intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946

Chia sẻ: Lê Thị Quỳnh Nga | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:21

656
lượt xem
49
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946" giới thiệu đến các bạn những nội dung: Tình hình Việt Nam sau Cách mạng, chính sách ngoại giao cơ bản của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 19/12/1946. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Sách lược ngoại giao của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946

  1. MỤC LỤC GVHD: Lại Thị Hương                          1          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  2. TÓM TẮT Sau khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân   chủ Cộng hòa ra đời. Từ đó cho đến 19/12/1946 là một giai đoạn lịch sử đặc   biệt của dân tộc ta. Đất nước vừa giành độc lập, chính quyền cách mạng vừa   mới thành lập còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm ngay lập tức đã phải đối phó   với nhiều thử thách nghiêm trọng, đặc biệt là giặc ngoại xâm. Để  bảo vệ  chính quyền trong điều kiện có nhiều kẻ  thù cùng một lúc   như kì 1946­1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có một đường lối đối   ngoại đúng đắn, đánh giá từng loại kẻ  thù trong từng thời điểm để  có thể   đưa ra những đối sách thích hợp, loại dần từng kẻ  thù một, cuối cùng tập   trung mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu tránh không để bị rơi vào tình trạng phải   đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc. GVHD: Lại Thị Hương                          2          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  3. MỞ ĐẦU Hiện nay, xu thế chung mà các quốc gia trên thế giới hướng tới là sự hòa  bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia ngày càng có nhiều mối quan hệ về  kinh tế, chính trị, xã hội .Để  những mối quan hệ  này trở  nên tốt đẹp, bền  vững, mỗi quốc gia cần có quan hệ ngoại giao tốt với các quốc gia khác trong  khu vực và trên thế giới. Việt Nam, sau 20 năm đổi mới, đang có lợi thế rất lớn là tình hình chính  trị, xã hội cơ bản  ổn định nhưng chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều   thách thức rất lớn. Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối   đối ngoại độc lập, tự  chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ  quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là  bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế  giới phấn  đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Những phương châm, đường lối đối  ngoại của ta bắt đầu cùng với sự  hình thành của Nhà nước Việt Nam Dân  chủ  Cộng hòa. Đến nay, những chính sách đó vẫn là những công cụ  sắc bén  giúp Việt Nam bảo vệ  độc lập chủ  quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển về  các mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội . Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của Việt Nam giúp ta hiểu rõ về hoạt   động ngoại giao của nước nhà. Từ đó, ta rút ra được những kinh nghiệm quý  báu để  vận dụng, sáng tạo góp phần phát triển đất nước. Đồng thời, những  kiến thức mà ta thu được qua tìm hiểu các chính sách ngoại giao, hoạt động   ngoại giao cũng giúp ích cho ta trong việc ứng xử, trong công việc hàng ngày. Trong hơn 70 năm lịch sử  ngoại giao cách mạng thì giai đoạn 2/9/1945  đến ngày 19/12/1946 là giai  đoạn ngành ngoại giao mới thành lập. Ngành   ngoại giao cách mạng còn non trẻ này phải gánh vác một sứ mạnh lịch sử hết  sức to lớn và nặng nề. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương,  nay là Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ  Hồ  Chí Minh, ngoại giao Việt   Nam đã thực hiện những sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên  GVHD: Lại Thị Hương                          3          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  4. quyết vừa linh hoạt: lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược   ở miền Nam, rồi hoà với Pháp với việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946  để  đuổi Tưởng về  nước, góp phần giữ  vững Nhà nước độc lập non trẻ.   Ngoại giao Việt Nam 1945­1946 lúc này phải phát huy hết khả  năng để  giữ  vững độc lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà ngoại giao   Việt Nam được thể hiện rất rõ nét với những mục tiêu và nhiệm vụ  cụ  thể.   Vì những lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề  tài: “Sách lược   ngoại giao   của Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1945 – 19/12/1946” làm vấn đề  nghiên cứu của mình. GVHD: Lại Thị Hương                          4          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  5. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG  THÁNG TÁM 1945 1.1 Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự ra đời của Nhà  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa a. Nguyên nhân bùng nổ Tổng khởi nghĩa tháng Tám Từ giữa năm 1944, tình hình thế giới và trong nước phát triển gấp rút có  lợi cho cách mạng. Cuộc chiến tranh chống phát xít bước vào giai đoạn kết   thúc, quân đội Liên Xô phản công quân Đức trên nhiều mặt trận và đẩy lùi   chúng ra khỏi biên giới. Quân Nhật thua đậm  ở  mặt trận Châu Á Thái Bình   Dương Ngày 7/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi  nghĩa và kêu gọi nhân dân “sắm vũ khí đuổi thù chung”.  Vào đầu năm 1945, cuộc chiến tranh thế  giới bước vào giao đoạn kết  thúc. Trên chiến trường Châu Âu, phát xít Đức đã bị  quét sạch khỏi lãnh thổ  Liên Xô, thủ  đô Béc lin sắp thất thủ.  Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít  Nhật cũng khốn đốn. Thực dân Pháp ở Đông Dương đang nhân cơ hội đó để  ngóc đầu dậy, chúng ráo riết hoạt động, đợi khi quân đồng minh kéo vào  Đông Dương đánh Nhật sẽ  nổi dậy hưởng  ứng để  giành lại địa vị  thống trị  cũ. Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp  ở Đông Dương trở nên gay gắt.   Vào   ngày  9/3/1945,  Nhật   đảo  chính  Pháp.  Đang  lúc  Nhật   đảo  chính  Pháp, Ban thường vụ  Trung  ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ  Sơn,  Bắc Ninh). Vào ngày 12/3/1945, Ban thường vụ Trung  ương ra chỉ thị “Nhật­ Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.  b.Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công Trước sự  chuyển biến mau lẹ, ngay khi nghe tin chính phủ  Nhật đầu  hàng từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông   Dương họp tại Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước  GVHD: Lại Thị Hương                          5          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  6. Khởi nghĩa  đã nổ  ra  ở  nhiều xã huyện thuộc các tỉnh châu thổ  sông  Hồng, Thanh Hóa, Nghệ  An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa...  Ngày  18/8 nhân dân Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành chính quyền ở tỉnh lị. Ở Hà Nội,  Ủy ban đã quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày  19/8. Ngày 18/8 cờ  đỏ  sao vàng đã xuất hiện trên các đường phố   ở  Hà Nội.  Tối ngày 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà nội giành thắng lợi. Ở Huế, ngày 20/8 Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ủy ban quyết   định giành chính quyền vào ngày 23/8. Hàng vạn nhân dân nổi dậy kéo nhau   biểu tình thị uy chiếm các công sở. Chính quyền thuộc về nhân dân. Ở  Sài Gòn, xứ   ủy Nam kì quyết định khởi nghĩa vào ngày 25/8. Sáng  25/8 các công nhân nông dân các tỉnh Gia Định, Biên hòa, Thủ Dầu Một…kéo   nhau về thành phố. Quần chúng chiếm Sở mật thám, sở cảnh sát, nhà ga, bưu  điện… giành chính quyền ở Sài Gòn. Thắng lợi   của các cuộc khởi nghĩa  ở  Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã có tác  dụng vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của Cách  mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước.  Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh   đã đọc Bản Tuyên nguyên độc lập, tuyên bố  với nhân dân trong cả  nước và  các quốc gia trên thế giới biết rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra   đời, có chủ quyền như các quốc gia dân tộc khác. c. Ý nghĩa thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ  nhân dân do   giai cấp công nhân lãnh đạo trong đó nổi bật lên tính chất giải phóng dân tộc,  đó là cuộc cách mạng biểu hiện tinh thần chủ  động sáng tạo biết tranh thủ  thời cơ, tự mình đứng lên giải phóng cho mình Cách mạng tháng Tám  1945 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ  đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt hơn 80 năm thống trị  của thực dân  GVHD: Lại Thị Hương                          6          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  7. Pháp và lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hơn một ngàn năm trên đất nước ta  khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng tháng Tám đã phát huy truyền thống kiên cường bất khuất,   anh dũng sáng tạo và đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, cách mạng tháng Tám còn có ý nghĩa quốc tế vô cùng to lớn, là  thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin trong một nước thuộc địa nữa phong kiến,  làm phong phú thêm kho tàng lí luận của phong trào cách mạng vô sản thế  giới, cỗ vũ tinh thần các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành lại chính  quyền độc lập tự do. 1.2 Những thuận lợi và khó khăn của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng  hòa sau cách mạng tháng Tám 1945 1.2.1. Thuận lợi Sau cách mạng tháng Tám 1945, ta đã có chính quyền trong tay, Đảng  Cộng Sản lãnh đạo công khai, nhân dân có sự đổi mới từ than phân nô lệ  lên   làm chủ đất nước. Đó bước chuyển để giúp ta có cơ sở xây dựng và củng cố  chính quyền vững mạnh, là động lực cho Đảng và nhân dân quyết tâm hơn   trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải  phóng dân tộc đang dâng cao  ở  một số  nước thuộc địa và phụ  thuộc, phong  trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản. 1.2.2. Khó khăn Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc đóng  ở Hà nội và hầu hết các tỉnh. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều   kiện cho thực dân Pháp trởi lại xâm lược nước ta.  Đất nước ta vừa thoát ra khỏi cuộc sống nô lệ, sự thống trị, bóc lột của   thực dân Pháp và phát xít Nhật vẫn còn để lại hậu quả nặng nề, hậu quả của   chính sách vơ vét, bóc lột của Nhật­Pháp cùng với thiên tai làm cho nền kinh  tế nông nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá trở nên kiệt   GVHD: Lại Thị Hương                          7          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  8. quệ. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư  bản Pháp. Hàng hoá khan hiếm,  giá cả tăng vọt đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn… Về  tài chính:  ngân sách nhà nước trống rỗng. Chính quyền cách mạng  chưa nắm được ngân hàng Đông Dương. Quân Tưởng tung ra thị  trường các  loại tiền mất giá làm cho tình hình tài chính của nước ta càng thêm rối loạn. Về  mặt xã hội: Hơn 90% dân ta không biết chữ, các tệ  nạn mê tín dị  đoan… phổ biến ở  nông thôn. Chính quyền cách mạng non trẻ, chưa được củng cố, thiếu kinh nghiệm   lãnh đạo việc củng cố chính quyền, lực lượng vũ trang còn non trẻ, trang bị  thô sơ thiếu kinh nghiệm chiến đấu.  CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CƠ BẢN CỦA VIỆT NAM  SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN 19/12/1946 2.1 Ngoại giao hòa hoãn với Tưởng 2.1.1 Nguyên nhân: Nước Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa ra đời trong điều kiện quốc tế  rất  thuận lợi. Trên thế giới phe Đồng minh đã giành thắng lợi hoàn toàn, ba nước  Trục thất bại thảm hại. Tại Đông Dương, Pháp đã bị Nhật Bản hạ bệ, Nhật   đầu hàng quân Đồng minh. Phong trào dân tộc phát triển mạng mẽ, ở Châu Á   nhân dân Indonesia đã nổi lên giành chính quyền. Tình   hình   Việt   Nam   có   những   biến   đổi   sâu   sắc,   những   nhân   tố   trái  ngược nhau. Niềm vui độc lập làm cho người ta hầu như  quên cả  khó khăn   trong cuộc sống, những khó khăn trong lòng các nhà lãnh đạo về  tất cả  mọi   mặt: kinh tế, tài chính,… Kinh tế: nạn đói mà thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản đã gây ra  làm chết 2 triệt người chưa chấm dứt. Nạn lụt giữa năm 1945 nước lũ lên to,  đê sông Hồng bị  vỡ, làm ngập lụt nhiều cánh đồng. Sau vụ  chiêm 1946, có   thóc mới đời sống nhân dân khá hơn nhưng đến giữa năm, bọn nhà buôn Pháp  GVHD: Lại Thị Hương                          8          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  9. và quân đội Tưởng tung tiền ra vơ  vét gạo gây khó khăn trong chính quyền  nhân dân. Tài chính: trong tình trạng nguy ngập Trong bối cảnh đó, một Chính phủ  bình thường cũng không đứng vững   được, nhưng khó khăn chính trị  còn ghê gớm hơn nhiều, chính quyền cách  mạng chưa có chỗ đứng vững chắc đã phải chống lại sức ép từ mọi phía. Từ  1944 sau khi Tổng thống Roosevelt qua đời, Phó tổng thống Truman  lên thay, và ông tuyên bố: “Dù thế  nào, về  vấn đề  Đông Dương, Chính phủ  tôi không phản đối uy quyền và quân đội Pháp trở lại xứ này”, đối với Pháp  đó là sự thừa nhận rõ ràng chủ quyền của họ đối với Đông Dương. Lực lượng 20 vạn quân Tưởng do tướng Lư Hán chỉ huy bọn tay sai Việt  Nam  Cách  mệnh  Đồng minh hội Việt Nam Quốc dân  Đảng  đứng   đầu là  Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh là công cụ  của  chính phủ Trùng khánh và lực lượng quân phiệt Vân Nam, Quảng Tây, chúng  đang thực hiện kế  hoạch “Hoa quân nhập Việt” nhằm dựng lên một chính  phủ  Trùng khánh. Lư  Hán và Tiêu Vân đến Hà nội nhằm âm mưu lật đổ  Chính quyền Việt Minh. Nhưng trước phong trào toàn dân ủng hộ Chính phủ  Hồ Chí Minh, chúng không thể làm được, chúng ép ta lập chính quyền ba phái  có Việt Cách, Việt Quốc tham gia. Họ  xúi giục và giúp đỡ  bọn Việt Cách,   Việt Quốc gây tình hình không ổn định ở Hà Nội và cách tỉnh khác.  