Báo cáo nghiên cứu khoa học: "ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC CHUYỂN ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP ĐẾN SINH KẾ NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM"
lượt xem 82
download
Việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp làm thay đổi nguồn tài nguyên tạo sinh kế thực sự là một cú sốc lớn gây xáo trộn cuộc sống của người nông dân.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học: "ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC CHUYỂN ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP ĐẾN SINH KẾ NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM"
- TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 62A, 2010 ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC CHUYỂN ĐẤT NÔNG NGHIỆP SANG ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP ĐẾN SINH KẾ NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM Huỳnh Văn Chương Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế Ngô Hữu Hoạnh Trường Cao đẳng Công nghệ - Kinh tế và Thủy lợi Miền Trung, Bộ NN&PTNT TÓM TẮT Việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp làm thay đổi nguồn tài nguyên tạo sinh kế thực sự là một cú sốc lớn gây xáo trộn cuộc sống của người nông dân. Các nguồn tài nguyên tạo sinh kế có sự luân chuyển cho nhau, qua điều tra và phân tích chỉ ra rằng, tài sản đất đai của người nông dân chuyển thành vốn tài chính và vốn vật chất, rất ít trường hợp chuyển thành nguồn vốn xã hội và nguồn vốn con người trong nhóm các nguồn tài nguyên tạo sinh kế. Nghiên cứu cho thấy nhiều hộ dân tuy có thu nhập cao hơn sau khi chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp để thực hiện quá trình đô thị hoá nhưng người dân không yên tâm do thu nhập không ổn định và cuộc sống tiềm ẩn những bất ổn. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cần có những giải pháp cụ thể hơn về tạo việc làm, tư vấn sử dụng nguồn vốn bồi thường, hỗ trợ đền bù, tái định cư từ phía Nhà nước để người dân bị thu hồi đất có sinh kế bền vững sau thu hồi đất. Từ khóa: Chuyển đổi đất đai, thu hồi đất, thu nhập, sinh kế, việc làm. 1. Đặt vấn đề Vấn đề sinh kế của người dân sau thu hồ i đất nông nghiệp không phải là đề tài mới nhưng có ý nghĩa thực tiễn cao, đang là vấn đề quan tâm của các địa phương trong phạm vi cả nước. Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây, ở nước ta, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồ i hàng năm khá lớn do quá trình đô thị hoá và phát triển cơ sở hạ tầng và số người có sinh kế khó khăn sau thu hồ i đất ngày càng gia tăng. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 7 năm, từ năm 2001 đến năm 2007, diện tích đất nông nghiệp cả nước giảm 500 nghìn ha, riêng năm 2007 mất 120 nghìn ha, trong đó chủ yếu là đất trồng cây hàng năm tại các vùng đồng bằng, ven các đô thị do xây dựng công nghiệp và đô thị. Đất trồng lúa năm 2000 có 4,47 triệu ha, nhưng đến năm 2006 chỉ còn 4,13 triệu ha, giảm 316 nghìn ha, trung bình mỗ i năm giảm 50 nghìn ha (Nguyễn Minh Hoài, 2008). Tuy đất nông nghiệp là nguồn vố n tài nguyên tạo sinh kế chính của người dân bị thu hồ i nhưng đại đa số lao động nông 47
