intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BÁO CÁO " BIẾN ĐỘNG CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG TRONG AO NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) THÂM CANH Ở AN GIANG "

Chia sẻ: Vồng Cầu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

90
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

In the non-infected ponds, however, pH was significantly higher compared to the infected ponds (P0,05), và đạt giá trị cao nhất vào mùa mưa (274,2 mg/L). OSS dao động từ 1,3 - 207,0 mg/L và khác biệt không có ý nghĩa giữa các ao cá bệnh và cá khỏe nhưng lại thấp nhất vào mùa khô. Ao cá bệnh có %OSS và BOD cao hơn các ao cá khỏe (P

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BÁO CÁO " BIẾN ĐỘNG CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG TRONG AO NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) THÂM CANH Ở AN GIANG "

  1. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ BIẾN ĐỘNG CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG TRONG AO NUÔI CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus) THÂM CANH Ở AN GIANG Huỳnh Trường Giang1 , Vũ Ngọc Út1 và Nguyễn Thanh Phương2 ABS TRACT Study on water quality was conducted in 64 intensive catfish ponds in An Giang province from March 2005 to December 2006. Data obtained were analyzed and compared between seasons (dry and rainy seasons) and fish health status (infected and non-infected fish ponds). The results showed that pH fluctuated from 6.73 to 9.20 and not significantly different among seasons (P>0.05). In the non-infected ponds, however, pH was significantly higher compared to the infected ponds (P
  2. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ thành 1 trong 10 nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỉ USD/năm (Nguyễn Chính, 2005). An Giang là một trong những tỉnh có sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ngọt dẫn đầu cả nước. Năm 2003, An Giang có sản lượng thủy sản cao nhất đạt 136.231 tấn chiếm 20,3% sản lượng của vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và 13,1% sản lượng toàn quốc. Theo báo cáo của Sở nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang thì vào năm 2004 sản lượng thủy sản đạt 152.508 tấn với giá trị kim ngạch xuất khẩu là 128,7 triệu USD chiếm gần 50% tổng kim ngập xuất khẩu của tỉnh (Trần Văn Nhì, 2005). Nghề nuôi thủy sản An Giang rất phát triển, trong đó chủ yếu nghề nuôi cá Tra bè, một nghề nuôi truyền thống của người dân An Giang. Ngoài ra, An Giang có hai nhánh sông Tiền và sông Hậu chảy qua với chiều dài 170 km cùng với hai nhánh sông Châu Đốc (28 km), Vàm Nao (7 km) và hệ thống kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài 5.170 km (Trần Anh Dũng, 2005) là những lợi thế rất lớn trong phát triển nghề nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi cá Tra. Hiện nay, mô hình nuôi cá tra thâm canh trong ao hầm là mô hình đang phát triển rất