Ở miền Nam vấn đề đã rõ: Anh đồng ý cho pháp trở lại Đông Dương và   tạo điều kiện cho Pháp tái chiếm miền Nam thì ta không có con đường nào   khác là chống lại quân Pháp. Nhưng trên miền Bắc có quân Tưởng và bọn tay  sai Việt Cách, Việt Quốc và trong một tương lai không xa sẽ có quân Pháp trở  lại Dù đang có nhiều kẻ  thù, có thù trong giặc ngoài, bao giờ  cũng phải  nhằm kẻ thù chính là thực dân Pháp. Đối với Trung Quốc, chủ trương của ta   là hòa hoãn, làm cho họ rút quân càng nhanh càng tốt ra khỏi miền Bắc nước   GVHD: Lại Thị Hương                          9          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  10. ta. Quyết định hòa hoãn với Tưởng, phía ta đã chủ trương trong lúc chấp nhận  một số  nhượng bộ  về  kinh tế, chính trị  cần phải tuân thủ  nguyên tắc giữ  vững chủ quyền quốc gia, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện  khẩu hiện “Hoa­Việt thân thiện” ưu đãi Hoa kiều. 2.1.2 Nội dung Nội dung chính của chính sách “Hoa­ Việt thân thiện" là tạm thời hoà  hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược ở  miền Nam (9­1945 đến 3­1946). Với những nội dung sau: Biện pháp biểu dương lực lượng: Biện pháp đầu tiên mà chủ  tịch Hồ  chí Minh và chính phủ VNDCCH thực hiện là tổ chức biểu dương lực lượng   bao gồm 30 vạn nhân dân thủ đô Hà Nội trong buổi chào đón Hà Ứng Khâm,  Tổng   tư   lệnh   quân   đội   Tưởng   và   phái   bộ   đồng   minh   đến   Hà   Nội   ngày   2/10/1945. Việc biểu dương lực lượng là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan   trọng khi nước ta đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” bởi: Thứ nhất   nó biểu thị ý chí và sức mạnh của nhân dân ta đoàn kết xung quanh chính phủ  Hồ Chí Minh, điều này chứng tỏ rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa   đã và đang được sự   ủng hộ  của đông đảo quần chúng nhân dân. Đó là điều  không dễ  gì có được cũng như  không dễ  gì thay đổi. Thứ  hai hành động đó  đồng thời thể  hiện thiện chí, sự  hoan nghênh và mong muốn hoà với quân   Tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lợi dụng mâu thuẫn, tránh xung đột Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo  và linh hoạt chủ nghĩa Mác ­ Lênin về vần đề lợi dụng mâu thuẫn trong hàng   ngũ kẻ  thù. Phép  ứng xử  ngoại giao khéo léo kết hợp với hiểu thấu nội bộ  địch đã khẳng định vai trò quan trọng của vị lãnh thiên tài Hồ Chí Minh, không  chỉ vậy người phần nào lấy được thiện cảm của Lư Hán bằng chứng là y gọi   người là “Hồ Chủ tịch” lời gọi ấy không chỉ minh chứng cho sự tôn trọng của  Lư Hán đối với Bác mà còn với cả bộ máy chính phủ lâm thời Việt Nam Dân  chủ Cộng hòa. Đối với trung tướng Tiêu Văn, Bác nắm rõ lý lịch cũng như ý  GVHD: Lại Thị Hương                          10          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  11. định của y khi sang Việt Nam nhìn thấu những bất đồng trong nội bộ  của   hắn, từ đó có những đối sách phù hợp. Với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề  chính trị của Việt Nam, tới Hà Nội thấy chính quyền ta đã thành lập y rất bực   bội với sự  đã rồi và tuyên bố  “Hồ  Chí Minh thập đại tội” ngay lập tức Bác   chủ động đến thăm y, giải thích rõ tình hình hiện tại và đề nghị hợp tác với ta  giải quyết mọi vấn đề  trong quan hệ  Hoa – Việt, việc làm này ít nhiều xoa   dịu tâm lý căng thẳng và giải quyết một số hiểu lầm giữa Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa và Quốc dân đảng. Bằng tài trí thông minh và ngoại giao nhạy bén,   qua tiếp xúc nhiều Bác dần lấy được cảm tình từ  Tiêu Văn, nhờ  thế  phản  ứng của y với chính phủ lâm thời bớt căng thẳng hơn. Hành động ngoại giao  Bác mời vợ chồng Tiêu Văn ăn cơm, tặng vợ y một vài đồ  trang sức quý giá,  cho phép buôn vài tấn gạo và một số  loại hàng hóa, tưởng chừng như  đơn  giản, sáo rỗng nhưng lại có ý nghĩa sâu xa bởi nhận lời “mời” của Hồ  chủ  tịch đại diện cao nhất của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là gián tiếp   khẳng định vị thế cũng như tính hợp pháp của Chính phủ lâm thời, hành động  ấy còn thiêu cháy ý định không giao thiệp với Chính phủ ta của Tiêu Văn, hơn   nữa nó góp phần răn đe bọn tay sai của Tưởng rằng chớ  có lộng hành quá   đáng. Có rất nhiều học giả  đánh giá cao hành động ngoại giao này của Bác   như Philip­Đờ­Vilê viết về cuộc gặp này “Hồ chủ tịch gặp Tiêu Văn ngay và  được sự  hòa hoãn của quân Tàu chặn cú đầu tiên của quân Tàu định lật đổ  Chính   phủ   lâm   thời,   điều   này   làm   cho   bọn   Việt   Cách   hoang   mang   chập  chừng” . Phát hiện thấy trong hàng ngũ quân Tưởng cũng có những sỹ  quan  binh lính bày tỏ đồng tình với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta,  Hồ chủ tịch kịp thời ứng xử thiện chí để khuyến khích, động viên họ ngả về  phe ta. Đấy là sự sáng suốt, tài tình của Hồ Chí Minh bởi sự nhận biết nhanh   chóng, bóc tách những mâu thuẫn của từng đối tượng kẻ  thù để  tìm ra điểm   thuận lợi cho cách mạng nước nhà. GVHD: Lại Thị Hương                          11          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  12. Bên cạnh đó, để cho quân đội Quốc dân Đảng và tay sai không kiếm cớ  xung đột, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh, Đảng   ta chủ  trương chập nhận một số  nhượng bộ có nguyên tắc về kinh tế, chính trị quân sự… Kinh tế: Chính phủ  Việt Nam nhận cho quân Tưởng tiêu tiền "Quan  Kim", “Quốc tệ” đã mất giá trên thị trường, mặc dù điều đó làm cho tài chính  và thương mại của ta càng thêm nguy ngập Chính phủ  và nhân dân ta nhận  cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước  chưa ra khỏi nạn đói.  Về  quân sự: Khi sang Việt Nam, quân đội Tưởng Giới Thạch là một   quân đội ô hợp. Chúng đi đến đâu là gây gổ, khiêu khích đối phó. Vì thế Đảng   ta chủ  trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để  không rơi vào âm   mưu và hành động khiêu khích lật đổ  của chúng. Vì lợi ích của cách mạng,  Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ thái độ rất nghiêm khắc đối với những việc làm sai   trái trong khi thực hiện sách lược của Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở  cách cấp chính quyền:” Phải hết sức tránh khiêu khích, không để xảy ra xung   đột với quân Tưởng. Nếu xảy ra xung đột thì phải biến xung đột lớn thành  xung đột nhỏ,biến xung đột nhỏ thành không có xung đột”. Về   chính  trị:   Đảng  chủ   trương   mở   rộng   Chính   phủ   lâm   thời   thành  Chính phủ  liên hiệp lâm thời, để  cho một số  nhân vật của Việt Quốc, Việt   Cách (tay sai của Tưởng) tham gia Chính phủ. Quốc hội khoá I, kỳ  họp đầu  tiên ngày 2­3­1946 thông qua đề  nghị  của Chủ  tịch Hồ  Chí Minh mở  rộng   thêm 70 ghế  trong Quốc hội cho bọn Việt Quốc, Việt Cách và để  họ  nắm  gần một nửa số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính thức. Trong hoàn cảnh có   nhiều Đảng phái đối lập công khai dựa vào thế  lực bên ngoài để  chống  phá  chính quyền cách mạng, Đảng ta  rút vào bí mật, Đảng ta tuyên bố tự giản tán   song thực chất Đảng rút vào hoạt động bí mật để  tự  bảo vệ, bảo đảm sự  lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh một mất một còn với   địch, đồng thời làm thất bại thủ đoạn vu cáo của bọn phản động, không cho  GVHD: Lại Thị Hương                          12          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  13. chúng kiếm cớ  xung đột. Chấp nhận cho các Đảng phái đối lập hoạt động,  thậm chí tham gia chính quyền là sự nhân nhượng lớn có tính chất bắt buộc.   Đối với các đảng phái thân Tưởng, Đảng ta chủ trương phân hoá nội bộ của  chúng. Với sách lược khôn khéo trong quan hệ với Tưởng và các thế lực tay sai  của chúng, Đảng và nhân dân đã làm thất bại âm mưu và hành động khiêu   khích lật đổ của quân Tưởng Đến tháng 9­1946,  tên lính Quốc Dân Đảng cuối cùng rút khỏi miền Bắc  Việt Nam  2.2 Ngoại giao hòa hoãn với Pháp. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 2.2.1 Tình thế mới Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945, thực dân Pháp mất quyền  cai trị Liên Bang Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi Nhật đầu hàng khối Đồng  Minh, Việt   Minh   chớp   thời   cơ   giành   chính   quyền   từ   tay Đế   Quốc   Việt  Minh được Đế  Quốc Nhật Bản bảo hộ, nhanh chóng kiểm soát đất nước, và  thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945 Theo thỏa thuận của các nước Đồng Minh, quân đội Trung Hoa Quốc  dân Đảng tiến vào miền Bắc Việt Nam để  làm nhiệm vụ  giải giáp quân đội  Đế quốc Nhật Bản. Ở miền Nam Việt Nam, quân Anh tiến vào với nhiệm vụ  tương tự.  Rạng ngày 23/9/1945, người Pháp, dưới sự giúp đỡ của quân đội Anh, đã   dùng vũ lực buộc Lâm  Ủy Nam Bộ phải giải tán, giao lại chính quyền cho  người   Pháp.  Tuy nhiên,  chính quyền  người  Việt  đã  thực  hiện  cuộc chiến  tranh du kích để chống lại. Ở miền Bắc, quân đội Trung Hoa Quốc dân Đảng vẫn công nhận chính  phủ  Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa cho mưu đồ  chính trị  của họ. Tuy nhiên,  người Pháp cũng đã thương lượng với chính phủ  Trung Hoa Quốc dân đảng  để đưa quân đội xâm nhập Bắc Việt Nam. GVHD: Lại Thị Hương                          13          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  14. Ngày 28/2/1946, Hiệp ước Hoa ­ Pháp được ký kết, với 2 điểm chính: Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc  và  nhượng cho Trung Hoa một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như cho họ  khai thác một đặc khu tại hải cảng Hải Phòng,  miễn thuế cho hàng hóa của   Trung Hoa vận chuyển sang miền Bắc Việt Nam. Ngược lại chính phủ  Trung Hoa Quốc dân đảng đồng ý cho Pháp thay   thế quân Trung Hoa giải giáp quân Nhật tại miền Bắc Việt Nam. Về cơ bản, hiệp ước này cho phép quân đội Pháp trở lại Bắc Việt Nam   thay thế cho quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân  Nhật. Đổi lại, Pháp cũng đã trả lại các tô giới của mình trên đất Trung Quốc  cho chính phủ  Trung Hoa Quốc dân Đảng. Ngay sau khi “Hiệp  ước Hoa­ Pháp” được ký kết, Pháp ra sức tuyên truyền rộng rãi ở Đông Dương với ý đồ  gây ra áp lực đối với chính phủ Hồ Chí Minh Trong tình hình cấp bách này, để chuẩn bị đi đến một giải pháp hòa hoãn  với Pháp, ngày 3/3/1946, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã cũng với Ban thường vụ  TW thảo luận và đưa ra chỉ  thị  về  “Tình hình và chủ  trương”. Đảng nhận  định, đâu không phải là chuyện riêng giữa Hoa­Pháp mà là sự  nhân nhượng  giữa Mỹ, Anh, Trung Hoa với Pháp về  vấn đề  Đông Dương. Và Đảng ta  quyết định về lập trường giảng hòa với Pháp là độc lập nhưng lien minh với  Pháp. 2.2.2 Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Hòa để tiến Trong thời gian đầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm nhiều  thành phần kiên quyết chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền ở Đông Dương.  Nhưng sau đó những thành viên Chính phủ là Đảng viên Đảng cộng sản Đông  Dương thay đổi ý kiến muốn ký kết Hiệp định với Pháp. Theo quan điểm của  Ban Thường vụ TW 3 Đảng cộng sản Đông Dương (đã lui vào hoạt động bí   mật), tháng 3 năm 1946, nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo tuyên bố ngày  24 tháng 3 năm 1945 thì kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ  GVHD: Lại Thị Hương                          14          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  15. thì hòa để phá tan âm mưu của "bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và   bọn phát xít Nhật còn lại". Ngày 6/3/1946 , Hiệp định sơ  bộ  Pháp – Việt được ký kết với nội dung  sau đây: Chính phủ  Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa là một   quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp, có  chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng Chính phủ  Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp  vào miền Bắc thay thế  cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để  làm   nhiệm vụ  giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ  rút hết quân trong thời hạn 5   năm, mỗi năm rút 3.000 quân. Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc thống nhất  với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ  nguyên quân đội tại vị  trí hiện thời   để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa   Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế  và  văn hóa của Pháp ở Việt Nam. Về phía người Pháp, Hiệp định sơ bộ Pháp­Việt giúp họ đưa quân đội ra  miền Bắc Việt Nam mà không gặp sự kháng cự của Việt Nam Dân chủ Cộng   hòa như ở Nam Kỳ, đồng thời Hiệp ước Hoa­Pháp giúp họ tránh khỏi sự cản  trở của các tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc. Về  phía Việt Minh tránh được tình thế  bất lợi "phải cô lập chiến đấu  cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn  phản cách mạng trong nước)", tập trung đối phó với người Pháp và "các đảng  phái phản động". Đồng thời, tranh thủ  được thời gian hòa hoãn quý báu để  "Bảo toàn thực lực giành lấy giây phút nghỉ  ngơi và củng cố  vị  trí mới đã  chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ  sung cán bộ, bồi dưỡng và  củng cố phong trào". Một số thành viên trong Chính phủ  Liên hiệp thuộc lực  GVHD: Lại Thị Hương                          15          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  16. lượng Việt Quốc, Việt Cách không tán thành việc này lên tiếng phản đối gây   ra bất đồng sâu sắc, dân chúng cũng có người băn khoăn, nhưng Chủ tịch  Hồ  Chí Minh đã bình tĩnh giải thích và động viên đồng bào để  đồng bào hiểu rõ  "cần phải biết chịu đựng hy sinh để  mưu sự  nghiệp lớn".Về  mặt chính trị,   cuộc điều đình với nước Pháp sẽ  mở  ra con đường làm cho quốc tế  thừa   nhận ta. Nó sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế.   Đó là một thắng lợi về mặt chính trị. Trong chỉ thị Hòa để tiến, Ban Thường vụ Trung  Ương Đảng nêu rõ tại  sao lại cầu hòa với Pháp: “Chúng ta hòa với Pháp để: Tránh tình thế bất lợi Bảo toàn thực lực, giành lấy giây phút nghĩ ngơi và cũng cố  vị  trí đã  chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ  sung cán bộ, bồi dưỡng và  cũng cố phong trào, tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhân cơ hội tốt tiến lên giai   đoạn cách mạng mới” Một tuần sau quân Tưởng tuyên bố  sẽ  bắt đầu rút từ  ngày 15/3/1946 và  kết thúc ngày 31/3/1946, thật ra ngày 18/9/1946 mới rút hết. Lúc này sự  quan   tâm của Trùng Khánh là tiến công Quân giải phóng Trung Quốc vào tháng  7/1946, bất chấp điều ước Song Thập và đơn phương hủy bỏ  ngừng bắn đã   thỏa thuận với Đảng cộng sản Trung Quốc, quân Tưởng đã mở  chiến dịch   Tổng công kích Quân giải phóng khắp nơi. Về phía Pháp, đã xuất hiện hai xu hướng thi hành hiệp định sơ bộ. Một  là thi hành nhưng dùng sức ép quân sự buộc ta nhân nhượng về chính trị, kinh   tế, văn hóa, giữ Nam Bộ tìm cách đưa người Pháp vào Chính phủ ta đông thời  duy trì hợp tác với ta trên cơ  sở  trao cho ta một nền độc lập tương đối. Xu  hướng thứ hai là từ  chỗ  đóng quân lấn chiếm ra xung quanh, thi hành những  biện pháp nhằm thay đổi dần dần và biến kịch bản của một cuộc hành quân  thuần túy quân sự thành một kịch bản đảo chính. Sau ngày 6/3/1946, thực dân  GVHD: Lại Thị Hương                          16          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  17. Pháp không thực hiện ngừng bắn mà còn tăng cường càn quét, hòng lập lại  chính quyền. Về phía Việt Nam, ta thi hành nghiêm chỉnh hiệp định. Ta cử người cùng  sĩ quan Pháp thành lập Ban liên kiểm Việt ­  Pháp. Nhờ sự dàn xếp của ta với   quân Lư  Hán và tinh thần kỷ  luật của nhân dân và bộ  đội ta, này 18/3 quân  của tướng LerLerc đã tới Hà Nội an toàn. Như  vậy với việc quyết đoán ký nhanh với Pháp Bản Hiệp định sơ  bộ  thì ta đã nhanh chóng và không tốn sức lực gạt được 180.000 quân Tưởng ra  khỏi miền Bắc (dù trên thực tế, lính Tưởng phải đến tháng 6/1946 mới rút   hết về  nước). Với việc ký kết này, ta đã biến điều khoản thay quân trong  Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng thành thỏa thuận 3   bên. Hiệp định thể  hiện chủ  quyền của Việt Nam khi quy định rõ Pháp chỉ  được đưa vào miền Bắc 15.000 quân và số quân này phải rút hết trong 5 năm. Hiệp định sơ  bộ  cũng góp phần làm giảm sức ép quân sự  của Pháp đối   với lực lượng kháng chiến Nam bộ khi đó. Nhìn tổng thể, Hiệp định 6/3/1946 đã mở  ra thời kỳ  hòa hoãn tạm thời  giữa ta và Pháp, vô hiệu hóa được âm mưu của đối phương muốn tập trung   lực lượng bóp chết chính quyền non trẻ lúc đó đang thiếu thốn đủ bề (“không  đồng minh, không tiền và hầu như  không vũ khí” – lời của Leon Pignon, cố  vấn chính trị  của Cao  ủy Pháp  ở  Đông Dương). Từ  thời điểm này đến ngày  toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ta có điều kiện tuyên truyền về  chính   nghĩa của ta và có thêm thời gian quý báu để  xây dựng lực lượng cho cuộc   kháng chiến dài lâu. Trong bối cảnh Việt Nam khi đó chưa được cường quốc nào công nhận,   thì việc thương lượng với Pháp rồi ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, như Hồ Chủ  tịch nhận định, đã “mở ra con đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ dẫn ta   đến một vị  trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”. Thực tế  đã chứng  GVHD: Lại Thị Hương                          17          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  18. minh việc ký kết Hiệp định sơ  bộ  này là một thắng lợi lớn của Đảng ta và  ngành ngoại giao Việt Nam. Bài học rút ra từ  Hiệp định này không chỉ  là sự  mềm dẻo, nhân nhượng có nguyên tắc mà còn là nghệ  thuật lợi dụng mâu  thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù (cụ thể là trong nội bộ thực dân Pháp, trong nội  bộ  quân Tưởng Giới Thạch, và giữa Pháp và Tưởng), cũng như  nghệ  thuật   đón lòng và tận dụng đúng thời cơ. Hội nghị trù bị ở Đà Lạt: Còn gọi là Hội nghị  trù bị  Đà Lạt họp từ  ngày 17 tháng 4 đến ngày 12  tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, là một hội nghị dự bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn  Việt và Pháp chuẩn bị cho Hội nghị Phông ten nơ blô chính thức vào tháng 7  năm ấy. Sau khi ký Hiệp định sơ  bộ  Pháp­Việt 1946, Hồ  Chí Minh muốn có một  hội nghị  giữa Việt và Pháp tại Paris để  bàn định tương lai của nước Việt  Nam và làm rõ những điểm đã nêu trong Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, với  địa vị  hai nước và 2 sứ  bộ  ngang nhau, nhưng Toàn quyền Đông Dương   không chấp thuận, mà muốn một hội nghị  tại Việt Nam để  đặt những sự  điều đình vào nội bộ địa phương mà thôi . Theo ông Hoàng Xuân Hãn, trong khi chọn lọc ủy viên tham dự hội nghị,  chính phủ  Việt  Nam  lúc  đó  đã chú  ý chọn mời  những nhân  vật có tiếng   ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và sự có mặt của những nhân vật không đảng phái  càng tỏ sự đoàn kết của người Việt trong thời bắt đầu độc lập . Tuy đây chỉ  là một Hội nghị  dự  bị  nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt vào thời điểm  ấy,   vì   là   lần   đầu   tiên   có   một   hội   nghị   điều   đình   