intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo khoa học: Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay thành tựu , vấn đề đặt ra và triển vọng

Chia sẻ: Nguyen Khanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:209

475
lượt xem
120
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo khoa học: Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay thành tựu, vấn đề đặt ra và triển vọng. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm nội dung cần thiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo khoa học: Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay thành tựu , vấn đề đặt ra và triển vọng

  1. Häc viÖn chÝnh TrÞ-hµnh chÝnh Quèc Gia Hå ChÝ Minh B¸o c¸o Tæng hîp kÕt qu¶ nghiªn cøu ®Ò tµi khoa häc cÊp bé n¨m 2010 M∙sè: B.10-17 viÖt Nam gia nhËp asean tõ n¨m 1995 ®Õn nay: thµnh tùu, vÊn ®Ò ®Æt ra vµ triÓn väng Cơ quan chủ trì: VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS NGUYỄN THỊ QUẾ Thư ký đề tài: ThS NGUYỄN THỊ MINH THẢO 8257 Hµ néi - 11/2010
  2. DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN 1. Đặng Thị Lan Anh 2. CN. Hà Ngọc Biên 3. ThS. Nguyễn Văn Dương 4. TS. Hoàng Văn Đồng 5. PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp 6. ThS. Phan Thị Thu Hằng 7. ThS. Trịnh Thị Hoa 8. PGS,TS. Thái Văn Long 9. ThS. Uông Minh Long 10. Nguyễn Lương Ngọc 11. ThS. Ngô Chí Nguyện 12. ThS. Phan Duy Quang 13. PGS, TS. Nguyễn Thị Quế Chủ nhiệm đề tài 14. PGS,TS. Phan Văn Rân 15. TS. Phạm Minh Sơn 16. TS. Đinh Thanh Tú 17. ThS. Nguyễn Thị Minh Thảo Thư ký khoa học 18. ThS. Tống Đức Thảo 19. CN Nguyễn Đại Thắng 20. CN Nguyễn Thị Thủy
  3. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT AANZFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtơ-rây-lia – Niu Di-lân ACCI Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu ACFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc ACIA Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN ADB Ngân hàng phát triển châu Á ADMM+ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng AEC Cộng đồng kinh tế ASEAN AFSA Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AIA Hiệp định về Khu vực đầu tư ASEAN AICO Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN AIPO Liên minh Nghị viện ASEAN AMBDC Hợp tác ASEAN về phát triển lưu vực sông Mê Công AMM Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu ¸-Thái Bình Dương APSC Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN ARF Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN ASC Cộng đồng an ninh ASEAN ASCC Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam ¸ ASEM Hội nghị ¸-Âu ASOEN Tổ chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường ATIGA Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN AU Liên minh châu Phi BSA Thoả thuận hoán đổi song phương CAFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc CA-TBD Châu Á - Thái Bình Dương CEPT Hiệp định ưu đãi có hiệu lực chung CLMV Các nước ASEAN-4 (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam) CNĐQ Chủ nghĩa đế quốc CNXH Chủ nghĩa xã hội
  4. CNTB Chủ nghĩa tư bản COC Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông DOC Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông EAEC Cộng đồng Kinh tế Á - Âu EAS Hội nghị cấp cao Đông Á EEC Cộng đồng kinh tế châu Âu EHP Chương trình Thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA EMU Liên minh kinh tế và tiền tệ EU Liên minh châu Âu EWEC Hành lang kinh tế Đông - Tây GDP Tổng thu nhập quốc nội GMS Chương trình hợp tác phát triển tiểu vùng Mêkông mở rộng GNP Tổng thu nhập quốc dân IAI Sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN IDCF Diễn đàn hợp tác và phát triển IAI IMF Quỹ tiền tệ quốc tế JIM Cuộc găp không chính thức Jakarta KHCN Khoa học công nghệ MRC Ủy hội sông Mê Công NSEC Hành lang kinh tế Bắc - Nam OAU Tổ chức thống nhất châu Phi ODA Viện trợ phát triển chính thức PTCSQT Phong trào cộng sản quốc tế SAARC Hiệp hội hợp tác khu vực Nam ¸ SEANWFZ Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân SEC Hành lang kinh tế phía Nam SNG Cộng đồng các quốc gia độc lập TAC Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam ¸ WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa ZOPFAN Khu vực ASEAN hòa bình, tự do và trung lập
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Phần thứ nhất: VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY 13 1. Một số lý thuyết về liên kết khu vực 13 2. Việt Nam gia nhập ASEAN - sự mở đầu tiến trình liên kết của Việt Nam với khu vực 28 3. Những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam- ASEAN sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN 38 Phần thứ hai: NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY 61 1. Quá trình Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN 61 2. Những thành tựu và đóng góp chủ yếu của Việt nam trong hợp tác, liên kết ASEAN 76 3. Những khó khăn, hạn chế và vấn đề đặt ra trong hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN 99 4. Vai trò của hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đối với sự phát triển của Việt Nam 111 Phần thứ ba: TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM TRONG HỢP TÁC LIÊN KẾT ASEAN ĐẾN NĂM 2020 134 1. Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020 134 2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020 162 KẾT LUẬN 176 TÀI LIỆU THAM KHẢO 180
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập ngày 8/8/1967. Từ 5 nước thành viên sáng lập ban đầu, sau 4 lần mở rộng (1984, 1995, 1997, 1999), ngày nay ASEAN đã quy tụ sự tham gia của 10 quốc gia Đông Nam Á. Trên chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động, với dân số hơn 500 triệu người, diện tích 4,5 triệu km2, quy mô GDP đạt gần 900 tỷ USD và tổng giá trị thương mại khoảng 800 tỷ USD. Thành tựu ấn tượng này đã đưa ASEAN trở thành một đối tác giàu tiềm năng của nhiều nước và tổ chức quốc tế, một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công nhất, một thực thể chính trị - kinh tế có vai trò ngày càng nổi bật ở châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên thế giới. Do những lợi thế về vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế- xã hội nên ASEAN có vị thế quan trọng trong quan hệ quốc tế, gắn liền với lợi ích chiến lược và cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của nhiều cường quốc trên thế giới. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khu vực này đã từng là một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đối đầu Đông - Tây với sự chi phối, tương tác rất phức tạp của hình thái tam giác chiến lược Xô - Mỹ - Trung. Quan hệ giữa các nước khu vực, cũng vì thế, bị phân tuyến sâu sắc, thường xuyên căng thẳng giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Bởi vậy, chiến tranh lạnh kết thúc mở ra cơ hội lớn cho các nước ASEAN thực hiện ý tưởng ngay từ khi mới thành lập về thúc đẩy hợp tác, liên kết trên quy mô toàn Đông Nam Á. Sự mở rộng ASEAN-6 thành ASEAN-10 là bước phát triển có ý nghĩa nhất đối với ASEAN trong thập niên 90 của thế kỷ XX. Đây là hệ quả tất yếu của sự điều chỉnh và thích ứng của ASEAN trước bối cảnh quốc tế và khu vực thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Bước sang thế kỷ XXI, tình hình khu vực và thế giới tiếp tục có những thay đổi to lớn và nhanh chóng. Để kịp thích ứng với tình hình mới, ASEAN một lần nữa lại tự điều chỉnh và đổi mới. Hướng đi cho tương lai của Hiệp hội đã được các nước thành viên nhất trí xác định rõ ràng, đó là phải đẩy mạnh liên kết nội khối sâu và toàn diện hơn, hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột (chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội) vào năm 2015, dựa trên cơ sở pháp lý chung là Hiến chương ASEAN. Sự kiện này mở ra bước ngoặt 1
  7. mới đối với sự phát triển của ASEAN trong thế kỷ XXI, đưa ASEAN từ một hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ. Gần hai thập niên qua kể từ năm 1991, sự phát triển năng động của ASEAN cùng với những thành tựu đạt được trong hợp tác, liên kết nội khối và những nỗ lực mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, nhất là với các nước lớn, làm cho ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Vị thế của ASEAN càng trở nên quan trọng hơn không chỉ xét từ góc độ địa - chính trị và quân sự - chiến lược như trước đây, mà cả ý nghĩa địa - kinh tế và văn hoá... Cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó lâu đời. Vào thời điểm tiến hành đổi mới, Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách nghiêm trọng: kinh tế - xã hội khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi tình trạng vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc và thù địch xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp trước hết là do những trở ngại từ “vấn đề Cam-pu-chia”. Đối với Việt Nam, đòi hỏi bức bách đặt ra là phải tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây cô cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức một cách sâu sắc rằng, để có môi trường quốc tế hoà bình và ổn định đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, thì trước tiên phải xây dựng được mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng khu vực. Do vậy, Việt Nam ngày càng chủ động đổi mới tư duy đối ngoại, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”, từng bước hình thành và triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, dành ưu tiên xứng đáng cho việc cải thiện, củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng khu vực, trong đó có các nước ASEAN. Sự cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, tiến tới gia nhập ASEAN (7/1995) là một quá trình Việt Nam xử lý hàng loạt vấn đề đối ngoại phức tạp. Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986), Việt Nam chú trọng thúc đẩy đối thoại với ASEAN, coi việc nhanh chóng đạt được giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề Cam-pu-chia là khâu đột phá trong quan hệ với ASEAN. Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết ngày 23/10/1991 mở ra bước phát triển mới của quan hệ Việt Nam- ASEAN. Sự kiện này còn tác động tích cực đến tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, Việt - Mỹ, từng bước đưa Việt Nam thoát ra khỏi vòng bị bao vây, cô lập kéo dài của các thế lực quốc tế thù địch. 2
  8. Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam năng động phát triển quan hệ với các nước trong Hiệp hội trên cả bình diện song phương lẫn đa phương. Thành tựu đạt được trong quá trình tham gia ASEAN không chỉ giúp Việt Nam tạo lập, củng cố môi trường hòa bình bình xung quanh đất nước, đáp ứng yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, mà còn tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam bảo đảm những lợi ích chiến lược thiết yếu. Việt Nam tranh thủ được các nguồn lực trong khu vực, khai thác lợi thế của ASEAN, phát huy nội lực, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt thế trong quan hệ của Việt Nam với các nước lớn. Nói cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra. Gia nhập ASEAN cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế. Trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam ngày càng tham gia một cách chủ động, tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của Hiệp hội. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng góp đối với sự phát triển các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định lịch sử là tăng cường liên kết, tiến tới xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Vào thời điểm 15 năm của quá trình hội nhập ASEAN, với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của Hiệp hội, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển ở khu vực. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Xét cả về hợp tác đa phương và quan hệ song phương, ASEAN là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, quá trình hơn một thập niên Việt Nam gia nhập ASEAN cũng đặt ra những vấn đề bức xúc, với những khó khăn, hạn chế rất cần thiết phải khắc phục, tháo gỡ. Quan hệ Việt Nam- ASEAN vẫn còn những biểu hiện hạn chế về chất lượng, hiệu quả và chiều sâu, còn thiếu các nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế, an ninh, chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường hợp cụ thể hợp tác kinh tế - thương mại chưa theo kịp những tiến bộ đạt được 3
  9. về chính trị, ngoại giao, chưa tạo được nhiều bước đột phá mới về chất, chưa xây dựng được và khai thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau. Hợp tác Việt Nam - ASEAN vẫn còn bị động đối phó với những vấn đề nhạy cảm và mới nảy sinh, nhất là các vấn đề liên quan đến tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, khủng hoảng và suy thoái kinh tế, sự phối hợp hành động trước các vấn đề khu vực và quốc tế, v.v... Những khó khăn, hạn chế trong việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hợp tác trên nhiều mặt với ASEAN, nhất là việc tháo gỡ những vấn đề nhạy cảm còn tồn đọng, đang và sẽ tác động không thuận chiều đối với môi trường an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong nước và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, cũng như triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN. Yêu cầu phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế đến năm 2020 đang đòi hỏi Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại hoàn chỉnh, trong đó xác định rõ những định hướng phát triển quan hệ với ASEAN. Từ đó sẽ cụ thể hóa thành những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng, tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN trong tình hình mới. Để xây dựng một chiến lược đối ngoại như vậy, thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện và thấu đáo thực tiễn 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (1995 - 2010) và triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN có vị trí, tầm quan trọng nổi bật trong khoa học nghiên cứu các vấn đề quốc tế và chính sách đối ngoại ở nước ta hiện nay. Từ những cách tiếp cận nêu cho thấy, việc nghiên cứu đề tài VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ TRIỂN VỌNG không chỉ có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và khoa học, mà còn mang tính chính trị thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là một đóng góp vào việc cung cấp luận cứ khoa học cho xây dựng một chiến lược phát triển quan hệ của Việt Nam với ASEAN thời kỳ hội nhập và phát triển. Đặc biệt, đề tài càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh (1991) và xây dựng các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI, trong đó có nội dung về quốc tế và chính sách đối ngoại. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong hơn 20 năm Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, những thành tựu đối ngoại, hội nhập quốc tế thu được là hết sức ấn tượng, có sức thu hút lớn đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Một trong những thành tựu đối ngoại nổi bật của Việt Nam là sự phát triển quan hệ với các nước ASEAN, đặc biệt tiến trình hội nhập năng động và ngày càng sâu rộng của Việt Nam với 4
  10. ASEAN kể từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức này (7/1995). Tuy nhiên, cho đến nay trong nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - ASEAN cả ở trong cũng như ngoài nước còn ít các công trình chuyên sâu và tổng hợp, phân tích và đánh giá một cách toàn diện các mặt của quá trình 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN. 2.1. Ở ngoài nước: Trước hết, cần khẳng định trong những năm qua, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về Việt Nam nói chung, trong đó có một số đề cập đến hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nhưng số các công trình lấy quan hệ Việt Nam - ASEAN từ sau năm 1995 đến nay làm đối tượng nghiên cứu chuyên sâu thì hầu như còn quá ít ỏi. Mặc dù vậy, trong khi đánh giá vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như phân tích về đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam, một vài bài viết đã chỉ ra những đóng góp của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN. Trong số đó đáng chú ý là các công trình sau: - Vietnam's Foreign Relations: Dynamics of Change của tác giả Frank Frost (Pacific Affairs, Vol. 67, No. 4/1995); - Ideology and Foreign Policy: Vietnam's Marxist Leninist Doctrine and Global Change, 1986-96 của Eeo Palmujoki (Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1999); - Dosch, Jorn (2006), Vietnam's ASEAN Membership Revisited: Golden Opportunity or Golden Cage?, Contemporary Southeast Asia, Journal of International and Strategic Affairs, Volume 28, Number 2, August - Việt Nam quan tâm đến việc xây dựng những cân bằng chiến lược mới, của Madhur Singh (Hindustan Times, New Delhi, 20/6/2007); - Vị thế Việt Nam tiếp tục được khẳng định trên trường quốc tế và khu vực (Tổng thuật bài viết của các nhà nghiên cứu nước ngoài, Thông tin Những vấn đề chính trị - xã hội, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, số 9-2007). Các công trình kể trên, khi phân tích những bước điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam từ giữa thập niên 80 - đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đã khẳng định những thành tựu đối ngoại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra một số điểm thay đổi chủ yếu trong quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN. Tuy vậy, các công trình này mới chỉ tiếp cận một số mặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN, chưa có được cái nhìn tổng thể, toàn diện. Do đó, những nhận định, đánh giá của họ còn biểu hiện phiến 5
  11. diện, nhất là lại được nhìn qua lăng kính hệ tư tưởng và lợi ích quốc gia của cá nhân các nhà nghiên cứu. Trong số các công trình liên quan đến đề tài ở ngoài nước, đáng chú ý hơn cả là sự xuất hiện các bài viết và tác phẩm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc bàn về chính sách đối ngoại Việt Nam như: Thử bàn chiến lược ngoại giao và chính sách ngoại giao của Việt Nam sau Chiến tranh lạnh của tác giả Trịnh Thuý Anh (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/2001); Bàn về mở cửa đối ngoại và chính sách ngoại giao của Việt Nam của Lưu Man Na - Triệu Thụ Hải (Học báo Học viện Dân tộc Tây Nam, số 5/1997); Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam từ khi đổi mới của Vương Quốc Bình (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2006); Ngoại giao Việt Nam từ “nhất biên đảo” đến “đi cân bằng” của Hoàng Thắng Vĩ (T/c Tri thức thế giới, số 11/2001), v.v... Các công trình này đánh giá cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong đó cũng chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong quan hệ Việt Nam - ASEAN. Tuy còn khá mờ nhạt, nhưng quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng được giới học giả nước ngoài đề cập trong một số công trình nghiên cứu chung về ASEAN như: Đông Nam Á- Chặng đường dài phía trước (Lim Chong Yah, Nxb Thế giới, HN 2002); ASEAN - Tri dexatiletia vnhesnhây politiki (1967- 1997) (N.P Malentin, MIMO, 1999); A New ASEAN in the New Millennium (Simon Tay, Jusus Estanislao, Hadi Soesastro, Centre for Strategic and International Studies, Singapore.2001); ASEAN Beyond the Regional Crisis: Challenges and Initiatives (Mya Than, ISEAS. 2001; Free Trade Agreement in Southeast Asia (Rahui Sen, ISEAS 2004); Roadmap to an ASEAN Economic Comunity (Denis Hew, ISEAS 2005); ASEAN Economic Co-operation (Linda Low, ISEAS 2005); ASEAN and Regionalism (Rodolfo Severino, ISEAS. 2005);... Các tác giả nêu trên, khi phân tích về tiến trình liên kết ASEAN đã có cách nhìn khá khách quan đối với sự tham gia của Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh những khó khăn mà Việt Nam cũng như các nước thành viên mới khác của ASEAN phải đối mặt khi triển khai các chương trình hợp tác, liên kết kinh tế của Hiệp hội do sự chênh lệch về trình độ phát triển. 2.2. Những nghiên cứu trong nước: Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, thì ở nước ta cũng diễn ra một sự “bùng nổ” rất đáng khích lệ của công tác nghiên cứu về quốc tế và quan hệ đối ngoại. Các nhà nghiên cứu trong nước không chỉ ngày càng quan tâm đến những vấn đề quốc tế, mà còn đặc biệt chú trọng các vấn đề lý luận và thực tiễn đối ngoại Việt 6
  12. Nam. Hàng loạt công trình nghiên cứu đã ra đời, cung cấp cho người đọc khối lượng tri thức phong phú, đa chiều và tương đối toàn diện về đường lối, chính sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam, trong đó có nhiều công trình liên quan trực tiếp quan hệ Việt Nam - ASEAN kể từ khi nước ta chính thức gia nhập ASEAN. Sự hiện diện một cách đông đảo các tác giả trong nước với các công trình, bài viết liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ đề quan hệ Việt Nam - ASEAN cho thấy rõ tính cấp thiết về khoa học và thực tiễn đối với công tác nghiên cứu mối quan hệ này. Tựu chung lại, có thể chia thành 5 loại công trình chủ yếu sau: Thứ nhất: Các công trình đề cập quan hệ Việt Nam- ASEAN trong nghiên cứu tổng thể về chính sách và hoạt động đối ngoại Việt Nam. Các công trình này dành một dung lượng nhất định phân tích vai trò của ASEAN trong hoạt động đối ngoại Việt Nam, nêu một số thành tựu và sự chuyển biến cơ bản trong quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đó là các công trình: Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000 (Nguyễn Đình Bin, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002); Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002) (Vũ Dương Huân chủ biên, Học viện Quan hệ Quốc tế, 2002); Quá trình triển khai thực hiện chính sách đối ngoại của Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam (Trình Mưu, Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp đồng chủ biên, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005); Hai mươi năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại (Vũ Khoan, trong “Việt Nam 20 năm đổi mới”, Nxb. CTQG, HN, 2006); Bước phát triển tư duy đối ngoại của Đảng trong quan hệ các nước láng giềng và khu vực thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Mai Hoa, T/c Lịch sử Đảng số 5-2005); Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế (Vũ Như Khôi, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006); Chủ động hội nhập kinh tế, những thành tựu quan trọng (Lương Văn Tự, trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb CTQG, HN, 2006),... Thứ hai: Các công trình nghiên cứu quan hệ Việt Nam - ASEAN dưới góc độ tổng kết thực tiễn của các cơ quan trực tiếp làm công tác đối ngoại. Điểm nổi bật của các công trình này là đều từ thực tiễn phát triển của mối quan hệ khái quát nên các bài học kinh nghiệm và đề xuất kiến nghị xử lý những vấn đề đối ngoại liên quan. Một số công trình sau được hoàn thành vào trước thời điểm diễn ra Đại hội X của Đảng và đã có những tổng kết, đánh giá về quá trình hội nhập ASEAN của Việt Nam: Tổng kết chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta qua 20 năm đổi mới (Vụ Chính sách đối ngoại, Bộ Ngoại giao); Tổng kết chính sách và quan hệ của Đảng và Nhà 7
  13. nước ta với khu vực Đông Nam Á từ 1986 đến nay (Vụ châu Á 2, Bộ Ngoại giao); Tổng kết chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta và quá trình hội nhập quốc tế của ta từ 1986 đến nay (Vụ Hợp tác kinh tế đa phương). Thứ ba: Các công trình phân tích quá trình hợp tác và liên kết ASEAN, trong đó quan hệ Việt Nam - ASEAN được xem xét với mức độ khác nhau. Nhìn chung trong các công trình này, quan hệ của Việt Nam với ASEAN được đề cập trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, không ít công trình đã chỉ ra những thuận lợi và khó khăn, vai trò và những đóng góp của Việt Nam trong liên kết khu vực, vấn đề Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của ASEAN đối với việc thực hiện các mục tiêu chính sách đối ngoại của mình,… Các công trình thuộc loại này rất đông đảo về số lượng như: ASEAN những vấn đề và xu hướng (Viện nghiên cứu Đông Nan Á, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997); Từ ASEAN 7 đến ASEAN 10: Một Đông Nam Á thống nhất và thách thức (Nguyễn Quốc Hùng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998); Từ ASEAN 7 tới ASEAN 10 - Cơ hội hay là thách thức (Nguyễn Thu Mỹ, T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1997); ASEAN Hôm nay và triển vọng (Nxb. CTQG, Hà Nội, 1998); Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển bền vững (Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001); Thành tựu, thách thức và triển vọng giao lưu, phát triển văn hoá thông tin các nước ASEAN (Lê Thanh Bình, T/c Nghiên cứu quốc tế, 2/2001); Thu hẹp khoảng cách phát triển- Thách thức mới trong liên kết ASEAN (Đào Việt Hưng, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, 6/2002); Hợp tác và liên kết ASEAN trong những thập niên qua: Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm (Trần Khánh, T/c Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, 6/2003); Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá (Trần Khánh chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2002); Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI (Phạm Đức Thành chủ biên, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2006); … Thứ tư: Các công trình trực tiếp nghiên cứu quan hệ Việt Nam - ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong các cơ chế hợp tác, liên kết ASEAN. Các công trình thuộc loại này tập trung phân tích hợp tác của Việt Nam với ASEAN và triển vọng trong những lĩnh vực cụ thể; một số công trình có sự đánh giá khái quát tiến trình hội nhập ASEAN của Việt Nam ở những giai đoạn khác nhau. Có thể thấy rõ điều này qua một số công trình, bài viết như: Quan hệ văn hoá Việt Nam - ASEAN: Một cách tiếp cận (Lê Đình Tự, T/c Nghiên cứu quốc tế, 5/1997); Tiến trình mở rộng quan hệ Việt Nam - ASEAN (Đinh Xuân Lý, T/c Cộng sản, số 15/1999); Những nhân tố thúc đẩy và hạn chế hợp tác an ninh chính trị Việt Nam - ASEAN trong 5 năm qua (Ngô Hữu Mạnh, T/c Nghiên cứu quốc tế, 4/2000); Nhìn lại 5 năm hợp tác với ASEAN trong lĩnh 8
  14. vực môi trường biển và vùng ven bờ (Nguyên Chu Hồi, Báo cáo tại Hội nghị tổng kết 5 năm Việt Nam hợp tác với ASEAN trong lĩnh vực môi trường, HN 2000); Vai trò của ASEAN trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam (Hoa Hữu Lân, T/c Nghiên cứu quốc tế, 3/2000); Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào hệ thống thương mại nội bộ ASEAN (Từ Thanh Thuỷ, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, 2/2001); Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam dưới tác động của tiến trình AFTA (Nguyễn Bích Hường, T/c Những vấn đề KTTG, 5/2003); Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song phương (Vũ Dương Ninh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004); Việt Nam, vai trò và những đóng góp đối với ASEAN (Trần Đức Cường, T/c Nghiên cứu ĐNA, 5/2004); Hướng tới cộng đồng an ninh ASEAN: Triển vọng và vai trò của Việt Nam (Luận Thùy Dương, T/c Nghiên cứu quốc tế, 3/2005); 40 năm hợp tác, liên kết ASEAN và đóng góp của Việt Nam (Nguyễn Hoàng, T/c Lý luận chính trị, 8/2007); Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham gia của Việt Nam (Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị Quế, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2008);… Thứ năm: Các công trình và bài viết về sự phát triển quan hệ của Việt Nam với từng nước ASEAN. Đây là một hướng nghiên cứu đa dạng về hình thức, từ hội thảo khoa học đến bài viết và nhiều tác phẩm chuyên khảo, đồng thời cũng rất phong phú về nội dung, bao gồm nhiều lĩnh vực từ chính trị, an ninh đến kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật... Chẳng hạn các công trình như: Giao lưu và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước láng giềng (Bùi Danh Lưu, Nxb Giao thông, Hà Nội, 2003); Tổng quan hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Lào (1991-2001) (Nguyễn Hoàng Giáp, T/c Những vấn đề KTTG, 4/2001); 35 năm quan hệ láng giềng gần gũi Việt Nam - Cam-pu- chia (Vũ Dương Huân, T/c Nghiên cứu quốc tế, số 4/2002); Ba mươi năm quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào (1977-2007) (Nguyễn Hào Hùng, T/c Nghiên cứu ĐNA, 8/2007); Quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia trong bối cảnh mới (Hội thảo khoa học quốc tế, ngày 30/5/2007 của Viện KHXH Việt Nam); Quan hệ kinh tế biên giới Việt Nam- Cam-pu-chia (Trần Văn Tùng, T/c Cộng Sản, số 2+3/2006); Quan hệ Việt Nam- Xinh-ga-po từ 1975-2007 (Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2008), Quan hệ với các nước láng giềng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm 1991 đến nay (Đề tài cấp Bộ năm 2009, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, do Nguyễn Hoàng Giáp làm chủ nhiệm),… Nhìn chung, với số lượng lớn và nội dung phong phú, tất cả các công trình, bài viết nêu trên đã phác họa một cách tổng quát tiến trình hội nhập khu 9
  15. vực của Việt Nam. Nhiều công trình trong số đó đã đi sâu luận bàn một số khía cạnh của quan hệ Việt Nam - ASEAN từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN trở lại đây. Và đây thực sự là những tài liệu hết sức quan trọng, hữu ích có thể khai thác, kế thừa và tham khảo trong quá trình nghiên cứu về nội dung của đề tài “Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm 1995 đến nay: Thành tựu, vấn đề đặt ra và triển vọng”. Mặc dù, phần lớn các công trình đó, về cơ bản là phân tích các mối quan hệ đơn lẻ của Việt Nam với các nước ASEAN, hoặc trong một lĩnh vực cụ thể nào đó của quan hệ Việt Nam - ASEAN. Hơn thế, một số công trình, bài viết cũng mới chỉ tập trung chủ yếu vào việc giải thích hoặc minh họa chính sách đối ngoại theo quan điểm của Đảng, mà chưa thật sự có sự khái quát trong chiều sâu lý luận cần thiết, đồng thời cũng chưa có những đột phá trong việc đánh giá, dự báo chiều hướng, triển vọng của quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đây là những vấn đề rất cần thiết phải được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ trên cơ sở phân tích thực tiễn và động thái phát triển của mối quan hệ này. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1.Mục tiêu của đề tài Dựa trên sự phân tích tiến trình Việt Nam tham gia ASEAN từ 1995 đến nay, đề tài làm rõ những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam - ASEAN; từ đây dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: 1) Nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn của việc Việt Nam gia nhập ASEAN, những nhân tố tác động đến sự vận động quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến 2010. 2) Phân tích những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam - ASEAN kể từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN đến 2010, chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và khó khăn hạn chế đó. 3) Phân tích và dự báo triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020. 4) Nghiên cứu cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa chất lượng, hiệu quả hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế. Đề tài 10
  16. vận dụng những quan điểm cơ bản về đối ngoại, về đoàn kết và hợp tác quốc tế, về mối quan hệ với láng giềng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tình hình thế giới, về hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại đổi mới (Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết Hội nghị TW về đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế), coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận, định hướng tư tưởng và khoa học để thực hiện đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành, chủ yếu là: + Phương pháp nghiên cứu kết hợp lịch sử với lôgic: Vận dụng quan điểm lịch sử để nêu rõ tính kế thừa, đồng thời làm nổi bật những điều chỉnh trong quan điểm chính sách của Việt Nam đối với các nước ASEAN trong các giai đoạn khác nhau của thời kỳ đổi mới. Mặt khác, nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - ASEAN được đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể sau chiến tranh lạnh. + Phương pháp nghiên cứu hệ thống: Qua đó đem lại sự hiểu biết về hệ thống các quan điểm đối ngoại, hệ thống các khái niệm trong nhận định tình hình khu vực và thế giới, hệ thống về đường lối chính sách đối ngoại của nước ta thời kỳ Đổi mới, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay... + Phương pháp nghiên cứu quốc tế: Đặt quan hệ của Việt Nam - ASEAN và quá trình hội nhập của Việt Nam với ASEAN trong những xu thế chung của quan hệ quốc tế, để từ đó phân tích các nhân tố tác động vào quá trình vận động của quan hệ Việt Nam - ASEAN. + Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phân tích từ các sự kiện, các số liệu và từ các cuộc tiếp xúc để đánh giá khách quan mặt được và mặt chưa được trong quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN. + Phương pháo dự báo: Nêu lên xu hướng phát triển của tình hình thế giới đến năm 2020 trên những cứ liệu khoa học đáng tin cậy. Từ đó đưa ra những dự báo về triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN, cũng như đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây: 11
  17. - Góp phần luận giải một cách khoa học và làm rõ thêm những quan điểm cơ bản trong chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển quan hệ với ASEAN trong giai đoạn hiện nay, chỉ rõ những bước điều chỉnh linh hoạt và sự bổ sung nội dung chính sách đó trên cơ sở những nhận thức mới của Đảng ta trước thực tiễn mới trong nước và quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh. - Góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiên cứu về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam nói chung, chính sách và quan hệ với ASEAN nói riêng trong thời kỳ đổi mới. - Đối với các ngành khoa học có liên quan, đề tài sẽ góp phần cung cấp những nhận thức mới về chính sách của Việt Nam đối với một trong những đối tác được ưu tiên hàng đầu của Việt Nam hiện nay là ASEAN. Mặt khác, nâng cao thêm nhận thức về sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta đối với tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thông qua tiến trình 15 năm nước ta tham gia hợp tác, liên kết trong khuôn khổ ASEAN. - Góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn đối với việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong củng cố, phát triển quan hệ với các nước ASEAN từ nay đến năm 2020, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước. - Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với những cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng và an ninh. Với ý nghĩa trên, sau khi được nghiệm thu, đề tài sẽ là nguồn tư liệu phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu về chính trị quốc tế, quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài có cấu trúc gồm 3 phần: Phần thứ nhất: Việt Nam gia nhập ASEAN và những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay Phần thứ hai: Những thành tựu, khó khăn hạn chế và vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay Phần thứ ba: Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN và một số giải pháp tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt trong hợp tác liên kết ASEAN đến năm 2020. 12
  18. Phần thứ nhất VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY 1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ LIÊN KẾT KHU VỰC 1.1. Khái niệm về liên kết khu vực, chủ nghĩa khu vực và các hình thức biểu hiện của chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc tế hiện đại * Về liên kết khu vực Liên kết khu vực "là một trong nhiều hình thức liên kết, liên minh, tập hợp lực lượng đã và đang tồn tại trong lịch sử nhân loại. Đây là kiểu liên kết đa phương giữa các nước, nhóm nước, dựa trên cơ sở gần gũi về mặt địa lý và thường được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế"1. Theo khái niệm này, các quốc gia có vị trí địa lý gần gũi nhau, tuy khác nhau về thể chế chính trị, về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa, tôn giáo,… song đều có một nhu cầu chung là hợp tác để tăng cường thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế, thì có thể liên kết với nhau tạo nên một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội mới. Và cho đến nay sự phát triển các mô hình liên kết ở phạm vì không gian khu vực đang thể hiện đó là một quy mô thích hợp đối với việc điều tiết nền kinh tế thế giới. * Về chủ nghĩa khu vực Lý luận về chủ nghĩa khu vực được phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XX gắn liền với kinh nghiệm thực tế là quá trình hội nhập của khu vực Tây Âu với sự phát triển nhiều trường phái lý luận khác nhau. Trong đó phải kể đến lý luận của trường phái liên chính phủ (intergovernmentalism) đứng đầu là Stanley Hoffmann với quan điểm cho rằng tiến trình hội nhập không có nghĩa là các quốc gia tham gia hội nhập mất đi quyền lực của mình, tiến trình hội nhập chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các chính phủ thành viên, và do vậy nó mang tính chất liên chính phủ nhiều hơn là tính chất siêu quốc gia. Thực chất của sự hội nhập là việc các quốc gia thành viên tự nguyện tham gia vào các hiệp định nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề chung trên cơ sở sự đồng thuận và nhất trí giữa họ. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ XX, sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và những tiến triển trong quá trình hội nhập trên thực tế giữa 1 Trần Khánh, Liên kết ASEAN - Xét từ góc độ lý luận của khu vực hóa, Tạp chí Cộng sản , số 47 - 2003 13
  19. các quốc gia ở khu vực châu Á, châu Phi và châu Mỹ với sự ra đời của rất nhiều các tổ chức khu vực, các khối kinh tế khu vực và tiểu khu vực, các khu vực mậu dịch tự do,… khiến cho những lý luận về chủ nghĩa khu vực được bổ sung và có bước phát triển mới trên cơ sở chắt lọc các tư tưởng lý luận về hội nhập khu vực, được gọi là "chủ nghĩa khu vực mới" để phân biệt với những lý luận của thời kỳ trước (còn được gọi là lý luận cổ điển về chủ nghĩa khu vực). "Chủ nghĩa khu vực mới" được giới học giả nhìn nhận và phân tích từ nhiều góc độ. Trong mối quan hệ giữa chủ nghĩa khu vực với toàn cầu hóa,"chủ nghĩa khu vực mới" là phản ứng, và ở một chừng mực nào đó, là sự điều chỉnh những tác động tiêu cực có thể phát sinh từ tiến trình toàn cầu hóa. Từ góc độ kinh tế-chính trị, "chủ nghĩa khu vực" những năm 90 của thế kỷ XX là sự biểu hiện tập trung của cạnh tranh quyền lực kinh tế-chính trị trong nền kinh tế toàn cầu, trong bối cảnh đan xen giữa các dòng chảy liên khu vực và trong nội bộ khu vực2. Chủ nghĩa khu vực mới không chỉ thuần túy coi nhà nước là chủ thể chi phối tiến trình hội nhập mà còn đề cập đến vai trò của các nhân tố phi nhà nước như mạng lưới các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia và các lực lượng xã hội trong khu vực. Không chỉ nhấn mạnh yếu tố sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế - chính trị đối với tiến trình hội nhập khu vực, chủ nghĩa khu vực mới còn thừa nhận vai trò không nhỏ của các yếu tố tư tưởng và bản sắc văn hóa. Một đặc trưng khác biệt với chủ nghĩa khu vực cổ điển trước đây là chủ nghĩa khu vực mới mang tính chất "mở", toàn diện và đa dạng về hình thái và thành phần (chủ nghĩa khu vực cổ điển mang nặng tính chất đóng và bảo hộ với những hạn chế trong các lĩnh vực hợp tác và tập trung vào nhân tố nhà nước). Tính chất mở của chủ nghĩa khu vực thể hiện ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất là xu thế mở rộng số lượng thành viên của các tổ chức hợp tác khu vực. Dưới tác động của xu thế toàn cầu hóa, trong hai thập kỷ gần đây, thị trường thế giới và khu vực phát triển mạnh mẽ cả về tốc độ và quy mô, các tổ chức khu vực đều có nhu cầu nội tại tăng cường ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế và điều này kéo theo việc các tổ chức khu vực không còn khép kín với số lượng thành viên ban đầu nữa (trường hợp của EU, NAFTA, ASEAN,…). Thứ hai là sự đa dạng về thể chế chính trị và trình độ phát triển của các thành viên tham gia vào tổ chức khu vực. Đây cũng là một yếu tố mới của tiến trình hợp tác khu vực gắn liền với sự thay đổi của cục diện thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. 2 Đinh Thị Hiền Lương, Chủ nghĩa khu vực các trường phái tiếp cận lý thuyết, www.hocvienngoaigiao.org.vn 14
  20. Thứ ba là sự mở rộng hợp tác, liên kết giữa các tổ chức khu vực với nhau, hình thành khái niệm về sự hợp tác liên khu vực. Các tổ chức khu vực không chỉ giới hạn sự hợp tác, liên kết kinh tế của mình trong nội bộ khu vực mà còn mở rộng hợp tác kinh tế với các khu vực khác hoặc là sự ra đời của các tổ chức mang tính liên khu vực (APEC là một ví dụ). Thứ tư là hiện tượng một quốc gia có thể đồng thời là thành viên của vài tổ chức hợp tác kinh tế khu vực khác nhau (Ví dụ như Mỹ và Ca-na-đa vừa là thành viên của NAFTA vừa là thành viên của APEC hay Việt Nam vừa là thành viên của ASEAN vừa là thành viên của APEC). * Các hình thức biểu hiện của chủ nghĩa khu vực trong quan hệ quốc tế đương đại Chủ nghĩa khu vực được thể hiện trên thực tế thông qua sự hình thành các tổ chức khu vực và liên khu vực. Sự hình thành các tổ chức này có thể dựa trên sự gần gũi về địa lý hoặc sự tương đồng về ngôn ngữ và văn hóa và sự liên kết, hợp tác giữa các yếu tố cấu thành tổ chức có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự,… Các liên kết theo khu vực dựa trên cơ sở gần gũi về địa lý: Đặc điểm các nước tham gia vào liên kết này có thể có trình độ phát triển và chế độ chính trị khác nhau. Ví dụ như trường hợp Liên minh châu Âu: thành viên của tổ chức này bao gồm cả các nước có trình độ phát triển cao (Anh, Pháp, Đức), các nước có trình độ phát triển trung bình (như Bồ Đào Nha, Hy Lạp) và các nước đang phát triển (như Bun-ga-ri, Ru-ma-ni). Các nước thành viên của tổ chức ASEAN cũng có trình độ phát triển không đồng đều như vậy và trong đó còn có các nước có thể chế chính trị khác nhau. Các liên kết khu vực và liên khu vực dựa trên cơ sở gần gũi về truyền thống lịch sử, văn hóa tôn giáo: Đây là xu thế lâu dài nhất trong các liên kết, liên minh. Nó dựa trên cơ sở khách quan là sự gần gũi giữa các dân tộc về mặt tôn giáo như Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), Nhóm 8 nước Hồi giáo đang phát triển (D-8); hay sự tương đồng về văn hóa và ngôn ngữ như Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie), Khối các nước nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha gồm 27 nước (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và 25 nước ở Trung Mỹ và Mỹ La-tinh),... Các hình thức liên kết khu vực theo lĩnh vực, gồm: - Liên kết trong lĩnh vực kinh tế: Là hình thức liên minh phổ biến nhất. Nó chủ yếu gắn với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nhưng cũng chịu chi phối của các nhân tố khác. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0