mạnh tại An Giang. Lượng thức ăn được sử dụng trong nuôi cá thường rất lớn, đặc biệt là thức ăn tự chế (với hệ số chuyển hóa thức ăn 2-3,5) có thể gây ra ô nhiễm môi trường do nguồn chất dinh dưỡng dư thừa cao. Nguồn thức ăn sử dụng trong nuôi cá bè ở ĐBSCL vẫn phổ biến là loại thức ăn tự chế sử dụng các nguyên liệu tươi sống (Lê Thanh Hùng và Huỳnh Phạm Việt Huy, 2006). Thức ăn dùng cho cá da trơn (Pangasius) thường có hàm lượng đạm thấp và carbonhydrate cao, do vậy lượng chất dinh dưỡng được cá tiêu thụ thấp (Phú và Yang Yi, 2003) và thức ăn dư sẽ tích tụ dưới nền đáy ao khi thải ra môi trường sẽ gây ô nhiễm môi trường nước. Thực tế hiện nay là nghề nuôi cá An Giang đã và đang gặp phải nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề dịch bệnh thường xuyên xảy ra, cá nuôi sinh trưởng chậm, tỉ lệ sống thấp. Sự hiểu biết về môi trường nuôi cá đối với người nuôi còn rất hạn chế, mỗi khi cá trong ao bị bệnh thì người nuôi chỉ biết sử dụng thuốc và hóa chất để xử lý. Trong khi đó môi trường ao nuôi tác động đến đối tượng nuôi như thể nào thì họ không cần quan tâm. Có những bệnh chỉ do môi trường tác động trực tiếp đến vật chủ hoặc sự tác động cộng gộp giữa 3 yếu tố môi trường, vật chủ và mầm bệnh sẵn có trong môi trường. Vì vậy, nắm vững các yếu tố môi trường ao nuôi là vô cùng quan trọng đối với nghề nuôi thủy sản. Từ thực tế này, nghiên cứu “Đánh giá chất lượng nước trong ao nuôi cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus) thâm canh tại tỉnh An Giang” được thực hiện nhằm đánh giá diễn biến môi trường nước trong hệ thống các ao tại các vùng nuôi trọng điểm của tỉnh An Giang. 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện tại 6 vùng nuôi cá tra trọng điểm bao gồm Châu Đốc, An Phú, Tân Châu, Châu Phú, Phú Tân, Long Xuyên của tỉnh An Giang trong thời gian từ 20/03/2005 đến 26/12/2006. Thời gian thu mẫu và số lượng mẫu thu ở các loại hình nuôi thuộc tại các địa điểm khác nhau được trình bày ở Bảng 1. Bảng 1: Sự phân bố số mẫu theo huyện và loại hình nuôi Huyện Thời gian thu mẫu Số ao Số lần thu mẫu Tân Châu 20/03/2005 – 24/05/2005 5 9 An Phú 16/08/2005 – 20/04/2006 7 23 Châu Phú 16/06/2005 – 04/10/2006 10 34 Phú Tân 16/06/2005 – 26/12/2006 23 42 Châu Đốc 21/03/2006 – 01/11/2006 5 5 Long Xuyên 22/06/2005– 19/07/2006 14 26 2
  3. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ Quá trình thu mẫu được thực hiện qua 2 giai đoạn (i) từ tháng 03/2005 – 06/2006, với chu kỳ 1 lần/tháng trên các địa bàn được chọn (bao gồm ao cá khỏe và bệnh); (ii) từ tháng 07/2006 – 12/2006, mẫu chỉ được thu ngẫu nhiên tại các ao nuôi mà cá đang có biểu hiện bệnh. - - 3- Các chỉ tiêu thu mẫu bao gồm nhiệt độ, pH, DO, độ đục, TAN, N-NO2 , N-NO3 , PO4 , TSS, OSS, BOD. Các chỉ tiêu này được thu và phân tích dựa theo Standard M ethods, 1995 (APHA, 1995) tại Bộ môn Thủy sinh học Ứng dung, Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. Số liệu được được xử lý và phân tích theo (i) tình trạng cá bao gồm cá khỏe (theo đánh giá cảm quan của người nuôi là cá hoạt động, ăn tốt, không có biểu hiện bệnh) và cá bệnh (theo triệu chứng đã biểu hiện thành bệnh như: ký sinh trùng (quan sát dưới kính hiển vi), gan thận mũ, trắng gan, phù đầu, đỏ kỳ, đỏ mỏ, vàng da); (ii) theo mùa: M ùa mưa (tập trung các ao được thu vào tháng 6-9), Giao mùa M ưa – Khô (các ao được thu từ tháng 10–11), M ùa khô (tập trung các ao được thu từ tháng 12–3) và Giao mùa Khô–M ưa (được thu từ tháng 4–5). Các thông số phân tích được xử lý thống kê bằng phần mềm thống kê Statistica 5.0 ở mức ý nghĩa α = 0,05. 3 KẾT QUẢ - THẢO LUẬN 3.1 Nhiệt độ và pH o Nhiệt độ ở các ao nuôi dao động trong khoảng 27–34 C. Nhiệt độ ở các ao cá khỏe cao hơn (30,7±1,5 C) và khác biệt có ý nghĩa với nhiệt độ ở các ao cá bệnh (29,8±1,5oC) (P0,05) (Bảng 3). Trong điều kiện ao nuôi, pH sẽ biến động nhiều tùy vào sự phát triển của tảo được kích thích bởi lượng chất dinh dưỡng từ quá trình cho ăn và 3
  4. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ quá trình thay nước (điều kiện chăm sóc). Qua quan sát thực tế các ao thường có màu xanh đậm, một số ao xuất hiện váng tảo sợi của tảo lam. Bảng 3: Biến động nhiệt độ và pH theo mùa Thời điểm Nhiệt độ (oC) pH 30,0±1,6a (27,0-33,0) a M ùa khô 7,72±0,5 (6,43-9,20) Giao mùa Khô - M ưa 31,1±1,2b (29,0-34,0) 7,54 ±0,5a (6,96-8,65) ab M ùa mưa 30,5±1,3 (27,0-34,0) 7,74±0,6a (6,58-9,11) b Giao mùa M ưa - Khô 30,9±1,6 (27,5-34,0) 7,55±0,7a (6,55-9,12) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất. 3.2 Tổng vật chất lơ lửng (TSS), lượng hữu cơ lơ lửng (OSS) Hàm lượng tổng vật chất lơ lửng trong nước biến động rất lớn và ở mức cao (3,5–274,2 mg/L). Ở các ao cá khỏe TSS nằm trong khoảng 61,0±47,9 mg/L và khác biệt không ý nghĩa đối với các ao cá bệnh (64,9±49,1mg/L) (Bảng 4). Tuy nhiên, nếu so sánh TSS giữa các ao vào các mùa khác nhau thì thấy rằng TSS thấp nhất vào mùa khô, dao động từ 3,5– 122,7 mg/L (trung bình là 38,4±27,3 mg/L). Trong khi đó vào mùa mưa, hàm lượng TSS tăng cao và đạt giá trị cao nhất, dao động từ 18,5-188,0 mg/L (86,5±47,7 mg/L). Kết quả thống kê cho thấy vào mùa khô hàm lượng TSS thấp hơn có ý nghĩa (P0,05) nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa thời điểm giao mùa khô-mưa với thời điểm mùa mưa (P0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất Bảng 5: Hàm lượng TSS và OSS qua các mùa Thời điểm TSS (mg/L) OSS (mg/L) M ùa khô 38,4±27,3a (3,5-122,7) 20,8±18,1a (1,3-73,6) ab Giao mùa Khô - M ưa 55,7±58,3 (13,8-274,2) 26,3±27,4ab (4,0-112,4) M ùa mưa 86,5±47,7c (18,5-188,0) 39,9±30,2bc (10,5-148,4) Giao mùa M ưa - Khô 69,2±51,6bc (7,9-257,8) 36,2±39,1bc (2,7-207,0) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất Vào mùa mưa, lượng hạt sét chảy tràn vào ao cũng là nguyên nhân làm tăng hàm lượng TSS trong ao. N goài ra, hầu hết các ao nuôi đều được thiết kế hệ thống thay nước hàng ngày nên lượng phù sa từ nước sông được