có   tầm   vóc   quốc   gia  của Chính   phủ   Việt   Nam độc   lập   (khi   đó   mang   tên   Chính   phủ   Liên   hiệp   Kháng chiến). Chính phủ Việt Nam cũng đã đề  nghị, và Pháp đã chấp thuận,  một   phái   đoàn   Quốc   hội   Việt   Nam   sang   thăm   nước   Pháp   do Phạm   Văn  Đồng dẫn đầu . Hội nghị Phông ten nơ blô GVHD: Lại Thị Hương                          18          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  19. Phái đoàn Chính phủ  Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn,  phái đoàn chính phủ Pháp do Mắc Ăngđrê dẫn đầu. Ngày 6­7, cuộc đàm phán  khai mạc. Phái đoàn Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội  nghị  trù bị  Đà Lạt đối với những vấn đề  cơ  bản (chế  độ  chính trị, quan hệ  ngoại giao của Việt Nam, sự thống nhất ba kỳ của Việt Nam…) quyết định  quan hệ giữa hai nước Việt – Pháp. Phái đoàn Chính phủ  Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn,  phái đoàn chính phủ Pháp do Mắc Ăngđrê dẫn đầu. Ngày 6­7, cuộc đàm phán  khai mạc. Phái đoàn Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội  nghị  trù bị  Đà Lạt đối với những vấn đề  cơ  bản (chế  độ  chính trị, quan hệ  ngoại giao của Việt Nam, sự thống nhất ba kỳ của Việt Nam…) quyết định  quan hệ giữa hai nước Việt –  Pháp. Mặc khác, Chính phủ Pháp dung túng cho  bọn thực dân hiếu chiến  ở Đông Dương thực hiện từng bước chính sách lấn  dần, trắng trợn phá hoại Hiệp định sơ  bộ. Vì thế, cuộc đàm phán phải đình   chỉ  vào ngày 10­9. Trước khi lên đường về  nước, phái đoàn Chính phủ  Việt   Nam ra một bản tuyên bố. Đoàn về đến Hải Phòng ngày 3­10. Thực hiện chủ trương hòa hoãn, việc ký kết Hiệp định sơ  bộ  6/3, Tạm  ước 14/9 của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn. Hòa với Pháp  chúng ta tránh được tình trạng một lúc phải đối đầu giữa hai lược lược quân  sự  hung mạnh là Tưởng và Pháp, có them thời gian hòa bình để  củng cố  và  phát triển lực lượng, tích lũy kinh nghiệm sẵn sang đối phó với Pháp. Việc ký kết Hiệp định sơ  bộ  6/3 và Tạm  ước 14/9 và những hoạt động  của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp có ý nghĩa vô cũng quan trọng to lớn đối  với việc khẳng định và nâng cao vị thế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoa trên   trường quốc tế GVHD: Lại Thị Hương                          19          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
  20. C. KẾT LUẬN Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong thời kí 1945­1946 rất linh  hoạt, khôn khéo. Dấu  ấn đậm nét của thắng lợi ngoại giao thời kì này là đối  sách và ứng xử tài tình cũng một lúc với nhiều nước lớn, đối phó với bốn đạo  quân nước ngoài với trên 30 vạn binh lính có mặt tại Việt Nam. Mối quan hệ  giữa các nước lớn luôn có nhiều xung đột và mâu thuẫn về lợi ích, nhưng khi  họ  cần sẵn sang thỏa hiệp, mua bán với nhau bất chấp quyền lợi của nhân  dân Việt Nam, tìm cách áp đặt với Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ta đã   khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước với nhau và có sách lược phù hợp  với từng đối tượng giữ Mỹ đứng trung lập, kiên nhẫn tránh mọi xung đột của  Tưởng, kiên quyết kháng chiến chống Pháp xâm lược ở miền Nam, đồng thời  tìm giải pháp hòa bình khi Tưởng và Pháp thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp   ra Bắc. Đánh giá thời kỳ này, cố Tổng bí thư Lê Duẫn cho rằng:”lúc thì tạm hòa   với Tưởng để  rãnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì hòa hoãn với Pháp  để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, dành  thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân   Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể  nào tránh khỏi.  Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào trong lịch sử  nước ta   như  một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lê nin về  lợi dụng những mâu  thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc”. Như  vậy thực tế  đã chứng minh rằng thời kỳ  ngoại giao 1945­1946 đó  mãi đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc như những năm tháng không thể  nào  quên. Nền ngoại giao Việt Nam non trẻ do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và   Chính phủ  Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa đã góp phần xuất sắc bảo vệ  chủ  quyền và nền độc lập non trẻ trong khi thế lực của ta còn yếu, đồng thời tạo  điều kiện tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng, tranh thủ những điều kiện  quốc tế thuận lợi nhất để  phát triển đất nước, nâng cao vị  thế  mở rộng ảnh  GVHD: Lại Thị Hương                          20          SVTH: Trương Thị Vĩnh Giang
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2