YOMEDIA
ADSENSE
Bài giảng Tuyến điểm du lịch Việt Nam - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
92
lượt xem 12
download
lượt xem 12
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nội dung của tập bài giảng gồm có 4 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về Tuyến điểm du lịch. Chương 2: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ. Chương 3: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Chương 4: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Nội dung các chương ngoài kiến thức cơ bản còn cập nhật các kiến thức mới và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Tuyến điểm du lịch Việt Nam - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
- TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI KHOA DU LỊCH Ths. ĐỒNG THỊ THU HUYỀN TẬP BÀI GIẢNG TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VIỆT NAM (Dành cho học sinh, sinh viên chuyên ngành du lịch) LÀO CAI, 2015 1
- LỜI NÓI ĐẦU Trong suốt hơn 40 năm hình thành và phát triển, du lịch Việt Nam đã có những bước tiến đáng khích lệ, trở thành ngành kinh tế có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, kinh doanh lữ hành ở Việt Nam phát triển rất nhanh chóng. Từ một công ty du lịch ở thời kỳ đầu đến năm 2014, toàn ngành đã có 2532 doanh nghiệp lữ hành (nội địa và quốc tế) đáp ứng nhu cầu đi du lịch ngày càng cao của du khách trong và ngoài nước. Và kinh doanh lữ hành cũng là một trong những ngành kinh doanh chính của kinh doanh du lịch. Muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao, ngoài kiến thức sâu rộng về ngành du lịch nói chung, các nhà kinh doanh cần phải có kiến thức về kinh doanh lữ hành nói riêng. Tại các trường cao đẳng và đại học đào tạo về du lịch, trong hệ thống kiến thức về ngành du lịch, việc trang bị cho học sinh, sinh viên kiến thức về tuyến điểm du lịch phục vụ cho kỹ năng kinh doanh lữ hành là điều cần thiết. Môn học “Tuyến điểm du lịch Việt Nam” là một môn học cốt lõi trong chuyên ngành đào tạo “Hướng dẫn du lịch” và “Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành” của trường Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai. Mục tiêu của môn học nhằm trang bị cho học sinh, sinh viên các kiến thức lý luận về tuyến, điểm du lịch và các loại hình du lịch; các tuyến, điểm du lịch của từng vùng du lịch trên đất nước Việt Nam. Kiến thức của môn học là sự tiếp nối kiến thức các môn cơ sở của ngành đã được trang bị trước đó. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và yêu cầu của công tác đào tạo, Khoa Du lịch trường Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai đã tiến hành biên soạn tập bài giảng Tuyến điểm du lịch Việt Nam phù hợp với nhu cầu và nội dung giảng dạy của ngành đào tạo dành cho hệ TCCN và cao đẳng. Đồng thời, tập bài giảng đã hệ thống kiến thức và cập nhật mới các thông tin du lịch của Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại. Nội dung của tập bài giảng gồm có 4 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về Tuyến điểm du lịch. Chương 2: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ. Chương 3: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Chương 4: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Nội dung các chương ngoài kiến thức cơ bản còn cập nhật các kiến thức mới và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Hi vọng tập bài giảng sẽ là tài liệu hữu ích cho các học sinh, sinh viên thuộc các ngành liên quan đến du lịch, cũng như tất cả những ai quan quâm tới lĩnh vực này. Tập bài giảng được tổ chức và biên soạn với thái độ làm việc nghiêm túc nhưng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi hi vọng sẽ nhận được sự đóng góp của các nhà nghiên cứu và người đọc quan tâm đến lĩnh vực để tập bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn. TÁC GIẢ 2
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH 1.1. KHÁI NIỆM 1.1.1. Điểm du lịch Điểm du lịch là nhân tố quan trọng hình thành nên các sản phẩm du lịch phục vụ cho hoạt động kinh doanh lữ hành. Điểm du lịch càng đa dạng thì sản phẩm du lịch càng đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Hiện nay khi đánh giá điểm du lịch, các nhà khoa học quan tâm nhiều đến giá trị thu hút khách của điểm đến. Và điểm du lịch có thể là đại diện của một địa phương, một vùng lãnh thổ hoặc của một quốc gia. Hiện nay, có nhiều định nghĩa về điểm du lịch, theo Luật du lịch Việt Nam năm 2007, Điểm du lịch được định nghĩa như sau: Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Điều kiện và nhân tố hình thành nên điểm du lịch: Nơi có tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú, độc đáo và có sức hấp dẫn đối với du khách. Ví dụ những nơi có: suối nước khoáng; thảm thực vật và động vật phong phú; có không gian nghỉ ngơi; có địa điểm cho những hoạt động ngoài trời như đi dã ngoại, chạy bộ, đi xe đạp; những công trình kiến trúc, văn hóa nghệ thuật có giá trị…. Đảo bảo các điều kiện vệ sinh cần thiết cho du khách. Có cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống, hệ thống điện nước… đang hoạt động tốt. Có loại hình lưu trú phục vụ du khách như khách sạn, nhà nghỉ, nơi cắm trại, nhà sàn,… Có hệ thống các cửa hàng bán đồ lưu niệm, đặc biệt là thực phẩm. Hệ thống dịch vụ được trang bị đầy đủ như nhà luyện tập, câu lạc bộ phục hồi sức khỏe, khu vui chơi, giải trí. Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, vòng đời của một điểm du lịch thường trải qua 6 giai đoạn: Giai đoạn phát hiện: Trong giai đoạn này, một vùng hay một địa danh nào đó được du khách hoặc người dân, các nhà nghiên cứu ngẫu nhiên phát hiện và được thế giới tán thưởng, công nhận vẻ độc đáo, hấp dẫn của nó. Trong giai đoạn này chưa có hoạt động kinh doanh du lịch. Giai đoạn tham gia: Đây là giai đoạn những người làm du lịch vào cuộc (nhà quản lý du lịch, đối tác, cộng đồng địa phương, nhà nước…). Họ sẽ tiến hành đưa ra ý tưởng, nghiên cứu, quy hoạch, xây dựng phương án phát triển. Đây là giai đoạn hoạt động du lịch đã diễn ra, nhưng chưa nhiều. Giai đoạn phát triển: Trong giai đoạn này đã bùng nổ lượng khách đến điểm du lịch mới. Ngay trong giai đoạn này xuất hiện những mâu thuẫn giữa khách du lịch và người dân địa phương, giữa các cơ sở kinh doanh du lịch trong và ngoài địa phương đó. Đây là những mâu thuẫn muốn phát triển du lịch bền vững và kéo dài tuổi thọ của một điểm du lịch, rất cần thiết họ phải bắt tay cùng đưa ra hướng phát triển chung và hiệu quả. Giai đoạn hoàn chỉnh: Để tiếp tục thu hút nhiều khách du lịch, chủ đầu tư và chính quyền địa phương tiếp tục hoàn thiện điểm du lịch, mở rộng và nâng cấp các hạng mục và dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Đây cũng là giai đoạn thu hút khách trong chu kỳ phát triển của một điểm du lịch. Giai đoạn trì trệ: Trong giai đoạn này, điểm du lịch đã được khai thác vượt quá sức tải của nó và bắt đầu đi xuống. Khách du lịch lúc này đã quá quen với hình ảnh điểm đến nên không còn hứng thú một điểm du lịch đã cũ và xuống cấp. 3