đưa vào ao qua quá trình thay nước, nhất là thời điểm tháng 7–8 (giữa mùa mưa) là thời điểm đỉnh lũ lên cao, hàm lượng TSS trong nước sông rất cao là nguyên nhân làm tăng hàm lượng TSS. Số liệu thống kê ở Bảng 5 cho thấy TSS thấp nhất vào mùa khô (38,4 mg/L), tăng lên (55,7 mg/L) khi bắt đầu mưa (giao mùa khô–mưa), đạt giá trị cao nhất vào mùa mưa (86,5 mg/L) và bắt đầu giảm xuống (69,2 mg/L) khi các chất lơ lửng lắng tụ. Hàm lượng O SS ở các ao được nghiên cứu rất biến động và dao động từ 1,3-148,4 mg/L. Trong đó ở các ao cá bệnh OSS đạt giá trị trung bình 37,7±33,0 mg/L và ở các ao cá khỏe thì thấp hơn, trung bình là 28,1±27,6 mg/L. Hàm lượng này khác biệt không có ý nghĩa (P>0,05) giữa các ao cá bệnh và cá khỏe. Kết quả ở Bảng 5 cũng cho thấy vào thời điểm 4
  5. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ các mùa khác nhau thì hàm lượng OSS biến động cùng qui luật với TSS. Hàm lượng O SS thấp nhất vào mùa khô và cao nhất vào mùa mưa (39,9±30,2 mg/L), mức biến động từ 10,5-148,4mg/L. Hàm lượng OSS vào mùa khô không có sự khác biệt với thời điểm bắt đầu mùa mưa nhưng lại có sự khác biệt đối với các ao vào mùa mưa và giao mùa mưa– khô (P0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất. Bảng 7: Biến động độ đục và phần trăm hữu cơ ở các ao nuôi qua các mùa Thời điểm Độ đục (NTU) OSS (%) M ùa khô 130,5±51,7b (23,3-214,0) 54,1±22,9a (17,0-99,6) Giao mùa Khô - M ưa 89,3±48,8a (42,0-246,3) 49,1±26,3a (7,3-93,8) b M ùa mưa 122,0±59,3 (23,3-263,3) 48,5±21,6a (13,0-90,5) b Giao mùa M ưa - Khô 125,6±86,1 (25,3-261,3) 49,6±19,6a (17,6-80,6) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất 3.4 Oxy hòa tan (DO) và nhu cầu oxy sinh học (BOD) Nhìn chung hàm lượng oxy hòa tan ở các ao nghiên cứu biến động rất lớn qua các đợt thu mẫu. Hàm lượng oxy hòa tan trong các ao cá khỏe dao động từ 0,44–15,9 mg/L và trong các ao cá bệnh là 0,7–12,1 mg/L. Trong một số đợt thu mẫu hàm lượng oxy giảm rất thấp (
  6. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ ao cá khỏe. Hàm lượng BOD trong các ao cá khỏe thường thấp hơn đáng kể so với các ao cá bệnh (ở mức cao nhất lần lượt là 15,6 mg/L so với 23,0 mg/L) (Bảng 8). Kết quả phân tích về tỉ lệ phần trăm hữu cơ trong nước cũng cho kết quả tương tự, ao cá bệnh có tỉ lệ chất hữu cơ cao hơn ao cá khỏe, vì vậy quá trình phân hủy vật chất hữu cơ có thể làm tiêu hao oxy trong môi trường. Hàm lượng BOD vào mùa mưa đạt giá trị cao nhất qua các tháng thu mẫu (7,1±5,1 mg/L) và dao động từ 1,9–23,0 mg/L và khác biệt có ý nghĩa đối với mùa khô và giao điểm mùa Khô-M ưa (P0,05) giữa mùa mưa và mùa khô (P>0,05). Bảng 8: Biến động DO và BOD tại các ao cá khỏe và cá bệnh Tình trạng cá DO (mg/L) BOD (mg/L) Khỏe 5,73±2,77a (0,44–15,90) 4,6±2,8a (0,10-15,60) Bệnh 5,09±3,42a (0,70–12,1) 7,8±6,7b (0,20-23,0) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất Bảng 9: Biến động DO và BOD tại các ao nuôi qua các mùa Thời điểm DO (mg/L) BOD (mg/L) a a