intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo khoa học: "Ý NGHĨA CỦA BIỂU THỨC NGÔN NGỮ CỐ ĐỊNH DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA THUYẾT TÍN HIỆU NGÔN NGỮ CỦA FERDINAND DE SAUSSURE"

Chia sẻ: Nguyễn Phương Hà Linh Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

92
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt: Biểu thức ngôn ngữ cố định (BTNNCĐ) trong tiếng Anh là một vấn đề ngôn ngữ phức tạp nhưng rất đáng nghiên cứu. Chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn về con đường hình thành ý nghĩa của các BTNNCĐ dựa trên các luận điểm cơ bản của F. de Saussure về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo khoa học: "Ý NGHĨA CỦA BIỂU THỨC NGÔN NGỮ CỐ ĐỊNH DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA THUYẾT TÍN HIỆU NGÔN NGỮ CỦA FERDINAND DE SAUSSURE"

  1. Ý NGHĨA CỦA BIỂU THỨC NGÔN NGỮ CỐ ĐỊNH DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA THUYẾT TÍN HIỆU NGÔN NGỮ CỦA FERDINAND DE SAUSSURE ThS. HOÀNG THỊ MINH PHÚC Bộ môn Anh văn Khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Biểu thức ngôn ngữ cố định (BTNNCĐ) trong tiếng Anh là một vấn đề ngôn ngữ phức tạp nhưng rất đáng nghiên cứu. Chúng ta sẽ có cái nhìn rõ hơn về con đường hình thành ý nghĩa của các BTNNCĐ dựa trên các luận điểm cơ bản của F. de Saussure về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ. Summary: Foreign language has become a compulsory subject in the curriculums of most of the universities in our country for many years. How to teach and learn foreign languages effectively has been mentioned by many specialists. In this report, only some necessary factors to learn foreign languages successfully in class time and some basic teaching methods are introduced. CNTT- CB hình thức và nội dung của các BTNNCĐ là gì, chúng chi phối nhau như thế nào? Ý nghĩa của I. ĐẶT VẤN ĐỀ các BTNNCĐ được hình thành ra sao nếu Ferdinand de Saussure là một nhà ngôn xem xét chúng dưới ánh sáng của lý luận về ngữ học lớn, người đã có công dọn đường cho bản chất tín hiệu ngôn ngữ? Đó là các vấn để ngôn ngữ học của thế kỷ XX. Dẫu cho số chúng tôi gắng làm sáng tỏ trong bài báo này. lượng tác phẩm ông để lại không nhiều, 1. Các luận điểm cơ bản của nhưng ông đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi Ferdinand de Saussure về bản chất tín hiệu nhất của ngôn ngữ học, bởi vậy trong ngôn của ngôn ngữ ngữ học “không có một nhà nghiên cứu nghiêm túc nào ngày nay lại có thể bỏ qua + Đặc trưng tín hiệu của ngôn ngữ: không nói đến” những luận điểm cơ bản của Saussure quan niệm ngôn ngữ là một cái F. de Saussure, đặc biệt là về bản chất tín hiệu gì đó hai mặt bao gồm khái niệm và hình ảnh của ngôn ngữ. âm thanh (Concept /Image acoustique). Tín Khi nghiên cứu biểu thức ngôn ngữ cố hiệu ngôn ngữ liên kết một khái niệm với một định (BTNNCĐ) trong văn bản khoa học hình ảnh âm thanh chứ không phải một sự vật tiếng Anh, mặt ý nghĩa của chúng được chúng với một tên gọi. Hai yếu tố này gắn bó khăng tôi đặc biệt lưu tâm. Vậy mối liên quan giữa
  2. khít với nhau và đã có cái này là có cái kia. tuyến, một ngữ đoạn” [6:154]. Theo Saussure Ông khẳng định “Ngôn ngữ có thể so sánh với đây là nguyên lý rất quan trọng chi phối toàn bộ cơ chế của ngôn ngữ. Khác với những loại một tờ giấy, mặt phải là tư duy, mặt trái là âm tín hiệu nhìn thấy được khác vốn có thể kết thanh; không thể cắt mặt phải mà không đồng hợp cùng một lúc trên nhiều chiều, những cái thời cắt luôn cả mặt trái; trong ngôn ngữ biểu hiện nghe được chỉ sử dụng tuyến thời cũng vậy, không thể nào tách biệt âm thanh ra gian, những yếu tố của nó hiện ra lần lượt cái khỏi tư tưởng, và cũng không thể tách biệt tư tưởng ra khỏi âm.” [1:197] Ông gọi tổ hợp này tiếp theo cái kia làm thành một chuỗi. này là “tín hiệu” (sign), hình tượng âm thanh Một khi âm thanh được thay thế bằng văn tự, được ông gọi là “cái biểu hiện” (signifier), và trật tự chữ cái sẽ thay thế cho trật tự thời gian, khái niệm là “cái được biểu hiện” (signified). và quan hệ tuyến tính được thể hiện rõ ràng Đây không đơn thuần chỉ là sự thay đổi tên hơn. thuật ngữ mà là đưa thuật ngữ lên bậc phạm + Giá trị của tín hiệu ngôn ngữ: trù trừu tượng và lôgich. Xuất phát từ quan điểm ngôn ngữ là một hệ thống, mọi yếu tố trong đó đều gắn bó Khái ni m khăng khít với nhau, Sausure quan niệm giá Khái(Concept) niệm (Concept) trị của một từ chỉ thực sự được xác định với sự giúp đỡ của những cái gì tồn tại bên ngoài Hình ảnh âm thanh Hình nh âm (Image Acoustique) từ đó. Vốn là thành phần của một hệ thống, nó thanh (Image không những mang một ý nghĩa mà còn mang chủ yếu một giá trị. Ví dụ từ rice trong tiếng CNTT_C B + Tính võ đoán của tín hiệu Anh có thể có một ý nghĩa như từ gạo trong tiếng Việt, nhưng lại không có cùng một giá Mối tương quan giữa cái biểu hiện và cái trị do nhiều nguyên nhân khác nhau Để chỉ được biểu hiện là võ đoán. Cùng một ý niệm món đồ ăn đã được nấu chín từ gạo, người được thể hiện bằng những lớp vỏ âm thanh Việt dùng từ cơm, để chỉ loại hạt thu được từ khác nhau trong các cộng đồng ngôn ngữ khác cây lúa người Việt dùng từ thóc, để chỉ những nhau, ví dụ chị/em gái (tiếng Việt), sister hạt gạo bị gẫy nhỏ người Việt dùng từ tấm… (tiếng Anh), sestra (tiếng Nga), và sœur (tiếng Pháp). Theo Saussure, những lớp vỏ âm thanh Sausure đã chỉ ra rằng trong nội bộ một đó được hình thành “không có nguyên do, ngôn ngữ, tất cả các từ biểu hiện những khái nghĩa là nó võ đoán đối với cái được biểu niệm lân cận đều giới hạn lẫn nhau. Các từ hiện, vì trong thực tế nó không có một mối đồng nghĩa có giá trị riêng chỉ vì nó đối lập liên quan tự nhiên nào với cái đó” [1:124] với nhau. Ngược lại, nhiều từ trở nên phong phú thêm nhờ sự tiếp xúc với những từ khác. + Tính hình tuyến của cái biểu hiện Do đó ông đi đến một luận điểm quan trọng Trong ngôn ngữ, “cái biểu hiện chỉ là “Giá trị của bất cứ yếu tố nào cũng đều do một loại âm thanh, bắt buộc phải xuất hiện những yếu tố xung quanh quy định” [1:202] theo một trình tự, không thể xuất hiện đồng và chỉ trong ngữ cảnh cụ thể mới có thể xác thời, vì thế nó là một thời gian, một hình định được giá trị của chúng.
  3. nhấn mạnh quan hệ cấu trúc, đề cao hình thức Điều rất quan trọng trong luận điểm của của ông đã gây ra nhiều tranh luận cũng như Saussure làm cơ sở giải thích giá trị ngữ nghĩa dẫn đến những nhận thức không đúng về của ngôn ngữ là tính hai mặt và tính tầng bậc nghĩa. của tín hiệu ngôn ngữ. Tính võ đoán dẫn đến khả năng biểu hiện vô hạn và không lường Vậy khi nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa trước được của ngôn ngữ. Chính sự linh hoạt của các BTNNCĐ chúng tôi dựa trên cơ sở lý giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện tạo ra thuyết nào? Ngôn ngữ là một hệ thống chức bức tranh đa dạng của ngôn ngữ với các hiện năng, mỗi đơn vị thực hiện một chức năng tượng như đa nghĩa, mở rộng nghĩa hoặc thay nhất định. Theo quan điểm của chúng tôi, đổi nghĩa. Giá trị của mỗi tín hiệu ngôn ngữ nghĩa là một thực thể tinh thần, tức là một được xác định dựa trên quan hệ đối lập giữa hình thức do con người và được con người tạo hai trục liên tưởng và kết hợp, và sở dĩ một nên, do việc sử dụng ngôn ngữ như một loại yếu tố trong ngữ đoạn có được giá trị của nó phương tiện, công cụ nên quan điểm chức “chỉ vì nó đối lập với những cái đi trước hay năng phải được xem là nòng cốt trung tâm của đi sau nó, hoặc với cả hai” [1:214]. kiến giải nghĩa. Nghĩa là một nội dung xác định nhờ chức năng, nhưng là loại chức năng Về mối quan hệ ngữ đoạn, Saussure cho thể hiện qua ngữ cảnh. rằng đây là khái niệm không phải chỉ ứng dụng cho các từ, mà còn có thể ứng dụng cho Wittgenstin và Austin đều phân biệt cách những nhóm từ, những đơn vị phức hợp như giải thích bằng ngôn ngữ khác với cái gọi là từ ghép, từ phái sinh, thành phần của câu, câu cách giải thích bằng sự kiện bên ngoài. Cách toàn vẹn. Dù thuộc tính tiêu biểu của lời nói là giải thích bằng ngôn ngữ là cái nghĩa có trong CNTT- sự tự do trong cách kết hợp, nhưng không CB hình thức ngôn ngữ, còn giải thích bằng sự phải tất cả các ngữ đoạn đều tự do như nhau. kiện bên ngoài là giải thích sự vật hiện tượng, Ví dụ điển hình Saussure đưa ra ở đây là các tồn tại thuộc thế giới hiện thực, bằng các thành ngữ. Các thành ngữ, tục ngữ, các thuộc tính của tồn tại. Từ quan niệm đó BTNNCĐ là những đơn vị ngôn ngữ có sẵn, Wittgenstin đã đề xuất học thuyết xem nghĩa dùng đã quen nên không thể thay đổi gì hết, như là sự sử dụng, và ông tuyên bố “Đừng tìm dù xét ra có thể có những bộ phận có nghĩa. nghĩa của từ mà hãy tìm cách dùng nó”. J. Điều đặc biệt về các đơn vị ngôn ngữ này là Lyons quan niệm “sự kiểm nghiệm duy nhất tính chất thông dụng toát ra từ những nét đặc của người nghiên cứu về nghĩa chính là cách biệt về ý nghĩa hay kết cấu ngữ pháp, duy trì dùng các phát ngôn trong những tình huống được chúng là nhờ có “sức mạnh của sự thông rất khác nhau trong đời sống hàng ngày”. dụng” [1. 216]. Như vậy, xuất phát điểm của chúng tôi khi nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa của các Trong quan điểm của Saussure, mối quan BTNNCĐ là nghĩa thể hiện trong cách dùng, hệ giữa hai mặt tín hiệu, và rộng hơn, mạng trong hoạt động thường ngày, trong thực hiện lưới quan hệ tín hiệu với tín hiệu (cấu trúc) chức năng ngôn ngữ đa dạng trong cuộc sống, quyết định nghĩa của tín hiêu ngôn ngữ. Ông trong các mối tương tác xã hội và sự sáng tạo đã tuyên bố “ngôn ngữ là một hình thức chứ ngôn từ của người nói, người viết. không phải là một chất liệu”. Quan niệm quá
  4. Trong các mô hình trên, các mạo từ (article) 2. BTNNCĐ trong tiếng Anh và con a/an hoặc the không thể hiện, nhưng chúng đường hình thành nghĩa của chúng cũng có thể tham gia vào thành phần của một 2.1. Vài nét khái quát về BTNNCĐ số BTNNCĐ xác định trong tiếng Anh, ví dụ BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng gồm từ như as a whole, on the one hand…, on the hai từ trở lên, có cấu trúc ổn định dùng để thể other hand, at the end… Còn hậu trí từ và tiền hiện ngữ nghĩa nhất định và thực hiện chức trí từ thường là giới từ hoặc phó từ. năng nhất định trong văn bản. Chúng là một Như vậy, BTNNCĐ trong tiếng Anh là cách thức rất hữu hiệu có trong bất cứ ngôn một đơn vị từ vựng với những đặc trưng riêng. ngữ nào nhằm làm giàu vốn từ vựng sẵn có, Sự cố định về mặt hình thức của BTNNCĐ khắc phục một một phần nào tính hữu hạn của bao gồm chất liệu tạo nên chúng (cái vỏ vật các từ và tính không hàm súc, không cô đọng chất) và cả trật tự tạo nên chúng. Chỉ cần thay của các phương tiện lời nói trong sự biểu vật đổi chất liệu hoặc trật tự đó thì tính chất cố và biểu thái. Vì dẫu sao cũng phải thừa nhận định của BTNNCĐ sẽ bị phá vỡ. Sự thay đổi rằng “dù số lượng và tính chất của các từ ở đây bao hàm cả sự thêm hay bớt hoặc thay trong từ vựng của một ngôn ngữ có phong phú thế các từ thành tố. Ví dụ on the one hand sẽ đến đâu, tinh tế đến mức nào thì cũng vẫn là ít chỉ có được nghĩa của nó như một BTNNCĐ ỏi trước gánh nặng ngữ nghĩa mà sự giao tiếp (một mặt) khi giữ nguyên hình thái như vậy, và nhận thức trong xã hội đặt ra cho ngôn còn bớt đi một từ thành tố như on hoặc the ngữ” [4:78] hoặc one, hoặc thậm chí thêm một tính từ vào Xét từ bình diện hình thức cấu trúc, trước từ hand hoặc thay thế từ hand bằng arm CNTT_C BTNNCĐ trong tiếng Anh không khác với chẳng hạn thì nghĩa cố định của BTNN không B các cụm từ tự do, bởi đó là sự kết hợp của một còn nữa. Tức là khi lớp vỏ âm thanh thay đổi, từ trung tâm (là động từ, danh từ, tính từ, tính hình tuyến của các BTNNCĐ bị phá vỡ, trạng từ) với một hoặc một vài từ khác (là thì giá trị của BTNNCĐ cũng không còn nữa. mạo từ, giới từ, phó từ) ở vị trí trước hoặc sau Như vậy, BTNNCĐ là một đơn vị từ nó. Có thể gọi chúng là hậu trí từ (post- vựng phức tạp. Từ góc độ nguồn gốc, chúng positioned words) và tiền trí từ (pre- là một loại đơn vị từ vựng phái sinh. Rõ ràng positioned words) xét theo vị trí của chúng so đây là một hướng phát triển của ngôn ngữ dựa với từ trung tâm. Phần lớn cấu trúc các trên những tiềm năng sẵn có, nhằm đáp ứng BTNNCĐ trong tiếng Anh có thể được thể nhu cầu thể hiện tư duy của con người. Theo hiện qua các mô hình sau: quan điểm của Saussure, một khi xuất hiện Pre-Pos. Part + CW một tín hiệu mới (một kết hợp mới, một biểu thức mới) trong ngôn ngữ thì nghĩa là nó đã CW + Post-Pos. có lý do để tồn tại. Pre-Pos. Part + CW + Post-Pos. Part 2.2. Con đường hình thành nghĩa của các CW + Post-Pos. Part1 + Post Pos. Part2 BTNNCĐ Trong đó, CW là từ trung tâm, pre-pos. Điều chúng tôi rất quan tâm khi nghiên part là tiền trí từ, post-pos. part là hậu trí từ. cứu BTNNCĐ trong tiếng Anh là con đường
  5. cơ sở truyền thống cho nên nó mới có thể có hình thành nghĩa của chúng. Vì sao dưới một tính võ đoán” [1:132]. cấu trúc bình thường như các cụm từ tự do, sự kết hợp của các từ nhất định lại có một ý Quá trình tạo mã và lập mã chính là quá nghĩa cố định? Tại sao khi phá vỡ cấu trúc trình từ vựng hóa. Nó diễn ra không chỉ với mặt thì ý nghĩa cố định của chúng không bảo những tín hiệu đơn giản bậc 1, mà cả các tổ toàn được nữa? Các ý nghĩa mang tính chất hợp, các tín hiệu bậc 2 từ các từ phái sinh, từ thành ngữ đó được hình thành theo cơ chế như phức, từ ghép và các tổ hợp thành ngữ quán thế nào? ngữ. Quá trình này được gọi là quá trình từ vựng hóa, thành ngữ hóa tạo nghĩa, mà biểu BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng, chúng hiện cụ thể của nó là việc thực hiện chức năng mang bản chất tín hiệu, do đó chúng tôi nhận định danh, chức năng biểu niệm, chức năng thấy chúng phải trải qua các quá trình chức biểu trưng hóa. Như vậy, để có được năng như sau: BTNNCĐ như as a result of, look forward to, - Quá trình tạo mã và lập mã của tín hiệu on the one hand…., on the other hand,… thì ngôn ngữ: mã của các từ thành tố phải được thiết lập Các BTNNCĐ được tạo lập từ các từ trước, sau đó mới có sự ghép mã và cải biên thành tố. Như vậy, nếu xét từ nguồn gốc sâu mã của các từ thành tố để tạo thành mã của xa, sự tạo mã và lập mã của các từ trung tâm BTNN. Nghĩa của các BTNNCĐ phần lớn (thực từ) như danh từ, tính từ, động từ, trạng mang tính phái sinh. Nhưng vấn đề cần quan từ và các từ thành tố sẽ diễn ra trước. Quá tâm ở đây là một khi nghĩa của các từ thành tố trình tạo mã và lập mã ngôn ngữ là một quá ghép lại không tạo ra nghĩa của BTNNCĐ, thì CNTT- trình lâu dài, đó là quá trình một vỏ âm thanh nghĩa của BTNNCĐ đã được hình thành theo CB xuất hiện gắn với một ý biểu hiện thành một cơ chế nào? nội dung. Chính sự chuyển hóa các nghĩa vào - Quá trình dùng, sử dụng và khẳng định các âm cho phép con người trao đổi tư tưởng, giá trị ngữ nghĩa và hơn thế “cũng như các hệ thống giao tiếp khác, ngôn ngữ biến những tư tưởng thành vật Một khi mã ngôn ngữ đã được thiết lập, chất có khả năng chuyển từ hệ thống thần kinh nhưng không trải qua quá trình khẳng định giá này sang hệ thống thần kinh khác” [10:24]. trị để có giá trị bền vững trong cộng đồng sử Khi cái vỏ âm thanh chuyển tải được một ý dụng ngôn ngữ thì nó vẫn chưa thể thực sự bắt tưởng thì tức là con người đã tạo lập mã cho đầu hành chức. Như vậy, quá trình sử dụng là tín hiệu ngôn ngữ, và mã đó chuyển tải một vô cùng quan trọng. Nếu việc sử dụng các tín nội dung nhất định, nói cách khác, quá trình hiệu chỉ được tiến hành trong một không gian tạo lập mã thực chất là quá trình gắn mã cho hẹp trong một bối cảnh nhất định thì nó cũng một khái niệm. Lý do tại sao nội dung này khó được hiểu và chấp nhận trong cộng đồng. được gắn mã này mà không phải là một mã Do đó, một khi mã ngôn ngữ đã được hình khác đã được Saussure khẳng định “chính vì thành, dù là trong một môi trường không rộng tín hiệu có tính chất võ đoán cho nên nó lớn, nó phải trải qua quá trình được sử dụng không biết đến quy luật nào khác hơn là quy lại để khẳng định lại giá trị trong các không luật của truyền thống, và chính vì nó dựa trên gian khác, tức là sự quy ước phải được phổ
  6. biến rộng rãi và được chấp nhận. Như vậy, *3 ~ sb to sth, bring sb back to sth khôi chẳng những việc lập mã tạo mã ngôn ngữ phục cái gì cho ai, giúp ai khôi phục cái gì: mang tính chất quá trình và diễn ra lâu dài We must bring him back to health: Chúng ta phức tạp, mà cả quá trình khẳng định giá trị phải giúp anh ấy hồi phục lại sức khỏe. của nó thông qua sử dụng cũng là cả một quá *4 ~ sth làm cho một ý tưởng hoặc một trình vô cùng phức tạp. Xuất phát điểm của thưc tế trở lại hoặc tồn tại, dùng lại, duy trì việc tạo lập mã ngôn ngữ thường xuất phát từ phương pháp cũ: Few people these days are in cá nhân, nhưng việc khẳng định giá trị của tín favour of bringing back the old punishment hiệu ngôn ngữ lại nhất thiết phải mang tính by death: Một số người ngày nay vẫn thích cộng đồng, mang tính xã hội. Theo quan điểm duy trì hình phạt tử hình ngày xưa. ngày nay, từ không chỉ là tín hiệu ngôn ngữ, Trong 4 nghĩa trên, ngoài nghĩa 1, các mà còn là tín hiệu văn hóa. Rõ ràng là khi nghĩa còn lại đều mang tính thành ngữ. Vậy dùng từ ngữ, từ không chỉ là tín hiệu biểu đạt, cơ chế tạo thành các nghĩa của động từ này mà còn là nơi nội dung được sáng tạo, được như thế nào? Xét nghĩa 1, bring back là nghĩa người dùng thổi vào những ý nghĩa xuất thần. của bring và back ghép lại với nhau một cách Sự đa dạng trong cuộc sống con người tạo ra cơ học. Như vậy, khi bring và back được tạo sự đa dạng trong phong cách thể hiện, kết quả thành mã, chúng đã có được giá trị ngữ nghĩa là ngôn ngữ càng ngày càng hoàn thiện và của mình và mang hai đặc tính đã được cùng với quá trình này là sự tích lũy, tích hợp Saussure chỉ ra; tính võ đoán và tính hình nội dung, hàm lượng nghĩa trong tín hiệu từ. tuyến. Tuy nhiên, khi tạo thành tổ hợp bring Các đặc điểm của từ vựng như đa nghĩa, đồng back, nghĩa 1 được tạo thành không phải âm… chính là kết quả tất yếu trong sự phát CNTT_C B không có nguyên do, vì nó là nghĩa đen do hai triển của ngôn ngữ. từ thành tố ghép lại, còn các nghĩa 2, 3, 4 thì Để chứng minh cho luận điểm của mình, sao? Theo quan điểm của chúng tôi, các nghĩa chúng tôi xin dẫn ví dụ sau: Theo từ điển 2, 3, 4 đã được phát triển ra từ nghĩa đen ban Phrasal Verbs của Rosemary Courtney đầu, trên cơ sở có cải biến. Rõ ràng từ nghĩa (Longman, 1998) từ bring back có các nghĩa ban đầu “đem cái gì đó trở lại”, mà bring back sau đây: đã có được nghĩa “nhớ lại, làm sống lại, hồi tưởng lại” khi nói về hồi ức, kỷ niệm trong bring back V + ADV quá khứ (nghĩa 2), “khôi phục lại” khi nói về 1 bring sth/sb back, bring back sth/sb đem một thực trạng xấu nào đó (nghĩa 3), và “duy về, mang về trả lại, đem trả: You must bring trì, dùng lại” khi nói về một cái gì đó tưởng these library books back next week: Anh phải như đã lỗi thời (nghĩa 4). Như vậy, nếu nói về đem trả những cuốn sách thư viện này vào sự phát triển nghĩa của từ bring back, thì tuần tới nhé. nghĩa của bring back như một đơn vị từ vựng *2 ~ sth nhớ lại, hồi tưởng, làm sống lại (động từ cụm hay động từ thành ngữ), sẽ được (những sự kiện trong quá khứ): The smell of hình thành sau khi giá trị ngữ nghĩa của bring these flowers brings back memories: Hương và back đã được khẳng định, và các nghĩa cố thơm của những bông hoa này làm sống lại bao định 2 – 3 - 4 chỉ có được sau khi bring back nhiêu kỷ niệm.
  7. vậy tính võ đoán của tín hiệu là một trong khẳng định được nghĩa 1. Chính trong quá những điều kiện cho sự hành chức thuận lợi trình sử dụng ngôn ngữ, các giá trị ngữ nghĩa của ngôn ngữ… Nhưng tính có lý do là một của bring back được hình thành, phát triển và động lực sáng tạo gắn liền với ngôn ngữ xã trở thành các đơn vị từ vựng mang tính ổn hội… Chỉ sau khi từ được tạo ra, mang tính có định như ngày nay. Có thể khẳng định rằng từ lý do, những đòi hỏi của chức năng ngữ nghĩa hai vỏ âm thanh bring và back với hai ý niệm mới dẫn tới sự làm mờ dần cái tính có lý do từ riêng rẽ ban đầu như các tín hiệu ngôn ngữ nguyên đó, tính có lý do từ nguyên này có thể hoàn toàn mang tính võ đoán, sự phát triển bị xóa hẳn đưa tới sự biến đổi ngữ nghĩa của ngữ nghĩa của bring back sau này là cả một từ đó” [Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, 3: 92]. quá trình diễn ra trong tư duy logic của con người. Rất có thể trong tương lai, cùng với Tóm lại, ý nghĩa của các BTNNCĐ nhu cầu thể hiện tư duy của con người, bring không được ghép lại từ ý nghĩa của các từ back còn phát triển thêm các nghĩa khác nữa. thành tố, nhưng chúng được hình thành theo Thử xem xét ví dụ on the one hand … on một nguyên lý nhất định nào đó mang tính the other hand… Đây là BTNNCĐ có từ trung “không hoàn toàn võ đoán” và “duy lý tương tâm là hand với cấu trúc giới từ + mạo từ xác đối”. Cùng với thời gian, ngoài tính bất biến, định + tính từ + danh từ. Từ hand là một danh ngôn ngữ còn mang tính khả biến. Điều từ đa nghĩa, trong rất nhiều nghĩa của từ hand Saussure đã khẳng định là “cái chiếm ưu thế như bàn tay, sự giúp đỡ, nhân công, sự khéo trong mọi sự biến hóa là tính bền vững của tay, kiểu viết tay, hứa hôn… nếu thử ghép bất chất liệu cũ, sự không trung thành đối với dĩ cứ nghĩa nào của từ hand vào BTNN trên vãng chỉ là tương đối”, và mọi sự biến hóa CNTT- cũng không được một cụm từ thực sự có bao giờ cũng dẫn đến “sự di chuyển của mối CB nghĩa. Vậy nghĩa một mặt và mặt khác của quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu BTNNCĐ này được hình thành như thế nào? hiện” [1:134]. Chính sự thay đổi mối quan hệ Thiết nghĩ con đường thành ngữ hóa của giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là BTNNCĐ này cũng phải trải qua các bước đã một trong các hệ quả của tính võ đoán của tín đề cập đến ở trên, đó là biểu trưng hóa (hai hiệu, và đó là một trong các nguyên nhân tạo bàn tay tượng trưng cho hai mặt khác nhau/ ra tính đa dạng của ngôn ngữ như phương tiện đối lập) và quá trình dùng trong cộng đồng đã của tư duy. khẳng định sự cố định về mặt cấu trúc cũng như ý nghĩa của BTNNCĐ này. Như vậy, các II. KẾT LUẬN tín hiệu ngôn ngữ cấp 1 (các từ đơn lẻ) và các BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng xuất tín hiệu ngôn ngữ cấp hai trong đó có hiện nhiều trong các ngôn ngữ. Chúng rất phổ BTNNCĐ (coi như các tổ hợp từ) được hình biến trong đời sống ngôn ngữ hàng ngày do thành do quy ước trong cộng đồng và mang tính sẵn có và tiện dụng. Tuy nhiên, đây cũng tính võ đoán, nhưng trong nhiều trường hợp là một trong các đơn vị ngôn ngữ với những sự hình thành BTNNCĐ không hẳn là không đặc trưng rất khó tiếp cận, xử lý và sử dụng. có nguyên do. Chính vì nhận ra sự vận động Với quan niệm BTNNCĐ là một loại từ giữa hai nguyên lý có lý do và không có lý do vựng đặc biệt, việc sử dụng quan điểm của F trong ngôn ngữ, P. Guiraud đã viết “…Bởi
  8. de Saussure về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ đoán giữa hai mặt tín hiệu của BTNNCĐ là một luận cứ khoa học quan trọng giúp thuộc về các cấp độ khác nhau: võ đoán hoàn chúng tôi nghiên cứu ý nghĩa của các toàn và võ đoán tương đối. BTNNCĐ. Các thuật ngữ liên quan đến tín - Nghĩa cố định của BTNNCĐ được hình hiệu ngôn ngữ đã được F de Saussure đưa ra thành do quá trình tín hiệu hóa dần từ cú pháp như tính võ đoán, tính hình tuyến, quan hệ đến từ vựng. Con đường hình thành nghĩa của ngữ đoạn, quan hệ liên tưởng, cái biểu hiện, BTNNCĐ là con đường hình thành nghĩa của cái được biểu hiện, giá trị ngôn ngữ… được các tín hiệu bậc 1 và bậc 2, trải qua hai bước chúng tôi vận dụng nhiều trong bài viết để cơ bản là (1) tạo mã và lập mã và (2) quá trình phát triển và chứng minh luận cứ của mình. dùng, sử dụng và khẳng định giá trị. Không phải nghi ngờ gì về giá trị ngữ - BTNNCĐ như một đơn vị từ vựng đặc nghĩa của các BTNNCĐ vì vai trò thực tế của biệt là một trong những kết quả tất yếu của sự chúng trong hoạt động ngôn ngữ trong đời phát triển ngôn ngữ trên cơ sở phát triển, cải biến sống xã hội hàng ngày. Ngoài việc nghiên cứu tiềm năng sẵn có trong nội tại một ngôn ngữ. nhận diện và phân loại BTNNCĐ về mặt hình thức cấu trúc, ngữ nghĩa ngữ pháp và ngữ dụng, con đường hình thành ngữ nghĩa của Tài liệu tham khảo các BTNNCĐ là một trong các vấn đề chúng tôi đặc biệt quan tâm. Và bước đầu, việc [1]. Ferdinand de Saussure, Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB KHXH, Hà Nội, 1973 nghiên cứu vấn đề này dưới ánh sáng của bản chất tín hiệu ngôn ngữ của Saussure đã giúp [2]. Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, CNTT_C chúng tôi có những nhận định ban đầu khá B NXB Giáo dục, 1998 quan trọng làm cơ sở cho nghiên cứu trong [3]. Đỗ Hữu Châu - Bùi Minh Toán, Đại cương tương lai, đó là: ngôn ngữ học tập 1. NXB Giáo dục, 2001 - BTNNCĐ là một đơn vị từ vựng đặc [4]. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, biệt mang bản chất tín hiệu. NXB Giáo dục, 1999 - BTNNCĐ là tổ hợp của các tín hiệu, rồi [5]. John Lyons, Ngữ nghĩa học dẫn luận, NXB Giáo dục, 2006 đến lượt mình, nó lại tạo thành chức năng tương đương với tín hiệu và hoạt động như [6]. Lưu Nhuận Thanh, Các trường phái ngôn ngữ một tín hiệu mới biểu thị một nội dung, một học phương tây, NXB Lao động, 2004 khái niệm, một chức năng. Do đó, BTNNCĐ [7]. Mak Halliday, Dẫn luận ngữ pháp chức năng, cần được “đối xử” như các tín hiệu bình NXB ĐH QG Hà Nội, 2001 thường khác trong ngôn ngữ. [8]. Nguyễn Lai, Những bài giảng về ngôn ngữ học - Tín hiệu của BTNNCĐ là một loại tín đại cương, NXB ĐHQG, Hà Nội, 1999 hiệu phái sinh từ các tín hiệu bậc 1 (tín hiệu [9]. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, từ). NXB Giáo dục, 2002 - BTNNCĐ là tín hiệu ngôn ngữ mang [10]. Wallace L. Chafe, Ý nghĩa và cấu trúc của tính hình tuyến và võ đoán, tuy nhiên tính võ ngôn ngữ, NXB Giáo dục, 1998♦
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2