- Giai đoạn suy tàn: Lượng khách giảm sút mạnh, sức hút của điểm du lịch không còn như trước. Vào thời điểm này tuy điểm du lịch vẫn còn hoạt động nhưng với quy mô nhỏ và doanh thu không còn được như trước đây. Ở Việt Nam cũng như đối với tất cả các nước có hoạt động du lịch, nếu muốn kéo dài giai đoạn hoàng kim của điểm du lịch cần phải có chiến lược khai thác, quy hoạch, nâng cấp, mở rộng phù hợp với sự phát triển du lịch của quốc gia đó. Theo Luật Du lịch Việt Nam, điểm du lịch muốn được công nhận là điểm du lịch quốc gia cần phải đạt được các tiêu chí sau đây: - Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn. - Có khả năng bảo đảm phục vụ tối thiểu một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm. - Có đường giao thông thuận tiện đến điểm du lịch, có các dịch vụ: bãi đỗ xe, có khu vệ sinh công cộng, phòng cháy chữa cháy, cấp, thoát nước, thông tin liên lạc và các dịch vụ khác đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch. - Đáp ứng các điều kiện về bảo đảm an ninh, an toàn, trật tự, vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật. Điểm du lịch quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quyết định, công nhận. Một số những điểm du lịch hấp dẫn: Sa Pa, chùa Hương Tích, Tam Đảo, Vịnh Hạ Long, Hội An, Địa đạo Củ Chi, Buôn Đôn,.... 1.1.2. Tuyến du lịch Trong hoạt động kinh doanh du lịch, tuyến du lịch là nhân tố quyết định đến việc thỏa mãn nhu cầu của du khách. Dựa vào nhu cầu, sở thích, vị trí địa lý của điểm du lịch và sự phân vùng lãnh thổ du lịch mà các nhà kinh doanh lữ hành đã tạo ta những tuyến du lịch phù hợp, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Tuyến du lịch có thể mang tính chất địa phương hoặc liên vùng tùy thuộc vào điểm đến du lịch và sự phân hóa lãnh thổ du lịch. Hiện nay, tuyến du lịch có nhiều cách hiểu khác nhau, ở Việt Nam các nhà nghiên cứu hay sử dụng khái niệm: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không. Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2007. Như vậy, tuyến du lịch được coi như là một lịch trình được lên sẵn, kết nối các điểm du lịch, cùng với nó là các dịch vụ phục vụ đi kèm để thực hiện chương trình du lịch. Trong tuyến du lịch, quan trọng nhất là hành trình (lộ trình) của một chương trình du lịch. Thông qua tuyến du lịch, các nhà lữ hành có thể tính toán được thời gian của chuyến đi và đặc trưng nổi bật của sản phẩm du lịch đó. Ở Việt Nam, để được công nhận là một tuyến du lịch phụ thuộc rất lớn vào kết cấu và khoảng cách của các điểm du lịch ở trong tuyến đó. Từ đó, phân chia thành tuyến du lịch quốc gia hay tuyến du lịch nội vùng (địa phương). Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch quốc gia bao gồm: - Nối các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch, điểm du lịch quốc gia, có tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế; - Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến. Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch địa phương bao gồm: - Nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phương; 4
- - Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch dọc theo tuyến. Một số tuyến du lịch quan trọng của Việt Nam: Hà Nội – Hải Dương - Hạ Long – Hải Phòng Hà Nội – Lào Cai – Sa Pa Hà Nội – Nghệ An – Quảng Bình – Quảng Trị - Huế TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt – Nha Trang TP. Hồ Chí Minh – Đồng bằng Sông Cửu Long TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Côn Đảo 1.2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC DU LỊCH 1.2.1. Du lịch dã ngoại Du lịch dã ngoại thích hợp với các hoạt động thanh niên, khảo sát, nghiên cứu và khám phá. Du lịch dã ngoại cung ứng thỏa mãn các yêu cầu thuộc về tinh thần: thưởng ngoạn vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dã hay thơ mộng của cảnh vật thiên nhiên; tìm tòi những điều mới lạ, sống gần với tự nhiên để có được những cảm xúc rạt rào, thư thái tâm hồn, với một thể chất được tập luyện và tái bồi dưỡng bằng không khí trong lành. Ðặc biệt du lịch dã ngoại phát triển tinh thần cộng đồng giúp mọi thành viên thân thiết với nhau hơn. Du lịch dã ngoại được hiểu như sau: Là loại hình du lịch cắm trại ngoài trời, kết hợp những trò chơi để tạo mối thân mật trong đoàn du lịch, thường là những nhóm người trong cùng một lớp học, đoàn thể, cơ quan và thích hợp cho các đối tượng thanh thiếu niên. Thực tế, đây là hình thức du lịch dã ngoại có thể mang lại nhiều niềm vui cho con người, ngay cả những du khách tuổi già, và cả những du khách có hứng thú về trèo non, vượt suối băng ngàn, những buổi vui chơi rộn rã tiếng "hò dô ta" hoặc là những đêm lửa trại giữa núi rừng, đồi hoang, đảo vắng, ấm áp tình người với những trò chơi giản dị, hồn nhiên. Ở Việt Nam, với địa hình đa dạng và có nhiều cảnh vật hoang sơ nên rất thích hợp để phát triển loại hình du lịch này đối với cả đối tượng khách nội địa và khách quốc tế. Khách du lịch nước ngoài rất thích thú với các tuyến hành trình bằng xe đạp đi khám phá các vùng nông thôn hoặc vùng núi, hải đảo. Họ được trải nghiệm những khoảng khắc đẹp trong cuộc sống thường nhật của những người dân ở mỗi vùng, miền khác nhau trên đất nước Việt Nam. Một số các điểm du lịch dã ngoại được du khách yêu thích nhất là Sài Gòn, vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, Ngũ Hành Sơn, các bãi biển, Ðà Lạt, Daklak, Hội An, Huế, Hà Nội, vịnh Hạ Long, vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc.... 1.2.2. Du lịch sinh thái Du lịch sinh thái để thưởng thức những tài nguyên thiên nhiên (sông, núi, biển, rừng) thích hợp cho mọi đối tượng khách du lịch đặc biệt là khách nước ngoài. Nội dung căn bản của du lịch sinh thái là tập trung vào mức độ trách nhiệm của con người đối với môi trường. Quan điểm thụ động cho rằng Du lịch sinh thái là du lịch hạn chế tối đa các suy thoái môi trường do du lịch tạo ra, là sự ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên sinh thái, văn hoá và thẩm mỹ. Quan điểm chủ động cho rằng du lịch sinh thái còn phải đóng góp vào quản lý bền vững môi trường lãnh thổ du lịch và phải quan tâm đến quyền lợi của nhân dân địa phương. Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: "Du lịch sinh thái là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích cực đến 5
- việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn". Trong Luật du lịch năm 2005, định nghĩa du lịch sinh thái được hiểu khá ngắn gọn "Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững". Theo quy chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái tại các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành năm 2007, thì Du lịch Sinh thái được hiểu " Là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm phát triển bền vững". Tuy nhiên, trong giảng dạy và nghiên cứu thường sử dụng định nghĩa trong Luật Du lịch được ban hành năm 2005. Thực tế, khi phát triển loại hình du lịch sinh thái, các nhà nghiên cứu kỳ vọng loại hình du lịch này sẽ cải thiện được các vấn đề về môi trường, kinh tế, văn hóa – xã hội. Bảo tồn tài nguyên của môi trường tự nhiên. Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng. Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v... Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa đảm bảo sự hài lòng đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hoá thu nhập từ du lịch. Một số nơi thu hút khách với loại hình du lịch sinh thái như: Hà Nội, Đà Lạt, TP. Hồ Chính Minh, đồng bằng Sông Cửu Long, Cần Thơ… 1.2.3. Du lịch nghiên cứu Du lịch nghiên cứu là loại hình du lịch ngày càng phổ biến do nhu cầu kết hợp lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Một trong những biểu hiện của loại hình này là sinh viên thuộc các ngành học như địa lý, lịch sử, văn hóa, môi trường… được tổ chức đi nghiên cứu tìm hiểu thực tế. Ngoài ra, các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực trên họ cũng có nhu cầu nghiên cứu thực tế tại các điểm phù hợp với nội dung nghiên cứu. Địa điểm đến phải là những nơi có các đối tượng phù hợp với nội dung học tập như vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển, các di tích lịch sử - văn hóa, bảo tàng…. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về hình thức du lịch nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu được sử dụng nhiều nhất là khái niệm: Du lịch nghiên cứu là loại hình du lịch tổ chức cho cá nhân hay một nhóm nghiên cứu, tìm hiểu về các tài nguyên thiên nhiên (động thực vật học, địa chất), các tài nguyên nhân văn (văn hóa, trang phục của các dân tộc). Một số nơi thu hút khách du lịch đến nghiên cứu: VQG Cúc Phương, VQG Hoàng Liên Sơn, VQG Tràm Chim, VQG Cát Bà, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Cát Tiên, bảo tàng Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học, tìm hiểu văn hóa vùng núi Tây Bắc, Tây Nguyên, tìm hiểu văn hóa người Chăm…. 1.2.4. Du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, con người ngày càng có điều kiện và nhu cầu tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của dân tộc mình và các dân tộc khác trên thế giới. Do đó, việc tổ chức các chương trình du lịch gắn với nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hóa của một dân tộc, một quốc gia đang là mối quan tâm của các nhà quản lý du lịch. Nếu như các hình thức du lịch khác thường gắn liền với cả hai loại tài nguyên du lịch, thì du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa chỉ gắn với tài nguyên du lịch nhân văn. Đây là, loại 6
- hình du lịch tìm hiểu những tài nguyên nhân văn thích hợp cho mọi đối tượng khách tham quan đến những đình, đền, chùa, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các công trình kỷ niệm những danh nhân và sự kiện lịch sử. Một số điểm du lịch văn hóa tiêu biểu - Điểm du lịch địa đạo Củ chi ( TPHCM ) - Điểm du lịch đình Bình thủy ( tỉnh Cần thơ ) - Điểm du lịch Côn sơn – Kiếp Bạc ( tỉnh Hải dương ) - Khu lưu niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc ( tỉnh Đồng Tháp ) - Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) - Cố đô Huế (TP. Huế) - Phố cổ Hội An (Quảng Nam) 1.2.5. Du lịch vui chơi, giải trí Mục đích của chuyến du lịch là thư giãn, thoát khỏi công việc căng thẳng thường ngày để phục hồi sức khỏe. Với mục đích này du khách chủ yếu muốn tìm đến những nơi yên tĩnh, có không khí trong lành. Tuy nhiên, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi rất cần thiết có các chương trình vui chơi, giải trí. Để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại hình và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các công viên, các trung tâm thương mại, sòng bạc…. Chính vì mục đích của chuyến đi nên hình thức du lịch vui chơi, giải trí được hiểu là loại hình du lịch giúp cho khách tham quan những giây phút được thư giãn về tinh thần sau một thời gian lao động cực nhọc, tăng cường sức khỏe để tiếp tục công việc. Ở Việt Nam, loại hình du lịch này mới chỉ phát triển mạnh ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, thực tế các khu vui chơi, giải trí còn chưa hiện đại do hoàn cảnh kinh tế nước ta còn khó khăn. - Điểm du lịch tắm bùn và nước khoáng Tháp Bà (tỉnh Khánh hoà). - Khu du lịch Suối Tiên (TP. HCM). - Thiên đường Bảo Sơn (TP. Hà Hội) - Vinpearl Land (Nha Trang) - Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến (Bình Dương) 1.2.6. Các hình thức khác Bên cạnh, cách phân loại trên, hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác cũng được các nhà nghiên cứu sử dụng. Cách phân loại dựa vào phương tiện vận chuyển có các hình thức: - Du lịch bằng môtô - xe đạp: Trong loại hình này xe đạp và môtô được làm phương tiện đi lại cho du khách từ nơi ở đến điểm du lịch. Nó được phát triển ở nơi có địa hình tương đối bằng phẳng - Du lịch bằng tàu hỏa: Được hình thành từ những năm 40 của thế kỷ 19. Ngày nay do sự phát triển của ngành đường sắt, số khách du lịch bằng tàu hỏa ngày càng đông. Lợi thế của du lịch bằng tàu hỏa là: tiện nghi, an toàn, nhanh, rẻ, đi được xa và vận chuyển được nhiều người. - Du lịch bằng tàu thủy: Được phát triển ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có bờ biển đẹp, có nhiều vịnh, nhiều đảo, hải cảng, sông hồ... - Du tịch bằng xe hơi: Là loại hình du lịch được phát triển phổ biến và rộng rãi nhất. nó có nhiều tiện lợi và được nhiều người ưa chuộng: nhanh, du khách có điều kiện gần gũi với 7