M ùa khô 4,53±2,65 (0,40-11,0) 4,7 ± 4,2 (0,2-23,0) Giao mùa Khô - M ưa 4,05±2,19a (1,8-10,9) 3,4 ± 2,3a (1,2-10,6) b M ùa mưa 7,42±2,64 (1,6-15,9) 7,1 ± 5,1b (1,9-23,0) a Giao mùa M ưa - Khô 5,42±2,97 (0,7-10,8) 5,3 ± 3,5ab (0,1-15,0) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất 3.5 TAN và PO 43- Hàm lượng TAN ở các ao nuôi rất biến động và biến thiên trong khoảng 0,033–4,602 mg/L. Khi hàm lượng này vượt mức 2,0 mg/L biểu thị môi trường ao nuôi giàu dinh dưỡng. Đối với các ao cá khỏe, trong tổng số 103 ao quan trắc có 31 ao có hàm lượng TAN lớn hơn 2,0 mg/L chiếm tỉ lệ 30,1%, trong khi đối với ao cá bệnh thì số ao có hàm lượng TAN vượt mức thích hợp là 36,8% (14/38). Như vậy có thể thấy rằng đối với những ao cá bệnh thì giá trị TAN luôn đạt ở mức cao hơn (1,491±1,008 mg/L). Tuy nhiên, hàm lượng TAN giữa các ao cá khỏe và ao cá bệnh khác biệt không có ý nghĩa (Bảng 10). Trong các ao nuôi cá tra thâm canh vào mùa mưa hàm lượng TAN luôn ở mức cao 1,617±1,331 mg/L và trị số cao nhất đạt 4,062 mg/L. Hàm lượng TAN khác biệt không có ý nghĩa giữa các mùa (P>0,05). Bảng 10: Hàm lượng TAN và PO43- trong các ao cá khỏe và cá bệnh Tình trạng cá TAN (mg/L) PO43- (mg/L) Khỏe 1,332 ± 1,150a (0,053 - 4,062) 0,404 ± 0,544a (0,004 - 2,211) Bệnh 1,491 ± 1,008a (0,033 - 3,579) 0,598 ± 0,547a (0,003 - 2,280) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất Theo Boyd (1998) hàm lượng lân hòa tan (PO43-) thích hợp cho ao cá từ 0,005-0,2 mg/L). Kết quả ở Bảng 10 cho thấy ở các ao cá khỏe hàm lượng lân hòa tan dao động từ 0,004–2,211 mg/L, trung bình là 0,404 ± 0,544 mg/L, trong khi đó ở các ao cá bệnh lân hòa tan tồn tại ở mức cao hơn, trung bình là 0,598 ± 0,547 mg/L và cũng biến động hơn từ 0,003 – 2,280 mg/L. Hàm lượng lân hòa tan khác biệt không có ý nghĩa giữa các ao cá khỏe và cá bệnh (P>0,05) nhưng kết quả đã chỉ ra rằng ao nuôi cá tra có hàm lượng lân hòa tan cao hơn rất nhiều so với giới hạn cho phép. Vào mùa mưa thì hàm lượng lân hòa 6
  7. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ tan đạt giá trị trung bình cao hơn các mùa còn lại, nhưng sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê (P>0,05) (Bảng 11). Bảng 11: Hàm lượng TAN và PO43- trong các ao qua các mùa nuôi trong năm Thời điểm TAN (mg/L) PO43- (mg/L) M ùa khô 1,166 ± 0,977a (0,053 - 2,513) 0,559 ± 0,622a (0,004 - 1,973) Giao mùa Khô - 1,322 ± 0,962a (0,033 - 2,836) 0,324 ± 0,436a (0,007 - 1,315) Mưa M ùa mưa 1,617 ± 1,331a (0,110 - 4,062) 0,381 ± 0,487a (0,003 - 2,280) a Giao mùa M ưa - 1,396 ± 1,021 (0,067 - 3,783) 0,484 ± 0,564a (0,007 - 2,211) Khô Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất 3.6 NO 2- và NO 3- - Hàm lượng NO2 trong các ao khảo sát khác biệt không có ý nghĩa (P>0,05). Trong ao cá khỏe hàm lượng này đạt giá trị trung bình là 0,158±0,272 mg/L và ở các ao cá bênh là 0,178±0,211 mg/L. Vào mùa mưa hàm lượng NO2- cao hơn thời điểm giao mùa khô-mưa (P0,1 mg/L và pH0,05), dao động từ 0,12–11,63 mg/L trong các ao cá khỏe và - 0,188–18,00 mg/L trong các ao cá bệnh (Bảng 12). Ở các hàm lượng này, NO3 đã cao hơn giới hạn về chất lượng nước cho ao nuôi cá (Boyd, 1998). Vào mùa khô hàm lượng NO3- cao nhất (4,031±4,603 mg/L) và khác biệt có ý nghĩa so với các mùa còn lại (Bảng 13). M ặc dù nằm trong giới hạn cho phép và là yếu tố không - gây độc đối với cá nhưng nếu hàm lượng NO3 trong nước cao sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng trong ao nuôi. Bảng 12: Hàm lượng NO2 - và NO3 - trong môi trường cá khỏe và cá bệnh Tình trạng cá NO2- (mg/L) NO3- (mg/L) Khỏe 0,158±0,272a (0,001-1,359) 2,198±3,158a (0,122-11,63) Bệnh 0,178±0,211a (0,002-0,666) 2,172±3,590a (0,188-18,00) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất Bảng 13: Biến động hàm lượng NO2 - và NO3 - trong ao nuôi qua các mùa Thời điểm NO2- (mg/L) NO3- (mg/L) M ùa khô 0,131±0,253ab (0,001-1,359) 4,031±4,603c (0,122-18,00) Giao Khô - Mưa 0,092±0,162a (0,002-0,632) 0,927±0,514ab (0,256-2,138) b M ùa mưa 0,243±0,295 (0,034-1,359) 1,495±1,760b (0,194-8,743) ab Giao M ưa - Khô 0,142±0,225 (0,004-0,979) 0,877±1,428a (0,137-5,653) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất 7
  8. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ 3.7 H2S Hàm lượng H2S giữa các ao cá khỏe và cá bệnh khác biệt không ý nghĩa (P>0,05) với giá trị trung bình lần lượt là 0,035±0,081 mg/L và 0,019±0,024 mg/L. Qua kết quả ở Bảng 15 thì hàm lượng H2S vào thời điểm giao mùa khô–mưa ở mức cao nhất (0,096±0,181 mg/L) và khác biệt có ý nghĩa với các thời điểm khác trong năm (P>0,05). Độc tính của H2S là ức chế quá trình phosphoryl hóa, ngăn cản quá trình tái oxy hóa của cytochrome a3 với oxy phân tử, từ đó kìm hãm quá trình trao đổi chất của tế bào, giảm oxy trong máu. Việc phát hiện H2S trong môi trường là dấu hiệu không an toàn đối với tôm cá. Bên cạnh đó, H2S có thể bốc hơi ra ngoài không khí khi nước được luân chuyển (do dòng chảy, sục khí, quạt nước…) nhưng không nhiều do độ hòa tan cao hơn nhiều so với các khí khác và khi chúng tiếp xúc với các kim loại như Cu, Zn, Fe sẽ tạo ra các hợp chất sulfide có độ hòa tan thấp, kết tủa và lắng (Lê Văn Cát et al., 2006). Nhìn chung kết quả H2 S trong các ao nghiên cứu tương đối cao và vượt mức cho phép. Bảng 144: Hàm lượng H2S trong các ao cá khỏe và cá bệnh Tình trạng cá H2S (mg/L) Khỏe 0,035±0,081a (0,001–0,639) Bệnh 0,019±0,024a (0,001–0,135) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất Bảng 155: Biến động hàm lượng H2 S ở các ao nuôi qua các mùa trong năm Thời điểm H2S (mg/L) M ùa khô 0,023±0,029a (0,001-0,160) Giao mùa Khô - M ưa 0,096±0,181b (0,001-0,639) a M ùa mưa 0,022±0,026 (0,001-0,147) a Giao mùa M ưa - Khô 0,017±0,015 (0,002-0,067) Các giá trị trong cùng 1 cột có các chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê(P>0,05). Các giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất 4 KẾT LUẬN M ôi trường nước của các ao cá bệnh có hàm lượng BOD và phần trăm hàm lượng hữu cơ lơ lửng cao hơn các ao cá khỏe (P0,05). Hàm lượng khí độc H2S thường cao vào thời điểm giao mùa Khô-Mưa (P
