

28. enter/get into the spirit of sth

show that you are happy to be at a social event by talking to a lot of people, dancing, or wearing special clothes

29. feel /

X

X

X

feel / look extremely well, happy, proud

look like a million dollars 30. for kicks

X

X

X

if you do sth for kicks, especially sth dangerous, you do it because you think it is exciting X

31. forbidden

X

fruit

a thing that is desired all the more because it is not allowed

an indulgence or a pleasure that is illegal or is believed to be immoral

32. full of

X

X

X

beans

33. full of the

X

X

joys of spring

in high spirits lively and cheerful.

happy, enthusiastic and full of energy

X

X

X

34. get a kick out of sth/ doing

enjoy doing sth very much

255

sth

X

X

X

35. give sb a new lease on life

make sb happy or healthy and give them new energy after a periodof illness or sadness X

X

X

36. give sth the thumbs up

X

37. gladden

X

X

sb's heart

X

38. go into

X

show that you are happy for sth to happen cheer and please sb get very excited

X

orbit

X

X

39. go overboard

be too excited or enthusiastic about sth

do sth too much, or to be too excited and eager about sth

X

X

X

look very satisfied and happy

40. grin / smile from ear to ear

X

41. grin and

X

X

bear it

42. grin like

X

X

a very wide smile

a Cheshire cat

X

X

X

43. happy hunting ground

44. happy-

accept an unpleasant or difficult situation because there is nothing you can do to improve it have a broad fixed smile on your face. a place where success or enjoyment is obtained

X

go-lucky

cheerful and carefree all the time

45. have a

X

happy all of the time and does not worry about anything enjoy yourself very much

enjoy yourself greatly; have fun

enjoy oneself very much

X

ball 46. have a

X

X

enjoy oneself

good time

X

47. in good

X

X

spirits

X

48. in high

X

X

happy and cheerful happy, cheerful

spirits

X

49. in

X

X

delighted or very enthusiastic

X

raptures over sth 50. jump for

X

X

joy

be very happy about sth good that has happened

256

X

51. kick up

X

have a lively, enjoyable time

one’s heels

do things that one enjoys

X

X

X

52. lead/live the life of Riley

have a happy life without hard work, problems or worries

X

X

53. lick one's

chops

anticipate with great pleasure

X

54. lick one's

X

lips

show one's eagerness to do sth, esp. to eat sth show eargerness or pleasure about a future event

feel pleased and excited about sth that is going to happen, usually because you think you will get sth good from it

X

X

55. like a cat

X

appear smug and self-satisfied

that ate the canary

X

56. like a cat

X

X

that got the icecream

annoying other people by looking very pleased with yourself about sth good that you have done X

57. like a dog

X

extremely happy

with two tails

showing great pleasure; delighted.

X

X

X

58. live in a fool's paradise

be happy because you do not know or will not accept howbad a situation really is

X

X

59. make

one’s day

give one great pleasure

make sb very happy

X

60. mark sth

X

X

with a white stone

X

regard sth as especially fortunate or happy full of fun

X

full of fun

61. merry / lively as a grig

X

62. music to

X

one’s ears

sth that is very pleasant or gratifying to hear or discover.

X

63. not have

X

the information sb receives makes that person feel very happy X

be completely happy and not have any worries

a care in the world 64. on cloud

X

extremely happy.

very happy

X

nine

257

X

65. on top of

X

feeling wonderful

the world

X

66. over the

X

moon

67. pleased

extremely happy because everything is going well for sb extremely happy; delighted X

X

absolutely delighted very pleased

as punch

X

X

X

68. put a brave face/ front on sth

X

X

X

69. put a damper/dampen er on sth

very happy about sth behave in a way that makes people think you are happy when you are not stop an occasion from being enjoyable

X

X

X

very successful or pleasant.

70. roses, roses, all the way

71. starry-

X

X

X

eyed

happy and hopeful about sth, in a way which prevents you from thinking about the bad things about it

72. stars in

X

X

X

extremely happy

one's eyes

73. stir the /

X

X

X

one's blood

arouse enthusiasm, courage, excitement (in one)

X

74. the gaiety

X

of nations

general cheerfulness or amusement

general cheerfulness or amusement

X

X

X

75. the party’s over

X

X

76. the primrose path

a period of success, good fortune, or happiness has come to an end. the pursuit of pleasure, especially when it is seen to bring disastrous consequences.

77. the

X

be extremely

X

refers to a life of ease and pleasure, or to a course of action that seems easy and appropriate but can actually end in calamity. a state of perfect

258

seventh heaven

happy

extremely pleased

78. thrilled to

X

bliss, extreme happiness and satisfaction extremely pleased

X

bits

X

79. thrilled to

X

X

death

X

80. thrilled to

X

X

pieces

X

81. tickled

X

pink

be extremely amused or pleased,

X

82. tickled to

very excited, very pleased very excited, very pleased = tickled to death = very much pleased or entertained be very pleased

X

death

X

83. walk /

be very happy

X

float on air

be extremely amused or pleased, feel elated

84. warm the

X

X

cockles of sb's heart

make sb feel pleased and cheerful

if sth you see or hear warms the cockles of your heart, it makes you feel happy because it shows that people can be good and kind

X

85. whoop it

X

up

celebrate or enjoy oneself, especially in a noisy and enthusiastic way

X

X

X

86. wine, women, and song

X

87. with a

enjoy yourself or celebrate in a noisy way, usually in a group. create or show excitement or enthusiasm. the hedonistic life of drinking, sexual pleasure, and carefree entertainment proverbially required by men. X

X

light heart

freedom from the weight of sorrow, a happy feeling

X

X

X

X

X

X

88. with good grace 89. with one’s tail up

in a willing and happy manner. in a confident or cheerful mood

X

X

X

90. without a backward glance

91. without a

X

completely happy to leave and have no sad feelings about it being completely

X

X

259

care in the world

happy and not having any worries

[126]

[139]

[57]

[143]

4.2. THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC BUỒN Thành ngữ tiếng Anh 1. a black

X

X

X

day

a day when sth very unpleasant or sad happens

2. a dog's

X

X

X

life

3. a face as

an unhappy xistence, full of problems or unfair treatment X

X

X

a very sad expression

long as a wet week

4. a ghost at

X

X

the feast

sth or sb that spoils your enjoyment by making you remember sth unpleasant

5. a kick in

X

X

X

the teeth

sb or sth that brings gloom or sadness to an otherwise pleasant or celebratory occasion. a grave setback or disappointment, especially one seen as a betrayal, X

6. a long

X

X

face

7. a low ebb

X

X

X

a very sad expression a bad state, feeling sad and without hope

8. a lump in

X

X

one’s throat

a feeling of tightness or dryness in the throat caused by strong emotion, especially grief.

a tight feeling in your throat because of a strong emotion such as sadness or gratitude

9. a misery

X

X

X

guts

sb who complains all the time and is never happy

10. a slap in

X

X

X

the face

sth sb that insults or upsets you

11. a sob

X

X

X

story

a sad story that sb tells you about themselves in order to make you feel sympathy for them

12. add insult do or say sth that

X

X

hurt the feelings

260

to injury

of a person who has already been hurt

makes a bad or displeasing situation even worse.

X

13. as

X

X

very unhappy

miserable as sin 14. at the end

X

X

X

of one’s rope

be sore tired, worried or annoyed by sth that one feels unable to deal with it any more X

15. be down

X

in one's mouth

become sad, bored and disappointed

(of a person or their expression) unhappy or dejected.

16. be in the

X

X

X

doldrums

feel sad and lack the energy to do anything

X

17. be out of

X

one’s element

feel unhappy or strange because you are in a situation that you are not familiar with

X

18. be out of

X

sorts

X

X

out of your accustomed or preferred environment, where you feel confident and at ease, often in performing a particular activity. in low spirits; irritable. suffer the troubles that life brings.

19. bear / carry one's cross

X

20. beat one's

X

breast

make a great show of sorrow or regret

X

21. break

X

X

one's heart

X

X

22. cast a shadow over sth

feel slightly ill or slightly unhappy suffer, or cope with a disability, grief, irksome responsibility hit one’s breast with one's fist(s) as a sign of grief, remorse (cause to) feel considerable grief, mental anguish, disappointment etc. spoil a good situation with sth unpleasant

X

23. come

X

X

introduce a note of warning or sadness in regard to some matter become extremely upset

apart at the seams

X

24. come

X

X

become extremely upset

unglued / unstuck

261

25. cry one’s

X

X

cry very hard

eyes out

26. cry over

cry a lot and for a long time. X

X

spilled milk

be unhappy about sth that cannot be undone.

27. cut sb to

X

X

the quick

upset sb by criticizing them

lament or make a fuss about a misfortune that has happened and that cannot be changed or reversed. cause sb deep distress by a hurtful remark or action

X

28. die of a

X

X

broken heart

29. down in

X

X

the dumps

30. down in

X

X

the mouth

die of emotional distress; to suffer from emotional distress, esp. from a failed romance depressed or feeling gloomy unhappy, dejected

(of a person) depressed or unhappy (of a person or their expression) unhappy or dejected.

X

X

X

31. drown one’s sorrows

32. dust and

drink a lot of alcohol because sb wants to stop feeling sad X

X

X

ashes

33. eat one's

X

X

heart out

be very sad (about so / sth)

used to convey a feeling of great disappointment or disillusion about sth. suffer from excessive longing, especially for sb or sth unattainable, used to indicate that you think sb will feel great jealousy or regret about sth. X

X

34. empty nest syndrome

the sad feelings which parents have when their children grow up and leave home

since a young adult moving out from his or her parents' house is generally a normal and healthy event, the symptoms of

262

X

X

35. end in

tears

empty nest syndrome often go unrecognized. This can result in depression and a loss of purpose for parents, since the departure of their children from "the nest" leads to adjustments in parents' lives. that means sth will end badly and the people involved will be upset

X

have an unhappy or unpleasant outcome (often used as a warning). X

look very unhappy

36. face like a wet weekend

X

X

X

37. feel / look like nothing on earth

X

38. get/ have

X

feel depressed or sad

the blues

X

39. have a

X

bad hair day

wearing a sad expression and look miserable feel / look extremely ill, miserable, etc. become sad or depressed a day of mishaps (rủi ro) and general irritation

X

X

X

not feel attractive or happy all day because you cannot make your hair look nice look or feel very worried or sad

X

X

X

40. have the cares/weight of the world on one’s shoulders 41. hit sb where it hurts

X

do sth which will upset sb as much as possible sad; depressed

X

42. in a bad

X

mood

X

43. knock sb

sideways

make sb severely depressed or unable to cope

X

X

44. lick one’s

X

wounds

feel unhappy after a defeat or an unpleasant experience origin: when dogs and other animals are injured, they lick their wounds (= injuries) in order to help them get better

263

45. like a lost

X

X

X

soul

if sb is walking around a place like a lost soul, they are walking slowly without direction or purpose in a way that makes them look sad and lost X

X

X

46. make life miserable for sb

47. make sb's

X

X

heart bleed

make sb unhappy over a long period of time cause one / sb to feel extreme sorrow and pity

if your heart bleeds for sb who is in trouble, you feel sadness and sympathy for them X

48. make sb's

X

X

life a misery

X

X

49. more in sorrow than in anger

with regret or sadness rather than with anger.

50. on the

X

X

rebound

while still affected by the emotional distress caused by the ending of a romantic or sexual relationship.

X

X

X

X

X

cause sb to be miserable, unhappy or to suffer pain, discomfort in daily life feeling more upset than resentful - though one might justifiably be angry unhappy and confused because a close, romantic relationship of yours has recently finished feel sadness and sympathy for sb feel sad or worried

51. one’s heart bleeds 52. one’s heart sinks into one’s boots

53. plumb

X

X

the depths

experience extreme sadness

used to express a feeling of sudden sadness or dismay. reach the extremes of evil or unhappiness.

54. rock

X

X

X

bottom

the most unhappy situation sb has ever been in their life

55. rub salt

X

X

in the wound

an action that makes the wound more painful

56. sackcloth

X

X

deliberately make so's unhappiness, shammer misfortune worse X

and ashes

a behaviour that sb is very sorry for sth they did

264

57. sb’s heart

X

X

X

sinks

X

X

X

wrong if sb’s heart sinks, they start to feel sad or worried be depressed or down-hearted

58. sb's heart is in their boots

X

X

X

X

X

59. sb's heart is in their mouth 60. sick as a

X

X

extremely disappointed

parrot

very sad

61. sick at

X

X

unhappy

heart

X

X

X

62. sink into despair (for s.o) 63. the baby

X

X

grieve or become depressed X

blues

64. thin-

X

X

skinned

easily upset or hurt

a feeling of sadness that some women experience after they have given birth to a baby if you are thin- skinned, you are too easily upset when other people criticize you

X

X

X

65. twist / turn the knife

X

66. vale of

X

X

tears

X

67. wear the

X

X

green willow

deliberately make sb's grief or problems worse. the world regarded as a scene of trouble or sorrow grieve for the loss of a loved one; suffer unrequited love

68. wipe the

X

X

X

smile off sb's face

make sb feel less happy or confident, especially sb who is annoying you because they think they are very clever

X

69. with a

X

sadly

heavy heart

X

X

in a sad or miserable state, unhappily X

70. with one's heart in one's boots

in a state of great depression or trepidation

265

X

X

X

71. wormwo

od and gall

X

X

72. wring

one’s hands

a source of bitter mortification and grief show great distress

show that you are very sad or anxious about a situation but do nothing to improve it

4.3. THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC GIẬN

[57]

[143]

[139]

[126]

X

X

X

Thành ngữ tiếng Anh 1. a face

like thunder

X

X

a very angry expression X

a red rag

2. to a bull

X

add fuel

3. to the

flame / fire

worsen an already bad situation, as by increasing anger, hostility, or passion

make a problem worse; to say or do sth that makes a bad situation worse; to make an angry person get even more angry

X

X

X

4.

angry

young man

an object, utterance, or act which is certain to provoke or anger sb. (of a person or circumstance) cause a situation or conflict to become more intense, especially by provocative comments. a young man who feels and expresses anger at the conventional values of the society around him. completely crazy

as mad as

X

crazy, demented

5. a hatter

as mad as

X

angry angry

very angry

X

as mad as

X

X

as mad as

X

very angry, enraged very angry, enraged very angry, enraged

6. a hornet 7. a wet hen 8. hell

X

9.

bad

blood (between people)

anger or hostility between persons or groups

very angry, enrage very angry. (informal. use hell with caution.) unpleasant feelings or animosity between people

longstanding hostility between the parties mentioned.