- thiên nhiên, có thể dừng lại ở bất cứ điểm du lịch nào... - Du lịch bằng máy bay: Là loại hình du lịch có nhiều triển vọng nhất, nó có nhiều ưu thế: nhanh, tiện nghi. Vì vậy trong một thời gian ngắn du khách có thể đi được quãng đường xa hơn, giúp họ đi được nhiều nơi hơn. Tuy nhiên, giá cả tương đối cao không phù hợp với thu nhập của nhiều người. Hoặc cách phân loại theo loại hình lưu trú: - Du lịch ở trong khách sạn: Là loại hình du lịch phổ biến nhất. Loại hình này phù hợp với những người lớn tuổi, những người có thu nhập cao. Vì ở đây các dịch vụ hoàn chỉnh hơn, có hệ thống hơn, chất lượng phục vụ tốt hơn, nhưng giá cả cao hơn. - Du lịch ở trong Motel: Motel là các khách sạn được xây dựng ven đường xa lộ nhằm phục vụ cho khách du lịch bằng xe hơi. Ở đây có cả các giữa để xe cho lữ khách. Các dịch vụ trong Motel phần lớn là tự phục vụ. Du khách tự nhận phòng, tự gọi ăn trong nhà hàng. Các dụng cụ ở đây là loại sử dụng một lần. Giá cả trong Molel thường rẻ hơn ở trong khách sạn. - Du lịch ở trong nhà trọ: Nhà trọ là những khách sạn loại nhỏ của tư nhân, giá cả thường rất thích hợp với du khách có thu nhập thấp, đặc biệt là các gia đình có con nhỏ đi cùng. - Du lịch cắm trại: Là loại hình du lịch được phát triển với nhịp độ cao, được giới trẻ ưa chuộng. Nó rất thích hợp với khách đi du lịch bằng xe đạp, mô tô, xe hơi. Đầu tư cho du lịch loại này không cao, chủ yếu sắm lều trại, bạt, giường ghế gấp và một số dụng cụ đơn giản rẻ tiền. Khách tự thuê lều bạt, tự dựng và tự phục vụ. Những cách phân loại này tùy theo yêu cầu cụ thể của khách mà có cách thiết kế, tổ chức các chương trình du lịch phù hợp. 8
- CHƯƠNG 2: TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VÙNG DU LỊCH BẮC BỘ 2.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LỊCH BẮC BỘ 2.1.1. Vị trí địa lý Vùng du lịch Bắc Bộ có diện tích 150.066,8 km2, bao gồm 28 tỉnh, thành phố, kéo dài từ Hà Giang đến Hà Tĩnh, với Thủ đô Hà Nội là trung tâm tạo vùng và có tam giác tăng trưởng du lịch: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vùng là nơi hội tụ đầu đủ các tiềm năng phát triển du lịch của Việt Nam. Trong số 3 vùng du lịch của cả nước, vùng du lịch Bắc Bộ có diện tích lớn nhất, với dân số là 41.013,4 nghìn người (2013), chiếm 45,3% diện tích và 45,2% dân số cả nước, mật độ trung bình là 260 người/km2, tương đương với mật độ dân số toàn quốc. Vùng du lịch Bắc Bộ có 7 tỉnh ở phía Bắc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên) tiếp giáp với Trung Quốc; 5 tỉnh phía Tây (Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) tiếp giáp với Lào, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ với bờ biển dài l.000km và hàng nghìn đảo nhỏ. Trong đó, có các đảo nhỏ dọc theo các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng rất có giá trị về mặt du lịch. Vị trí địa lý của vùng du lịch Bắc Bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho vùng có biểu hiện đầy đủ nhất về đất nước và con người Việt Nam. Thiên nhiên của vùng rất đa dạng và mang nhiều nét đặc trưng độc đáo của cảnh quan nhiệt đới gió mùa ẩm. Vùng là cái nôi hình thành nên dân tộc Việt với nền văn hóa Việt. Bên cạnh đó, vùng núi phía Bắc còn là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư các dân tộc Việt Nam, nên kho tàng văn hóa của mỗi dân tộc đã tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng đầy màu sắc. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động du lịch, đặc biệt ngoài giá trị cho khách nội địa, vùng còn có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách quốc tế. 2.1.2. Thống kê các điểm du lịch quan trọng của vùng Vùng du lịch Bắc Bộ bao gồm 28 tỉnh thành, mỗi tỉnh có những điểm du lịch đặc trưng, tạo nên các sản phẩm du lịch có giá trị lớn đối với hoạt động kinh doanh du lịch. Hệ thống các điểm du lịch, điểm tham quan quan trọng của vùng bao gồm nhiều điểm có giá trị, được thống kê chi tiết trong bảng phục lục 1: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du lịch Bắc Bộ. 2.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch Vùng du lịch Bắc Bộ có lịch sử hình thành và phát triển du lịch sớm nhất nước ta do đó, vùng đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đa dạng phục vụ cho sự phát triển của ngành. Tại các trung tâm hoặc các điểm du lịch đã xây dựng được hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ của du khách. Hệ thống này ngày càng đa dạng về loại hình đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách đến từ nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống các điểm, khu vui chơi giải trí của vùng vẫn còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách. Về hệ thống cơ sở lưu trú, số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 3 sao trở lên đã được đầu tư xây dựng tại trung tâm du lịch Hà Nội, các điểm du lịch Hạ Long, Hải Phòng, Hải Dương, Lạng Sơn, Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh.... Loại hình lưu trú cũng ngày càng đa dạng. Ngoài hệ thống khách sạn cao cấp, vùng có phát triển hệ thống nhà nghỉ, khu resrot, homestay, camping... phục vụ tối đa nhu cầu nghỉ dưỡng của các đối tượng khách. Các hình thức lưu trú này không chỉ tập trung tại trung tâm du lịch Hà Nội mà còn được trải đều ở các tiểu vùng du lịch. Đây là điều kiện để phát triển du lịch đồng đều giữa các tỉnh thành trong vùng, nâng cao chất lượng phục vụ du lịch. Các cơ sở lưu trú quan trọng của vùng được thống kê chi tiết trong phục lục 2: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc Bộ. 9
- Đối với vùng du lịch Bắc Bộ, hệ thống nhà hàng, quán bar phục vụ cho hoạt động du lịch của vùng trong giai đoạn hiện nay cũng ngày càng phát triển đa dạng. Trong vùng, có nhiều kiểu nhà hàng phục vụ đa dạng cho các đối tượng khách khác nhau: nhà hàng các món ăn dân tộc, nhà hàng chuyên món ăn Âu, nhà hàng chuyên món ăn chay, nhà hàng chuyên món ăn của một số quốc gia trên thế giới (Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,...). Sự phong phú này giúp cho khách quốc tế có nhiều sự lựa chọn và khách nội địa sẽ được thưởng thức văn hóa ăn của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế các nhà hàng lớn chỉ tập trung ở các trung tâm du lịch phát triển như Hà Nội, Hạ Long. Với các điểm du lịch nhỏ cơ sở ăn uống còn nhỏ lẻ, manh mún chưa có hệ thống nhà hàng chuyên dụng hoặc mới chỉ phát triển hình thức ăn theo bàn truyền thống (chưa có kiểu Buffet mang lại nhiều sự lựa chọn cho du khách). Bên cạnh hệ thống khách sạn, nhà hàng sang trọng, vùng du lịch Bắc Bộ còn có nhiều cơ sở phục vụ lưu trú và ăn uống với hệ thống nhà nghỉ, quán bar tập trung tại các điểm du lịch quan trọng của vùng như Nghệ An, Sa Pa, Ninh Bình.... Với sự đa dạng này, đã đáp ứng được nhu cầu phong phú của du khách với nhiều các loại hình du lịch khác nhau. Tuy nhiên, có nhiều cơ sở còn hoạt động manh mún vẫn mang tính thời vụ, do đó cần mở rộng kinh doanh đem lại sự phục vụ chuyên nghiệp, hoàn hảo cho du khách. Những nhà hàng quan trọng của vùng được thống kê chi tiết trong phục lục 3: Hệ thống nhà hàng quan trọng của vùng du lịch Bắc Bộ. 2.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng du lịch Bắc Bộ là du lịch văn hóa, du lịch hội nghị hội thảo kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu và nghỉ dưỡng. - Du lịch tham quan nghiên cứu nền văn hóa Việt Nam + Các di tích văn hóa – lịch sử của vùng là chứng nhân cho thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. + Các lễ hội, tâm linh thuộc các nền văn minh, văn hóa của dân tộc. + Các di sản, văn hóa nghệ thuật truyền thống của cộng đồng người Việt và các dân tộc khác. + Các làng nghề thủ công truyền thống - Tham quan nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí tại các vùng có cảnh quan đẹp + Vùng biển và hải đảo + Các hồ chứa nước lớn và nghỉ mát trên núi + Vùng núi đá, hang động karst + Vùng núi cao, rừng nguyên sinh - Du lịch sinh thái + Tham quan nghỉ dưỡng tại các khu sinh thái gần trung tâm du lịch Hà Nội + Các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển cho phép khai thác phục vụ phát triển du lịch - Du lịch hội nghị, hội thảo, hội chợ, công vụ 10