- nghiệp vẫn bám víu vào diện tích đất ít ỏi còn lại do khó khăn trong tìm kiếm việc làm mới và với trình độ tay nghề để chuyển đổi công việc không dễ dàng. Tính đến 31-12- 2006, ở 14 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị thu hồ i đất nhiều nhất đã giải quyết được việc làm cho 22,3 vạn lao động, bằng khoảng 28% tổng số lao động mất việc làm (Hà Nội: 25.000 người, Hà Tây: 21.756 người, Hà Tĩnh: 29.068 người, Quảng Nam: 21.517, Đồng Nai: 69.670 người). Thực tế chỉ có 6% số lao động bị thu hồ i đất chuyể n sang sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 9% chuyển sang làm dịch vụ…, còn tới 60% vẫn tiếp tục làm nông nghiệp (Bùi Ngọc Thanh, 2009). Khi thu hồ i đất, Nhà nước có chính sách bồ i thường thiệt hại về đất, hỗ trợ chuyển đổ i nghề nghiệp và ổn định đời sống và thực tế là có những hộ có thu nhập cao hơn so với trước khi thu hồ i đất, nhưng vẫn có một số hộ dân vẫn khó khăn trong việc tạo lập sinh kế của mình. Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét sự thay đổ i về các nguồn vốn tạo sinh kế của người dân trước và sau thu hồ i đất nông nghiệp tại một số phường của ngoại ô của thành phố Hội An để thấy được ảnh hưởng của việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất và làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp hợp lý để phát triển ổn định và bền vững sau khi nhà nước thu hồ i đất ở những vùng khác có điều kiện tương tự. 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 2.1. Mô tả vùng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại phường Cẩm Châu và phường Thanh Hà thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam (xem hình 1). Đây là hai phường có diện tích đất nông nghiệp lớn và trong thời gian qua là những địa phương ở thành phố Hội An có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồ i lớn nhất và điển hình cho quá trình đô thị hoá tại thành phố Hội An. Hình 1. Vị trí vùng nghiên cứu 48
- 2.2.Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thu thập số liệu thứ cấp Thu thập có chọn lọc các thông tin, dữ liệu sẵn có về quá trình thu hồi đất, bồ i thường, hỗ trợ khi thu hồ i đất. 2.2.2. Thu thập số liệu sơ cấp Số liệu sơ cấp thu thập qua phỏng vấn hộ nông dân có đất bị thu hồ i bằng bảng câu hỏ i phỏng vấn sâu. Chúng tôi lựa chọn điều tra các hộ dân bị thu hồ i đất tại dự án xây dựng cụm công nghiệp – đô thị - dịch vụ Thanh Hà, dự án đường Trường Chinh (đường dẫn vào cụm công nghiệp – đô thị - dịch vụ) tại phường Thanh Hà; dự án xây dựng đường dẫn cầu Cửa Đại và dự án xây dựng Trường Trung học cơ sở Cẩm Châu tại Phường Cẩm Châu. Phân các hộ điều tra thành 3 nhóm có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi khác nhau: Nhóm 1: Các hộ bị thu hồ i dưới 30% đất nông nghiệp Nhóm 2: Các hộ bị thu hồ i từ 30% đến dưới 70% đất nông nghiệp Nhóm 2: Các hộ bị thu hồ i từ 70% đất nông nghiệ p trở lên. Bảng câu hỏ i phỏng vấn sâu được soạn thảo sẵn trên phiếu điều tra. Phiếu điều tra được xây dựng gồm 5 phần, phần I thu thập thông tin chung của hộ gia đình gồm tên, tuổi, địa chỉ của chủ hộ; nhân khẩu, lao động, trình độ văn hóa và chuyên môn. Phần II và III của phiếu điều tra nhằm thu thập về t ình hình sử dụng đất nông nghiệp, tài sản của hộ trước và sau thu hồi đất. Phần IV của phiếu được xây dựng để điều tra thông tin về thu nhập trước và sau thời điểm thu hồ i đất, việc sử dụng nguồn vốn bồi thường, hỗ trợ của các hộ. Phần V của phiếu điều tra là ý kiến và đề xuất của hộ về chính sách thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải quyết việc làm của Nhà nước khi thu hồ i. 2.2.3. Phương pháp luận trong nghiên cứu Khung sinh kế bền vững là một công cụ giúp chúng ta nâng cao sự hiểu biết về đời sống, đặc biệt là các sinh kế của người nghèo. Nó xuất phát từ phân tích của Amartya Sen về các quyền (entitlements) trong mối quan hệ với nạn đói và đói nghèo, gần đây được Cục Phát triển Quốc tế Anh (DFID) và một số học giả cùng với các cơ quan phát triển ứng dụng rộng rãi. Trong nghiên cứu này, chúng tôi dựa vào lý thuyết về khung sinh kế bền vững (sustainable livelihoods framework) để phân tích sự thay đổ i khả năng tiếp cận các nguồn vốn tạo sinh kế, tác động của sự thay đổ i này đến sinh kế của các hộ nông dân ở Việt Nam trong quá trình thu hồ i đất nông nghiệp phục vụ đô thị hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế. 49