266

X

10. be a pain

be very annoying

X

in the neck

a source of annoyance, a nuisance

X

11. be after

X

X

sb's blood

be keen to make a person the victim of an angry confrontation

X

X

X

12. be fed up to the back teeth

be angry because a bad situation has continued for too long or a subject has been discussed too much

X

13. be purple

X

X

be very angry

with rage

X

14. bear a grudge (against sb)

have an old resentment for sb; to have continual anger for sb.

maintain resentment or anger against someone for a past offense.

15. have a grudge (against sb);

continue to feel angry or not friendly towards sb who has done sth to upset you in the past.

16. hold a grudge (against sb)

X

17. bent out

of shape

angry or agitated.

become very angry or upset

infuriated, annoyed

X

18. bite one's

X

X

lip

19. blow a

X

fuse

lose one’s temper.

lose one's temper, express furious anger

control one's anger become very angry and shout or behave in a violent way

20. blow a

X

X

X

gasket

21. blow off

X

X

steam

lose your temper origin: suffer a leak in a gasket of an engine get rid of pent-up energy or emotion

X

lose one's temper, express furious anger air or relieve one's pent- up feelings by loud talk or vigorous activity X

22. blow

lose one’s temper

one’s lid

show anger (refers to a volcano)

X

X

X

23. blow

one's cool

lose your composure; become angry or agitated,

X

X

24. blow

X

one's cork

suddenly become very angry

267

X

25. blow

suddenly become very angry

one's stack

become very angry, lose your temper

26. blow

lose one’s temper

X

suddenly become very' angry

one's top

27. blow the

X

X

lid off

fly into a rage; lose one's composure fly into a rage; lose one's composure expose, especially a scandal or illegal activity

28. breathe

X

X

X

remove means of restraint and allow sth to get out of control. be fiercely angry

fire

X

X

X

be very angry

X

29. burn with a low blue flame 30. Cross as

X

X

a bear

grumpy, ill- humored, annoyed

31. cross as

X

X

X

two sticks

32. do one’s

X

X

very annoyed or grumpy lose your temper.

banana

greatly exasperate someone, annoy to distraction

33. do one’s

X

X

X

nut

be extremely angry or agitated. X

34. draw

X

blood

anger or insult a person

X

35. drive sb

X

up the wall

make sb very angry or upset make sb very irritated or angry

36. drive/sen

crazy, mad

X

greatly exasperate someone, annoy to distraction crazy, insane

d sb round the bend

X

37. fire a

X

X

volley at sb

38. fit to be

X

furious, enraged

tied

make sb very angry, especially by continuing to do sth annoying send a series of angry messages to sb very angry, informal

39. flip one’s

X

suddenly become very angry

lid

very angry, informal suddenly go mad or lose your self- control

40. flip one’s

X

X

wig

suddenly go mad or lose your self- control

41. fly off

react very strongly or wildly, as with anger, surprise, or excitement; also, go crazy react very strongly or wildly, as with anger, surprise, or excitement; also, go crazy lose one's temper

X

the handle

lose your temper suddenly and unexpectedly

react in a very angry way to sth sb says or does

268

X

42. foam at

be very angry

the mouth

X

X

43. froth (or

be extremely angry be extremely angry

be very angry be very angry

foam) at the mouth

X

X

44. gall and

bitterness of spirit; deep resentment.

wormwood

X

X

elicit an angry or irritated reaction

45. get (or take) a rise out of

X

X

X

46. get off

one’s bike

X

irritate someone

X

47. get on

sb's nerves

X

X

X

48. get on

sb's quince

X

X

X

49. get on

sb's wick

X

become angry

X

50. get one’s

dander up

a source of bitter mortification and grief provoke an angry or irritated response from sb, especially by teasing them. become annoyed. irritate or annoy sb irritate or exasperate sb. annoy sb. lose your temper; become angry.

X

X

X

51. get one’s knickers in a knot

X

52. get one’s

become upset or angry.

knickers in a twist

be anxious, nervous, or angry faced with a difficult situation.

become very upset about sth, usually sth that is not important become very upset about sth, usually sth that is not important

X

be very angry

be bad tempered all day long

be in a grouchy, irritable state

53. get out of bed on the wrong side

X

54. get sb’s

irritate sb

goat

X

make soneome angry or annoyed X

annoy or anger someone irritate someone

55. get under

sb's skin

X

X

X

56. get up

sb's nose

X

become angry

57. get/put

sb's back up

annoy or irritate sb intensely irritate or annoy sb make sb annoyed or angry

X

X

be in a bad mood and be easily to do or say sth which annoys annoyed all day X

58. give sb a

mouthful

talk to or shout at sb in an angry, abusive, or

269

severely critical way

59. give sb a

X

X

frank and severe criticism, censure

piece of one’s mind

60. give sb

X

X

an earful

anger or insult a person

X

X

speak angrily to sb because they have done sth wrong tell sb how angry you are with them X

61. give sb the hairy eyeball

62. give sb

X

X

X

stare at sb in a disapproving or angry way, especially with the eyelids partially lowered. make sb irritated or depressed

the pip

63. give vent

X

X

to sth

express an emotion

express anger, (the sth is usually anger, ire, irritation, etc.)

64. go

X

X

act crazy

banana

65. go

X

X

X

crackers

66. go crook

X

X

X

67. go non-

X

X

X

linear

become extremely angry or excited become extremely annoyed or angry lose your temper; become angry, become very excited or angry, especially about a particular obsession. X

X

68. go off the

deep end

become unduly excited, overwrought, or angry

become unduly excited, overwrought, or angry

69. go

X

X

through the roof

lose one's temper, become very angry

70. have a

X

X

X

cob on

suddenly become very angry, informal be annoyed or in a bad mood. X

X

become angry

71. have a conniption (fit) 72. have a

X

X

get angry or hysterical. X

cow

become angry, excited, or agitated. X

X

become angry quite readily

73. have a low boiling point 74. have had

X

X

it (up to here)

become angry quite readily be in a state beyond remedy, repair, or salvage

be so angry about sth that you then do not want to continue with it or think

270

about it any more X

X

punish or rebuke sb severely

75. have one’s guts for garters

extremely angry and dissatisfied with sb

X

X

X

be angry

X

X

X

be extremely angry or irritated

be very angry

become angry

76. have one’s monkey up 77. have steam coming out of one’s ears 78. have/

X

throw a fit

79. hit the

X

become very angry, to put on a display of anger. become very angry.(informal.)

ceiling

be very angry

80. hit the

roof

become very angry and start shouting become very angry and start shouting

suddenly become very angry,

X

not to get angry

X

81. hold one's temper

X

82. hot and

bothered

worried or angry, and sometimes physically hot

lose one's temper, become very angry lose one's temper, become very angry refrain from expressing violent anger, maintain composure or poise in a state of agitated excitement, flustered

X

angry

X

83. hot under

in a state of anxiety or physical discomfort, especially as a result of being pressured. very angry

the collar

84. in a huff

X

in an offended manner, angrily

in an offended manner

feeling angry with sb because they have done or said sth to upset you X

85. in a snit

X

in a fit of irritation

X

86. in high

in a state of agitation or irritation furiously, resentfully

dudgeon

in a state of deep resentment.

feeling or exhibiting great resentment; taking great offense at sth. (often with leave.) X

X

87. in the

heat of the moment

while temporarily angry, excited, or engrossed, and without stopping for thought.

in the most intense or active stage of some activity or condition X

X

88. jump up

X

show excitement or anger or

and down

271

X

frustration X

89. keep one’s shirt on

don't lose one’s temper, stay calm.

X

not to get angry

X

90. keep one's temper

stay calm, be patient; not give way to temper or excitement. refrain from expressing violent anger, maintain composure or poise

X

X

X

91. kick the

cat

X

92. let off

take out one's anger on some innocent party release excess energy or anger.

steam

get rid of pent-up energy or emotion,

air or relieve one's pent-up feelings by loud talk or vigorous activity. X

X

93. let rip

X

suddenly express your emotions without control

X

(of a person) very irritable

grumpy, ill- humored, annoyed

94. like a bear with a sore head

X

95. look at sb

X

look at sb with an angry manner

cross-eyed

X

glare, stare fiercely

in a bad mood which causes you to treat other people badly and complain a lot do sth slightly provocative. (informal.) give sb a dirty look.

X

X

X

96. look daggers at sb 97. lose

glare angrily or venomously at. lose one’s temper

one’s rag

X

X

98. lose one's

become angry

cool

X

X

99. lose

become angry

one's nerve

give way to violent anger, lose self-control give way to violent anger, lose self-control

X

X

100. lose one's

become angry

temper

give way to violent anger, lose self-control

X

X

X

101. mad as a

crazy or eccentric

(cut) snake

X

X

102. mad as a

completely crazy

crazy, demented

march hare

X

enrage one

103. make sb's

blood boil

X

X

make a person very angry X

104. make sb's

hackles rise

make a person very angry make sb angry or indignant.

272

105. make the

X

X

dust fly

stir matters up, cause a commotion or disturbance

106. make the

X

X

X

feathers fly

107. make the

X

X

fur fly

stir matters up, cause a commotion or disturbance

108. not be a

X

X

happy camper

be annoyed about a situation

109. not be a

stir matters up, cause a commotion or disturbance stir matters up, cause a commotion or disturbance stir matters up, cause a commotion or disturbance not a satisfied participant, a contented person

happy bunny

110. not be on

X

X

speaking terms

not ready and willing to communicate, not alienated or estranged

be refusing to talk to sb because you have had an argument and are still angry with them.

111. off the

X

X

wall

112. on the

X

warpath

eccentric, unconventional furious and on a hostile course of action

(of a person) crazy or angry ready and eager for confrontation.

113. out for

X

X

blood

intent on revenge, ready to fight with someone

looking for sb you are angry with in order to speak angrily to them or punish them if you are out for blood, you are determined to find sb to attack or blame for sth

114. pop one's

X

X

X

cork

become very angry

make sb angry.

X

X

X

115. put a person's monkey up

X

X

116. put sb's nose out of joint

upset or annoy sb, informal

X

be upset or irritated, especially when displaced by someone X

X

117. put/send the cat among the pigeons

do or say sth that causes trouble and makes a lot of people angry or worried

X

X

118. raise cain

(with sb or sth)

create trouble or a commotion

X

X

X

119. raise hell

behave in a rowdy or disruptive way behave in a rowdy or disruptive way

(with sb or sth)

273

X

X

X

120. raise hob

with sb

X

121. raise sb's

make a person angry

hackles

X

X

make one very angry behave in a rowdy or disruptive way

cause mischief; make a fuss. make sb angry or indignant. make a noisy disturbance

122. raise the devil (with sb or sth)

X

X

X

123. raise the dickens (with sb or sth)

X

X

act in some extreme manner; to make trouble; to behave wildly; to be very angry. X

124. rattle sb's

cage

X

X

X

125. rub sb up

the wrong way

X

make sb annoyed

126. ruffle sb's

annoy or offend someone

feathers

make sb feel angry or annoyed, usually deliberately. irritate or repel sb. cause sb to become annoyed or upset.

X

X

X X

be very angry

127. see blood 128. see red

become very angry

X

X

X

129. smooth

sb's ruffled feathers

X

become very angry suddenly make sb less angry or irritated by using soothing words. respond curtly or angrily.

scold or speak very angrily to someone

X

answer sb in an unreasonably angry way X

X

130. snap (bite) a person's head (nose) off 131. spit

be very angry.

blood

X

X

132. stick in

one’s craw

X

X

be so offensive that one can't tolerate it x

make sb angry or irritated irritate a person

133. stroke sb (or sb's hair) the wrong way

X

134. tear one's

be greatly upset or distressed

be greatly upset or distressed

hair (out)

X

angry, rebellious

up in

135. arms (about)

act with or show extreme desperation protesting angrily about sth.

rising up in anger, (figuratively or literally) armed with weapons

X

X

express one's anger

136. vent one's spleen

get rid of one's feelings of anger caused by sb or sth by attacking sb or sth else

274

4.4. THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC SỢ

[139]

[126]

[57]

[143]

Thành ngữ tiếng Anh 1. afraid of

X

be unreasonably timid or nervous.

very timid and fearful

one's own shadow

2. at one’s

X

wit's end

easily frightened; always frightened, timid, or suspicious very worried about sth and do not know what to do.

be overwhelmed with difficulties and at a loss as to what to do next.

3. bad trip

X

X

completely puzzled and perplexed, not knowing what to do a frightening or otherwise very unpleasant experience

a frightening or otherwise very unpleasant experience

X

be very nervous.

4. bag (or bundle) of nerves

extremely jittery, tense, or fearful person

X

X

X

5. be a weight off one’s mind

a person who is extremely timid or tense come as a great relief after sb has been worried.

6. be scared

X

X

X

be very frightened

shitless

7. be scared

X

X

be terrified

badly frightened.

stiff 8. break out

X

in a cold sweat

very frightened or anxious

feel nervous or terrified

9. bring sb

X

begin to perspire a lot, usually from anxiety

make sb feel anxious

out in a cold sweat

make sb feel nervous or terrified

10. butterflie

X

X

feel very nervous

s in stomach

feel very nervous, usually about sth you are going to do

11. freeze

X

X

one's blood

cause one to shiver from fright or horror

12. frighten

X

X

cause one to shiver from fright or horror terrify, make one panic

sb out of one's wits

frighten one very badly.

13. frighten

X

X

sb to death

terrify, make one panic

frighten sb severely.

14. frighten

X

X

the horses

15. frighten

cause consternation or dismay; shock. frighten sb very

scare people off by one's ill- considered tactics X

terrify, make one

X

275

badly.

panic

the living daylights out of sb

X

X

terrify, make one panic

give sb a very severe fright.

X

alarm a person

X

make sb feel very frightened

16. frighten the wits out of sb 17. frighten/ scare the hell out of sb

18. frightene

X

X

feel nervous or terrified

severely frightened

d / scared to death

19. frightene

X

X

be unreasonably timid or nervous.

very timid and fearful

d of one’s own shadow

X

be afraid

20. get (have) cold feet

loss of nerve or confidence

X

retreat from an undertaking; lose one's nerve X

21. get fingers burnt

suffer unpleasant consequences as a result of your actions.

suffer as a result of an unsuccessful action and be nervous about trying again

22. get the

X

X

creeps

23. get the

X

X

willies

24. get the

X

obtain a sensation of horror or repugnance obtain a sensation of horror or repugnance X

to be frightened

wind up

induce a feeling of fear or revulsion in sb. become frightened alarm or frighten (or be alarmed or frightened).

X

X

X

25. give a person a nasty (bad) turn

26. give sb

X

X

heart failure

shock or frighten him (turn means a nervous shock) frighten or startle sb very much

X

27. give sb the creeps / the willies

frighten or startle someone very much give sb a sensation of horror or repugnance

to make sb uneasy; to frighten sb.

make you feel frightened and anxious, especially when there is no real reason for this

X

X

X

28. give sb the screaming abdabs

29. give sb

induce an attack of extreme anxiety or irritation in sb. X

X

the shivers

X

X

30. have (get) the jitters

cause a sensation of fear in him, to frighten him be in (get into) a panic, frightened or nervous

frighten sb or make them nervous feel anxious, especially before an important event

276

X

X

X

31. have a

cadenza

be extremely agitated

X

X

X

X

fear some intimated unpleasant action X

32. have a threat hanging over one's head 33. have butterflies in one’s stomach

have a queasy feeling because you are nervous.

X

X

34. have

have a fluttering sensations caused by a feeling of nervous anticipation become extremely upset

kittens

X

X

X

X

be in a state of tension or fear

35. have nerves of steel 36. have one's heart in one's mouth

be extremely nervous or upset. not to be easily frightened be greatly alarmed or apprehensive.

if sb'sheart is in their mouth, they feel extremely nervous

X

X

X

37. have one's heart in the boots

X

one is startled, frightened, or very excited

be in a state of extreme depression and fear have sudden feeling of fear or excitement

38. heart misses/skips a beat

if sb's heart misses a beat, they suddenly feel so excited or frightened that their heart beats faster X

X

39. hold one’s breath

be excited, anxious, or nervous

X

40. in a funk

X

in a state of panic or terror

(blue funk)

X

X

X

41. in fear and trembling

X

42. jump out

of one’s skin

be extremely startled

X

wait anxiously or excitedly for sth to happen or be announced in a state of extreme fear in a state of apprehension be extremely surprised or shocked

43. like a cat on a hot tin roof

very agitated, restless, or anxious.

X

44. like a cat

X

very nervous or restless

on hot bricks

be extremely startled or frightened restless or skittish, unable to remain still restless or skittish, unable to remain still

X

X

X

45. like a hen

X

X

X

with one chick 46. like a monkey on a

absurdly fussy and overanxious restless and agitated

277

stick

47. live on

X

X

X

one’s nerves

48. lose one's

be extremely anxious or tense X

X

nerve

horrify sb

X

abandon, out of fear, a decision to do sth shock or scare sb a lot

49. make one’s blood run cold

X

50. make sb

X

become frightened or timid, lose courage cause one to shiver from fright or horror make sb tremble with fear

quake in their boots

make sb very frightened or anxious

51. make sb's

X

frighten a person with sth horrific

flesh creep / crawl

cause sb to feel fear, horror, or disgust alarm or horrify sb

X

cause one to shudder with disgust or fear terrify one

cause sb to be very frightened.

X

X

X

52. make sb's hair stand on end 53. meet trouble halfway

54. on pins

X

X

nervously anxious

X

X

and needles 55. on tenterhooks

in a state of painful suspense

56. on thorns

X

X

X

57. out of

X

X

terrify, make one panic

distress yourself unnecessarily about what may happen in an agitated state of suspense. in a state of suspense or agitation because of uncertainty about a future event. continuously uneasy, especially in fear of being detected. be extremely frightened.

one's wits (senses)

X

terrify someone

X

X

X

58. put the fear of god into 59. put the wind up a person

terrify sb frighten him; to make him scared

60. quake in

to be afraid

X

tremble with apprehension.

one's boots 61. run

X

make sb feel anxious about their situation be very frightened or anxious X

scared

X

become intimidated or frightened X

become intimidated or frightened X

62. scare one out of one's wits

frighten one very badly.

63. scare sb

X

X

X

stiff

scare sb severely; to frighten sb to death.

278

X

(stiff means "dead.") scare sb severely.

64. scare sb

X

to death

X

X

terrify, make one panic terrify, make one panic

65. scare the living daylights out of sb

X

66. scare the

greatly frighten a person

pants off sb

X

X

67. scare the

terrify, make one panic terrify, make one panic

wits out of sb

give sb a very severe scare. make sb extremely scared, bored, give sb a very severe fright.

X

feel terrified

badly frightened

68. scared

X

stiff

X

make sb feel very frightened

69. send shivers down sb’s spine

X

X

to be afraid; to shake from fear

tremble with apprehension.

X

tremble with fear

70. shake / quake in one's boots 71. shake

tremble with fear or nervousness

like a leaf

X

display cowardice

exhibit cowardice

72. show the

tremble greatly, especially from fear. appear cowardly

X

white feather 73. stage

X

fright

acute nervousness when performing or speaking before an audience

X

X

74. struck

X

dumb

X

acute nervousness when performing or speaking before an audience unable to speak because they are so surprised, shocked or frightened by sth X

75. sweat

blood

be extremely anxious

X

X

76. sweat

bullets

be extremely anxious or nervous.

X

X

77. twist in

the wind

be left in a state of suspense or uncertainty

X

78. whistle in

the dark

pretend to be confident or unafraid

try to hide your fear in a scary or dangerous situation

X

X

suffer mental anguish, worry intensely perspire profusely; also, suffer mental anguish be abandoned to a bad situation, especially be left to incur blame, summon up courage in a frightening situation, make a show of bravery eagerly or anxiously

79. with bated breath

in great suspense; very anxiously or

279

excitedly.

4.5. THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC YÊU

[139]

[126]

[57]

[143]

Thành ngữ tiếng Anh a labour

X

X

1. of love

work done for one's satisfaction rather than monetary reward X

a love

X

X

2. nest

an old

a former lover

X

X

3. flame

an activity that is hard work but that you do because you enjoy it a home where two people who love each other live together, or a home where two people meet secretly in order to have sex a person who you had a romantic relationship with in the past be in love with sb

4. be soft on

X

X

sb

attracted to or emotionally involved with

X

5. bill and

X

coo

if you bill and coo with sb you love, you talk quietly to them and kiss them

exchange caresses or affectionate words; behave or talk in a very loving or sentimental way. informal, dated

X

carry a

6. torch for

secretly love sb who does not love you

continue to feel the pain of unreciprocated love for

feel (especially unrequited) love for.

7.

X

X

X

have a strong emotional effect on someone

X

cupboard

X

X

cast a spell on/over someone 8. love

love that you give in order to get sth from sb

X

eternal

X

9. triangle

a relationship involving three lovers, such as two women involved with one man or two men with one woman

a relationship between three people, typically a couple and the lover of one of them, involving sexual rivalry. fall in love with

10. fall for sb

X

fall very much in

280

love with sb

hook. line and sinker

sb.

X

become enamored develop the

x

11. fall in love (with sb)

X

12. get a crush on sb

13. have a

X

have a tendency or taste for

penchant for doing sth

X

14. have a thing going (with sb)

emotion of love for sb. become infatuated with sb. have a feeling of liking sth very much or a tendency to do sth a lot have a romance or a love affair with sb.

15. have got

X

it bad

X

if you have sth going with sb, you are having a sexual relationship with them be very much in love

strongly desire something

16. have one's heart set on sth

17. head over

X

heels in love (with sb)

completely, thoroughly love sb

be desiring and expecting sth, want sth very much very much in love with sb.

18. hot and

X

passionate, lustful

heavy

referring to serious passion or emotions.

be in love with sb very much, especially at the beginning of a relationship if sth or sb is hot and heavy, they are full of strong emotions or sexual feelings.

19. jump off

X

X

X

the deep end

X

fall in love with sb

fall in love with

follow one's emotions into a romantic situation. X

20. lose one’s heart to

21. love at

X

X

first sight

an instantaneous attraction to someone or something

love established when two people first see one another.

X

X

X

X

like or to love sb or sth a lot.

X

22. love sb/sth to bits 23. love's young dream

the relationship of young lovers; the object of sb's love; a man regarded as a perfect lover.

281

X

X

24. make sheep's eyes at sb

look at sb in a foolishly amorous way.

look at sb in a way that shows that you love them or are attracted to them.

X

X

X

X

25. much sought after 26. nuts about sb or sth

loved, liked or wanted very much very fond of sb or sth.

27. only have

X

eyes for sb

be interested in or attracted to only one person

very popular, in demand be extremely enthusiastic; also, be extremely fond of be attracted to or desire someone or something

28. pillow

X

X

be loyal to only one person, in the context of romance. X

talk

29. puppy

X

X

love

adolescent love or infatuation, especially one that is not expected to last

conversations that people who are in love have when they are in bed together romantic love which a young person feels for sb and which usually disappears as they become older

30. set one’s

X

X

X

cap at

try to attract as a suitor

31. sweep sb

X

X

off their feet

if sb sweeps you off your feet, you fall suddenly and completely in love with them

32. sweet

X

nothings

overwhelm someone emotionally; infatuate someone; make a very favorable impression on someone endearments, often whispered, between lovers

words of affection exchanged by lovers.

33. the apple

X

X

of sb's eye

romantic things that people who are in love say to each other the person who sb loves most and is very proud of

special favorite, beloved person or thing

X

X

X

34. the boy (or girl) next door

a person or the type of a person perceived as familiar, approachable, and dependable, typically in the

282

35. the light

X

context of a romantic partnership. a much-loved person.

a person who is loved much.

of one’s life

X

X

36. the love

X

of one’s life

X

X

37. think the

X

sun shines out (of) sb's backside

X

X

38. tug at the

X

heartstrings

X

make your feelings apparent.

39. wear one’s heart on one’s sleeve

the person you love most the person that sb loves most in all their life. love or admire sb so much that you do not think they have any faults if sth or sb tugs at your heartstrings, they make you feel strong love or sympathy. make your feelings and opinions obvious to other people

openly show one's feelings, especially amorous ones

X

X

X

40. weave one’s magic over sb

X

X

41. weave a

X

spell over sb

attract or interest someone very much attract or interest someone very much

283

PHỤ LỤC 5:

BẢNG LIỆT KÊ CÁCH DỊCH CÁC THÀNH NGỮ BIỂU THỊ CẢM XÚC TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT THAM KHẢO TRONG SÁU QUYỂN TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ SONG NGỮ ANH-VIỆT

[29] Nguyễn Văn Khi, Bạch Thanh Minh (2008), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, Viện Ngôn ngữ học,

NXB Tổng hợp TP.HCM, TP.HCM.

[40] Lã Thành (2006), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội.

[47] Nguyễn Minh Tiến (2004), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Trẻ, TP.HCM.

[49] Trung tâm biên soạn dịch thuật sách Sài Gòn (2004), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB tổng

hợp TP.HCM.

[28] Trần Vũ Khanh (2003), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Thanh Niên, TP.HCM.

[16] Trần Phong Giao (2010), Từ điển thành ngữ Anh-Việt, NXB Giao thông vận tải, TP.HCM.

Ghi chú:

Số trong ngoặc vuông đặt trước sáu quyển từ điển tương ứng với thứ tự mà các quyển từ điển ấy

xuất hiện trong danh mục tài liệu tham khảo của luận án.

Các ô đánh dấu chéo (X) nghĩa là không tìm thấy định nghĩa trong quyển tử điển tương ứng của

cột đó.

5.1. BẢN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC VUI SANG TIẾNG VIỆT

[29]

[40]

[47]

[49]

[16]

[28]

Thành ngữ tiếng Anh 1. a bowl of

x

x

x

x

x

cherries

x

x

x

dùng khi muốn nói rằng cuộc sống thật dễ chịu và thú vị x

x

2. a happy accident

sự cố hạnh phúc (sự việc nằm ngoài kế hoạch nhưng vẫn mang lại niểm vui)

x

x

x

3. a ray of sunshine

người hay vật làm cho cuộc đời của ai tươi sáng hay vui tươi hơn.

người hay sự việc làm cho ai cảm thấy vui hơn hoặc một tình huống trở nên tốt đẹp hơn

x

x

x

4. a red letter

một người hạnh phúc hoặc vật làm cho cuộc đời ai hạnh phúc hơn; tia nắng ấm một ngày đặc biệt rất đáng nhớ vì đã có

day

dịp quan trọng và đáng nhớ, ngày

ngày nghỉ, ngày lễ, ngày vui mừng

284

(thường có chữ đỏ trên các tờ lịch)

được in chữ đỏ trên cuốn lịch – ý nói quan trọng

điều quan trọng hoặc tốt lành xảy ra

x

x

x

x

5. as happy as a clam

hài lòng sung sướng

rất vui vẻ, sung sướng về một tình huống hoặc điều đang thực hiện, để lộ rõ ra bên ngoài dễ dàng nhìn thấy

x

x

x

x

x

6. as happy as a king

sướng nhất đời, sướng như vua vui như sáo

vui như tết

x

x

7. as happy as a lark

vui như chim sơn ca; rất vui nhộn; rất hạnh phúc

rất vui vẻ, sung sướng về một tình huống hoặc điều đang thực hiện, để lộ rõ ra bên ngoài dễ dàng nhìn thấy

x

x

x

x

rất sung sướng

vui vẻ, thoải mái

x

x

x

x

x

x

x

x

x

rất vui sướng, hạnh phúc.

vui vẻ, thoải mái

x

x

x

x

x

rất sung sướng rất sung sướng

8. as happy as a sandboy 9. as happy as can be 10. as happy as Larry 11. as happy as the day is long

x

x

x

x

x

x

12. be a box of birds

x

x

x

x

trông có vẻ rất sung sướng.

13. be all smiles

x

đê mê; say tít

x

x

14. be as high

say rượu hoặc say thuốc

as a kite

x

x

x

x

15. be at

rất vui vẻ hớn hở, nhất là sau khi cảm thấy buồn hoặc lo lắng việc gì; mặt tươi như hoa trong một trạng thái phấn khích, nhất là do ma túy, rượu làm lành với ai

x

x

thân thiện, hòa thuận với ai cao vọng

x

x

rất thành công

x

x

x

x

peace with the world 16. be flying high 17. be in a

cảm thấy vui mừng

tràn ngập cơn xúc động ( hết sức vui

transport of

285

delight/joy

x

x

x

18. be in one’s element

ở trong một tình huống quen thuộc, rất thích thú và có khả năng làm việc tốt

mừng…) ở trong môi trường quen thuộc hay ưa thích; làm những gì người ta sở trường và ưa thích.

x

làm việc gì bạn thích và làm tốt việc đó, nhất là với những người cũng giống như bạn; có khiếu, có sở trường, có hoa tay về việc gì x

x

x

x

19. be like a child in a sweetshop

x

x

x

x

x

20. be like a kid in a candy store

nói về cảm xúc rất mạnh mẽ, rất phấn khích và sung sướng nói về cảm xúc rất mạnh mẽ, rất phấn khích và sung sướng

x

x

x

x

x

ăn chơi trác tán, say sưa.

21. be on the tiles

22. beer and

x

x

x

x

vui thú, trò giải trí.

skittles

hoàn toàn vui vẻ, thỏa mãn hoặc thoải mái và hài lòng

23. bread and

x

x

x

x

x

circuses

thực phẩm và thứ tiêu khiển cung cấp như một cách để làm cho người dân thường cảm thấy hài lòng với đường lối mà họ được cai trị

24. bright-

x

x

x

x

x

x

rất sung sức và sẵn sàng khởi sự làm điều gì x

sôi nổi và vui vẻ, hài lòng và hãnh diện; hớn hở x

eyed and bushy- tailed 25. burst with joy

rạng rỡ vì vui mừng

vui mừng; sung sướng đến tột độ

x

x

x

x

x

những lạc thú ở đời.

26. cakes and ale

x

x

x

x

x

27. enter/get into the spirit of sth

tham gia vào hoạt động hoặc sự kiện một cách nhiệt tình

x

x

x

x

x

28. everything in the garden is

mọi chuyện đều rất thỏa đáng.

286

lovely/ros y

trông đẹp tuyệt

có vẻ/ cảm thấy hết sức tuyệt vời

cảm thấy vô cùng sảng khoái

rất sung sướng, mạnh khỏe, đẹp đẽ..

x

x

29. feel / look like a million dollars 30. forbidden fruit

vật mà người ta ao ước bởi vò nó bị cấm hoặc không được cho phép (trái cấm)

cảm thấy sảng khoải, tinh thần và thể xác điều mong ước nhưng không thực hiện được, trái cấm ( điển tích trong sách cấm )

x

x

trông có vẻ hoặc cảm thấy rất khỏe khoắn người hay sự việc tạo được sức hấp dẫn do nơi việc người khác bị ngăn cấm không được tiếp xúc x

x

x

31. full of beans

x

x

x

sinh động và vui vẻ.

32. full of the joys of spring

điều gì bạn không được phép có, làm... và vì lý do đó càng hấp dẫn hơn; trái cấm; của cấm rất sinh động, lanh lợi , khỏe mạnh. rất hạnh phúc vui tươi và sinh động

x

x

x

x

x

33. get a kick out of sth/ doing sth

x

x

cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sinh lực và hài lòng với cuộc sống, nhất là trong lúc xuân về hoặc do còn trẻ tuổi nghĩ rằng điều gì đó là buồn cười, thật khôi hài nếu làm gì đó x

x

thích một điều gì đó.

34. give sb a new lease on life

x

x

x

cho ai cơ may sống lâu hơn, toại ý hơn. cho ai- cái gì sự tán thành.

35. give sth the thumbs up

tán đồng hoặc ưa thích điều gì, nhất là khi bày tỏ thái độ ưa thích của mình để khuyến khich người khác

36. go

x

x

x

overboard

làm quá trớn; vung tay quá trán

rất hoặc quá nhiệt tình ( về cái gì/ ai)

37. grin /

x

x

x

x

smile from ear to ear

mỉm cười, theo cách tỏ ra mình rất thích thú hoặc hài lòng

38. grin and

x

x

x

x

bear it

vui vẻ chịu đựng sự trái ý

dùng để biểu đạt rằng cái gì được chấp nhận/ bị từ chối hoặc nó thành công/không thành công quá phấn khích hoặc hăng hái về việc gì hoặc vê việc làm điều gì cười nhiều vì bạn rất hài lòng về điều gì; cười toe toét; cười ngoác đến mang tai chấp nhận điều gì, khó

287

x

x

x

x

39. grin like a Cheshire cat

chịu mà không phàn nàn toét miệng cười một cách ngẩn ngơ mà không tự mãn.

cười mở miệng rất ngớ ngẩn hoặc rộng đến nỗi làm cho tự mãn cho khuôn mặt trông hài lòng.

40. happy

x

x

x

x

x

hunting ground

41. have a ball

x

x

x

rất vui thú

một nơi rất tốt để tìm những gì bạn cần, phạm vi hoạt động thích hợp. tha hồ vui chơi

tự thấy hài lòng, rất thỏa thích

42. have a

x

x

x

rất vui thú

good time

vui vẻ; vui thích

hưởng được một thời gian vui thích, vui chơi thoả thích

43. in good

x

x

x

x

x

spirits

x

x

x

x

x

44. in high spirits

x

x

x

x

45. in raptures over sth

hạnh phúc và hớn hở/ buồn bã và đau khổ hạnh phúc và hớn hở/ buồn bã và đau khổ hết sức nhiệt tình với người việc mà bạn thích

x

x

x

x

46. jump for joy

nhảy lên vì sung sướng

nhảy cỡn lên

nô đùa vui chơi; trẻ trung

nghịch ngợm, sinh động và vui vẻ

47. kick up one’s heels

cảm thấy hay biểu lộ điều rất thích thú hay nhiệt tình lớn lao. show one’s delight at sth by excited movements: tỏ sự thích thú của mình về cái gì bằng những động tác sôi nổi. cư xử một cách phấn khởi để biểu lộ niềm vui được tự do.

vui chơi thỏa thích, nhất là đến dự tiệc, đi khiêu vũ

x

x

x

48. lead/live the life of Riley

sống phè phỡn xa hoa

có cuộc sống rất dễ dàng, thoải mái, không phải làm việc nặng nhọc hay lo lắng về tiền

cảm thấy thoải mái và thích thú; cảm thấy vui vẻ, phấn khởi, hào hứng có một cuộc sống thoải mái và thú vị mà không phải lo lắng gì; sống như ông hoàng

288

x

x

x

49. lick one's chops

tỏ vẻ khoái trá, thỏa mãn

biểu lộ sự hăm hở thích thú hoặc chờ đợi điều gì.

x

x

x

50. lick one's lips

biểu lộ sự hăm hở thích thú hoặc chờ đợi điều gì.

hăm hở, thích thú chuyện sắp xảy ra ( nghĩa đen và nghĩa bóng )

51. like a cat

x

x

x

x

that ate the canary

rất hài lòng hoặc thỏa mãn với chính mình; mãn nguyện như mèo no mỡ

x

x

x

52. like a cat

x

x

that got the ice cream

bạc căng thẳng, bị kích động, căng thẳng về một chuyện sắp xảy ra, vì sẽ mang lại điều gì đó đang được cần đến căng thẳng, bị kích động, căng thẳng về một chuyện sắp xảy ra, vì sẽ mang lại điều gì đó đang được cần đến rất hài lòng về điều mới mình vừa thực hiện, hoặc điều gì đó vừa mới xảy ra với mình rất hài lòng về điều mình vừa thực hiện hoặc điều gì vừa mới xảy ra với mình. x

x

x

x

x

x

x

x

53. like a dog with two tails 54. live in a fool's paradise

sống trong trạng thái hạnh phúc (giả tạo) không thể bền vững được.

x

x

55. make

x

x

cực kỳ sung sướng; sướng rơn tình trạng hạnh phúc vốn không thể kéo dài vì một điều mà bạn không lường được đang đe dọa phá hoại nó làm cho ai đó rất vui

one’s day

hài lòng với một tình huống vì cho rằng tốt đẹp và không có vấn đề gì, trong khi thật ra không phải vậy làm cho ai được vui vẻ, sung sướng

x

56. merry as a cricket

x

vui như dế mèn mở hội. x

57. music to

x

nguồn tin làm cho người ta rất vui lòng.

one’s ears

ý kiến, quyết định hoặc điều gì nghe qua rất hài lòng

x

x

x

x

thoải mái, vô tư

(về thông tin,...) là điều nghe đến dễ chịu không một chút lo nghĩ hay bận tâm

58. not have a care in the world

289

x

59. on cloud nine

sung sướng vô cùng

cực kỳ sung sướng; đến chín tầng mây

hạnh phúc vô cùng, trên chín tầng mây.

cực kì vui sướng vì có điều gì tốt đẹp vừa xảy ra

x

60. on top of the world

rất sung sướng, vui vẻ

rất vui sướng; vui mừng khôn xiết; sướng như ở chín tầng mây. vô cùng sung sướng; thích thú mê ly

rất hạnh phúc hoặc kiêu hãnh

rất hạnh phúc, hết sức vui sướng, hết sức vui lòng

x

x

x

x

61. over the moon

rất hạnh phúc hay rất tự hào nhất là do thành công hay gặp vận may. tuyệt đối vui sướng, ngây ngất. rất vui lòng

x

x

x

rất hài lòng

x

x

x

62. pleased as punch 63. put a brave face/ front on sth

cố che giấu sự sợ sệt, lo lắng, thất vọng hay bối rối vì điều gì

nỗ lực chứng tỏ ta đây mãn nguyện và sung sướng trước vạn xui hay nguy hiểm

x

x

64. put a

x

x

damper/da mpener on sth

rất sung sướng và phấn khích rất hài lòng, vui mừng cố tỏ ra dũng cảm, vui vẻ hoặc xoay xở tốt trong một tình huống khó khăn, tuy trong thực tế bạn sợ hãi và không vui làm cho một sự kiện kém thú vị hoặc vui.

làm cho vui, một hoạt động mọi người cảm thấy lý thú..

x

x

65. roses,

x

x

dễ dàng, thoải mái dễ chịu.

roses, all the way

x

x

x

x

x

66. starry- eyed

x

x

67. stars in

x

one's eyes

mơ ước trở thành diễn viên

tràn trề hi vọng ở tương lai nuôi hi vọng tràn trề là mình sẽ trở nên nổi tiếng trong tương lai, nhất là trong các lĩnh vực điện ảnh , thể thao

x

x

x

x

68. stir the / one's blood

khuấy động nơi ai sự kích thích hay hăng hái.

x

69. the

x

x

x

primrose path

hạnh phúc và háo hức về tương lai, vì bạn tin rằng bạn sẽ thành công và nổi tiếng; đôi mắt sáng ngời niềm tin làm cho ai háo hứng hoặc hăng hái; khơi dậy nhiệt tình; khơi dậy bầu máu nóng một cuộc sống nhàn hạ đầy thú vui nhưng kết

290

x

70. the

x

x

seventh heaven

cuộc có hại rất sung sướng, hạnh phúc

ở vào trạng thái cực kì sung sướng hạnh phúc

vô cùng thích thú; sung sướng như ở trên chín tầng mây xanh

x

x

x

x

x

rất hài lòng

x

x

71. thrilled to bits 72. tickled pink

rất hài lòng hoặc vui vẻ

rất hài lòng

làm chết cười

rất vui mừng

73. tickled to death

rất hài lòng hoặc vui vẻ

rất hài lòng về điều gì vừa xảy ra rất hài lòng về điều gì vừa xảy ra

vui mừng vô cùng. vui mừng hay thích thú vô cùng. vui mừng hay thích thú vô cùng

x

x

mừng hớn hở

x

74. walk on air

sung sướng vô cùng, như được lên tiên

làm ai ấm lòng hả dạ

75. warm the cockles of sb's heart

làm cho ai đó cảm thấy mãn nguyện và sung sướng

làm cho ai vui sướng, làm cho ai phấn khởi

làm ai cảm thấy vui sướng và lạc quan

làm cho ai cảm thấy vui lòng hoặc sung sướng.

x

x

x

76. whoop it up

tham gia vào những buổi lễ mừng ồn ào.

rất sung sướng vế chuyện gì; sướng như đi trên mây làm cho ai cảm thấy hạnh phúc hoặc đồng cảm vui chơi hết mình với một nhóm người ồn ào

77. wine,

x

x

x

x

women, and song

nhậu nhẹt, nhảy múa… và hưởng thú vui.

chơi đùa vui vẻ, thỏa thích với một nhóm bạn bè, thường là trong một dịp vui nào đó nói về một cuộc sống hưởng thụ, ăn chơi phóng túng

5.2. BẢN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC BUỒN SANG TIẾNG VIỆT

[29]

[40]

[47]

[16]

[49]

[28]

Thành ngữ tiếng Anh

x

x

x

x

x

1. a black day

x

2. a dog's life

x

sống hay tồn tại một cách khổ sở

sống đời cơ cực, khổ ải; sống một cuộc đời khốn khổ

một ngày mà điều gì buồn, khó chịu hoặc bất hạnh xảy ra (cho ai) một ngày đen tối/đủi. một cuộc sống không có nhiều thú vui hoặc tự do; sống khổ như chó

nói về một đời sống quá khó khăn, tồi tệ, nhưng đôi khi cũng dùng với hàm ý khôi hài khi

291

x

x

x

3. a kick in the teeth

hành động khó chịu và thường bất ngờ.

đời sống thực sự là rất tuyệt sự thất bại nặng nề; điều gây nhiều thất vọng

x

4. a long face

x

vẻ mặt buồn bã, thất vọng

biểu lộ sầu muộn, vẻ mặt buồn hiu.

tỏ vẻ buồn, bất mãn ra mặt

cổ họng như nghẹn tắc lại

cảm giác bị nghẹn ngào do cảm xúc

5. a lump in one’s throat

nghẹn lời không nói được vì quá xúc động, muốn khóc

đối xử tệ với ai hoặc không giúp khi họ cần sự giúp đỡ (có) biểu hiện buồn bã và thất vọng; thuỗn mặt ra có cảm giác nghẹn ở cổ họng do cảm xúc mạnh gậy nên

cảm thấy nghẹn ở cổ như một kết quả của một cảm xúc mạnh gây ra do tình yêu, nỗi buồn…

cảm thấy nghẹn ngào xúc động cảm thấy nghẹn ngào cổ họng – như thể muốn khóc

x

x

x

x

x

6. a misery guts

x

sự sỉ nhục

hắt hủi hoặc lăng mạ.

7. a slap in the face

sự quở trách, bất mãn, xem thường

cách mô tả người chẳng bao giờ vui vẻ hoặc người hay than phiền hành động dường như có ý lăng mạ ai đó

nói về một quyết định hay hành vi gây thất vọng hoặc xúc phạm rất nặng nề đến ai, và không tỏ ra sự cảm thông, trân trọng

8. a sob story

x

x

x

x

câu chuyện khiến người nghe phải chảy nước mắt (mỉa mai)

x

x

9. add insult to injury

làm tình huống càng thêm tệ hại (sáo ngữ)

một câu chuyện mà ai đó kể cho bạn nghe để bạn thông cảm với họ , nhất là chuyện không làm bạn cảm động hoặc không có thật; chuyện sướt mướt làm tổn thương tình cảm hoặc gây tổn hại cho người đã bị tổn thương rồi

làm cho tình trạng vốn tồi tệ trờ nên tồi tệ hơn; hoặc gây thương tổn thêm cho người khác vốn đã bị tổn thương rồi

làm cho mối quan hệ với môt người khác càng tệ hơn bằng cách làm mếch long cũng như thật sự gây tổn

292

thương cho người đó.

10. as

x

x

x

x

x

miserable as sin

11. at the end

x

x

được dùng để nhấn mạnh rằng ai đó rất buồn khổ hoặc xấu xí; buồn như hoa bí buổi chiều; buồn thỉu buồn thiu thất bại

x

x

đuối sức chịu đựng.

x

x

chán nản, thất vọng

ỉu xìu, chán ngán, thất vọng

x

x

of one’s rope 12. be down in one's mouth 13. be in the doldrums

mặt buồn, ủ rũ, không nụ cười chậm chạp, nản

bất hạnh và khổ sở; măt ủ mày chau lắng xuống hoặc chán nản

lờ đờ chập chạp; bị chán nản buồn rầu

x

x

ngỡ ngàng xa lạ

14. be out of one’s element

ở tình huống bạn thấy lạ lẫm và không tự nhiên; gượng ép

trong tình huống không quen thuộc, không được thoải mái hoặc không vui

15. be out of sorts

khó chịu, bực mình

thấy khó chịu, khó ở, bực tức

cảm thấy nhuốm bệnh hoặc khó chịu

không được khỏe; càu nhàu gắt gỏng

cảm thấy,... không được khỏe hoặc dể nổi nóng

cảm thấy buồn chán, xuống tinh thần sa sút. không ở trong môi trường quen thuộc hay ưa thích; không làm những gì người ta sở trường và thích thú. cảm thấy không được khỏe trong mình, khó ở - ở trong tâm trạng bực bội, khó chịu.

x

x

16. bear /

x

chịu đựng đau khổ

carry one's cross

cắn răng chịu đựng; chấp nhận khó khăn của mình

x

x

x

tự đấm ngực

17. beat one's breast

chịu đựng những rắc rối mà cuộc sống đem lại cho bạn cho thấy rằng bạn biết bạn đã làm điều gì sai trái và hối tiếc về điều đó; vò đầu bứt tai

18. break

one's heart

tỏ ra mình biết mình đã làm sai và lấy làm tiếc, thường là thể hiện sự đau buồn và hối tiếc,.. một cách quá đáng. làm cho ai/ ta cảm thấy rất phiền não.

xúc phạm sâu sắc tình cảm một ai

làm đau lòng, làm cho đau khổ

làm ai đau khổ, thất vọng

nói về một sự kiện hoặc tình huống làm cho ai rất đau buồn hay bối rối

làm ai cảm thấy hết sức bất hạnh, làm ai đau lòng/tan nát cõi lòng bắt đầu thất

19. come

x

x

x

x

x

293

apart at the seams

20. come

x

x

x

x

x

bại hay sụp đổ trở nên rất lo lắng.

unglued / unstuck

21. cry one’s eyes out

khóc nhiều lắm

khóc lóc thảm thiết

khóc nhiều và rất lâu

khóc thảm thiết

khóc thảm thiết.

khóc thật nhiều và kéo dài rất lâu, không thể tự kiềm chế được

22. cry over

x

x

đau khổ vì chuyện đã rồi

spilled milk

giống như tò vò khóc nhện, khóc một chuyện đã rồi

tiếc than về cái gì đã mất không thể lấy lại được

tỏ ra hối tiếc đối với cái gì đã xảy ra và không thể sửa chửa được.

x

23. cut sb to the quick

xúc phạm tình cảm một ai một cách sâu sắc

làm ai tổn thương; xúc phạm ai nặng nề

làm tổn thương tình cảm của ai một cách sâu xa

nói hoặc làm điều gì khiến cho ai đó hết sức bối rối hoặc cảm thấy bị xúc phạm

làm tổn thương đến cảm nghĩ, làm ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm, chạm vào chỗ nhạy cảm nhất, chạm nọc

x

x

x

x

24. die of a broken heart

chết vì buồn phiền; đau khổ vì cuộc tình tan vỡ

25. down in

x

x

the dumps

hao mòn vì nhớ thương, nhất là do tình cảm bị mất buồn, xuống tinh thần

nản lòng; khổ sở

buồn rầu chán nản

26. down in

ỉu xìu, chán nản, thất vọng

mặt mày ủ dột, buồn xo

chán nản , thất vọng

bất hạnh và khổ sở; mặt ủ mày chau

nói về tâm trạng rất buồn chán đến mức không còn quan tâm gì đến cuộc sống trông có vẻ rất buồn bã, đau khổ x

x

x

x

uống rượu tiêu sầu

the mouth 27. drown one’s sorrows

28. eat one's heart out

mặt buồn, ủ rũ, không nụ cười cố gắng quên đi nỗi buồn qua chén rượu đau buồn vô cùng (về một chuyện gì)

đau đớn, âm thầm, héo hon vì đau khổ

rất đau khổ vì không đạt được điều mình muốn

đau buồn hoặc khổ sở vìmuốn có ai đó nhưng không thể được.

đau khổ; buồn bã

chịu đựng sự ganh tỵ dai dẳng, mong muốn mãnh liệt, tâm trạng thất vọng.. một cách thầm kín.

x

x

x

x

x

29. empty nest syndrome

tình trạng của các bậc cha mẹ khi con cái đã ra riêng; tổ ấm gia đình trống

294

30. end in

x

x

x

x

x

tears

x

x

x

x

vắng; ổ không. hội chứng ổ không. khi bạn nói rằng điều gì đó sẽ end in tears, nghĩa là bạn đang cảnh cáo ai rằng điều họ đang làm sẽ có hậu quả không dễ chịu hoặc kết thúc bi thảm. bệnh nặng hoặc trông xấu xí

rất xấu, không hay, lạ thường.

buồn chán

x

x

31. feel / look like nothing on earth 32. get/ have the blues

buồn, bị ám chướng

vẻ mặt giận dữ, mặt hầm hầm.

trở nên buồn bã; có chuyện buồn

x

x

x

x

33. have a bad hair day

một ngày chẳng làm được việc gì; một ngày xui xẻo

34. hit sb

x

x

x

x

where it hurts

nói về vấn đề nhạy cảm nhất của ai; đánh trúng điểm yếu

một ngày có cảm giác bực bội khó chịu vô cớ, và thường là mọi thứ đều xảy ra một cách xui xẻo nói hay làm điều gì mà biết là sẽ gây bối rối hoặc thương tổn cho ai đó nhiều nhất

x

x

x

x

x

35. in a bad mood

36. lick one’s

tâm trạng khó chịu, xuống tinh thần x

x

x

wounds

cố gắng khôi phục lại sức mạnh hoặc tinh thần của mình sau một cuộc thất bại.

suy nghĩ đến và cố quen với một tình huống hay sự kiện đã công khai gây bối rối hoặc rất nhiều thất vọng

37. make

x

x

x

x

x

(sb's) life a misery

dành thời giờ để có lấy lại sức mạnh và sự tự tin sau một thất bại hoặc thất vọng; đang lấy lại sức; đang giải sầu làm cho cuộc sống ai khổ sở hoặc khó khăn

x

x

x

x

x

làm ai chịu khổ sở lâu dài

38. make life miserable for sb

39. more in

x

x

x

x

làm gì mà bạn

x

295

sorrow than in anger

40. on the

x

x

cảm thấy buồn và hối tiếc hơn là giận dữ x

x

x

rebound

x

x

x

x

trong lúc còn đang bị ảnh hưởng bởi nỗi buồn chán, thất vọng… x

41. one’s heart bleeds

x

x

x

42. plumb the depths

xuống đến điểm thấp nhất của cái gì.

dùng để nói rằng bạn không cảm thấy thông cảm hoặc thương xót ai đạt đến điểm thấp nhất hoặc cực điểm của cái gì

43. rock

có cảm giác tưởng như hết sức khó chịu, chẳng hạn như quá xấu hổ hoặc buồn rầu đến mức tưởng như không sao chịu nổi x

tan vỡ

x

x

x

bottom

x

x

x

44. rub salt in the wound

điểm thấp nhât phần sâu tuyệt đối cố tình gây đau khổ, bất hạnh hay nhục nhã cho ai

làm cho một tình huống đang tồi tệ, khó khăn ,… lại càng tồi tệ, khó khăn hơn nữa

x

x

làm cho ai đó vốn đã đau khổ, tức giận,... về việc gì rồi càng cảm thấy tồi tệ hơn; xát muối vào vết thương ăn năn hối lỗi

x

x

x

x

x

x

x

45. sackcloth and ashes 46. sb’s heart sinks

cảm thấy buồn chán.

x

x

x

x

x

dùng để nói rằng bạn bỗng thấy buồn hoặc thất vọng về điều gì xát muối vào vết thương

x

x

x

x

x

mặt ủ mày chau

x

x

x

x

chán ghét.

rất thất vọng

47. sb's heart is in their boots 48. sb's heart is in their mouth 49. sick as a parrot 50. sick at

x

x

x

heart

rất đau buồn và bối rối về việc gì

rất đau khổ hoặc thất vọng; đau lòng; khổ tâm

đầy thất vọng, sợ hãi, hoặc sầu não, bất hạnh.

296

x

x

x

51. sink into

x

x

despair (for s.o)

x

x

ngập sâu vào tuyệt vọng, chìm đắm vào đau khổ. x

x

x

sự ngạc nhiên bất ngờ

x

x

52. the baby blues 53. thin-

x

x

x

skinned

dễ bị cảm xúc, nhạy cảm

x

x

x

54. twist / turn

x

x

ép buộc

the knife

x

x

x

x

x

55. vale of tears

những khó khăn trong cuộc sống

x

x

x

x

x

mất hy vọng, bị ép buộc

56. wear the green willow

x

x

x

x

57. wipe the smile off sb's face

làm cho ai cảm thấy bớt vui hoặc thỏa mãn việc gì

x

x

x

x

làm điều gí khiến cho ai không hài lòng hoặc bất mãn, nhất là phải bực tức x

58. with a heavy heart

x

x

x

x

x

có cảm giác buồn hoặc lo ngại; cảm thấy lòng nặng trĩu xát muối vào vết thương.

x

x

x

59. with one's heart in one's boots 60. wring one’s hands

bóp hoặc vặn tay mình như một dấu hiệu lo lắng, buồn bã hoặc thất vọng.

vặn và chà sát hai tay với nhau vì bạn đang rất lo lăng bối rối hoặc bồn chồn; vò đầu bứt tai

chào hỏi hoặc từ biệt ai bằng cách bắt tay thật chặt và lắc mạnh, đến nỗi làm cho người ấy ngạc nhiên hoặc bực mình

[29]

[40]

[47]

[28]

[49]

[16]

x

x

x

x

x

5.3. BẢN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC GIẬN SANG TIẾNG VIỆT Thành ngữ tiếng Anh 1. a face like thunder

x

x

x

vẻ mặt giận dữ; mặt anh ta/ cô ta hầm hầm; mặt đằng đằng sát khí chắc chắn làm cho

2. a red rag to a bull

hành động hay lời nói

có thể gây ra sự phẫn uất,

297

giận dữ, bạo lực, … mạnh mẽ.

người nào đó hết sức giận dữ hoặc thậm chí trở nên hung bạo.

x

đổ thêm dầu vào lửa

thêm dầu vào lửa

3. add fuel to the flame / fire

làm hoặc nói điều gì khiến cho người ta phản ứng mạnh hơn hoặc ác liệt hơn; lửa cháy đổ thêm dầu.

làm hay nói điều gì khiến tình hình vốn khó khăn càng thêm tồi tệ hoặc khiến ai cang giận dữ,..., hơn; thêm dầu vào lửa

x

hoàn toàn mất trí.

4. as mad as a hatter

điên cuồng rố dại, phát điên , phát cuồng.

(về một người) phát điên, phát cuồng

giận dữ; điên tiết; nổi cơn thịnh nộ

x

x

x

x

tức giận; nổi tam bành

5. as mad as a hornet

x

tức giận

x

x

x

nào đó mà chắc chắn sẽ làm cho ai nổi giận, điên tiết lên hoặc mất bình tĩnh nói hay làm điều gì khiến cho một tình huống tồi tệ trở nên cảng tồi tệ hơn nữa, hoặc làm cho người đang nóng giận càng nóng giận hơn điên khùng, hoàn toàn mất trí hoặc cư xử rất lạ lùng, khó hiểu dùng khi muốn nói ai đó là đang cực kì tức giận tức giận, nổi nóng

x

x

x

x

x

rất tức giận

6. as mad as a wet hen 7. as mad as hell

sự bất hòa

x

8. bad blood (between people)

cảm giác thù địch, khó chịu

sự ác cảm, sự bất hòa, sự thù địch

sự tức giận hoặc ác ý giữa những người đã từng có sự tranh chấp hoặc không ưa nhau.

9.

x

x

điều phiền toái

be a pain in the neck

người hay vật gây phiền muộn hoặc quấy rầy; sự buồn phiền.

cảm giác căm ghét hoặc không thích rõ rệt giữa hai hoặc nhiều người hoặc nhóm người; mối ác cảm người hoặc việc gây phiền phức cho bạn; người vật gây khó chịu; của nợ.

cách nói thô lỗ, chỉ một người gây khó chịu, bực mình, hoặc sự việc không được ưa thích, hoặc rất khó làm.

x

x

x

x

10. be after sb's blood

muốn làm tổn thương hoặc làm hại ai, nhất là để trả thù; quyết trả thù

có ý định xúc phạm hay hạ nhục ai nhất là để trừng phạt hoặc trả thù

298

x

x

x

x

x

11. be fed up to the back teeth

thất vọng, bực mình hoặc chán ngán ai/ cái gì; ngán đến tận mang tai; ngán đến tận cổ

x

x

x

x

12. bear a grudge (against sb)

liên tục tỏ ra khó chịu với người khác

có hận thù với ai, có ác cảm với ai, oán giận ai

13. have a grudge (against sb);

x

x

x

x

x

14. hold a grudge (against sb) 15. bent out of shape

rất tức giận hoặc bối rối vì điều gì

x

16. bite one's lip

x

x

x

mím môi (nén giận )

17. blow a fuse

x

x

x

cắn môi, hoặc cắn răng vào môi để tự nén thốt ra điều gì, không nức nở, không bộc lộ cảm xúc… x

trở nên rất tức giận; đùng đùng nổi giận x

x

x

x

18. blow a gasket

mất bình tĩnh, mất tự chủ.

x

đột nhiên hết sức tức giận hoặc trở nên bối rối đột nhiên hết sức tức giận hoặc trở nên bối rối x

x

x

19. blow off steam

xả hơi cho thoải mái

20. blow one’s

x

lid

tức giận, nổi nóng, phát khùng

bỗng nổi cơn thịnh nộ; nổi đóa.

giận phát điên lên, giận tím mặt

quát tháo trút cơn giận, la cho hả hơi đỡ giận giận dữ hay kích động đến độ gần như mất trí

tức giận vì điều gì đến nỗi không thể tự kìm chế được hành động hay lời nói của mình, mất bình tĩnh x

21. blow one's

x

x

top

bỗng nổi cơn thịnh nộ

22. breathe fire

giận phát điên lên, giận tím mặt x

tức giận, nổi nóng, phát khùng x

x

x

x

cư xử hoặc nói chuyện theo cung cách bộc lộ rõ sự tức giận và cương

299

quyết phải đạt cho được điều mình muốn

x

x

x

x

x

giận sôi gan tím mật

23. burn with a low blue flame 24. do one’s

x

x

x

x

x

banana

x

25. do one’s nut

x

x

rất tức giận

x

26. draw blood

x

trở nên giận dữ; điên rồ hoặc ngớ ngẩn rất tức giận hoặc lo lắng x

xúc pham, chạm tự ái

chạm tự ái, xúc phạm

chọc tức, làm xúc phạm ai

gây tổn thương đến tình cảm ai. x

27. drive sb up the wall

dồn ai vào chân tường

làm ai rất bực mình; khiến ai phát điên

làm cho ai rất bực dọc, khó chịu hoặc rất giận

dồn ai vào chân tường, dồn ai vào thế bí; làm phá sản

x

x

làm cho ai giận dữ; dồn ai đến chân tường; buộc ai vào thế khó xử x

28. drive/send

x

x

làm cho ai điên đầu, phát điên.

x

x

sb round the bend 29. fit to be tied

x

x

x

x

x

x

nổi giận đùng đùng

30. flip one’s lid

không còn tự chủ, trở nên điên rồ.

đột ngột nổi giận

trở nên giận như điên.

31. fly off the handle

mất bình tĩnh, tức điên lên

nổi xung thiên giận dữ; nổi giận đùng đùng

qúa tức giận, căng thẳng hoặc bối rối đến mức thái quá vì một điều gì, thường là không đáng để phản ứng như thế đột nhiên trở nên hết sức tức giận, nổi giận đột nhiên trở nên hết sức tức giận đến mức không thể kiềm chế được

x

giận sùi bọt mép

32. foam at the mouth

x

x

33. froth at the mouth

miệng ủi bọt, tức giận hết mình giận sùi bọt mép

sùi bọt mép, tức sùi bọt mép sùi bọt mép, tức sùi bọt mép

x

cực kì tức giận; tức sùi bọt mép cực kì tức giận; tức sùi bọt mép nổi giận

x

x

x

34. gall and

x

x

x

x

x

x

giận cá chém thớt.

wormwood 35. get (or take) a rise out of

300

36. get off one’s

x

x

x

x

x

bike

cách nói kém lịch sự được dùng để bảo ai đó đừng chỉ trích người khác nữa, nhất là khi điều này gây bực mình x

37. get on sb's nerves

làm phiền ai nhiều

làm cho ai bực mình, khó chịu

làm ai mất bình tĩnh, làm ai bực mình

x

x

x

x

38. get on sb's wick

làm ai bực mình

chọc tức ai một cách liên tục

x

x

x

x

39. get one’s dander up

tức giận; nổi nóng

40. get one’s

làm cho ai bực tức hoặc giận dữ x

x

x

x

knickers in a twist

nổi giận, bực bội, bối rối, nổi đóa.

trở nên giận dữ, bối rối, nôn nóng..; phản ứng lại việc gì một cách mạnh mẽ quá mức cần thiết.

x

41. get out of bed on the wrong side

sáng thức dậy đã không thoải mái

tức giận, bực bội dù không có nguyên nhân gì

cảm thấy bực bội từ lúc thức dậy; gặp ngày xấu trời

sáng dậy người bực dọc, cáu kỉnh, không vui

sáng ngủ dậy mặt này quạu cọ; không được thoải mái; cáu kỉnh lúc thức dậy vào buổi sáng

42. get sb’s goat

x

x

làm ai bực bội, chọc tức

gây khó chịu, bực bội cho ai

43. get under sb's skin

làm ai rất bực mình; chọc giận ai thu hút hoặc làm ai bối rối

gây khó chịu cho ai, làm ai giận sôi lên. làm phát cáu, chọc tức làm bực mình.

x

x

x

x

x

44. get up sb's nose

x

x

tức giận

chọc giận ai

cảm thấy khó chịu bực mình làm ai bực mình

x

x

x

x

x

45. get/put sb's back up 46. give sb a piece of one’s mind

nổi giận, phát cáu với ai nói cho ai một trận, nói toac ý kiến của mình với ai

x

x

x

x

47. give sb an earful

cho ( nói) hay nhận ( nghe) một tràng dài những lời tức giận hay sỉ nhục

x

48. give sb the

x

x

nói với ai những điều mà họ không muốn nghe, thường là dai dẳng và gây bực bội nhìn ai với

x

x

301

hairy eyeball

ánh mắt nghiêm khắc vì không tán đồng việc người ấy đang làm

49. give sb the

x

x

x

x

x

pip

gây cho ai cảm giác buồn phiền, nóng giận hay chán nản.

50. give vent to

x

x

x

x

x

sth

51. go banana

phát điên lên

x

x

x

x

52. go off the deep end

giận dữ ,mất bình tĩnh

nổi nóng, nổi giận, phát cáu

trở nên giận cực độ hoặc quá cảm xúc.

bày tỏ những cảm xúc mạnh (tiêu cực) một cách thoải mái và mạnh mẽ; trở nên giận dữ, điên rồ, ngớ ngẩn bỗng nhiên trở nên rất tức giận hoặc dễ xúc động; nổi nóng

gắn bó một cách vội vã hấp tấp; nông nổi theo cảm xúc của mình

đột nhiên thay đổi cung cách cư xử theo cách hết sức cực đoan hoặc điên khùng, phi lí, vì quá tức giận hoặc cảm xúc quá mạnh

x

x

53. go spare

x

rất tức giận

x

x

x

54. go through the roof

trở nên rất bực mình hoặc bị làm cho rất lo lắng. trở nên rất tức giận

lên rất cao; lên đến cực độ

trở nên rất giận dữ; nổi trận lôi đình

55. have a cow

x

x

x

x

đột nhiên trở nên rất xúc động hoặc nổi giận; phát cáu

nói về giá cả hoặc chi phí cho việc gì bỗng nhiên tang vọt lên bất ngờ trở nên rất tức giận và bối rối vì việc làm của ai đó , nhất là người rất than quen

x

x

x

x

dễ dàng nổi cáu

dễ dàng nỗi cáu

x

x

x

x

x

mệt mỏi, chán

x

x

x

56. have a low boiling point 57. have had it (up to here) 58. have one’s guts for garters

tức giận và trừng phạt ai nặng nề về

giận dữ với ai và trừng phạt họ nghiêm

trừng phạt ai một cách nghiêm khắc.

302

x

điều gì người đó đã làm x

khắc vì điều gì họ đã làm. x

x

x

59. have one’s monkey up

phát cáu, nổi giận, mất bình tĩnh

x

x

x

x

x

hết sức tức giận

60. have steam coming out of one’s ears

61. have/ throw

rất tức giận

x

a fit

trở nên tức giận vô cùng

vô cùng tức giận

trở nên rất sôi nổi hoặc giận dữ x

62. hit the ceiling

tức giận vô cùng

nổi giân, tức giận, tức điên

thình lình trở nên rất giận dữ.

nổi trận lôi đình; nổi giận đùng đùng

x

63. hit the roof

x

x

thình lình trở nên rất giận dữ.

bỗng nhiên trở nên hết sức nổi giận; đùng đùng nổi giận

hết sức tức giận và mất bình tĩnh nói về giá cả hoặc chi phí cho việc gì bỗng nhiên tang vọt lên bất ngờ nói về giá cả hoặc chi phí cho việc gì bỗng nhiên tang vọt lên bất ngờ x

x

x

x

nổi giận, bực mình

64. hold one's temper

giữ bình tĩnh không nổi nóng

x

x

x

65. hot and

x

x

x

x

x

bothered 66. hot under the collar

tức giận, căm phẫn hoặc bối rối. x

67. in a huff

trong giận dữ

trong cơn giận dữ, đang cáu, đang bực tức

trong trạng thái giận dữ, bực tức vì đã bị ai đó xúc phạm

giận dữ cực độ; rất giận dữ trong cơn giận; một cách bực tức.

lo lắng và bối rối bực tức, bối rối, hay bị kích động trong tâm trạng khó chịu, nhất là khi ai đó làm phiền hoặc quấy nhiễu bạn; bực bội; bực mình

x

x

x

x

68. in a snit

x

x

x

69. in high

x

dudgeon

tức giận , bực mình hoặc phẫn uất.

có thái độ giận dữ hoặc bất mãn, và cho người khác thấy mình nổi giận; hết sức phẫn nộ; cay cú

bực tức, khó chịu một cách không hợp lí về chuyện gì tâm trạng hết sức tức giận của ai vì đã bị người khác đối xử rất tồi tệ , nhất là khi người nói cho rằng sự tức giận ấy là ngốc nghếch x

x

x

x

x

x

trạng thái trong lúc nóng giận phản ứng lại

x

x

x

70. in the heat of the moment 71. jump up and

x

303

down

bình tĩnh

x

x

x

x

x

x

x

x

72. keep one’s shirt on 73. keep one's temper

điều mà ai đó đã nói một cách giận dữ nổi giận, mất bình tĩnh nổi giận, mất bình tĩnh

x

x

74. kick the cat 75. let off steam

x x

x x

giữ bình tĩnh không nổi nóng nhẹ nhõm vì giải tỏa được cơn giận

x la cho hả hơi đã giận quát tháo trút cơn giận; la cho hả hơi đã giận

gạt bỏ sự khích động hay tức giận bằng cách làm một điều gì khác, nhất là điều gì vui nhộn, sinh động

76. let rip

x

x

x

x

x

x

x

x

x

giải phóng năng lượng, cảm xúc mạnh, sự căng thẳng thần kinh... bằng hoạt động thể chất mạnh hoặc bằng cách hoạt động ồn ào; xả hơi nói hoặc làm việc gì mạnh bạo, hăng hái mà không kiềm chế cau có, gắt gỏng

77. like a bear with a sore head

x

x

x

x

x

78. loaded for bear

79. look

nhìn ai hầm hầm

nhìn ai một cách giận dữ.

daggers at sb

cáu kỉnh, gắt gỏng với ngưởi khác vì đang bực tức hoặc không vui hoàn toàn sẵn sàng để làm điều gì nhìn vào ai với vẻ vô cùng giận dữ

nhìn ai với cặp mắt khó chịu và ghê tởm

nhìn ai giận dữ, nhìn ai trừng trừng (có vẻ hầm hè)

x

x

x

x

80. lose one’s rag

thể hiện sự giẫn dữ, sự mất kiên nhẫn v.v…theo cách không bị kiềm chế.

x

x

mất bình tĩnh, nóng giận

81. lose one's cool 82. = to lose

mất bình tĩnh; nổi nóng.

nhìn ai một cách giận dữ mà không nói gì; hằn học nhìn ai trở nên rất giận dữ và cư xử một cách không kiêm chế được; điên tiết lên; nổi cơn tam bành; lồng lộn lên giữ bình tĩnh, nổi giận, kích động...

one's nerve 83. = lose one's temper

đột nhiên nổi giận hoặc hốt hoảng lên, không tự kìm chế được nữa

84. mad as a

x

x

x

x

x

March hare

mất trí, phát cuồng làm cho ai

x

85. make sb's

làm ai sôi lên

làm cho máu

làm cho ai

làm ai giận

304

blood boil

vì giận

giận sôi máu

sôi máu

hết sức tức giận

ai sôi lên, làm ai giận điên lên x

86. make sb's

x

x

tức giận

hackles rise 87. make the fur

x

làm cho ai tức giận x

làm ầm ĩ, gây rối loạn

fly

gây sự đánh lộn, tranh cãi; la mắng

88. = make the feathers fly

làm ai tức giận sẽ có sự tức giận, bực bôi...; sẽ có chuyện ầm ĩ

nguyên nhân gây lộn, nguyên nhân làm lớn chuyện x

x

x

x

x

không hòa thuận chuyện trò với ai

x

89. not be on speaking terms 90. off the wall

x

x

x

91. on the

x

x

tức giận, tỏ vẻ hiếu chiến

warpath

sẵn sàng cho một vụ đánh nhau hoặc cãi nhau: thù địch hoặc giận dữ.

làm ai bực mình, khiến ai phát điên đang tức giận và sẵn sàng cải vả hoặc đánh nhau về việc gì; chực đánh nhau; sắp nổi nóng

x

x

nói về ai đó đang rất tức giận về điều gì, hoặc quyết tâm làm thay đổi một tình huống x

x

x

92. out for blood

muốn làm tổn thương hoặc làm hại ai, trả thù, quyêt trả thù

93. put sb's nose

x

x

out of joint

làm phật lòng ai; làm ai buồn lòng

làm cho ai cảm thấy sỉ nhục, bị coi thường

làm ai khó chịu bực bội, nhất là bằng cách không chú ý đến họ

làm cho ai khó chịu vì không tôn trọng họ đến mức như họ nghĩ

x

quá tức giận, gây náo động.

1. la lối om sòm 2. gây náo loạn, chè chén ầm ĩ

94. raise hob with sb. 95. = raise the devil (with sb or sth)

1. có thái độ hung hãn, gây phiền hà 2. làm om sòm, chè chén say sưa thâu đêm

than phiền hoặc phản đối ầm ĩ và giận dữ, thường là để đòi cho được cái mà bạn muốn

1.phàn nàn một cách rất dai dẳng và giận dữ hoặc ồn ào , bởi vì quyết đòi hỏi cho được điều gì 2. phản đối ai một cách hết sức giận dữ, theo cách gây nhiều rắc rối

96. = raise hell (with sb or sth); 97. = raise cain (with sb or sth); 98. = raise the dickens (with sb or sth) 99. raise sb's

x

x

x

x

x

hackles

x

làm cho ai phải tức giận hoặc bực mình bằng cách làm điều gì đó gây xúc phạm làm điều gì

x

100. rattle sb's

x

quấy rầy ai

x

305

cage

làm phiền, gây bực mình

làm trái ý ai, chọc tức ai

làm ai bực mình

làm cho ai khó chịu.

101. rub sb up the wrong way

đó gây bực bội hoặc làm cho ai phải sợ sệt nói hay làm điều gì gây khó chịu, bực tức cho ai

x

102. ruffle sb's

x

feathers

làm cho ai khó chịu.

làm cho ai bối rối, lo lắng hoặc hơi bực tức, khó chịu

làm ai nổi cáu, bực bội- giống như con chim xù lông lên khi làm dữ

x

103. see blood 104. see red

x bất bình, nổi giận

x trở nên giận dữ

trở nên rất giận dữ.

x trở nên bực tức, bị kích động

x đột nhiên nổi giận vì điều gì do ai đó vừa nói ra

x

x

x

x

x

105. smooth sb's ruffled feathers

x

x

nói cáu kỉnh giận dữ với ai

lớn tiếng nói với ai một cách giận dữ, nhất là vô cớ

trả lời một cách giận dữ; trả lời gắt gỏng

106. snap (bite) a person's head (nose) off

x

107. spit blood

x

x

x

x

108. stick in

x

x

x

x

one’s craw

làm ai ghê tởm, làm ai chán ngán

x

x

109. tear one's hair (out)

tự rứt tóc mình

tức tối; giận dữ; lo cuống lên

tỏ ra rất buồn, tức giận nhiều, v.v…

x

110. up in arms

cầm vũ khí đứng lên

phản đối một cách giận dữ

bực tức, khó chịu muốn đánh nhau

giận dữ phản đối; trang bị vũ khí

x

x

x

111. vent one's spleen

giận cá chém thớt

làm cho ai bực tức hoặc làm cho ai nổi giận, thường là không chủ tâm, bằng cách làm hoặc nói điều gì xúc phạm họ; làm ai khó chịu quấy rầy ai bằng cách làm việc gì khiến họ khó chịu hay lo âu; làm ai bực tức; chọc tức ai căm giận đột nhiên trở nên rất giận dữ; điên tiết lên làm cho ai cảm thấy bớt tức giận hoặc bị tổn thương nói với ai một cách giận dữ mà không có lý do chính đáng tỏ ra rất giận dữ; nói một cách giận dữ khó hoặc không thể đồng ý chấp nhận rất lo lắng hoặc tức giận; lo đứng lo ngồi; lo sốt vó; nổi trận lôi đình rất giận dữ và chống đối kịch liệt (cái gì) biểu lộ sự tức giận bằng lời nói hoặc

nói hay viết ra tất cả những điều

306

bằng bài viết

đã gây sự bực tức, giận dữ trong một thời gian dài

5.4. BẢN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC SỢ SANG TIẾNG VIỆT

[29]

[40]

[47]

[49]

[28]

[16]

Thành ngữ tiếng Anh 1. afraid of

nhút nhát

rất nhút nhát

dễ hoảng, nhát, đa nghi

dễ hoảng sợ; yếu bóng vía

nhút nhát, sợ bóng sợ gió

one's own shadow 2. at one’s wit's end

với hết khả năng trí óc con người

hết lý, hết phương cách, không biết nghĩ thế nào

không biết làm hay nói gì tại vì lo lắng hay tuyệt vọng

rất dễ hoảng sợ; rất dễ căng thẳng quá bối rối hoặc lo lắng đến nỗi bạn không biết nên làm gì ; vô phương kế

suy nghĩ nát óc ; hết ý kiến; hết phương (để giải quyết một vấn đề)

x

3. bag (or

x

x

hết sức lo lắng về một vấn đề vì đã thử qua tất cả các giải pháp nghĩ ra được nhưng vẫn chưa đạt được kết quả - tình trạng bế tắc cực kì lo lắng hoặc khiếp sợ về điều gì

trong tình trạng rất lo âu, bồn chồn.

bundle) of nerves

x

x

x

x

x

4. be a weight off one’s mind

người rất sợ hãi, lo lắng hoặc căng thẳng về chuyện gì hết sức nhẹ nhõm vì rắc rối đã được giải quyết

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

5. be scared shitless 6. be scared stiff

làm cho ai rất bị kích thích, làm cho ai hoảng hốt.

x

x

x

toát mồ hôi; xuất mồ hôi

7. break out in a cold sweat

x

x

x

8. butterflies in stomach

trở nên rất căng thẳng hoặc rất sợ sệt điều gì cảm thấy rất lo lắng, bồn chồn trước khi làm việc gì

rất sợ hoặc lo lắng việc gì; toát mồ hôi lạnh; cảm thấy lo lắng bồn chồn trước khi làm việc gì

x

x

x

có cảm giác lo âu trong lòng trước khi làm điều gì; bồn chồn trong dạ. x

9.

x

x

x

làm ai sợ hêt hồn làm ai sợ hêt hồn

freeze one's blood 10. frighten sb out of one's wits

làm cho ai hết sức hoảng sợ, kinh khiếp

làm ai hoảng sợ; sợ hết hồn; sợ chết khiếp

làm cho ai quá khiếp sợ; làm cho ai quá hãi hùng hoặc hoảng hốt.

307

x

x

x

11. frighten sb to death

đe dọa ai làm sợ chết khiếp

làm cho ai sợ hết hồn hết vía

x

x

x

x

làm cho ai quá khiếp sợ; làm cho ai quá hãi hung hoặc hoảng hốt.

12. frighten the horses

x

làm ai sợ dựng tóc gáy

làm cho ai sợ hết hồn hết vía làm cho ai sợ hết hồn hết vía

làm cho ai phải khiếp sợ, kinh hãi

làm cho ai quá khiếp sợ; làm cho ai quá hãi hùng hoặc hoảng hốt.

x

x

x

x

làm cho ai sợ hết hồn hết vía

đánh ai/vật gì rất mạnh và liên tục; làm ai rất hoảng sợ; đánh nhừ tử; làm ai sợ xanh mặt làm cho ai rất sợ hãi bực dọc

13. frighten the living daylights out of sb 14. frighten the wits out of sb 15. frighten/ scare the hell out of sb

x

x

x

x

x

16. frightened of one’s own shadow

17. frightened/

x

x

x

x

x

scared to death 18. get (have)

cold feet

nhát gan, hay sợ

sợ lạnh cẳng

làm cho ai sợ hết hồn hết vía làm cho ai sợ hết hồn hết vía trốn (không dám ) ra trận; sợ hãi không dám đương đầu với sự nguy hiểm

làm cái gì một cách sợ hãi hoặc miễn cưỡng (nhất là cái gì rủi ro nguy hiểm)

đột nhiên thấy lo lắng về điều gì sắp phải làm hoặc đã đồng ý sẽ làm, hồi hộp

x

x

gặp chuyện chẳng lành

19. get fingers burnt

kinh nghiệm thất bại- cũng được dùng theo nghĩa đen

chịu thiệt thòi qua hậu quả của sự cư xử dại dột hoặc làm những việc không phải bổn phận của mình.

x

x

x

x

x

sợ hãi

20. get the creeps 21. get the willies 22. get the wind

x

x

x

up

trở nên /bị sợ hãi

x

23. give a

x

x

x

x

person a nasty (bad) turn

không còn muốn tiếp tục làm những gì đã định hoặc bắt đầu làm do căng thẳng hoặc sợ bị thua thiệt, mất mát... vì làm điều gì mà không lường được những hậu quả, nhất là trong kinh doanh làm cho ai cảm thấy căng thẳng hoặc lo sợ trở nên hoảng sợ, hoảng sợ việc gì làm ai khiếp sợ hoặc choáng váng; làm ai hết hồn

x

x

sợ ớn da gà.

x

24. give sb the creeps / the willies

làm ghê rợn, làm rùng mình, làm sởn gai ốc

25. give sb the

x

x

x

làm ai càm

x

làm cho ai phải hết sức lo lắng, sợ sệt làm cho ai

308

shivers

thấy run sợ

cảm thấy lo lắng, bối rối hoặc sợ hãi

x

x

x

x

x

26. have (get) the jitters

x

x

x

x

có điều bực bội, lo âu; lo âu vì sắp đến kì hạn

27. have a threat hanging over one's head

28. have

x

cảm thấy hồi hộp và căng thẳng, nhất là trước một sự kiện quan trọng hoặc trước khi phải làm điều gì khó khăn (về một vấn đề... có thể xảy ra) khiến ai lo lắng; lơ lửng trên đầu; trước nguy cơ x

x

x

butterflies in one’s stomach

cảm thấy rất lo lắng, bồn chồn trước khi làm việc gì

29. have kittens

x

x

x

x

có cảm giác lo âu trong long trước khi làm điều gì; bồn chồn trong dạ lo lắng quá, căng thẳng quá

x

x

x

x

x

30. have nerves of steel

x

x

x

x

x

x

cảm thấy xúc động mạnh

quá sợ hãi, sợ hết hồn

31. have no guts (to do sth) 32. have one's heart in one's mouth

cảm thấy rất hồi hộp hay sợ sệt

33. heart

x

x

x

x

x

misses/ skips a beat

x

nín thở

34. hold one’s breath

tạm dừng lại; dừng lại để suy nghĩ

rất hồi hộp, lo lắng trong khi đang chờ đợi chuyện gì xảy ra

thấp thỏm lo âu, nhất là khi bạn trông ngóng tin gì; như ngồi đống lửa; bồn chồn người rất sợ hãi, lo lắng hoặc căng thẳng về chuyện gì không can đảm bạn cảm thấy rất lo lắng hoặc sợ hãi; như ngồi trên đống lửa (dùng để nói rằng bạn đột ngột có cảm giác sợ hãi hay hồi hộp) tim thót lại nín thở do bạn sợ hoặc quá lo lắng việc gì, nín thở

ngừng thở trong một thời gian ngắn (vì sợ hãi hay bị kích thích)

x

x

x

35. in a funk

x

x

sự sợ xanh mặt

x

x

(blue funk) 36. in fear and

trong trạng

x

rất sợ sệt

trong bộ dạng

309

trembling

hoặc lo lắng

37. jump out of

one’s skin

thái sợ sêt, lo âu rợn người do sốc

sợ sệt hay hoảng hốt. hết sức ngạc nhiên.

giật nảy mình giật mình; ngạc nhiên sửng sốt

giật nảy mình ngạc nhiên; giật mình sợ hãi

x

x

x

x

x

38. like a cat on a hot tin roof

x

x

x

39. like a cat on hot bricks

rất bồn chồn lo lắng

rất bồn chồn; đứng ngồi không yên

x

x

x

x

x

40. lose one's nerve

x

41. make one’s

hốt hoảng hoặc kinh ngạc đến mức nhảy dựng lên rất căng thẳng hay lo lắng, hết sức bồn chồn nôn nóng, đứng ngồi không yên rất căng thẳng hay lo lắng, hết sức bồn chồn nôn nóng, đứng ngồi không yên mất bình tĩnh, nổi khùng lên, không còn khả năng suy nghĩ tỉnh táo nữa hoảng hốt, run sợ

làm ai lạnh người, bị sốc

blood run cold

làm ai rùng mình ớn lạnh; làm ai sợ hãi

làm cho ai sợ sệt và khiếp đảm.

x

x

x

x

x

42. make sb quake in their boots 43. make sb's

x

x

làm cho ai sởn gai ốc

flesh creep/ crawl

làm cho ai lo lắng, sợ hãi hoặc kinh tởm.

làm cho ai thấy khiếp sợ hoặc kinh tởm

x

làm ai sợ dựng tóc gáy

44. make sb's hair stand on end

tóc dựng ngược lên (vì sợ hãi )

làm cho ai rợn tóc gáy, làm cho ai sợ hãi

làm cho ai sợ chết khiếp hoặc sợ cực độ; ớn lạnh cả xương sống rất lo lắng hoặc hoảng sợ khiến bạn cảm thấy sợ hoặc ghê tởm; làm nỗi da gà; làm sởn gai ốc bạn cảm thấy rất sợ hãi, hồi hộp hoặc giận dữ, dựng tóc gáy

x

x

x

x

làm cho ai đầy sợ sệt hoặc khiếp đảm (làm cho tóc dựng lên vì khiếp đảm) x

45. meet trouble halfway

gặp rắc rối trong thỏa hiệp

x

x

x

x

46. on pins and needles

lo lắng hồi hộp

47. on

x

1. có cảm giác tê mê, buồn buồn 2. bồn chồn, bứt rứt x

tenterhooks

rất căng thẳng, nôn

rất căng thẳng, kích

làm ai lo âu hồi hộp

trong tình trạng lo lắng

310

hồi hộp hoặc không chắc chắn.

nao vì bị khích động vì đang chờ đợi một điều gì xảy ra

48. out of one's

x

x

x

x

x

x

x

ngu ngốc; điên khùng; mất trí x

x

x

x

x

x

làm cho ai sợ hãi

wits (senses) 49. put the fear of God into 50. put the wind up a person 51. run scared

x

x

x

x

x

52. scare one

x

x

x

x

x

động hoặc lo lắng về điều gì đó có thể xảy ra; như ngồi phải tổ kiến không ý thức được điều gì xảy ra làm cho ai khiếp sợ làm cho ai khiếp sợ làm ai khiếp sợ, sợ vãi đái làm ai khiếp sợ, sợ vãi đái

out of one's wits

53. scare sb stiff

x

x

x

làm ai khiếp sợ, sợ vãi đái

làm ai thực sự sợ, làm ai kinh hoàng

làm cho ai rất bị kích thích, làm cho ai hoảng hốt.

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

54. scare sb to death 55. scare the living daylight out of sb 56. scare the

x

x

x

x

pants off sb

gây cho ai nhiều lo lắng làm cho ai hoảng sợ, làm cho ai sợ chết khiếp làm cho ai kinh sợ, buồn chán...

dùng để nhấn mạnh việc ai đó làm cho người khác chán ngấy, khiếp sợ, say mê hoặc kinh ngạc

x

x

x

x

x

57. send shivers down sb’s spine

58. shake /

sợ run lên

run sợ

rất sợ hãi.

làm cho ai cảm thấy run sợ rất lo lắng hoảng sợ

quake in one's boots

cảm thấy rất lo lắng, sợ hãi

shake in one’s boots: run sợ

59. shake like a

x

run như rẽ

x

x

leaf

run lên vì sợ hãi, lo âu….

run lên vì sợ; rất sợ hãi hoặc lo lắng; run như cầy sấy

x

x

x

tỏ thái độ sợ sệt, nhát đảm

60. show the white feather

tỏ ra nhát gan, tỏ ra sợ hãi

hành động một cách hèn nhát; tỏ ra sợ hãi.

61. stage fright

x

x

x

x

x

62. struck dumb

x

x

x

x

khiếp vía, hoảng sợ bỗng nhiên không thể nói (vì bị sốc, sợ,...); điếng

không nói ra được vì quá kinh ngạc, sửng sốt

311

63. sweat blood

x

x

người; chết lặng đi; sững sờ rất lo lắng hoặc lo sợ; sợ toát mồ hôi

rất lo lắng hoặc rất sợ hãi.

lao động cật lực, làm việc như một kẻ nô lệ

làm việc hết sức cực nhọc, bỏ ra nhiều công sức để đạt được điều gì

x

x

x

x

64. whistle in the dark

huýt sáo cho đỡ sợ

x

x

x

65. with bated breath

cảm giác rất lo lắng, bị kích động hoặc nôn nao

giữ hơi thở của mình một cách lo lắng hoặc hồi hộp.

cố không để cho người ta thấy bạn sợ hãi, gặp nguy hiểm gần như không thể thở được vì quá lo lắng về vấn đề gì; nín thở vì lo lắng

5.5. BẢN DỊCH THÀNH NGỮ TIẾNG ANH BIỂU THỊ CẢM XÚC YÊU SANG TIẾNG VIỆT

[29]

[40]

[47]

[28]

[16]

[49]

x

x

x

x

x

Thành ngữ tiếng Anh 1. a labour of love

2. an old flame

x

việc làm vì thích thú x

người tình cũ

bồ cũ

x

3. bill and coo

x

x

x

say mê phải lòng ai

(về những người tình) trao đổi nụ hôn và thì thầm lời tình tự.

4. carry a torch

x

x

for

yêu thầm nhớ trộm (ai); thất tình

yêu đơn phương, yêu thương hão huyền

yêu thương một người trong tình huống không thể nào thiết lập quan hệ hoặc phải sống rất xa nhau

người mà bạn từng yêu; người yêu cũ (về những cặp tình nhân) hôn, thủ thỉ và âu yếm nhau; tình tự đang yêu ai, nhất là người không đáp lại tình cảm của bạn; ôm ấp hoặc theo đuổi một mối tình đơn phương với ai x

x

x

x

bộ ba cặp kè

5. eternal triangle

hoàn cảnh cả hai người cùng yêu một người khác giới.

x

x

x

x

6.

x

mê tít ,phục lăn

x

x

7.

fall for sb hook. line and sinker fall in love (with sb)

bắt đầu yêu ai, phải lòng ai

mê ai, phải lòng ai, yêu ai

phải lòng (ai); mê đắm (ai); bắt đầu yêu

cảm thấy bị ai lôi cuốn mạnh mẽ , thình lình

312

x

x

say mê

x

x

x

8. get a crush on sb 9. have a

x

x

x

x

x

khuynh hướng, sở thích về gì

x

x

x

x

x

penchant for doing sth 10. have a thing going (with sb)

có cảm xúc rất mạnh, tích cực hoặc tiêu cực về ai/cái gì

x

x

x

x

11. have one's heart set on sth

đang ao ước mong chờ điều gì; rất khát khao điều gì

12. head over

x

x

yêu say đắm

x

yêu nhau thắm thiết

heels in love (with sb)

x

x

rất mong muốn có được điều gì hoặc quyết tâm làm việc gì yêu thương ai say đắm đến mức không quan tâm đến bất cứ chuyện gì khác x

x

x

13. jump off the deep end

x

gắn bó một cách vội vã hấp tấp; nông nổi theo cảm xúc của mình x

x

x

x

mất bình tĩnh, hoảng hốt

x

x

x

14. lose one’s heart to 15. love at first sight

ngay phút đầu, ngay tức thì

yêu ai ngay từ lần đầu gặp họ, tiếng sét ái tình

tiếng sét ái tình; yêu nhau từ khi gặp gỡ lần đầu

16. make

x

x

x

x

sheep's eyes at sb

liếc mắt nhìn ai một cách ngớ ngẩn

nhìn ai với vẻ thương yêu nhưng khờ dại.

17. much

x

x

x

x

x

sought after

x

x

x

x

18. nuts about sb or sth

rất được yêu chuộng, nhiều người mong mỏi hăm hở, hang hái

19. only have

x

x

x

x

eyes for sb

hết sức yêu thích người hay sự vật gì chỉ quan tâm đến hoặc chỉ yêu một người

chỉ quan tâm đến hoặc yêu một người nào đó và không quan tâm hoặc yêu bất kì một người nào khác; chỉ để mắt đến ai

x

x

x

20. set your cap

x

at

quyến rũ ai, chài ai ( để lấy làm chồng )

( về một thiếu nữ hoặc phụ nữ): cố tìm cách quyến rũ

313

một người đàn ông để lấy làm chồng hoặc làm người tình.

x

x

x

x

x

21. sweep sb off their feet

áp đảo ai bằng sức mạnh, hấp dẫn

x

22. sweet

x

x

x

nothings

những lời âu yếm tình tứ của những kẻ yêu nhau trao đổi.

những lời âu yếm nhưng không quan trọng giữa những người yêu nhau

x

x

x

x

23. the apple of sb's eye

vật quý báo phải giữ gìn

người vật được ai ưu ái nhất

24. the boy (or

x

x

x

x

x

girl) next door

x

25. the light of

x

x

x

one’s life

người rất bình thường, không có bất cứ điểm gì nổi bật, chẳng hạn như không giàu có, không nổi tiếng, không xinh đẹp người yêu thương nhất của đời ai

x

x

x

26. wear one’s heart on one’s sleeve

ruột để ngoài da, bộc tuệch bộc toạc

để cho thấy xúc cảm, nhất là tình yêu của mình đối với ai.

người mà ai đó yêu quý hơn bất kỳ người nào khác; ánh sáng của đời ai cho người khác thấy tình cảm của bạn, nhất là tình yêu; biểu lộ tình cảm