  9. Tạp chí Khoa học 2008 (1):1-9 Trường Đại học Cần Thơ TÀI LIỆU THAM KHẢO Andrew, D.E, S.C., Lenore, E.G., Arnold, 1995. Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater (19th Edidtion). American Public Health Association (APHA). Boyd, C.E, 1998. Water quality for pond Aquaculture. Deparment of Fisheries and Allied Aquacultures. Auburn University. Alabama 36849 USA. Chapman, D., 1997. Water Quality Assessments. A guide to the use of biota sediments and water in environmental monitoring. Dương Thuý Yên, 2003. Khảo sát một số tính trạng, hình thái, sinh trưởng và sinh lý của cá Basa (P. bocourti), cá tra (P. hypophthalmus) và con lai của chúng. Luận văn Thạc sĩ. Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ. Lawson, T. B., 1995. Fundamental Aquaculture Engineering. Department of Biological Engineering Louisiana State University. Lê Bảo Ngọc, 2004. Đánh giá chất lượng môi trường ao nuôi cá Tra (Pangasius hypophthalmus) thâm canh ở xã Tân Lộc, huyện Thốt Nốt, Thành phố Cần Thơ. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học Môi trường, Đại học Cần Thơ. Lê Văn Cát, Đỗ Thị Hồng Nhung, Ngô Ngọc Cát, 2006. Nước nuôi thủy sản - Chất lượng và giải pháp cải thiện chất lượng. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ Thuật. Nguyễn Chính, 2005. Đánh giá tình hình sử dụng thuốc, hóa chất trong nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus) thâm canh ở An Giang và Cần Thơ . Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học Nuôi trồng thủy sản, Đại học Cần Thơ Nguyễn Thị Dung, P. H. Cương, 2001. Thực nghiệm nuôi cá tra tra trắng trong ao đất. Trung tâm khuyến nông, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang. Schmittou, H. R, 1993. High density fish culture in low volume cages. M.I.T.A. (P) No. 158/12/1992. Vol. AQ41 1993/7. 78 p. Timmons, M.B, M. E., James, W. W., Fred, T. S., Steven and J. V., Brian, 2002. Recirculating Aquaculture Systems (2nd Edition). NRAC Publication No. 01 – 002. Trần Anh Dũng, 2005. Khảo sát các tác nhân gây bệnh trong nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus) thâm canh ở tỉnh An Giang. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học Nuôi trồng thủy sản, Đại học Cần Thơ Trần Văn Nhì, 2005. Đánh giá việc sử dụng các nguồn nguyên liệu địa phương làm thức ăn nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus Sauvage, 1978) trong bè ở An Giang. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học Nuôi trồng thủy sản, Đại học Cần Thơ. Trương Quốc Phú và Yang Yi, 2003. Ảnh hưởng của việc nuôi cá da trơn trong bè đến chất lượng môi trường nước ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Tạp chí Khoa học. Trường Đại học Cần Thơ. Số định kỳ 03 năm 2007. 199: 8 – 17. 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0