- Hình 2. Khung nghiên cứu sinh kế bền vững của người nông dân có đất nông nghiệp bị thu hồi Nguồn: Phỏng theo khung sinh kế bền vững của DFID, 1999. 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Tình hình cơ bản của các nhóm hộ điều tra Cũng như đặc trưng chung của người nông dân Việt Nam, người nông dân ở Hộ i An cần cù chịu khó nhưng lại hạn chế về trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn. Chính đố i tượng này gặp nhiều khó khăn về sinh kế trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, chuyển đổ i đất đai và thu hồ i đất. Trong tổng số 68 hộ điều tra, tuổi đời bình quân của chủ hộ khá cao, 63,6 tuổi; đa số chủ hộ gia đình là nam giớ i, chiếm 79,4%. Theo số liệu điều tra nông hộ sau khi thu hồi đất, bình quân nhân khẩu của hộ gia đình từ 5,0 đến 5,6 người/hộ, bình quân lao động trên hộ gia đình là 3,5 lao động, trong đó, lao động nông nghiệp bình quân là 1,6 lao động/hộ. Sau thu hồ i đất, bình quân lao động nông nghiệp chiếm chưa tới 50% số lao động của các nhóm hộ. Có tới 85,7% chủ hộ chưa tốt nghiệp phổ thông trung học, 100% chủ hộ chưa có bằng cấp về chuyên môn (Bảng 1). Đa số lao động có độ tuổi khá cao, lao động nông nghiệp có độ tuổi trên 35 đối với nữ, trên 40 đối với nam, chiếm tới 62,9%. Lao động nông nghiệp độ tuổi từ 15-18 (độ tuổi đi học) chiếm t ỷ lệ rất thấp, chỉ 6,5%. Đây là một trong những lý do khiến rất ít lao động nông nghiệp theo học để chuyển đổ i nghề nghiệp khi bị thu hồ i đất. Bảng 1. Tình hình cơ bản của các nhóm hộ điều tra sau thu hồi đất. Chỉ tiêu Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 ĐVT 1. Số hộ điều tra Hộ 11 30 27 2. Tuổi bình quân Tuổi 63.1 66.3 61.4 3. Trình độ văn hóa 50
- - Cấp 1 % 44,4 39,1 36,0 - Cấp 2 % 33,3 21,7 36,0 - Cấp 3 % 22,2 39,1 28,0 4.. Trình độ chuyên môn % 0 0 0 5. Bình quân nhân khẩu Người 5,0 5,6 5,2 6. Lao động - Lao động/hộ Lao động 2,9 3,8 3,4 - Lao đông nông nghiệp/hộ Lao động 1,3 1,8 1,5 Kết quả điều tra cho thấy trình độ học vấn của các nhóm lao động giảm nhanh theo các độ tuổi, trong khi lao động ở độ tuổi từ 15-18 có 72,7% đang theo học tại các trường phổ thông, dạy nghề, trung cấp cao đẳng và đại học thì lao động ở độ tuổi từ 18 đến 35 (nữ), 40 (nam) chỉ có 11,5% và không ai đi học ở độ tuổi trên 35 (nữ), 40 (nam). Như vậy, thực tế cho thấy rằng, đa số chủ hộ có đất nông nghiệp bị thu hồ i đều lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp. Lao động lớn tuổi chiếm đa số và ít người được học hành nhưng đố i tượng này lại là những người phải gánh vác trách nhiệm quan trọng trong việc đảm bảo sinh kế của hộ, là những lao động chính tạo thu nhập cho hộ. 3.2. Sự thay đổi về sinh kế của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp Đối với người nông dân thì đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, khi mất đất tức là mất đi công cụ, phương tiện để đảm bảo đời sống, tức là họ chịu một cú sốc rất lớn. Ngoài ra, hoàn cảnh của họ cũng có nhiều thay đổ i như nhận được khoản tiền bồ i thường, hỗ trợ; các nguồn vốn sinh kế khác thay đổi, người dân phải lựa chọn hoạt động nào để đảm bảo sinh kế, những tác động từ chính sách của Nhà nước, kết quả dẫn đến đầu ra sinh kế của người dân bị thu hồ i đất nông nghiệp thay đổ i như thế nào so vớ i trước thu hồi đất. Sau đây chúng ta xem xét sự thay đổi các nguồn vốn tạo sinh kế của họ để thấy được ảnh hưởng của việc thu hồ i đất đến sinh kế của người nông dân. 3.2.1. Thay đổi về diện tích đất nông nghiệp (thuộc nguồn vốn tự nhiên) Bảng 2. Diện tích đất nông nghiệp bình quân của các nhóm hộ ĐVT: m2 So sánh 2009/2004 Trước thu hồi Sau thu hồi Chỉ tiêu (Năm 2004) (Năm 2009) (+/-) (%) 1. Nhóm 1 3263,4 2465,6 -797,8 -24,4 2. Nhóm 2 3617,1 1536,4 -2080,6 -57,5 3. Nhóm 3 3332,0 525,0 -2807,0 -84,2 51
- Kết quả điều tra cho thấy diện tích đất nông nghiệp của các nhóm hộ giảm đáng kể do bị thu hồi đất. Trong đó, nhóm 1 có diện tích bình quân bị thu hồ i là 24,4% diện tích được giao của hộ, tương ứng là 797,8m2, nhóm 2 giảm 57,5% và 2.080,6m2 và nhóm 3 diện tích đất nông nghiệp giảm bình quân lên tới 84,2% diện tích đất nông nghiệp của hộ, tương ứng là 2.807m2 (Bảng 2). Bình quân diện tích đất nông nghiệp sau thu hồ i đất của các nhóm hộ giảm, dẫn đến bình quân diện tích đất nông nghiệp trên lao động nông nghiệp giảm đáng kể trong các nhóm. Trong đó, đặc biệt là nhóm 3, diện tích đất nông nghiệp bình quân từ 2.438,1m2/lao động nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 384,1m2/lao động nông nghiệp, điều đó cho thấy phương tiện sinh kế quan trọng của hộ nông dân giảm xuống đáng kể sau thu hồi đất, đây thực sự là một cú sốc lớn đối với họ (Hình 3). 3000 2 564.1 2438.1 2500 1937.3 2000 1713.3 1500 Trước thu hồi 1000 727.8 Sau thu hồi 384.1 500 0 Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Hình 3. Bình quân đất nông nghiệp/lao động nông nghiệp trước và sau thu hồi đất Hiện tại, trên địa bàn Hội An nói chung và khu vực điều tra nói riêng còn rất ít quỹ đất dự trữ để bồi thường, nên khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án thì phương thức bồ i thường được thực hiện nhiều nhất là bồ i thường bằng tiền (chỉ 1 trường hợp thuộc dự án xây dựng trường phổ thông cơ sở Cẩm Châu hộ nhu cầu và được bồ i thường bằng đất để sản xuất). Cùng với bồ i thường thiệt hại, việc hỗ trợ chuyển đổ i nghề nghiệp cũng được thực hiện bằng tiền. Mặt khác, đa số người dân đều muốn được bồ i thường, hỗ trợ theo hình thức này vì với người nông dân có một khoản tiền mặt lớn là ước mơ của họ. Do vậy, đại đa số hộ bị thu hồ i đất nông nghiệp đều được bồ i thường và hỗ trợ bằng tiền. Như vậy, nguồn vốn tự nhiên (đất đai) được chuyển thành nguồn vốn tài chính. Trước đây, đất đai là phương tiện tạo sinh kế quan trọng của hộ nông dân, bây giờ chuyển thành một khoản tiền. Để đảm bảo sinh kế lâu dài, nguồn vốn này phải được hộ dân sử dụng vào mục đích đầu tư sản xuất tạo nguồn thu nhập hoặc học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp (vốn con người). Còn nếu sử dụng số tiền này vào mục đích xây dựng nhà cửa, mua sắm tài sản (vốn vật chất) và các mục đích khác thì sinh kế của người dân về lâu dài sẽ khó khăn. Khi sinh kế khó khăn họ sẽ bị hạn chế trong việc học hành, 52
- khám chữa bệnh, tiếp cận thông tin… Tức là khi đất nông nghiệp của người nông dân bị thu hồ i, họ có thể còn bị mất đi cơ hộ i để phát triển bản thân, gia đình cũng như tiếp cận xã hộ i. 3.2.2. Thay đổi về nguồn vốn tài chính Do có sự thay đổi về nguồn vốn đất đai, tư liệu sản xuất chủ yếu của các hộ nông dân nên dẫn đến thay đổ i về lao động và thu nhập của hộ. Theo kết quả điều tra, có đến 60,71% số hộ có thu nhập tăng, 4,41% số hộ có thu nhập không đổi và 35,39% số hộ có thu nhập giảm so với trước khi thu hồ i đất nông nghiệp. Nhóm 1 với diện tích thu hồ i dưới 30% có thu nhập sau thu hồ i hầu như không đổi. Trong khi nhóm 2 và nhóm 3 có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồ i lớn thì thu nhập sau khi thu hồi tăng so với trước khi bị thu hồ i đất, nguồn thu nhập phần lớn từ hoạt động phi nông nghiệp. Điều này chứng tỏ sau thu hồ i đất, có sự dịch chuyển lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp. Ngoài ra có một số hộ dùng nguồn vốn bồ i thường, hỗ trợ gửi ngân hàng đã thu được tiền lãi hàng tháng ổn định. Về các nguồn thu nhập trước và sau thu hồi đất có sự thay đổ i đáng kể. Trước thu hồi đất, thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp trong tổng thu nhập của các nhóm l, 2 và 3 lần lượt là 62%, 81,1% và 64,4%. Sau thu hồ i đất, nguồn thu nhập này của các nhóm hộ giảm xuống đáng kể, tương ứng là 45,4%, 45,1% và 32,2% (Hình 4). Hình 4. Tỷ lệ các nguồn thu nhập của các nhóm hộ trước và sau thu hồi đất Dễ nhận thấy rằng nhóm 3 có tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồ i lớn nhất nên thu nhập từ sản xuất nông nghiệp cũng giảm xuống nhiều nhất. Trong các nguồn thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp thu nhập từ lao động tự do tăng mạnh nhất, đặc biệt là ở nhóm 3, tức nhóm có tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồ i lớn nhất. Điều này phản ánh đúng thực trạng sau thu hồ i đất, một số lượng lớn lao động chưa thể tìm kiếm được ngành 53
- nghề ổn định đã chuyển sang lao động tự do. Nguồn thu nhập từ hoạt động này thứ yếu trước khi thu hồ i đất đã trở thành nguồn thu chủ yếu cho các hộ chỉ sau sản xuất nông nghiệp. Thực tế điều tra cho thấy rằng, nhiều người có thu nhập từ lao động tự do cao hơn so với sản xuất nông nghiệp trước đây, tuy nhiên, nguồn thu này rất bấp bênh, thường khó khăn trong tìm kiếm việc làm vào mùa mưa. Hơn nữa, thu nhập bằng tiề n mặt hàng ngày nên cũng dễ tiêu xài, khó tiết kiệm và một lý do mà họ đưa ra là chi t iêu tăng cao do phải mua nhiều thứ hơn trước đây còn đất nông nghiệp bản thân gia đình từ sản xuất được. 3.2.3. Thay đổi về nguồn vốn xã hội khác Khi thu hồ i đất để xây dựng đô thị, cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế đã làm tăng cơ hộ i tiếp cận nguồn vốn xã hộ i, điều kiện phát triển con người cho người dân. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, cụm công nghiệp được xây dựng tạo cơ hội việc làm cho nhiều lao động. Tuy nhiên, cũng như đặc điểm chung của người nông dân Việt Nam, người dân ở đây thường gặp nhiều khó khăn trong việc thay đổi hình thức sinh kế của họ. Các hình thức sản xuất mới trong chăn nuôi và trồng trọt thường không dễ dàng được thực hiện do nó liên quan đến hàng loạt các thay đổi trong cuộc sống, điều kiện sản xuất của người dân. Cơ hộ i tiếp cận nguồn vốn xã hộ i được mở ra nhưng ít người dân tận dụng cơ hộ i này để cải thiện điều kiện bản thân nhằm thay đổi sinh kế của mình. Khi bị thu hồ i đất, 100% hộ gia đình đều nhận hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp bằng tiền mặt nhưng có rất ít người sử dụng nguồn vốn này cho việc học nghề. Theo kết quả điều tra thể hiện ở Hình 5 thì chỉ có 4,4% số hộ nhận tiền bồ i thường, hỗ trợ đầu tư cho việc học nghề và cho con em đi học. Phần lớn số hộ đều sử dụng nguồn vốn này để đầu tư xây dựng nhà cửa, mua sắm tài sản, sự đầu tư này là nhu cầu thiết yếu nhưng về mặt xã hộ i sẽ dẫn đến không bền vững cho sinh kế người dân. Đây là điều mà các cơ quan chức năng khi thực hiện phương án bồ i thường, hỗ trợ phải quan tâm và có những giải pháp hợp lý và sát với điều kiện từng địa phương cụ thể. Một ảnh hưởng của việc thu hồ i đất nông nghiệp đó là khi bị mất đất nông nghiệp, tính tương trợ, tình cảm nông thôn bị hạn chế. Trong cộng đồng người nông dân, người dân tương trợ nhau dưới hình thức như đổi công trong mùa vụ sản xuất. Hơn nữa, những hộ nông dân không đủ tư liệu sản xuất, nguồn vốn, lương thực thực phẩm nên có thể vay mượn của nhau. Khi không còn đất nông nghiệp người dân ít có cơ hội để tiếp xúc, tương trợ nhau, do vậy, nhiều người dân băn khoăn là mất đất dẫn đến “tình làng nghĩa xóm” sẽ dần dần mất đi. Một thực trạng xảy ra làm không ít người dân lo lắng là khi thiếu đất sản xuất dẫn đến thời gian rãnh rỗi nhiều, lại có nhiều tiền mặt từ các khoản bồ i thường, hỗ trợ và thu nhập từ làm công của lao động tự do sẽ là tiền đề cho các tệ nạn xã hộ i như say bia rượu, nạn cờ bạc gia tăng. 54
- Xây Chữa Học Mua Sản Chi Gửi Khác nhà bệnh hành sắm xuất tiêu tiết hàng kiệm tài sản ngày Hình 5. Tỷ lệ hộ sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ vào các mục đích Như vậy, khi thu hồ i đất nông nghiệp đã tạo cơ hội phát triển nguồn vốn xã hộ i cho người nông dân. Tuy nhiên, rất ít người dân nắm bắt cơ hội này để cải thiện năng lực bản thân, phát triển sinh kế. Bên cạnh chuyển đổi đất nông nghiệp để xây dựng đô thị, phát triển kinh tế, nhiều người dân lo lắng tác động tiêu cực của nó là làm phai nhạt tình cảm nông thôn; là tiền đề gia tăng các tệ nạn xã hộ i, bất ổn cuộc sống gia đình. 3.2.4. Thay đổi về nguồn vốn vật chất Kiên cố hóa nhà cửa và những tiện nghi, đồ dùng gia đình là một trong những tiêu chí để đo lường mức sống của người dân, mặc dù tiêu chí này không phải lúc nào cũng phản ánh đúng thực trạng về mức sống. Sau thu hồi đất tỷ lệ kiên cố nhà cửa tăng lên đáng kể so với trước khi thu hồ i đất, trong khi nhà tạm và nhà cấp 4 xây dựng lâu năm giảm xuống (Hình 6). ĐVT: % Hình 6. Các loại nhà của người dân trước và sau khi thu hồi đất Kết quả khảo sát cho thấy đồ dùng sinh hoạt cũng được các hộ dân đầu tư mua sắm. Thực tế, sau thu hồ i đất người dân đầu tư mua sắm những đồ dùng sinh hoạt hiệ n đại như điện thoại (chủ yếu điện thoại di động), máy vi tính, tủ lạnh tăng cao (Hình 7). 55
- Xe máy Ti vi Tủ lạnh Bếp Điện Vi thoại ga tính Hình 7. Đồ dùng gia đình trước và sau khi thu hồi đất Như vậy, thực trạng cho thấy nguồn vốn tài sản cá nhân có sự tăng lên đáng kể sau khi thu hồ i đất, tuy nhiên, cũng không thể khẳng định mức sống người dân được cả i thiện tích cực do tác động của việc thu hồ i đất, nhưng người dân có khoản tiền lớn từ bồ i thường hỗ trợ để đầu tư mua sắm là điều không thể phủ nhận. Như vậy, có sự luân chuyển từ nguồn vốn tài chính sang nguồn vốn vật chất, tuy nhiên, nguồn vốn vật chất này đa số là phương tiện sinh hoạt mà không phải là phương tiện sản xuất. Về nguồn vốn vật chất dùng chung cả cộng đồng như hệ thống đường giao thông, cấp nước, cấp điện, hệ thống trường học và cơ sở khám chữa bệnh có sự chuyển biến đáng kể sau thu hồi đất, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thuận lợi và hiệu quả hơn trong các hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa, cải thiện điều kiện giao lưu với môi trường bên ngoài. 3.2.5. Thay đổi về nguồn vốn con người Thu hồ i đất để thực hiện chuyển đổi đất đai người dân được nhận một khoản tiền bồ i thường, được hỗ trợ để chuyển đổi nghề nghiệp, đây là cơ hộ i cho người dân phát triển nguồn vốn con người. Hệ thống trường học các cấp được xây dựng, sửa chữa ngày càng khang trang hơn, người dân còn nguồn tiền từ bồ i thường thiệt hại, hỗ trợ học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp để đầu tư cho học tập. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra chỉ có 4,4% hộ gia đình sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ vào việc học nghề, cho con học hành. Khi phỏng vấn thì nhiều người cho biết nguyên nhân của việc ít người chủ động học nghề là do tuổi cao, ít thông tin hướng nghiệp, tìm kiếm nơi làm việc khó khăn. Tỷ lệ đi học của các nhóm lao động giả m mạnh theo độ tuổi, lao động trong độ tuổi 15-18 có tỷ lệ đi học khá cao 72,7%, tỷ lệ này giảm xuống 11,5% đối với lứa tuổi từ 18 đến 35 (nữ) và 40 (nam). Lao động trên 35 đố i với nữ, 40 đối với nam không có ai theo học. Họ hiểu rằng trong tình hình đô thị hóa, công nghiệp ngày càng phát triển như hiện nay muốn có việc làm thì phải có trình độ tay nghề và bằng cấp, tuy nhiên, hạn chế lớn nhất mà là do tuổi cao, khó khăn trong việc theo học. Do đó, họ đầu tư cho con em theo học, còn bản thân người lớn tuổi (trên 35- 56
- 40 tuổi) khi mất đất nông nghiệp cách đơn giản nhất mà họ lựa chọn là làm thuê tự do. Từ thực tế đó, khi nhà nước thu hồ i đất số lao động nông nghiệp nhiều nhất chuyển sang lao động tự do. Trước thu hồ i đất, bình quân lao động nông nghiệp là 3,0/hộ, sau thu hồ i đất, bình quân chỉ còn 1,6 lao động/hộ. Lao động nông nghiệp trước khi chuyển đổi đất đai của các nhóm 1, 2 và 3 lần lượt là 63,9%, 83,6% và 74,6% đã giảm xuống đáng kể lần lượt là 46,7%, 51% và 44,5% sau thu hồi đất. Lao động phi nông nghiệp tăng mạnh nhất là lao động tự do, trước thu hồ i đất tỷ lệ lao động tự do của các nhóm từ 3,4% - 11% thì sau thu hồ i đất tỷ lệ này của các nhóm 1, 2 và 3 lần lượt là 23,3%, 21,9% và 23,6% (Hình 8). Hình 8. Thay đổi về tỷ lệ lao động sau khi thị hồi đất Đối với nhóm 3 là nhóm bị thu hồ i bình quân gần 87% diện tích đất nông nghiệp nhưng có tới 44,5% lao động vẫn giữ nguyên nghề cũ là sản xuất nông nghiệp. Phần lớ n những lao động này đã lớn tuổi không thể tìm kiế m việc làm vì lý do sức khỏe, họ đành phải bám víu trên diện tích đất nông nghiệp ít ỏi còn lại. 4. Kết luận Chuyển đổ i đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế là xu hướng tất yếu của mọ i quốc gia. Việt Nam không phải là ngoại lệ và tại địa bàn nghiên cứu cũng rất điển hình cho quá trình chuyển đổ i đất đai này. Nhà nước cả ở cấp trung ương và ở cấp địa phương đã và đang có nhiều chính sách nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân bị thu hồ i đất nông nghiệp nhưng thực tế vẫn có nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều hộ dân bị thu hồ i đất nông nghiệp tại vùng nghiên cứu có thu nhập cao hơn trước khi thu hồ i đất, nguồn vốn về vật chất được cải thiện đáng kể, tuy nhiên nhiều người lo lắng về việc tạo nguồn sinh kế lâu dài vì các nguồn thu nhập còn bếp bênh do việc làm không ổn định, cuộc sống xáo trộn, phai nhạt tình cảm nông thôn, ô nhiễm môi trường. Khi thu hồ i đất, người dân nhận được bồ i thường, hỗ trợ đều bằng tiền mặt. Đa số người dân không sử dụng nguồn vốn vào mục đích đầu tư sản xuất và học nghề để 57
- chuyển đổi nghề nghiệp nên dẫn đến khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Do đó, cần có giải pháp từ các cơ quan Nhà nước để việc sử dụng nguồn tiền bồ i thường, hỗ trợ hiệu quả hơn nhằm đảm bảo sinh kế bền vững lâu dài cho người dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Andrew Barnett. The Sustainable Livelihoods Framework, energy and poverty. EASE newsletter, No 4, 2005. [2]. DFID. Sustainable livelihoods guidance sheets, 1999. [3]. Tim Hanstad, Robin Nielsen and Jeifer Brown, Land and livelihoods. Making land rights real for India’s rural poor, Food and Agriculture organization of the United nations (FAO), 2004. [4]. Nguyễn Minh Hoài. Ổn định đất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Tạp chí Cộng sản, 790, 2008. [5]. Bùi Ngọc Thanh. Việc làm cho hộ nông dân thiếu đất sản xuất - vấn đề và giải pháp. Tạp chí Cộng sản (chuyên đề cơ sở), 26, 2009. [6]. Nguyen Van Suu. Industrialization and Urbanization in Vietnam: How Appropriation of Agricultural Land Use Rights Transformed Farmers’ Livelihoods in a Peri-Urban Hanoi Village?. Final Report of an East Asian Development Network (EADN) Individual Research Grant Project, EADN working paper, 38, 2009. INFLUENCE OF CONVERTING AGRICULTURAL LAND INTO NON- AGRICULTURAL LAND ON FARMERS' LIVELIHOODS IN HOI AN CITY, QUANG NAM PROVINCE Huynh Van Chuong College of Agriculture and Forestry, Hue University Ngo Huu Hoanh College of Technology - Economics and Water Resources at Central, MARD SUMMARY That the State recovers agricultural land to convert into non-agricultural land have chaned the land resources creating livelihoods and this is really a shock disturbing the lives of farmers. Resources to create livelihoods for each circulation, through investigation and analysis indicate that the assets of farmers land converted into financial capital and physical capital, few cases turn into social capital development and human capital resources in groups to create livelihoods. The research shows that although many households have higher income after land conversion from agricultural to non-agricultural land to promote the process of urbanization, people do not feel secure because their income is not stable and they are likely to face uncertainties in life. Research results also show that the solution should be more specific on job creation, consultancy funded compensation and assistance for compensation and resettlement of the people with land recovered by the State so that they can obtain sustainable livelihoods after land acquisition. 58
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ TÔM TỰ NHIÊN TRONG CÁC MÔ HÌNH TÔM RỪNG Ở CÀ MAU"
12 p | 1363 | 120
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều."
10 p | 614 | 45
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU PHỐI TRỘN CHI TOSAN – GELATI N LÀM MÀNG BAO THỰC PHẨM BAO GÓI BẢO QUẢN PHI LÊ CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG"
7 p | 518 | 45
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA AXÍT LÊN TÔM SÚ (PENAEUS MONODON)"
5 p | 454 | 44
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PCR-GENOTYPI NG (ORF94) TRONG NGHIÊN CỨU VI RÚT GÂY BỆNH ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM SÚ (Penaeus monodon)"
7 p | 378 | 35
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC DINH DƯỠNG CÁ ĐỐI (Liza subviridis)"
6 p | 378 | 31
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN CỦA CÁ ĐỐI (Liza subviridis)"
8 p | 331 | 29
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU CẢI TIẾN HỆ THỐNG NUÔI KẾT HỢP LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) VỚI BỂ NƯỚC XANH"
11 p | 385 | 29
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa câu văn trong tập truyện ngắn “Đêm tái sinh” của tác giả Trần Thuỳ Mai"
10 p | 434 | 24
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU TẠO KHÁNG THỂ ĐƠN DÒNG VI-RÚT GÂY BỆNH HOẠI TỬ CƠ QUAN TẠO MÁU VÀ DƯỚI VỎ (IHHNV) Ở TÔM PENAEID"
6 p | 354 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ƯƠNG GIỐNG VÀ NUÔI THƯƠNG PHẨM CÁ THÁT LÁT (Notopterus notopterus Pallas)"
7 p | 306 | 22
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ KẾT (Kryptopterus bleekeri GUNTHER, 1864)"
12 p | 298 | 20
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU DÙNG ARTEMIA ĐỂ HẠN CHẾ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIÊM MAO TRÙNG (Ciliophora) TRONG HỆ THỐNG NUÔI LUÂN TRÙNG"
10 p | 367 | 18
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU PHÂN VÙNG THỦY VỰC DỰA VÀO QUẦN THỂ ĐỘNG VẬT ĐÁY"
6 p | 347 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THIẾT LẬP HỆ THỐNG NUÔI KẾT HỢP LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) VỚI BỂ NƯỚC XANH"
10 p | 372 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THAY THẾ THỨC ĂN SELCO BẰNG MEN BÁNH MÌ TRONG NUÔI LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) THÂM CANH"
10 p | 347 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ƯƠNG GIỐNG CÁ KẾT (Micronema bleekeri) BẰNG CÁC LOẠI THỨC ĂN KHÁC NHAU"
9 p | 258 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU SỰ THÀNH THỤC TRONG AO VÀ KÍCH THÍCH CÁ CÒM (Chitala chitala) SINH SẢN"
8 p | 250 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn