intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Năng lượng tái tạo - Chương 2: Năng lượng gió - ThS. Nguyễn Bá Thành

Chia sẻ: Minhle Tr | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

193
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương này được biên soạn nhằm cung cấp cho sinh viên: Tổng quan về năng lượng gió, tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam, các kiểu turbine gió, cấu tạo và nguyên lý hoạt động của turbine gió, mối quan hệ giữa các thông số trong máy phát điện gió, lưu đồ thiết kế máy phát điện gió công suất nhỏ. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Năng lượng tái tạo - Chương 2: Năng lượng gió - ThS. Nguyễn Bá Thành

  1. Chương 2 Năng lượng gió 1 Chương này được biên soạn nhằm cung cấp cho sinh viên: o Tổng quan về năng lượng gió. o Tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam. o Các kiểu turbine gió. o Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của turbine gió. o Mối quan hệ giữa các thông số trong máy phát điện gió. o Lưu đồ thiết kế máy phát điện gió công suất nhỏ. Câu hỏi chương 2: Câu 1: Anh/chị hãy trình bày lịch sử sử dụng năng lượng gió của loài người? Câu 2: Anh/chị  hãy cho biết thực trạng, tiềm năng  ứng dụng năng lượng gió tại Việt  Nam. Câu 3: Anh/chị hãy trình bày các kiểu turbine gió? So sánh máy phát điện gió trục đứng và   trục ngang?  Câu 4: Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của turbine gió? Câu 5: Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất máy phát điện gió? ThS. Nguyễn Bá Thành
  2. Chương 2 Năng lượng gió 2 Chương 2: Năng lượng gió 2.1 Lịch sử ứng dụng năng lượng gió Hàng nghìn năm nay con người đã biết khai thác sức gió để vận hành các cỗ máy phục vụ  cho cuộc sống của mình, từ  việc dựa vào sức gió để  dong buồm ra khơi cho đến vận   hành các máy bơm nước hay xay ngũ cốc. Hình  ảnh cối xay gió trên những miền quê   phương Tây đã trở nên tiêu biểu qua nhiều thế kỷ [12]. Hình 2.1. Turbine gió đầu tiên của Charles F.Brush, Cleveland, Ohio 1888 [25] Đến cuối thế  kỷ  19 chiếc máy phát điện dùng sức gió đầu tiên ra đời, với tên gọi là  turbine­gió để  phân biệt với cối­xay­gió (biến năng lượng gió thành cơ  năng). Charles F  Brush   đã   tạo   ra   chiếc   turbine   gió   có   khả   năng   phát   điện   đầu   tiên   trên   thế   giới   tại   Cleveland, Ohio vào năm 1888 [20]. Giống như một cối xay gió khổng lồ có đường kính  17m với 144 cánh bằng gỗ mỏng, Hình 1.1. Năm 1891 nhà khí tượng học người Đan Mạch  Poul The Mule Cour xây dựng một turbine thử  nghiệm  ở  Askov – Đan Mạch, Hình 1.2.   Turbine gió này có một rô to bốn cánh kiểu cánh máy bay và có trục quay nhanh hơn. Năm 1922, kỹ sư người Phần Lan S.J.Savonius đã cải tiến nguyên lý đẩy của khái niệm   trục đứng bằng cách thay thế cánh buồm bằng hai cốc hình tròn, Hình 1.3. Năm 1931, kỹ  ThS. Nguyễn Bá Thành
  3. Chương 2 Năng lượng gió 3 sư  người Pháp George Darrieus phát minh ra turbine gió trục đứng Darrieus. Dựa vào   nguyên lý kéo, turbine này có hai (hoặc nhiều hơn) cánh mềm dạng cánh máy bay. Một  đầu cánh gắn ở đỉnh và một đầu gắn xuống đáy của trục đứng chính turbine, giống như  một cái máy đánh trứng khổng lồ. Sau đó những mẫu thiết kế  được cải tiến với cánh   quạt có rãnh để hiệu suất turbine cao hơn.  Năm 1950 kỹ  sư  Johannes Juhl, đã phát triển turbine gió 3 cánh có khả  năng phát điện   xoay chiều, đây chính là tiền thân của turbine gió Đan Mạch hiện đại. Cuộc khủng hoảng  dầu hoả  vào năm 1973, đã làm cho con người quan tâm trở  lại đến tính thương mại của   năng lượng gió và làm tiền đề  cho sự  phát triển công nghệ  cao hơn tại Đan Mạch và  Califonia. Hình 2.2. Turbine gió của Poul la Cour, Askov, Đan Mạch năm 1897 [25] Hình 2.3. Turbine gió trục đứng kiểu Savonius [26] Tuy nhiên mãi đến những năm 1980, công nghệ  turbine gió mới đủ  thuận lợi để  tồn tại,  xét về mặt kinh tế, để các turbine gió cỡ lớn phát điện. Hầu hết các nghiên cứu và phát  ThS. Nguyễn Bá Thành
  4. Chương 2 Năng lượng gió 4 triển đều tiến hành trên turbine trục ngang, mặc dù vẫn có các nghiên cứu sâu hơn trên   mẫu thiết kế trục đứng Darrieus  ở Canada và Mỹ vào những năm 1970 và 1980, mà đỉnh  cao của nó là chiếc máy với đường kính rô to là 100m có công suất 4.2MW với tên gọi  “Eole C” tại Cap Chat – Quebec, Hình 1.4. Tuy nhiên nó chỉ vận hành được có 6 tháng thì  hư hỏng cánh quạt, do sức chịu đựng của cánh quạt quá kém. Hình 2.4. Turbine gió trục đứng Darrieus kiểu “Eole C”, Cap Chat, Quebec [4] Châu Âu dẫn đầu trong lĩnh vực năng lượng gió, vào năm 1982 công suất tối đa của các   turbine gió chỉ có 50 kW. Đến năm 1995 các turbine gió thương mại đã đạt công suất lên   gấp 10 lần, tức khoảng 500 KW. Trong thời gian  đó, chi phí xây dựng các turbine gió   giảm đột ngột, chi phí sản xuất điện năng giảm đi một nửa. Một số lượng lớn turbine gió  từ cỡ lớn trở thành loại cực nhỏ, vì sản lượng của chúng chỉ  vài kWh/tháng. Các turbine  gió ngày nay được xây dựng với kích thước lên đến 3 MW và đường kính là 100m. Hiện   nay có nhiều nhà máy sản xuất turbine gió kích thước lớn. Năng lượng gió trên thế  giới hiện đang trong thời kỳ  phát triển rực rỡ  nhất, đặc biệt là   các Nước Cộng đồng châu Âu, công nghệ turbine gió có thể giải quyết được các vấn đề:  cạn kiệt nguồn tài nguyên hóa thạch, hiệu  ứng nhà kính, tuân thủ  các điều khoản trong  Nghị định Thư Kyoto về hiện tượng trái đất ấm dần lên. Công suất lắp đặt năng lượng gió trên thế  giới tăng theo hàm mũ, và tăng gấp hai lần  công suất của những năm cuối thập kỷ, Hình 1.5. Điều mà từ  trước đến nay không một  ThS. Nguyễn Bá Thành
  5. Chương 2 Năng lượng gió 5 công nghệ  năng lượng nào làm được. Mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn trong   khâu truyền tải, cung cấp, nhưng thị trường năng lượng gió của năm 2006 tăng một cách   chóng mặt tới 32% sản lượng năm 2005 [25].  Hình 1.5. Biểu đồ tăng trưởng công suất lắp đặt năng lượng gió theo năm Năm 2006 tổng sản lượng điện gió toàn cầu đạt 74.223 MW, tức tăng thêm 15.197 MW so   với năm 2005 là 59.091MW [5]. Những nước có sản lượng cao ấn tượng nhất là: • Đức : 20.621 MW • Tây Ban Nha : 11.615 MW • Hoa Kỳ : 11.603 MW • Ấn Độ : 6.270 MW • Đan Mạch : 3.136 MW Với tình hình phát triển nhanh chóng như  hiện nay tại các nước châu Âu, cho thấy sản  lượng của các nước này sẽ còn tiếp tục tăng. Mỹ và Canada cũng tích cực phát triển mở  rộng tăng công suất năng lượng gió. Các nước Trung Đông, Viễn Đông và Nam Mỹ cũng bắt đầu đưa năng lượng gió vào nền   công nghiệp năng lượng của nước mình. Hiện tại các nước này có những dự án phát triển   đến năm 2010 đạt được sản lượng là 150 GW. Tốc độ mở rộng phụ thuộc vào mức độ hỗ trợ của chính phủ, chính quyền các nước cũng  như cộng đồng quốc tế. Đây cũng là trách nhiệm chính cho các nước trong việc tuân thủ  cắt giảm lượng khí thải Carbon Dioxide theo Nghị Định Thư Kyoto về cắt giảm khí thải   gây hiệu ứng nhà kính. Một làn sóng công nghệ mới đã và đang phát triển nhanh chóng với mục tiêu tương lai là  cải thiện công suất và giảm giá thành.   ThS. Nguyễn Bá Thành
  6. Chương 2 Năng lượng gió 6 Từ các số liệu khảo sát [10], cho thấy hiện nay ngành công nghiệp năng lượng gió phân   tán này có 7 phân đoạn thị trường, bao gồm: ­ Loại cỡ nhỏ cho vùng hẻo lánh hay vùng không có lưới điện quốc gia. ­ Loại dùng cho nhà riêng có lưới điện quốc gia. ­ Trang trại, công ty và các ứng dụng gió công nghiệp cỡ nhỏ. ­ Loại cỡ nhỏ dùng cho cho cụm dân cư. ­ Các hệ thống gió ­ diesel. ­ Bơm nước tưới tiêu. ­ Khử muối trong nước.      Bảng 1.1. Tổng công suất lắp đặt (MW) trên thế giới đến năm 2020 Năm Off­grid Hộ gia đình Nông trại/công  Cụm dân cư Gió/diesel nghiệp/công ty Cỡ Large : 325 kW Turbine 5kW 12.5kW Net Bill : 30Kw 750kW 200kW 2005 3.261 14 0 8.250 10 2010 3.118 36 154 17.250 310 2015 6.275 99 410 40.125 1.810 2020 10.693 286 666 95.625 3.810 2.2 Nguyên lý cơ bản của năng lượng gió Bức xạ Mặt Trời chiếu xuống bề mặt Trái Đất không đồng đều làm cho bầu khí quyển,  nước và không khí nóng không đều nhau. Một nửa bề mặt của Trái Đất, mặt ban đêm, bị  che khuất không nhận được bức xạ của Mặt Trời và thêm vào đó là bức xạ Mặt Trời ở các   vùng gần xích đạo nhiều hơn là ở các cực, do đó có sự khác nhau về nhiệt độ và vì thế là   khác nhau về áp suất mà không khí giữa xích đạo và 2 cực cũng như  không khí giữa mặt   ban ngày và mặt ban đêm của Trái Đất di động tạo thành gió. Trái Đất xoay tròn cũng góp  phần vào việc làm xoáy không khí và vì trục quay của Trái Đất nghiêng đi (so với mặt   ThS. Nguyễn Bá Thành
  7. Chương 2 Năng lượng gió 7 phẳng do quỹ  đạo Trái Đất tạo thành khi quay quanh Mặt Trời) nên cũng tạo thành các  dòng không khí theo mùa. Do bị   ảnh hưởng bởi hiệu  ứng Coriolis được tạo thành từ  sự  quay quanh trục của Trái  Đất nên không khí đi từ vùng áp cao đến vùng áp thấp không chuyển động thắng mà tạo  thành các cơn gió xoáy có chiều xoáy khác nhau giữa Bắc bán cầu và Nam bán cầu. Nếu   nhìn từ vũ trụ thì trên Bắc bán cầu không khí di chuyển vào một vùng áp thấp ngược với  chiều kim đồng hồ  và ra khỏi một vùng áp cao theo chiều kim đồng hồ. Trên Nam bán  cầu thì chiều hướng ngược lại. Ngoài các yếu tố  có tính toàn cầu trên gió cũng bị   ảnh hưởng bởi địa hình tại từng địa  phương. Do nước và đất có nhiệt dung khác nhau nên ban ngày đất nóng lên nhanh hơn   nước, tạo nên khác biệt về áp suất và vì thế có gió thổi từ biển hay hồ vào đất liền. Vào   ban đêm đất liền nguội đi nhanh hơn nước và hiệu ứng này xảy ra theo chiều ngược lại. Năng lượng gió là động năng của không khí chuyển động với vận tốc  . Khối lượng đi  qua một mặt phẳng hình tròn vuông góc với chiều gió trong thời gian   là:   (2.1) với ρ là tỷ trọng của không khí, V là thể tích khối lương không khí đi qua mặt cắt ngang   hình tròn diện tích A, bán kinh r trong thời gian t. Vì thế động năng E (kin) và công suất P của gió là:    (2.2)                (2.3) Điều đáng chú ý là công suất gió tăng theo lũy thừa 3 của vận tốc gió và vì thế  vận tốc   gió là một trong những yếu tố quyết định khi muốn sử dụng năng lượng gió. ThS. Nguyễn Bá Thành
  8. Chương 2 Năng lượng gió 8 Công suất gió có thể được sử dụng, thí dụ như thông qua một  tuốc bin gió để phát điện,  nhỏ  hơn rất nhiều so với năng lượng của luồng gió vì vận tốc của gió  ở  phía sau một   tuốc bin không thể giảm xuống bằng không. Trên lý thuyết chỉ có thể lấy tối đa là 59,3%   năng lượng tồn tại trong luồng gió. Trị giá của tỷ lệ giữa công suất lấy ra được từ gió và  công suất tồn tại trong gió được gọi là hệ số Betz, do Albert Betz tìm ra vào năm 1926. Có thể giải thích một cách dễ hiểu như sau: Khi năng lượng được lấy ra khỏi luồng gió,  gió sẽ chậm lại. Nhưng vì khối lượng dòng chảy không khí đi vào và ra một tuốc bin gió  phải không đổi nên luồng gió đi ra với vận tốc chậm hơn phải mở rộng tiết diện mặt cắt   ngang. Chính vì lý do này mà biến đổi hoàn toàn năng lượng gió thành năng lượng quay  thông qua một tuốc bin gió là điều không thể được. Trường hợp này đồng nghĩa với việc  là lượng không khí phía sau một tuốc bin gió phải đứng yên. 2.3 Năng lượng gió tại Việt Nam  Tiềm năng về  năng lượng gió Việt Nam chỉ  vào loại trung bình. Hầu hết, các khu vực   trên đất liền có năng lượng gió thấp khai thác không hiệu quả. Chỉ có một vài nơi, do có  địa hình đặc biệt nên gió tương đối khá tuy nhiên công suất lại không lớn. Chỉ  dọc theo  bờ biển và trên các hải đảo năng lượng gió tốt hơn. Nơi có nguồn năng lượng tốt nhất là   đảo Bạch Long Vĩ, tốc độ  trung bình năm đạt được từ  7.1­7.3m/s. Tiếp đến là các khu  vực đảo Trường Sa, Phú Quí, Côn Đảo... có tốc độ  gió trong khoảng 4.0­ 6.6m/s. Tuy  nhiên cũng nên nói thêm rằng tiềm năng năng lượng gió Việt Nam chưa được điều tra  đánh giá đầy đủ vì phần lớn số liệu về năng lượng gió chủ yếu chỉ thu thập qua các trạm  Khí tượng Thủy văn, tức chỉ  đo  ở  độ  cao từ  10m đến 12m trên mặt đất. Chúng ta đang   thiếu số liệu về năng lượng gió ở  các độ cao trên 40m. Hiện nay đang có khoảng 10 cột   đo gió ở độ cao từ 30m đến 60m [9]. Theo khảo sát gần đây nhất của IOE [7], Việt Nam có khoảng 31000km 2 đất có thể  đưa  vào khai thác năng lượng gió, trong đó có 865km2 tương đương với 3572MW với điện có  thể  được tạo ra với giá thành ít hơn 6UScents/kWh. Nghiên cứu cũng đã minh chứng   ThS. Nguyễn Bá Thành
  9. Chương 2 Năng lượng gió 9 được rằng năng lượng gió sẽ  là giải pháp tốt cho khoảng 300000 hộ  cư  dân nông thôn  không có điện. Trong khi năng lượng gió có thể  mang đến những lợi ích về  môi trường,  kinh tế, xã hội… Nhưng hiện nay lượng điện năng khai thác từ  gió gần như  là con số  không. Nhà nước cũng chưa có chính sách hỗ trợ, khuyến khích nào cho năng lượng gió.  Vì vậy, nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu hiện nay là đặt mục tiêu cho phát triển năng lượng tái   sinh và để tìm tòi nghiên cứu công nghệ mới phù hợp với Việt Nam.   Theo số liệu của Ngân Hàng Thế Giới [14] khảo sát năm 2000 thì Việt Nam do điều kiện địa   lý và thời tiết giữa các vùng là khác nhau nên tốc độ gió trung bình và chiều gió có sự khác   nhau: ­ Vùng Tây Bắc Việt Nam (Lai Châu, Điện Biên Sơn La) có vận tốc gió trung bình hàng  năm khoảng từ 0.5 – 1.9m/s. ­ Khu vực miền núi phía Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Sa Pa) có vận tốc gió trung bình   cao hơn, nhưng cũng chỉ khoảng từ 1.5 – 3.1m/s, vận tốc cực đại trung bình khoảng trên  40m/s. ­ Đồng Bằng Bắc Bộ  (Tam  Đảo, Hà Nội) có vận tốc gió trung bình khoảng 2.0 –   3.5m/s. Vận tốc trung bình cực đại trên 35m/s. ­ Vùng bờ biển từ Móng Cái tới Hòn Gai, Phú Liên, Thanh Hóa, Vinh, Đồng Hới có vận  tốc gió trung bình tăng, khoảng 2.0 – 4.0m/s. Cực đại trên 50m/s. ­ Vùng bờ biển từ Huế tới Tuy Hòa (Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Tuy Hòa)  có vận tốc gió trung bình khá ổn định khoảng 3.0 ­ 5.0m/s. Cực đại trên 35m/s. ­ Vùng bờ  biển từ  Nha Trang tới Rạch Giá (Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu, Phú   Quốc, Rạch Giá) có vận tốc trung bình 2.4–6.1m/s, cực đại trên 30m/s. ­ Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Thành phố  Hồ  Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau) có   vận tốc gió trung bình khoảng 2.2–4.0m/s, cực đại 26m/s. ThS. Nguyễn Bá Thành
  10. Chương 2 Năng lượng gió 10 ­ Tây Nguyên (Đà Lạt, Pleiku) có vận tốc gió trung bình khoảng 2.4–4.5m/s, cực đại  24m/s.   Những dự án năng lượng gió đã và đang triển khai tại Việt Nam : nhà máy phát điện sức  gió đầu tiên  ở Việt Nam phải kể đến là nhà máy đặt tại huyện đảo Bạch Long Vỹ, TP   Hải Phòng. Công suất 800KW với vốn đầu tư 0.87 triệu USD (14 tỉ đồng). Như vậy, với  giá bán điện 0.05USD/KWh (750VNĐ/KWh) thì thời gian hoàn vốn là 7 ­ 8 năm. Thực tế  cho thấy, mặc dù trong năm 2005, đã có 3 cơn bão lớn, tốc độ  gió đều vượt qua cấp 12  nhưng turbine gió ­ phát điện vẫn vận hành an toàn. Nhà máy điện gió thứ 2 của cả nước   đặt ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vận hành bằng sức gió, có kết hợp máy phát điện  diesel với tổng công suất 7MW, tổng vốn đầu tư gần 200 tỷ đồng. Dự án được chia làm 3   giai đoạn: giai đoạn 1 được thực hiện trong hai năm 2007 và 2008 có công suất 2.5 MW,   vốn đầu tư 80 tỷ đồng cung cấp cho 4000 hộ dân với gần 20000 nhân khẩu. Giai đoạn 2  nâng công suất lên 5MW thực hiện trong các năm 2008 ­ 2009 và giai đoạn 3 được thực  hiện trong các năm 2009 ­ 2012 sẽ công suất lên trên 10MW. Nhiều dự án điện gió rất lớn với mục tiêu hòa vào lưới điện quốc gia vẫn đang được xúc  tiến. Dự  án xây dựng Nhà máy phong điện 3, tại khu kinh tế Nhơn Hội, tỉnh Bình Định  với tổng vốn đầu tư hơn 35.7 triệu USD. Theo thiết kế, nhà máy được đầu tư  xây dựng  toàn bộ  14 turbine, 14 máy biến áp đồng bộ  cùng các trang thiết bị  và dịch vụ  kèm theo.  Sản lượng điện hằng năm của nhà máy hoà vào lưới điện quốc gia đạt khoảng 55 triệu   kWh sau khi nhà máy đi vào hoạt động cuối năm 2008. Hiện tại, nhà máy điện gió đang  được xây dựng tại Bình Thuận với công suất khá lớn. Một dự án đầu tư rất lớn đang có thể trở thành hiện thực ở Việt Nam đó là xây dựng nhà  máy điện gió có công suất phát điện 120 MW với vốn đầu tư 120 triệu USD (gần 2000 tỉ  đồng) do tập đoàn EurOriont đầu tư  chính. Để  có một hình dung về  con số  này, hãy so  sánh với thủy điện ­ thủy lợi Rào Quán  ở  Quảng Trị, vốn đầu tư  2000 tỉ  đồng và công  suất phát điện là 64 MW. ThS. Nguyễn Bá Thành
  11. Chương 2 Năng lượng gió 11 Vậy, nhìn chung các dự án điện gió có suất đầu tư  1000USD/kW, khả năng thu hồi vốn  trong vòng 10 năm, giá thành điện không cao 5UScents/kWh. Theo dự báo đến năm 2010,   suất đầu tư  nguồn điện bằng sức gió chỉ  còn khoảng 700­ 800USD/kW, giá thành 3.5–  4.0UScents/kWh. Với quy mô nhỏ thì đặc biệt hữu ích cho vùng sâu, vùng xa và hải đảo...  Với quy mô lớn thì thường được phát triển  ở  những vùng trống, khô cằn  ở  vùng Nam  Trung bộ như Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận... 2.4 Các kiểu turbine gió 2.4.1 Turbine gió trục đứng và trục ngang Có nhiều kiểu thiết kế  khác nhau cho turbine gió, và được phân ra làm hai loại cơ  bản   chính [13]: Turbine gió trục ngang (HAWT) và turbine gió trục đứng (VAWT). Các cánh   quạt gió thường có các dạng hình dáng: cánh buồm, mái chèo, hình chén đều được dùng   để “bắt” năng lượng gió để tạo ra mô men quay trục turbine, như Hình 1.8. Turbine gió trục ngang (HAWT) có rô to kiểu chong chóng với trục chính nằm ngang. Số  lượng cánh quạt có thể  thay đổi, tuy nhiên thực tế  cho thấy loại 3 cánh là có hiệu suất   cao nhất. HAWT có các thành phần cấu tạo nằm thẳng hàng với hướng gió, cánh quạt  quay được truyền động thông qua bộ nhông và trục. Loại turbine trục ngang không bị ảnh   hưởng bởi sự  xáo trộn luồng khí (khí động học), nhưng yêu cầu phải có một hệ  thống  điều chỉnh hướng gió bằng cơ khí để đảm bảo các cánh quạt luôn luôn hướng thẳng góc   với chiều gió. ThS. Nguyễn Bá Thành
  12. Chương 2 Năng lượng gió 12 Hình 2.5. Cấu tạo turbine trục đứng và trục ngang [25], [26] 1.   Chiều   gió   đến   của  6. Máy phát 11. Tháp VAWT HAWT 7. Vỏ 12.   Độ   cao   kính   xích  2. Đường kính rô to 8. Tháp HAWT đạo. 3. Chiều cao của Hub 9. Chiều gió phía sau rô  13. Cánh rô to với góc  4. Cánh rô to to bước cố định. 5. Hộp số 10. Chiều cao rô to 14. Nền rô to. Turbine gió trục đứng (VAWT) có cánh nằm dọc theo trục chính đứng. Loại này không  cần phải điều chỉnh cánh quạt theo hướng gió và có thể  hoạt động ở  bất kỳ  hướng gió  nào. Việc duy tu bảo quản và duy trì vận hành rất dễ dàng vì các bộ phận chính như máy   phát, hệ thống truyền động đều được đặt ngay trên mặt đất. Tuy nhiên nó cần có không  gian rộng hơn cho các dây chằng chống đỡ hệ thống. 2.4.2 So sánh máy phát điện gió trục đứng và trục ngang Đã có nhiều tranh luận xoay quanh vấn đề này, có thể nói bắt đầu từ khi phát minh ra các   bộ  chuyển đổi năng lượng gió. Các chuyên gia đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau.   Dennis G.Shepherd đã so sánh hai loại turbine này một cách toàn diện nhất trong tác phẩm   “Năng lượng gió”, ông đã đưa ra những ưu và nhược điểm tương đối của hai loại turbine   này như sau: Ưu điểm của VAWT so với HAWT:  Một turbine gió trục đứng truyền thống là một cỗ  máy không hướng. Nghĩa là  VAWT hoạt động mà không phụ  thuộc vào hướng gió. Như  vậy hệ  thống xoay hướng   gió phức tạp của HAWT sẽ không cần thiết ở VAWT.  VAWT được đặt ngay trên nền đất, khác với HAWT phải được đưa lên tháp cao.  Hộp số, máy phát và dàn cơ khí điều khiển rất nặng, do đó nếu đặt dưới đất thì việc lắp   ThS. Nguyễn Bá Thành
  13. Chương 2 Năng lượng gió 13 đặt, bảo trì sẽ rất thuận tiện và dễ dàng.  Với cùng một công suất ngõ ra, tổng chiều cao của HAWT (bao gồm tháp) sẽ cao   hơn rất nhiều so với loại trục đứng Darrieus gây tác động rõ rệt đến xung quanh. Về  phương diện này, các turbine gió trục đứng được coi như  thân thiện với môi trường hơn  so với loại trục ngang.  Các cánh quạt của VAWT không bị  phải chịu đựng áp lực khi xoay. Cánh của   VAWT rẻ và bền cao hơn so với HAWT.  VAWT được thiết kế sao cho tải ly tâm được cân bằng bởi các lực trên cánh quạt,  như vậy tránh được mô men xoắn. Hạn chế của VAWT:  VAWT nói chung không thể tự  khởi động được. Rô to Savonious là một ngoại lệ  nhưng nó có hiệu suất khá thấp.        Vì VAWT được đặt ngay trên mặt đất, nên nó lệ  thuộc vào gió có tốc độ  thấp và  thay đổi liên tục. Với cùng một diện tích quét và trọng lượng thì công suất ngõ ra của   VAWT thấp hơn HAWT.  Các dây cáp chằng VAWT chiếm khá nhiều diện tích, nên có thể gây khó khăn cho   việc tận dụng phần đất bên dưới turbine, đất đai thường canh tác, trồng trọt bên dưới.  Toàn bộ trọng lượng của VAWT được đặt lên bộ đệm đỡ phía dưới, bộ đệm này  rất cứng, linh hoạt và có độ tin cậy cao khi vận hành. Tuy nhiên khi bộ đệm này hư hỏng,   thì đòi hỏi phải tháo dỡ xuống toàn bộ máy phát để sửa chữa hoặc thay thế.  Đối với VAWT, mô men quay và công suất ngõ ra thay đổi thất thường một cách  tuần hoàn khi cánh quạt đi vào và ra khỏi vùng tác động của gió trong mỗi vòng quay,   trong khi ở HAWT mô men quay và công suất ngõ ra khá ổn định. ThS. Nguyễn Bá Thành
  14. Chương 2 Năng lượng gió 14 Do mô men quay của VAWT thay đổi tuần hoàn, nên tạo ra nhiều tần số  dao động tự  nhiên. Điều này rất nguy hiểm và cần phải được loại bỏ nhanh chóng bởi bộ điều khiển  cơ  khí, nếu không sự  cộng hưởng sẽ  gây hư  hỏng nghiêm trọng cho rô to. Trong khi đó   một HAWT nếu được thiết kế kỹ lưỡng sẽ không có những vấn đề rung động như vậy.  Sự phát triển mang tính cạnh tranh và những gì làm được của turbine trục ngang sẽ bị hạn   chế trong tương lai, phần lớn là do tải trọng của những cánh quạt ngày càng lớn. Có thể  nhận thấy rằng, mặc dù hiệu suất thấp nhưng turbine trục đứng không chịu áp lực nhiều  từ tải trọng của nó, điều làm giới hạn kích thước của turbine trục ngang. Xét về mặc hiệu quả kinh tế [25], các nhà phân tích cho rằng: nếu trước đây các turbine   trục đứng với công suất ngõ ra khoảng 10 MW được phát triển thì ít nhất nó cũng làm   được những gì mà turbine trục ngang làm được ngày nay, nhưng chi phí trên một đơn vị  công suất thấp hơn nhiều, do đó vấn đề  hiệu suất của turbine trục đứng thấp 19% đến   40% so với 56% turbine trục ngang là không quan trọng.  Tóm lại: Turbine trục ngang và trục đứng như  trên đã phân tích đều có  ưu và nhược điểm nhất  định. Loại trục ngang có hiệu suất cao hơn nhưng chi phí cũng lớn, hệ  thống khá phức   tạp và chỉ hoạt động tốt khi vận tốc gió lớn. Trong khi loại trục đứng có hạn chế là hiệu   suất thấp nhưng bù lại dễ thiết kế, bảo dưỡng và giá thành thấp, đồng thời hoạt động tốt  trong điều kiện gió thấp, chiều gió thay đổi liên tục.  Việc chọn mô hình trục đứng hay trục ngang khi thiết kế sẽ phụ thuộc vào điều kiện gió  tại nơi đó và các tiêu chí thiết kế, các tiêu chí này sẽ được đưa vào bảng phân tích nhân tố  và tùy vào nhu cầu người dùng ở từng quốc gia mà các tiêu chí sẽ có trọng số khác nhau,   tiêu chí nào có trọng số  lớn nhất sẽ  được chọn để  thiết kế. Theo tài liệu [15] nhóm   nghiên cứu này đã dùng bảng phân tích nhân tố với 7 tiêu chí sau, để đánh giá nhu cầu sử  dụng của các nước đang phát triển: o Giá thành thấp. ThS. Nguyễn Bá Thành
  15. Chương 2 Năng lượng gió 15 o Được thiết kế dễ dàng sản xuất với số lượng lớn. o Hiệu suất cao. o Ít duy tu bảo quản. o Bền. o Hoạt động có hiệu quả ở các điều kiện gió không lý tưởng, gió quẩn. o Lắp đặt dễ dàng. 2.5  Cấu tạo của tuabin gió Các thành phần của máy phát điện gió được mô tả  như  Hình 2.6 [11]. Máy phát điện gió  hầu hết đều có các thành phần chính như sau:  Cánh (Blade):  Cánh rô to là các thành phần chính của turbine dùng để  bắt năng  lượng gió và chuyển đổi năng lượng gió này thành năng lượng cơ  làm quay trục   turbine. Việc thay đổi góc pitch của cánh có thể làm tối ưu năng lượng thu được từ  gió.  Hub: Hub là điểm tâm nơi các cánh gắn vào và gắn liền với trục tốc độ thấp.  Hộp số (Gear box): Hộp số là hộp chuyển đổi vận tốc quay từ  trục tốc độ  thấp  sang trục tốc độ cao.  Phanh (Brake): Phanh có cơ cấu giống phanh xe hơi, dùng để hãm và dừng hẳn tất   cả  các thành phần của turbine trong quá trình công nhân sửa chữa, duy tu.  Ở  các   turbine cỡ lớn thường có đến hai hệ thống phanh độc lập.  Máy phát (Generator): Máy phát được nối vào trục tốc độ  cao, là bộ  phận chính  chuyển đổi năng lượng cơ từ trục tốc độ cao thành năng lượng điện ở ngõ ra.  Máy đo tốc độ  và hướng gió (Anemometer and Wind vane): Hai thiết bị  này sử  dụng để xác định vận tốc gió và chiều gió. ThS. Nguyễn Bá Thành
  16. Chương 2 Năng lượng gió 16  Bô xoay h ̣ ướng gió (Yaw drive): Bộ xoay hướng gió có nhiệm vụ xoay cánh luôn  luôn hướng vuông góc với luồng gió, đối với loại turbine trục đứng thì bộ  phận  này là không cần thiết.  Bộ điều khiển (Controller): Bộ điều khiển là một hệ thống máy tính có thể giám   sát và điều khiển hoạt động turbine. Chẳng hạn, khi gió đổi hướng hệ  thống này   sẽ  điều chỉnh để  xoay cánh luôn luôn hướng vuông góc với chiều gió, hoặc thay  đổi góc pitch để năng lượng thu được luôn là tối ưu. Khi có gió bão hoặc sự cố hệ  thống sẽ cho dừng hoạt động toàn bộ hệ thống để đảm bảo an toàn.   Tháp (Tower): Tháp là trụ chính để đỡ toàn bộ hệ thống.  Thùng chứa (Nacelle): Thùng chứa là thùng chứa toàn bộ các thành phần hệ thống  trừ cánh. ThS. Nguyễn Bá Thành
  17. Chương 2 Năng lượng gió 17 Hình 2.6. Các thành phần của turbine gió 2.6  Nguyên lý hoạt động của tuabin gió Động năng của khối không khí có trọng lượng m, thổi với vận tốc u theo chiều x là:   (Joules) (2­4) Với: A : Diện tích cắt ngang của khối khí đi qua, đơn vị là m2; ρ  : Mật độ không khí, đơn vị kg/m3; x  : Độ dày khối khí, đơn vị m; Giả sử khối khí đó được biểu diễn như Hình 2.2, với chiều x di chuyển theo vận tốc u, ta   thấy động năng tăng đều theo x, vì khối khí tăng đều. Như vậy, năng lượng của gió Pw, chính là đạo hàm động năng theo thời gian [5]: (W) (2­5)   là công suất thu được từ  gió.  Công thức này dùng cho trục đứng và cả  trục ngang.  Turbine sẽ lấy năng lượng gió theo chiều x, đẳng thức (2­2) cho thấy toàn bộ năng lượng   có thể thu được từ diện tích A. Hình 2.2. Năng lượng của khối không khí Mặt khác, ta biết mật độ không khí được biểu diễn theo đẳng thức:  (kg/m3) (2­6) Trong đẳng thức này: : là áp suất, đơn vị là Pa. : là nhiệt độ Kelvin. ThS. Nguyễn Bá Thành
  18. Chương 2 Năng lượng gió 18 Như vậy, năng lượng gió từ đẳng thức (2­2) được biểu diễn lại như sau: (W)             (2­7) Đối với không khí ở điều kiện bình thường thì = 101.3 Pa và = 273 K, với A là diện tích   quét (m2) và u là vận tốc gió (m/s). Khi đó phương trình được rút gọn lại là:  (W) (2­8) Phương trình tổng quát (2­4) nên được dùng khi vị  trí đặt turbine gió có độ  cao vài trăm   mét so với mặt nước biển hoặc nhiệt độ lớn đáng kể so với 00C.  Hình 2.2 biểu diễn vật lý của một turbine gió khi có khối không khí lớn di chuyển làm   thay đổi tốc độ  gió và áp suất không khí. Hình 2.3 biểu diễn một turbine trục ngang  truyền thống kiểu có cánh dạng chong chóng. Nếu như  ta xem khối không khí di chuyển ban đầu khi chưa tiếp cận turbine gió có  đường kính d1, vận tốc u1, áp suất . Vận tốc khối khí sẽ giảm khi tiếp xúc với turbine làm  cho luồng khí giãn ra bằng với đường kính d2 của turbine gió. Áp lực không khí sẽ  tăng  cực đại  ở  ngay trước turbine và sẽ  giảm ngay khi qua khỏi turbine. Chính động năng  (kinetic energy) trong không khí được chuyển thành năng lượng tiềm ẩn (potential energy)   để gây ra sự tăng áp suất này. Sau khi qua khỏi turbine sẽ vẫn còn nhiều động năng được  chuyển đổi thành năng lượng tiềm ẩn để làm tăng áp suất không khí trở lại bình thường.  Điều này làm cho tốc độ gió tiếp tục giảm cho tới khi áp suất trở lại cân bằng. Một khi   tốc độ gió tiến đến điểm thấp, thì tốc độ của khối khí sẽ tăng trở lại sao cho u4 = u1 như  bầu không khí xung quanh nó. ThS. Nguyễn Bá Thành
  19. Chương 2 Năng lượng gió 19 Hình 2.7. Biểu diễn luồng khí thổi qua một turbine gió lý tưởng Có thể biểu diễn theo các điều kiện tối  ưu, khi công suất cực đại được truyền từ  khối  khí sang turbine. Ta có các quan hệ sau:      Khi đó công suất cơ thu được từ gió sẽ có sự khác biệt giữa ngõ vào và ngõ ra: (W)    (2­9) Đẳng thức trên được phát biểu rằng một turbine lý tưởng sẽ thu được 8/9 năng lượng từ  luồng gió tự  nhiên. Tuy nhiên, như  Hình 2.3 ta thấy khối khí có diện tích nhỏ  hơn diện   tích turbine, và điều này có thể làm sai kết quả do diện tích A1 khó xác định. Phương pháp bình thường biểu diễn phần năng lượng thu được theo tốc độ  gió  và diện   tích turbine A2. Phương pháp này cho ta: (W)     (2­10) Hệ số 16/27= 0.593 thường được gọi là hệ  số  Betz. Nghĩa là một turbine không thể  thu   được nhiều hơn 59.3% năng lượng của khối khí có cùng diện tích. Thực tế cho thấy phần  ThS. Nguyễn Bá Thành
  20. Chương 2 Năng lượng gió 20 năng lượng thu được luôn luôn ít hơn, nguyên nhân là do hệ thống cơ khí không hoàn hảo.  Ở  điều kiện tối  ưu kết quả tốt nhất có thể  thu được cũng chỉ  khoảng 35% ­ 40% năng   lượng từ  gió, mặc dù người ta khẳng định là hoàn toàn có thể  thu được tới 50%. Một   turbine mà có thể  thu được tới 40% năng lượng từ  gió, tức thu được khoảng 2/3 năng   lượng mà một turbine lý tưởng thu được cũng được coi là rất tốt. 2.7  Hiệu suất turbine gió Phần năng lượng thu được từ năng lượng gió của các turbine trong thực tế thường do giá   trị  quyết định, chính là hiệu suất của turbine. Theo luật Benz, hiệu suất tối  ưu nhất của   một turbine là 59.3%, tất cả  các turbine gió trong thực tế đều không đạt đến giá trị  này,  mà chỉ  nằm trong khoảng từ  20­30% [5]. Vậy công suất cơ  ngõ ra, công suất làm quay  trục tốc độ thấp, trong thực tế được biểu diễn theo đẳng thức sau:    (W)  (2­11) : Công suất cơ Turbine Darrieus hoạt động với góc pitch không đổi trong khi đó các turbine trục ngang cỡ  lớn thường có góc pitch thay đổi. Góc pitch được thay đổi để  duy trì  ở  giá trị  lớn nhất   theo tốc độ  của turbine, hoặc có khi được điều chỉnh giảm trong khi  đang tăng theo tốc   độ gió để duy trì công suất ngõ ra ở giá trị định mức của turbine. không là hằng số, mà thay đổi theo: tốc độ  gió, tốc độ  quay (TSR) của turbine, và các  thông số cánh như góc tới và góc pitch và kiểu dáng cánh. Bảng 2.2. Hiệu suất turbine ứng với từng kiểu khác nhau Hiệu suất % Hệ thống năng lượng gió Cấu trúc  Thiết kế  đơn giản tối ưu Turbine bơm nước nhiều cánh dùng cho nông trại  10 20 Turbine bơm nước kiểu cánh buồm 10 25 ThS. Nguyễn Bá Thành
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2