intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung Fructo-Oligosaccharide (FOS) lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và các thông số sinh lý của tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798)

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

80
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thí nghiệm được tiến hành trong 90 ngày tại Trạm thực nghiệm nuôi trồng thủy sản, Viện Hải dương học với 4 nghiệm thức thức ăn có bổ sung các hàm lượng FOS khác nhau là 0,1%, 0,2%, 0,4%, 0,8% và nghiệm thức đối chứng không bổ sung FOS. Xác định tỷ lệ sống, tăng trưởng của tôm sau 30, 60 và 90 ngày nuôi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của thức ăn bổ sung Fructo-Oligosaccharide (FOS) lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và các thông số sinh lý của tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798)

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> <br /> KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN BỔ SUNG FRUCTO-OLIGOSACCHARIDE<br /> (FOS) LÊN TĂNG TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG VÀ CÁC THÔNG SỐ SINH LÝ<br /> CỦA TÔM SÚ (Penaeus monodon Fabricius, 1798)<br /> EFFECTS OF FRUCTO-OLIGOSACCHARITE ON GROWTH, SURVIVAL RATE<br /> AND PHYSIOLOGICAL PARAMETERS OF BLACK TIGER SHRIMP<br /> (Penaeus monodon Fabricius, 1798)<br /> Đặng Trần Tú Trâm1, Lục Minh Diệp2, Huỳnh Minh Sang3<br /> Ngày nhận bài: 30/10/2013; Ngày phản biện thông qua: 17/02/2014; Ngày duyệt đăng: 13/8/2014<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thí nghiệm được tiến hành trong 90 ngày tại Trạm thực nghiệm nuôi trồng thủy sản, Viện Hải dương học với 4<br /> nghiệm thức thức ăn có bổ sung các hàm lượng FOS khác nhau là 0,1%, 0,2%, 0,4%, 0,8% và nghiệm thức đối chứng<br /> không bổ sung FOS. Xác định tỷ lệ sống, tăng trưởng của tôm sau 30, 60 và 90 ngày nuôi. Các chỉ số sinh lý (TMI: chỉ số<br /> cơ thịt, HSI: chỉ số gan tụy, HM: độ ẩm gan tụy, TM: độ ẩm cơ thịt) được xác định khi kết thúc thí nghiệm. Kết quả cho<br /> thấy, tốc độ tăng trưởng đặc trưng về khối lượng (SRGw) cao nhất ở nghiệm thức thức ăn có bổ sung 0,2% FOS (đạt 3,70 ±<br /> 0,045 %/ngày) và thấp nhất ở nghiệm thức thức ăn có bổ sung 0,8% FOS (đạt 3,51 ± 0,045 %/ngày). Mức tăng khối lượng<br /> trung bình hàng tuần (AWG) cao nhất ở nghiệm thức 0,2% FOS (0,45 ± 0,017 g/tuần), thấp nhất ở nghiệm thức 0,8% FOS<br /> (0,38 ± 0,015 g/tuần. Tôm cho ăn thức ăn có bổ sung 0,4% FOS có HSIw và TMIw cao nhất và thấp nhất ở tôm không được<br /> bổ sung FOS vào thức ăn (p < 0,05) nhưng không có sự khác nhau về chỉ số sinh lý khác (TM, HM, HSId và TMId) giữa<br /> các nhóm tôm cho ăn các loại thức ăn có bổ sung các hàm lượng FOS khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy bổ sung<br /> 0,2 - 0,4% FOS vào thức ăn cải thiện sức khỏe của tôm sú nuôi.<br /> Từ khóa: tôm sú (P. monodon), prebiotic, fructo-oligosaccharide (FOS)<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The experiment was conducted for 90 days at Experimental Station, Institute of Oceanography with treatments:<br /> 0.1% FOS, 0.2% FOS, 0.4% FOS, 0.8% FOS and control (0.0% FOS).The growth rate and survival were determined<br /> after 30, 60 and 90 days of study. Some physiological parameters (TMI:tail muscle index, HSI: hepatosomatic index, HM:<br /> hepatopancreas moisture, and TM: tail muscle moisture) were determined at the end of the experiment.The results showed<br /> that specific growth rate (SRGw) was highest in treatment of 0. % FOS (3.70 ± 0.045 % /day) and lowest in treatment of<br /> 0.8% FOS (3.51 ± 0.045 %/day). The average weight (AWG) of shrimp was gained maximum value (0.45 ± 0.017 g/week)<br /> in treatment of 0.2% FOS and lowest value (0.38 ± 0.015 g/week) in treatment of 0.8% FOS. The HSIw of shrimps fed<br /> diets which supplemented with 0.4 % FOS were highest. However, the TMIw showed a lowest value when FOS is added to<br /> food (p < 0,05). There were no significant differences in other physiological indicators (TM, HM and TMId HSId) between<br /> groups when they fed with different concentrations of FOS. Results showed that the feed which supplemented of 0.2 - 0.4%<br /> FOS improved the health of shrimp farming.<br /> Keywords: shrimp, prebiotic, fructo-oligosaccharide (FOS)<br /> <br /> Đặng Trần Tú Trâm: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2011 - Trường Đại học Nha Trang<br /> TS. Lục Minh Diệp: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br /> 3<br /> TS. Huỳnh Minh Sang: Viện Hải dương học Nha Trang<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> 190 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Sử dụng kháng sinh liều lượng thấp trong nuôi<br /> trồng thủy sản kích thích sự tăng trưởng, tăng hiệu<br /> quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống của các đối tượng<br /> nuôi (Rosen, 1996) nhưng cũng kích thích sự phát<br /> triển của vi khuẩn kháng thuốc (Genc và cs, 2007).<br /> Luật về cấm hoặc hạn chế sử dụng kháng sinh trong<br /> nuôi trồng thủy sản đã khuyến khích các nghiên<br /> cứu nhằm tìm ra các chất bổ sung vào thức ăn làm<br /> tăng cường sức khỏe của vật nuôi, có thể thay thế<br /> một phần hoặc toàn bộ kháng sinh trong nuôi thủy<br /> sản theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái<br /> (Gatlin và cs, 2006). Các chất bổ sung áp dụng<br /> trong nuôi trồng thủy sản được chia thành 2 nhóm<br /> là chất bổ sung dinh dưỡng, cải thiện miễn dịch và<br /> chất kích thích hệ miễn dịch phụ thuộc vào cơ chế<br /> tác dụng của chúng. Một nhóm các chất thuộc chất<br /> kích thích miễn dịch đã chứng tỏ hiệu quả trong việc<br /> nuôi gia súc, gia cầm và các đối tượng nuôi thủy sản<br /> là prebiotic (Sang và Fotedar, 2011).<br /> Prebiotic được định nghĩa “là thành phần<br /> lên men có chọn lọc làm thay đổi tính đặc trưng<br /> về thành phần và hoạt động của hệ vi sinh vật<br /> đường ruột nhằm tăng sức khoẻ cho vật chủ một<br /> cách gián tiếp” (Gibson và cs, 2004). Thông qua<br /> việc cung cấp dinh dưỡng một cách có chọn lọc<br /> cho một hoặc một số vi sinh vật trong đường ruột,<br /> prebiotic làm thay đổi có chọn lọc hệ vi sinh vật đường<br /> ruột của vật chủ (Teitelbaum và Walker, 2002). Trong<br /> các loại prebiotic thông dụng được dùng trong nông<br /> nghiệp và thủy sản thì Inulin, Fructo-oligosaccharides<br /> (FOS), Galacto-oligosaccharides (GOS) và<br /> Mannan-oligosaccharide (MOS) đang được chú ý<br /> nhiều nhất.<br /> Hiện nay, có nhiều nghiên cứu được thực hiện<br /> để đánh giá hiệu quả của FOS trên các loài cá nuôi<br /> như cá hồi (Rehulka và cs, 2011), cá tầm (Akrami và<br /> cs, 2009), cá bơn (Mahious và cs, 2006), cá Hồng<br /> Mỹ (Ai và cs, 2011), cá hồi Đại Tây (Grisdale-Helland<br /> và cs, 2008), cá tầm Siberia (Mahious, 2006). Tuy<br /> nhiên, chưa có kết quả nghiên cứu nào về hiệu quả<br /> của FOS trong nuôi giáp xác nói chung và tôm sú<br /> nói riêng. Do đó nghiên cứu này bước đầu cung cấp<br /> cơ sở khoa học cho việc sử dụng FOS bổ sung vào<br /> thức ăn nhằm tăng cường sức khỏe của tôm sú góp<br /> phần hạn chế sử dụng kháng sinh và định hướng<br /> kỹ thuật nuôi theo hướng bền vững, thân thiện với<br /> môi trường.<br /> II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 1. Vật liệu nghiên cứu<br /> 1.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu<br /> Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 9<br /> năm 2012 đến tháng 12 năm 2012 tại Trạm thực<br /> <br /> Số 3/2014<br /> nghiệm Nuôi trồng thủy sản - Viện Hải dương học<br /> Nha Trang.<br /> 1.2. Hệ thống bể nuôi<br /> Gồm 15 bể composite (100 x 50 x 100 cm, 500 L)<br /> được đặt trong nhà có mái che. Nước biển được<br /> bơm vào hệ thống bể lắng và bể lọc sau đó cung<br /> cấp trực tiếp cho bể nuôi. Mỗi bể thí nghiệm được<br /> bố trí 1 hệ thống lọc sinh học tuần hoàn độc lập và<br /> đảm bảo sục khí liên tục trong suốt quá trình nuôi.<br /> 1.3. Nguồn tôm thí nghiệm<br /> Tôm sú giống (P15) được mua từ Trung tâm<br /> giống thủy sản của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy<br /> sản III và được ương nuôi tại Trạm thực nghiệm Nuôi<br /> trồng thủy sản - Viện Hải dương học. Tôm giống được<br /> ương trong 30 ngày, hằng ngày cho ăn 4 lần (7 giờ,<br /> 11 giờ, 14 giờ, 17 giờ) bằng thức ăn của Lansy<br /> và Uni President tùy theo ngày tuổi đến 3 - 4 cm<br /> (khối lượng trung bình 0,21 ± 0,007 g) thì tiến hành<br /> thí nghiệm.<br /> 1.4. Chuẩn bị thức ăn thí nghiệm<br /> Thức ăn gốc: sử dụng thức ăn thương mại của<br /> UP (Uni President) (Nuri N312: 40% đạm, 4% chất<br /> béo, 11% độ ẩm, 13% tro, 3% xơ thô) làm thức ăn<br /> đối chứng trong thí nghiệm.<br /> Chuẩn bị thức ăn thí nghiệm: Thức ăn UP<br /> được nghiền nát và bổ sung FOS (Anhui Minmetals<br /> Development Imp. & Exp. Co., Ltd, China, 95% Purify)<br /> với hàm lượng 0 g/kg (ĐC), 1 g/kg (FOS1), 2 g/kg<br /> (FOS2), 4 g/kg (FOS4) và 8 g/kg (FOS8) để được các<br /> hỗn hợp thức ăn tôm có bố sung 0,0; 0,1; 0,2; 0,4 và<br /> 0,8% FOS. Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm được<br /> chế biến tại Phòng Thí nghiệm - Bộ môn Dinh dưỡng,<br /> Trường Đại học Nha Trang. Theo các bước sau:<br /> Phối trộn nguyên liệu → Trộn khô → Tạo hỗn<br /> hợp dẻo → Tạo sợi → Hấp 5 phút → Sấy ở 400C,<br /> 12 giờ → Tạo viên → Bảo quản.<br /> 1.5. Phương pháp bố trí thí nghiệm<br /> Tôm sú được thả nuôi ở 15 bể thí nghiệm với<br /> mật độ ban đầu là 30 con/bể, khối lượng tôm: 0,21 ±<br /> 0,007 g/con. Mỗi nghiệm thức thức ăn có 3 bể lặp,<br /> tôm được cho ăn 1 trong 5 công thức thức ăn có bổ<br /> sung hàm lượng FOS khác nhau và được nuôi trong<br /> 90 ngày. Tôm được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 8:00<br /> giờ và 17:00 giờ với liều lượng 5% khối lượng thân.<br /> Định kỳ vệ sinh thức ăn thừa và chất thải của tôm<br /> trước khi cho ăn. Các số thông số môi trường (nhiệt<br /> độ, pH, độ mặn) được kiểm tra định kỳ hàng ngày.<br /> Tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của tôm được<br /> đánh giá sau 30, 60 và 90 ngày nuôi. Các thông số<br /> sinh lý của tôm được đánh giá sau 90 ngày nuôi.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 191<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> 1.6. Thu thập, phân tích và xử lý số liệu<br /> - Các yếu tố môi trường<br /> Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế có độ chính xác đến<br /> 0,50C;<br /> pH: đo bằng máy đo pH (Hanna) có độ chính<br /> xác đến 0,1;<br /> Độ mặn: đo bằng khúc xạ kế Atago có độ chính<br /> xác 1‰.<br /> - Tỷ lệ sống của tôm trong từng bể thí nghiệm<br /> được xác định theo công thức S = 100*(nt/n0), trong<br /> đó: nt là số tôm ở thời điểm t, n0 là số tôm ở thời<br /> điểm bắt đầu thí nghiệm.<br /> - Khối lượng của tôm được xác định bằng cân<br /> điện tử SHIMADZU AW 220 (LabCommerce Inc,<br /> USA) có độ chính xác 0,01g, khối lượng tôm dùng<br /> để xác định tốc độ tăng trưởng tương đối (SRG) và<br /> tăng trưởng bình quân hàng tuần (AWG).<br /> SRG =100*(lnWf - lnWo)/t<br /> AWG (g/tuần) = (Wf - Wo)/wk<br /> Trong đó: Wf: khối lượng của tôm tại thời điểm t;<br /> Wo: khối lượng của tôm tại thời điểm bắt đầu<br /> thí nghiệm;<br /> t: số ngày;<br /> Wk: số tuần.<br /> - Chỉ tiêu sinh lý của tôm nuôi được xác định<br /> theo phương pháp được mô tả bởi Sang và Fotedar<br /> (2004) sau khi kết thúc thí nghiệm. Mỗi nghiệm thức<br /> thu 3 cá thể tôm, giải phẫu lấy tuyến gan tụy và cơ<br /> thịt và xác định chỉ số gan tụy tươi (HSIw), chỉ số cơ<br /> thịt tươi (TMIw). Các chỉ tiêu này được xác định theo<br /> công thức sau:<br /> HSIw = Wh1 x 100/W<br /> TMIw = Wt1 x 100/W<br /> Trong đó:<br /> Wh1: khối lượng tươi của tuyến gan tụy (g);<br /> Wt1: khối lượng tươi của cơ thịt (g);<br /> W: khối lượng tôm (g).<br /> Sau đó tuyến gan tụy và cơ thịt của tôm được<br /> sấy đến khối lượng không đổi ở 105 0C trong 24 giờ<br /> và xác định độ ẩm của gan tụy (HM%), độ ẩm của<br /> cơ thịt (TM%), chỉ số gan tụy khô (HSId) và chỉ cơ<br /> đuôi khô (TMd) theo các công thức:<br /> HM % = 100 x (Wh1 - Wh2)/ Wh1<br /> TM % = 100 x (Wt1 - Wt2) /Wt 1<br /> HSId =Wh2 x 100/W<br /> TMId =Wt2 x100/W<br /> Trong đó:<br /> Wh1: khối lượng tươi của tuyến gan tụy (g);<br /> Wh2: khối lượng khô của tuyến gan tụy (g);<br /> Wt1: khối lượng tươi của cơ thịt (g);<br /> Wt2: khối lượng khô của cơ thịt (g).<br /> Sử dụng phần mềm Microsoft Office Excel 2003<br /> và SPSS 16.0 để xử lý số liệu. Giá trị số liệu được<br /> <br /> 192 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 3/2014<br /> thể hiện ở dạng trung bình ± SE. Sử dụng phép<br /> phân tích phương sai một yếu tố (one-way ANOVA)<br /> kiểm định sự khác nhau của các nhóm giá trị. Sử<br /> dụng phép so sánh sự sai khác của các giá trị trung<br /> bình sau phân tích phương sai (Post Hoc Test) bằng<br /> phương pháp kiểm định Least significant difference<br /> (LSD). Khác nhau giữa các giá trị được xác định có<br /> ý nghĩa ở mức p < 0,05.<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Một số chỉ tiêu môi trường trong thời gian<br /> thí nghiệm<br /> Các yếu tố nhiệt độ, độ mặn và pH được kiểm<br /> tra trong thời gian thí nghiệm đều ở ngưỡng dao<br /> động thích hợp cho sự sinh trưởng bình thường của<br /> tôm sú nuôi (bảng 1), các bể nuôi trong điều kiện<br /> chăm sóc như nhau nên không có sự khác nhau về<br /> các thông số môi trường giữa các bể thí nghiệm.<br /> Bảng 1. Một số yếu tố môi trường<br /> trong thời gian thí nghiệm<br /> Yếu tố môi trường<br /> <br /> pH<br /> Nhiệt độ (0C)<br /> Độ mặn (‰)<br /> <br /> Giá trị<br /> <br /> 7,7 - 8,2<br /> Sáng<br /> <br /> 27 - 29 (27,76 ± 0,59)<br /> <br /> Chiều<br /> <br /> 28 - 30 (28,46 ± 0,55)<br /> 32 - 34 (32,33 ± 1,72)<br /> <br /> 2. Ảnh hưởng của FOS đến tỷ lệ sống của tôm sú<br /> Sau 30 ngày nuôi, tỷ lệ sống của tôm ở các<br /> nghiệm thức thức ăn đạt rất cao và tương đối đều<br /> nhau, cao nhất ở FOS8 (100%), kế đến là FOS1<br /> (97,78 ± 1,11%), FOS2 (96,67 ± 3,33%), FOS4<br /> (95,56 ± 2,94%) và thấp nhất ở đối chứng (94,44 ±<br /> 2,94%) nhưng đến 60 ngày nuôi thì tỷ lệ sống của<br /> tôm lại cao nhất ở nghiệm thức FOS4 (94,45 ±<br /> 2,22%) và thấp nhât ở FOS1 (78,89 ± 13,89%) và<br /> xu thế này kéo dài đến 90 ngày nuôi, tỷ lệ sống đạt<br /> cao nhất ở FOS4 (90,00 ± 5,09%), FOS8 (87,88 ±<br /> 7,29%), FOS2 (82,22 ± 9,09%), đối chứng (80,00<br /> ± 10,18%) và thấp nhất ở FOS1 (71,11 ± 14,70%).<br /> Mặc dù tỷ lệ sống của tôm sú trong suốt quá trình<br /> nuôi ở nghiệm thức FOS4 có xu hướng cao hơn các<br /> mức bổ sung khác và ổn định trong suốt thời gian<br /> tiến hành thí nghiệm nhưng kết quả thí nghiệm cũng<br /> cho thấy không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê<br /> về tỷ lệ sống giữa tôm được cho ăn bằng thức ăn<br /> đối chứng với tôm cho ăn bằng thức ăn có bổ sung<br /> FOS với các hàm lượng khác nhau (hình 1). Điều<br /> này được giải thích là do điều kiện môi trường và<br /> dinh dưỡng trong điều kiện thí nghiệm tương đối<br /> tốt, phù hợp với nhu cầu phát triển của tôm sú nuôi<br /> (Sang và cs, 2010a, 2010b, 2011).<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> <br /> Hình 1. Tỷ lệ sống của tôm sú trong các nghiệm thức thí nghiệm<br /> <br /> 3. Ảnh hưởng của FOS đến tăng trưởng của<br /> tôm sú<br /> Tăng trưởng về khối lượng của tôm (bảng<br /> 2) cho thấy, sau 60 ngày nuôi không có sai khác<br /> đáng kể giữa tôm đối chứng và tôm được cho ăn<br /> <br /> thức ăn có bổ sung FOS. Sau đó, khối lượng<br /> tôm ở các nghiệm thức có bổ sung FOS đều<br /> tăng đáng kể, đạt cao nhất ở nghiệm thức FOS2<br /> (đạt 5,67 ± 0,23 g) và thấp nhất ở nghiệm thức<br /> FOS8 (4,77 ± 0,18 g).<br /> <br /> Hình 2. Tăng trưởng của tôm sú trong các nghiệm thức thí nghiệm<br /> <br /> Tốc độ tăng trưởng đặc trưng về khối lượng<br /> SRGw cao nhất ở FOS2 (3,70 ± 0,045%/ngày) và<br /> thấp nhất ở FOS8 (3,51 ± 0,045 %/ngày). Mức tăng<br /> khối lượng trung bình hàng tuần AWG cao nhất cũng<br /> ở FOS2 (0,45 ± 0,017 g/tuần) và thấp nhất ở FOS8<br /> (0,38 ± 0,015 g/tuần). Kết quả thí nghiệm cho thấy,<br /> sau 90 ngày nuôi, các thông số về khối lượng tôm,<br /> <br /> tốc độ tăng trưởng về khối lượng của tôm giữa các<br /> nghiệm thức thức ăn khác nhau đều không có sai<br /> khác có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, các thông số<br /> về tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm nuôi khi bổ<br /> sung FOS với hàm lượng dao động từ 0,2% - 0,4%<br /> vào thức ăn có xu hướng cao hơn tôm nuôi bằng<br /> các công thức thức ăn khác (bảng 2).<br /> <br /> Bảng 2. Các thông số tăng trưởng sau 90 ngày nuôi<br /> Nghiệm thức<br /> <br /> Thông số<br /> W (g)<br /> <br /> SRG (%)<br /> <br /> AWG (g/tuần)<br /> <br /> ĐC<br /> <br /> 5,06 ± 0,02<br /> <br /> 3,58 ± 0,003<br /> <br /> 0,41 ± 0,003<br /> <br /> FOS1<br /> <br /> 5,23 ± 0,87<br /> <br /> 3,58 ± 0,191<br /> <br /> 0,42 ± 0,072<br /> <br /> FOS2<br /> <br /> 5,67 ± 0,23<br /> <br /> 3,70 ± 0,045<br /> <br /> 0,45 ± 0,017<br /> <br /> FOS4<br /> <br /> 4,92 ± 0,07<br /> <br /> 3,54 ± 0,015<br /> <br /> 0,39 ± 0,006<br /> <br /> FOS8<br /> <br /> 4,77 ± 0,18<br /> <br /> 3,51 ± 0,045<br /> <br /> 0,38 ± 0,015<br /> <br /> Hiệu quả không rõ ràng về tăng trưởng và<br /> tỷ lệ sống khi bổ sung FOS vào thức ăn cũng<br /> được quan sát thấy ở một số đối tượng nuôi thủy<br /> sản khác như trên cá hồi (Oncorhynchus mykis<br /> <br /> Rehulka et al, 2011) và hải sâm (Apostichopus<br /> japonicus) (Yancui, 2011). Kết quả tương tự khi nghiên<br /> cứu trên tôm chân trắng trong hệ thống nuôi tuần<br /> hoàn trong 6 tuần với các mức bổ sung 0; 0,1 và 0,8%<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 193<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> <br /> frutooligosaccharide chuỗi ngắn (scFOS) cũng cho<br /> thấy không có sự cải thiện về hệ số chuyển đổi thức<br /> ăn cũng như tỷ lệ sống của tôm nuôi (Li., P và cs,<br /> 2007). Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác lại cho<br /> rằng bổ sung FOS vào thức ăn đã cải thiện đáng<br /> kể tỷ lệ sống và SGR của cá như cá dày (Rutilus<br /> rutilus Soleimani et al, 2012). Đối với tôm chân trắng,<br /> một nghiên cứu khác cho thấy, bổ sung 1,6 g FOS/ kg<br /> thức ăn đã cải thiện SGR (Zhigang, 2007). Theo<br /> tác giả này thì khi bổ sung 0,4% FOS chuỗi ngắn<br /> (sFOS) thì tôm chân trắng có tốc độ tăng trưởng cao<br /> hơn, hệ số thức ăn thấp hơn và cho rằng khoảng<br /> bổ sung FOS có thể xem xét khoảng 0,4% - 1,6%<br /> và kết luận bổ sung 0,4% FOS là phù hợp nhất cho<br /> tôm chân trắng. Sự khác nhau về hiệu quả của FOS<br /> đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của các đối tượng<br /> nuôi khác nhau là khác nhau. Điều này có thể do<br /> nhu cầu về mặt dinh dưỡng của các đối tượng nuôi<br /> khác nhau, tình trạng sức khỏe và tình trạng hoạt<br /> động của hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột của<br /> các đối tượng nuôi khác nhau cũng như điều kiện<br /> môi trường nuôi khác nhau.<br /> <br /> 4. Ảnh hưởng của FOS đến các chỉ số sinh lý<br /> của tôm sú<br /> Các chỉ tiêu sinh lý như chỉ số tuyến gan tụy<br /> khô và ướt, chỉ số cơ thịt khô và ướt và hàm lượng<br /> nước đã được sử dụng để đánh giá tình trạng sức<br /> khỏe của các loài giáp xác (Jussila, 1997b). Chỉ số<br /> tuyến gan tụy cao cùng với hàm lượng nước thấp<br /> là chỉ thị của tình trạng sức khỏe tốt của giáp xác.<br /> Trong khi những biểu hiện về tăng trưởng và tỷ lệ<br /> sống chưa thể hiện thì các chỉ số sinh lý có thể dùng<br /> để đánh giá sức khỏe của giáp xác (Jussila, 1997b,<br /> Mannonen và Henttonen, 1995, McClain, 1995).<br /> Các chỉ số sinh lý như chỉ số gan tụy (HSI), chỉ số cơ<br /> thịt (TMI), độ ẩm gan tụy (HM) và độ ẩm cơ thịt (TM)<br /> là chỉ thị của sức khỏe và tình trạng sinh lý của tôm.<br /> Sau 90 ngày nuôi chỉ số gan tụy ướt (HSIw)<br /> của của tôm ăn thức ăn FOS4 là cao nhất (4,79 ±<br /> 0,47b) và thấp nhất ở nghiệm thức tôm ăn thức ăn<br /> ĐC (3,65 ± 0,21a). Tuy nhiên kết quả cho thấy không<br /> có sự khác nhau về chỉ số sinh lý khác (TM%, HM%,<br /> HSId và TMId) giữa các các nghiệm thức có bổ sung<br /> các hàm lượng FOS khác nhau (bảng 3).<br /> <br /> Bảng 3. Một số chỉ tiêu sinh lý của tôm sú nuôi sau 90 ngày thí nghiệm<br /> Chỉ số sinh lý (%)<br /> <br /> Nghiệm thức<br /> ĐC<br /> <br /> FOS1<br /> <br /> FOS2<br /> <br /> FOS4<br /> <br /> FOS8<br /> <br /> TMIw<br /> <br /> 43,73 ± 1,36a<br /> <br /> 45,86 ± 2,12a<br /> <br /> 47,30 ± 1,04a<br /> <br /> 48,99 ± 0,82a<br /> <br /> 47,21 ± 1,39a<br /> <br /> TMId<br /> <br /> 11,92 ± 0,48a<br /> <br /> 10,99 ± 0,73a<br /> <br /> 12,02 ± 0,40a<br /> <br /> 12,51 ± 0,42a<br /> <br /> 11,69 ± 0,22a<br /> <br /> HSIw<br /> <br /> 3,65 ± 0,21<br /> <br /> 3,86 ± 0,24<br /> <br /> 3,74 ± 0,34<br /> <br /> 4,79 ± 0,47<br /> <br /> b<br /> <br /> 4,18 ± 0,23ab<br /> <br /> HSId<br /> <br /> 1,04 ± 0,15a<br /> <br /> 1,01 ± 0,13a<br /> <br /> 1,15 ± 0,23a<br /> <br /> 1,35 ± 0,09a<br /> <br /> 1,26 ± 0,10a<br /> <br /> TM<br /> <br /> 75,05 ± 0,29<br /> <br /> 76,08 ± 0,58<br /> <br /> 74,60 ± 0,54<br /> <br /> 74,46 ± 0,64<br /> <br /> a<br /> <br /> 75,21 ± 0,45a<br /> <br /> HM<br /> <br /> 71,80 ± 2,82a<br /> <br /> 71,54 ± 1,35a<br /> <br /> 69,96 ± 0,16a<br /> <br /> a<br /> <br /> a<br /> <br /> ab<br /> <br /> a<br /> <br /> 73,96 ± 1,88a<br /> <br /> ab<br /> <br /> a<br /> <br /> 69,89 ± 3,93a<br /> <br /> Số liệu cùng hàng có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (p < 0,05)<br /> <br /> Kết quả về các chỉ số sinh lý cho thấy không có<br /> sai khác có ý nghĩa thống kê về chỉ số cơ thịt (TMI)<br /> giữa các nghiệm thức bổ sung FOS. Tuy nhiên ở<br /> nghiệm thức FOS4 tôm có chỉ số gan tụy (4,79 ±<br /> 0,47%) cao hơn và sai khác có ý nghĩa thống kê so<br /> với các nghiệm thức còn lại và tôm nuôi bằng thức<br /> ăn có các hàm lượng bổ sung FOS khác.<br /> Giai đoạn lột xác của tôm có ảnh hưởng rất lớn<br /> đến các chỉ tiêu sinh lý (Jussila, 1997a). Trong nghiên<br /> cứu này, tôm đưa vào phân tích có cùng giai đoạn lột<br /> xác, vì thế sự khác nhau về các chỉ số này phụ thuộc<br /> vào FOS bổ sung vào thức ăn. Chỉ số sinh lý TSIw và<br /> HSIw của tôm sú ở FOS4 cao hơn ở ĐC, chứng tỏ<br /> FOS đã làm tăng sức khỏe của tôm sú nuôi. Điều này<br /> có thể do FOS đã cải thiện tốc độ tích lũy năng lượng<br /> trong gan tụy và cơ thịt của tôm nuôi (Fotedar và cs,<br /> 1999). Kết quả tương tự về vai trò của prebiotic lên<br /> các chỉ số sinh lý của giáp xác cũng được quan sát<br /> ở MOS trên marron (Sang và Fotedar, 2010a), tôm<br /> hùm bông (Sang và Fotedar, 2010b).<br /> <br /> 194 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br /> 1. Kết luận<br /> - Việc bổ sung FOS vào thức ăn không cải thiện<br /> tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của tôm sú nuôi.<br /> - Với hàm lượng bổ sung 0,2 - 0,4% FOS cải<br /> thiện một số chỉ tiêu sinh lý của tôm sú nuôi.<br /> 2. Kiến nghị<br /> - Cần có những nghiên cứu tiếp theo để làm<br /> rõ các cơ chế tác dụng của FOS lên các chức<br /> năng sinh lý, tiêu hóa, miễn dịch của tôm sú,<br /> tạo cơ sở khoa học để áp dụng vào thực tiễn<br /> sản xuất.<br /> - Các yếu tố miễn dịch, sự thay đổi hệ vi sinh<br /> vật trong đường ruột và khả năng kháng lại vi khuẩn<br /> cũng như điều kiện bất lợi của môi trường của tôm<br /> được cho ăn thức ăn có bổ sung FOS cần được<br /> quan tâm nghiên cứu.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1