- Bản đồ 2.1: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ 2.2. MỘT SỐ TUYẾN DU LỊCH QUAN TRỌNG ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG VÙNG 2.2.1. Tuyến du lịch trung tâm Hà Nội 2.2.1.1. Khái quát về Hà Nội Hà Nội là thành phố cổ, là thủ đô của nước Việt Nam được xây dựng cách đây hàng nghìn năm, là nơi hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống và nhân tài. 11
- Hà Nội thành phố đứng đầu Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2, đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 7.129.600 người (2014). Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 10 quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, thuận tiện cho giao thông và trao đổi kinh tế, văn hóa với các tỉnh thành trong vùng và cả nước. Hà Nội cũng là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Hà Nội có tiềm năng to lớn về tài nguyên du lịch (theo thống kê của Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, đến năm 2011, Hà Nội có 2.114 di tích văn hóa lịch sử, 579 ngôi đình, 676 ngoi chùa, 273 ngôi đền với mật độ di tích được xếp hạng cao nhất cả nước, trung bình 42,8 di tích/km2). Đây là tiền đề quan trọng để du lịch Hà Nội phát triển. Theo thống kê năm 2013, Hà Nội có 611 cơ sở lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao. Về tài nguyên du lịch tự nhiên, Hà Nội có cảnh quan địa hình phân hóa đa dạng từ miền núi cao khu vực Ba Vì đến vùng đồng bằng trũng. Sự phân hóa địa hình tạo nên nhiều cảnh quan du lịch hấp dẫn cho thành phố, tiêu biểu như Ba Vì, Hương Sơn, Sóc Sơn… Thành phố cũng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thích hợp cho hoạt động du lịch. Hệ thống sông hồ cũng là một đặc điểm thu hút khách của thành phố, hấp dẫn du khách như: sông Hồng, sông Đáy; hồ Tây, hồ Gươm, hồ Trúc Bạch, hồ suối Hai….Ngoài ra, thành phố còn có hệ thống cây xanh, vườn quốc gia có giá trị cao đối với hoạt động tham quan, nghiên cứu, nghỉ dưỡng, tiêu biểu là vườn quốc gia Ba Vì. Hà Nội tập trung nhiều công trình kiến trúc tâm linh có giá trị như: chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, đền Ngọc Sơn, chùa Thầy, chùa Đậu, chùa Mía…Bên cạnh đó, lễ hội cũng là một tài nguyên đặc sắc, có giá trị rất hấp dẫn khách du lịch. Các lễ hội tiêu biểu: lễ hội Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, Chùa Hương, An Dương Vương… Hà Nội có hệ thống bảo tàng đa dạng ở Việt Nam (hơn 10 bảo tàng): Dân tộc học, Lịch sử, Cách mạng, Quân sự, Mỹ thuật…cùng với nhiều thư viện, trung tâm triển lãm, trung tâm thông tin…. là những địa điểm tham quan, vui chơi giải trí hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Trung tâm du lịch Hà Nội còn là nơi tập trung các làng nghề nổi tiếng như: làng gốm Bát Tràng, làng Ngũ Xá đúc đồng, làng lụa Vạn Phúc, làng Nón Chuông, sơn mài Hạ Thái… vẫn còn lưu giữ được những nét văn hóa truyền thống làng nghề. Nơi đây cũng là những điểm tham quan quen thuộc của du khách quốc tế. Cùng với tài nguyên du lịch phong phú, thành phố Hà Nội có hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật, cơ sở hạ tầng rất phát triển. Hệ thống khách sạn, nhà hàng, các cơ sở vui chơi, giải trí phát triển trên khắp thành phố. Hiện tại, thành phố có khoảng 200 khách sạn được xếp hạng, trong đó có 6 khách sạn chuẩn 5 sao, đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khách khác nhau. Ngoài ra, thành phố là đầu mối giao thông và có sân bay quốc tế cũng là yếu tố thuận lợi để du khách dễ dàng di chuyển và thu hút đông đảo hơn nữa du khách trong tương lai. 12
- 2.2.1.2. Các điểm tham quan du lịch trong nội thành Hà Nội a) Khu Phố cổ Hà Nội Phố cổ Hà Nội được xác định bởi khu 36 phố phường. Khu phố cổ được xây dựng từ thế kỷ XI khi vua Lý Thái Tổ cho xây dựng kinh thành Thăng Long. Về địa giới, không gian khu Phố cổ Hà Nội có thể coi như một hình tam giác cân, có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ. Ngày nay, khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ. Thời Lý, Phố cổ Hà Nội gồm 36 phố phường, thời nhà Trần Phố cổ Hà Nội được mở rộng với 61 phố phường. Từ thời Lê đến nay khi nới tới Phố cổ Hà Nội là được xác định bởi 36 phố phường. Phố cổ Hà Nội được quy hoạch theo hình bàn cờ, có chức năng là nơi kinh doanh và sản xuất các mặt hàng theo tên gọi. Việc bố trí các phố phù hợp với điều kiện kinh doanh, các phố buôn bán những mặt hàng cồng kênh cần đường giao thông đều nằm gần mặt đê sông Hồng. Đặc trưng nổi bật nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chuyên làm nghề của mình. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước, mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng. Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, Thuốc Bắc... Đặc trưng tiếp theo của khu phố cổ là kiến trúc nhà cổ trong khu phố buôn bán. Những nhà cổ chủ yếu là nhà ống, mái ngói nghiêng, mặt tiền là cửa hàng buôn bán thò thụt không đều, được dựng vào thế kỉ XVIII - XIX, trước đó hầu hết là nhà mái tranh, chỉ có một số nhà giàu có, nhà của Hoa kiều mới lợp mái ngói. Thời kì toàn quốc kháng chiến, để tránh đụng độ trực tiếp với quân Pháp và lính Lê dương, người dân và Vệ quốc quân đã đục thông tường từ nhà này sang nhà khác. Khi cần người ta có thể đi từ đầu đến cuối phố qua những lỗ hổng giữa các ngôi nhà mà không cần phải xuống đường. Từ cuối thế kỉ XX, các nhà cổ dần dần biến mất. Thay vào đó là các ngôi nhà ống xây mới phá vỡ cảnh quan vốn có của phố cổ. Bên cạnh kiến trúc nhà, khu phố cổ còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử văn hóa như đình, đền, chùa, hội quán. Điển hình: Đình Nhân Hội (33 phố Bát Đàn); đình Đông Môn (8 Hàng Cân); đình Thuận Mỹ (64 Hàng Quạt); chùa Cầu Đông (38B Hàng Đường) ; chùa Kim Cổ (73 Đường Thành);…. Các di tích lịch sử văn hóa còn hiện hữu tại nơi đây đã thể hiện gốc gác truyền thống văn hóa của một bộ phận dân cư Thăng Long – Hà Nội xưa. Khu Phố cổ Hà Nội ngày nay do bị thời gian tàn phá nên đã bị xuống cấp nghiêm trọng, không còn giữ được những giá trị kiến trúc mỹ thuật, văn hóa như xưa. Do đó, việc trùng tu, bảo vệ Phố cổ Hà Nội đang rất cấp bách. Trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định dùng khoảng 50 tỷ đồng để tân trang 75 tuyến phố của các quận nội, ngoại thành. Ngày nay, phố cổ Hà Nội vẫn là nơi lưu giữa văn hóa Thăng Long – Hà Nội xưa, rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Vì vậy, ông F.Mayơ - Tổng giám đốc UNESCO đã nhận xét rằng: “Khu Phố cổ Hà Nội là một di tích quý giá, đáng được bảo tồn”. b) Văn miếu Quốc Tử Giám Văn miếu Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long xưa. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt. 13
- Cổng chính nằm ở phía nam công trình thuộc phố Quốc tử giám. Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám có diện tích 54.331m2 bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức đời Lý Thánh Tông. Ngoài chức năng thờ tự, Văn miếu còn mang chức năng của một trường học Quốc gia mà học trò đầu tiên là Thái tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến năm 1072 lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông. Ngày nay toàn bộ khu Thái Học được xây dựng với diện tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² gồm các công trình kiến trúc chính là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử Giám. Cổng Văn miếu là tam quan lớn, xây hai tầng ba cửa, tầng hai có tám mái, bốn mái nóc uốn cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, tạo kiểu dáng vừa uy nghi, vừa thanh thoát. Qua cổng tam quan là khu Nhập đạo, có không gian cây xanh thảm cỏ, hồ nước, đường lát gạch. Khuê Văn Các (nghĩa là "vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao. Nằm trong khu Văn miếu còn có giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ là hai công trình rất có giá trị. Thiên Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn). Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tô đẹp nền nhân văn. Giếng hình vuông, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng. Người xưa còn có quan niệm giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2 vườn bia đá ở 2 bên. Di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bệ, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là hai tòa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quý tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng điển lệ triều Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật 14
- đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại. Hai cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải và Ngọc Thành bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn nằm ngang với cửa Đại Thành, song 2 cửa này không mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện, có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới. Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi. Ngày 9/5/1962, Bộ Văn hóa đã công nhận Văn miếu Quốc tử giám là di tích lịch sử cấp Nhà nước. c) Chùa Một Cột Chùa Một Cột hay còn gọi là chùa Diên Hựu được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười (âm lịch) năm 1049. Tương truyền khi ấy nhà vua cao tuổi mà không có con trai nên thường đến các chùa để cầu tự. Một đêm, vua chiên bao thấy đức Quan Thế Âm hiện trên đài hoa sen ở một hồ nước hình vuông phía Tây thành Thăng Long, tay bế đứa con trai đưa cho nhà vua, ít lâu sau hoàng hậu thụ thai sinh con trai, nhà vua cho dựng chùa có dáng như trong mộng để thờ Phật và Quan Thế Âm. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng cột đá, trên đặt đài sen thờ Phật, các nhà sư đi vòng để cầu kinh cho nhà vua sống lâu nên chùa có tên là Diên Hựu. Ngôi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có Lưỡng long chầu nguyệt. Trong quan niệm người Việt, rồng luôn là con vật linh thiêng, biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh. Và hình ảnh "Lưỡng long chầu nguyệt" trên các mái đình đền, chùa chiền, không chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà còn ẩn trong đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người và nền văn minh cổ xưa. Ngày nay không có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi hình tượng một bông sen vươn thẳng lên khu ao hình vuông được bao bọc bởi hàng lan can làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến trúc nhà Hậu Lê. 15
- Chùa Một Cột được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia đặc biệt vào năm 1962. d) Quảng trường Ba Đình và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh Quảng trường Ba Đình là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm trên đường Hùng Vương và trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quảng trường là nơi ghi nhận nhiều dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt, vào ngày 2 tháng 9 năm1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường Ba Đình ngày nay có khuôn viên với chiều dài 320m và rộng 100m, có 240 ô cỏ, xen giữa là lối đi rộng 1,4m. Giữa quảng trường là cột cờ cao 25m. Đây là nơi diễn ra các cuộc diễu hành nhân dịp các ngày lễ lớn của Việt Nam, và cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi, dạo mát của du khách và người dân Hà Nội. Phía đông Quảng trường là nhà Quốc hội do hai kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện và Trần Hữu Tiềm thiết kế. Hội trường có sức chưa 1.200 người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay còn gọi là Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là nhà yêu nước lớn, nhà văn hóa thế giới, đã được UNESCO tặng danh hiệu là Danh nhân văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Người đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn. Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh" bằng đá hồng màu mận chín. Trong di chúc, Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, với lý do "theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân", quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này người dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng Người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động nghệ thuật của các nhà khoa học Việt Nam và Liên Xô. Khách đến viếng và thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có dịp tham quan quần thể khu di tích: nơi ở và nơi làm việc của Người, Phủ Chủ tịch, nhà sàn, ao cá và vườn cây với nhiều loại cây quý. Đây cũng là điểm tham quan hấp dẫn nằm liền kề khu vực Quảng trường và Lăng Chủ tịch. e) Hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn Hồ Hoàn Kiếm còn được gọi là Hồ Gươm, là một hồ nước ngọt tự nhiên của thành phố Hà Nội. Trước kia, hồ còn có các tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh năm). Tên gọi Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỷ XV gắn với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm báu cho Rùa thần. Tên hồ được lấy để đặt cho một quận trung tâm của Hà Nội (quận Hoàn Kiếm) và là hồ nước duy nhất của quận này cho đến ngày nay. Quá trình hình thành và phát triển của đền Ngọc Sơn qua các thời kỳ lịch sử không đồng nhất và có sự khác nhau. Thời xưa trên hồ Tả Vọng (Hoàn Kiếm) đã có gò đất cao, tương truyền các tiên nữ thường về đây ca hát. Thời Lý Thái Tổ gò đất được gọi là Ngọc Tượng Sơn. Thời Trần gọi là Ngọc Sơn, trên Ngọc Sơn có một ngôi chùa, về sau bị hủy hoại. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. 16
- Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, nhà nho Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành. Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút. Đi từ ngoài vào đền, du khách thấy khá nhiều câu đối có giá trị nói lên ý tưởng của kẻ sĩ trên đất Thăng Long. Ngày nay, hồ Hoàn Kiếm đền Ngọc Sơn là điểm tham quan không thể thiếu trong các chương trình du lịch về Hà Nội. Đặc biệt, nơi đây còn được du khách quốc tế yêu thích tham quan tìm hiểu mỗi khi đặt chân đến Việt Nam. g) Một số bảo tàng quốc gia ở Hà Nội Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một viện bảo tàng về lĩnh vực dân tộc học của Việt Nam, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên. Bảo tàng được chính thức thành lập vào năm 1995 và khánh thành vào ngày 12 tháng 11 năm 1997. Công trình do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế. Nội thất được thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp). Hiện nay, bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom(tính đến năm 2000). Các hiện vật này được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: dân tộc, công dụng, y phục, trang sức, nông cụ, ngư cụ, vũ khí, đồ gia dụng, nhạc cụ, tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay và nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác. Khu trưng bày thường xuyên trong toà Trống Đồng giới thiệu tất cả 54 dân tộc ở Việt Nam. Ở đây có nhiều hiện vật thông dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. Đặc biệt phong phú là đồ vải của các dân tộc, như khố, váy, khăn... được trang trí bằng các kỹ thuật truyền thống khác nhau; đồ đan, nhất là các loại gùi, giỏ, mâm; những nhạc cụ bằng tre, vỏ bầu khô; các hiện vật nghi lễ... Cùng với hiện vật, trong các phòng trưng bày còn có ảnh và phim tư liệu, phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể, phi vật thể, những nét tiêu biểu trong đời sống và sự sáng tạo của các tộc người. Bảo tàng gồm ba khu trưng bày chính: 17
- Khu trưng bày trong tòa Trống Đồng: không gian trưng bày thường xuyên giới thiệu 54 dân tộc ở Việt Nam trải rộng trên 2 tầng của toàn nhà; 2 không gian giành cho các trưng bày nhất thời, luôn luôn được đổi mới tuỳ theo chủ đề trưng bày Khu trưng bày ngoài trời: là một vườn cây xanh trong đó có 10 công trình dân gian với các loại hình kiến trúc khác nhau. Khu trưng bày Đông Nam Á: Khởi công xây dựng vào năm 2008. Ngoài ra là khu vực cơ quan: cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản hiện vật... Điều đặc biệt khi du khách đến tham quan bảo tàng sẽ được chiêm ngưỡng các khu trưng bày lưu động được tổ chức theo sự kiện, được xem và khám phá không gian múa rối nước được biểu diễn hàng ngày phục vụ nhu cầu tham quan của du khách. Bảo tàng Hồ Chí Minh Bảo tàng Hồ Chí Minh là một bảo tàng lớn nhất của Việt Nam. Bảo tàng tập trung chủ yếu vào việc trưng bày những hiện vât, tư liệu về cuộc đời và con người Hồ Chí Minh. Bảo tàng là công trình văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công trình Bảo tàng được khởi công xây dựng ngày 31-8-1985 và khánh thành vào đúng ngày 19-5-1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác giả thiết kế công trình là kiến trúc sư người Nga nổi tiếng - ông Garon Isacovich. Toà nhà bảo tàng mang biểu tượng bông sen trắng tượng trưng cho cuộc đời giản dị thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu, quyết tâm đi theo con đường mà Người đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam. Gian mở đầu (còn gọi là gian long trọng) trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng là tượng trưng cho nhụy của bông sen trắng. Trung tâm của gian là tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đồng cao 3.5 m, nặng 2.8 tấn. Phía sau tượng là biểu tượng mặt trời và hình ảnh cây đa tượng trưng cho ánh sáng và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Theo quan niệm “trời tròn, đất vuông” của triết học phương Đông: trần gian mở đầu được trang trí một vòng tròn bằng đồng đan xen những chùm đèn tết hoa, tượng trưng cho trời. Giữa sàn của gian này được trang trí hình vuông với những bông hoa bằng đá ghép lại, tượng trưng cho trái đất với hình ảnh đất nước Việt Nam. Hai bên cửa gian long trọng là hai bức phù điêu thể hiện truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam dựa trên các truyền thuyết: Bọc trăm trứng, Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm. Những biểu tượng nghệ thuật trên đã khái quát chủ đề trưng bày của Bảo tàng: giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với sự phát triển của dân tộc Việt Nam và nhân loại. Trưng bày cố định của Bảo tàng nằm ở tầng 3 với 4000m2. Hai gian triển lãm ở tầng 2 rộng 600m2. Không gian khám phá học đường rộng hơn 150m2. Kho cơ sở của Bảo tàng có 13 vạn tài liệu, hiện vật; có thư viện chuyên đề sách, báo, tạp chí…về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Kho Tư liệu có hơn 12.000 tài liệu, trong đó có nhiều tư liệu quí. Thư viện hiện có hơn 6.700 đầu sách với khoảng 25.000 nghìn bản và đầu tạp chí, báo... Tư liệu - Thư viện đã áp dụng công nghệ thông tin để quản lý, phục vụ bạn đọc tra cứu. Bảo tàng có các loại hội trường: 350, 250, 60, 50 chỗ ngồi có thể tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, chương trình ca múa nhạc, tổ chức sự kiện... Thường xuyên tổ chức, phối hợp tổ chức và cung cấp các triển lãm chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có Trung tâm đảm nhiệm việc nghiên cứu thiết kế trưng bày và xây dựng các dự án bảo tồn tôn tạo và phát huy di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh và các di tích lịch sử văn hoá khác. Trưng bày chính của Bảo tàng Hồ Chí Minh thể hiện 3 nội dung: 18
- - Giới thiệu tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tuổi ấu thơ cho đến khi Người qua đời và nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc của Người. - Giới thiệu về cuộc sống, chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam. - Giới thiệu một số sự kiện lịch sử thế giới (từ cuối thế kỷ 19 và trong thế kỷ 20) có tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam. Ba nội dung trên là một tổng thể không thể tách rời khắc họa huyền thoại Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn, như tổ chức UNESCO đã tôn vinh Người tháng 11 năm 1987, một lãnh tụ, một con người luôn gắn với dân tộc, đất nước và thời đại. Bên cạnh các điểm tham quan trên, đến với du lịch Hà Nội, du khách sẽ được tham quan, tìm hiểu một số các điểm du lịch hấp dẫn khác như: chùa Quán Sứ, chùa Láng, Trấn Vũ Quán, Nhà thờ lớn, đền Hai Bà Trưng, chợ Đồng Xuân, công viên Thống Nhất, vườn thú Thủ Lệ….Đây cũng là những điểm tham quan quen thuộc rất hấp dẫn du khách quốc tế. Ngoài những điểm tham quan có giá trị lịch sử, gắn liền với quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam, đến Hà Nội du khách còn được khám phá các trung tâm thương mại (Vincom, Royal City, Kangnam, Big C, Parkson,…), các điểm vui chơi giải trí như Thiên đường Bảo Sơn, Công viên nước Hồ Tây…Các điểm tham quan này cũng là địa điểm lý thú, rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. 2.2.1.3. Các điểm tham quan ngoại thành Hà Nội a) Làng nghề Bát Tràng Bát Tràng là một làng nghề ven đô, nằm bên tả ngạn sông Hồng, thuộc thôn Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng Bát Tràng có diện tích 153ha, trong đó đất canh tác là 46ha, đất ở chiếm 53ha, còn lại là đất bãi, ao hồ. Theo thư tịch cổ và truyền thuyết dân gian thì nghề gốm Bát Tràng xuất hiện vào thế kỷ XII dưới thời Lý. Vào thời kỳ đó, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đông) gặp bão, phải nghỉ lại. Ở đây có lò gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ. Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu đỏ màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm 1127. Tên Bát Tràng có từ khoảng 5 thế kỷ nay. Trong thế kỷ XV và XVI, dưới thời Lê và thời Mạc làng gốm Bát Tràng phát triển thịnh vượng. Đặc biệt dưới thời nhà Mạc do chính sách khuyến thương, sản phẩm gốm ở đây phong phú, đa dạng, đạt nghệ thuật cao, được lưu hành rộng rãi, đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của tầng lớp quý tộc và nhân dân trong nước. Vào thế kỷ XVII, hoạt động thương mại phát triển cùng với sự xuất hiện của các thương cảng lớn: phố Hiến ở Đàng Ngoài, phố cổ Hội An ở Đàng Trong. Nhiều thuyền buôn ở châu Âu và khu vực đã tìm đến buôn bán ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho làng gốm Bát Tràng phát triển sôi động, thịnh đạt, có nhiều sản phẩm tham gia vào quá trình thương mại quốc tế. Trong nhiều bảo tàng và nhiều gia đình trên thế giới vẫn còn lưu giữ nhiều di vật gốm cổ Việt Nam trong đó có gốm Bát Tràng. Từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, do Nhật Bản và Trung Quốc bác bỏ chính sách cấm vượt biển buốn bán với người nước ngoài. Các nước phương Tây với công nghiệp phát 19
- triển đã chuyển hướng thị trường và các mặt hàng buôn bán. Trong nước, chính quyền Trịnh – Nguyễn cũng có nhiều chính sách hạn chế ngoại thương, cùng với tình hình kinh tế, chính trị không ổn định đã làm cho việc xuất khẩu gốm Bát Tràng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, ở Bát Tràng có ba xí nghiệp sản xuất gốm xứ gồm: Xí nghiệp gốm sứ Bát Tràng được thành lập năm 1958, xí nghiệp X5 và xí nghiệp X54 được thành lập năm 1988; ba xí hợp tác xã gốm HTX Ánh Hồng, 30-4, Hợp Lực, mỗi HTX có 200 công nhân đang làm việc. Các sản phẩm của các xí nghiệp và HTX có giá trị và chất lượng cao được rất nhiều du khách trong và ngoài nước yêu thích. b) Điểm du lịch Ba Vì – Suối Hai Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 60 km về phía tây Bắc, Ba Vì là vùng đất địa linh, nhân kiệt, một vùng đất tối cổ, có truyền thống văn hoá lâu đời, độc đáo, đặc trưng bởi 3 dân tộc Kinh - Mường - Dao với những phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng biệt. Nhắc tới Ba Vì có lẽ ấn tượng đầu tiên của du khách sẽ là về một nền văn hoá dân gian vật thể và phi vật thể độc đáo. Điểm du lịch Bà Vì – Suối Hai có cảnh rừng núi hung vĩ, hòa quyện các tài nguyên nhân văn, hồ nước, rừng nhân tạo, đình, chùa tạo nên những cảnh đẹp vừa hữu tình, vừa thơ mộng. Đây là điểm du lịch có địa hình cao nhất ở Hà Nội nên có khí hậu mát mẻ, không khí trong lành, nhiệt độ giảm 2-30C hoặc 6-70C so với chân núi nên đây là điều kiện khí hậu tuyệt vời để phát triển du lịch. Chính vì điều đó nên trong thời kỳ Pháp thuộc đã cho xây dựng ở khu vực này tới 200 biệt thự và khách sạn để phục vụ cho việc nghỉ ngơi của binh lính, sĩ quan người Pháp. Điểm du lịch Bà Vì – Suối Hai có rất nhiều điểm tham quan hấp dẫn như: Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ Tiên Sa, Thiên Sơn - Suối Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Thác Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm Long, Đồi cò Ngọc Nhị, VQG Ba Vì… Nơi đây còn có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp phong phú. Có nguồn nước khoáng nóng thiên nhiên tại Thuần Mỹ rất thuận lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Với những lợi thế trên Ba Vì thực sự là nơi có tiềm năng để phát triển nhiều loại hình du lịch nhất là du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng… Hồ Suối Hai Cách Hà Nội khoảng 60 km về phía tây, hồ Suối Hai nằm dưới chân núi Ba Vì được tạo bởi hệ thống đập chính và phụ dài 4 km để giữ nước từ hai suối chính Yên Cư và Cầu Rồng chảy từ trên núi xuống. Đây cũng là nguồn nước tưới cho trên 7.000 ha, dài 7 km, rộng 4 km, lượng nước chứa trong hồ khoảng 45 triệu m3. Đây là hồ nhân tạo được khởi công xây dựng năm 1958. Trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ, với diện tích khoảng 90 ha. Bạn có thể thăm thú nơi này bằng thuyền nhỏ du ngoạn trên hồ. Trên các đảo và ven hồ, trồng nhiều cây xanh và vườn cây ăn trái. Nhiều loại chim đến đây sinh sống như chim le le, vịt trời, ngỗng trời, mòng két, sâm cầm, giang, sếu... Chúng sinh sống trên mặt nước làm khung cảnh thiên nhiên thêm phong phú. Ngoài ra, trên hồ còn có nhiều bãi tắm nhỏ, đẹp rất được du khách ưa thích. Hồ cũng là nơi cung cấp cá mối có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao cho du khách. Trang trại đồng quê Ba Vì Trang trại Đồng Quê Ba Vì cách trung tâm thành phố Hà Nội 65 km, toạ lạc trên một khu đồi nhỏ xinh xắn, tựa lưng vào dãy núi Ba Vì. Trang trại nằm trong vùng ngoại thành phía tây thuộc thủ đô Hà Nội có địa hình thiên nhiên nông nghiệp rất đẹp và đa dạng (rừng, hồ, ao, suối, sông ngòi) tiêu biểu cho một nền văn minh lúa nước vào hàng cổ đại của thế giới thuộc châu thổ sông Hồng. 20
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn