Báo cáo nghiên cứu khoa học " VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH "
lượt xem 14
download
Trong những năm qua với cơ chế nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã đưa đến những biến đổi to lớn về kinh tế và xã hội, sản xuất và đời sống trong nông nghiệp, nông thôn. Cùng với những thay đổi đó, vai trò chủ yếu của các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp cũng có những đổi thay theo hướng đa dạng và hiệu quả.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học " VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH "
- VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH ĐỊNH Trịnh Văn Sơn Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 1. Đặt vấn đề Trong những năm qua với cơ chế nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã đưa đến những biến đổi to lớn về kinh tế và xã hội, sản xuất và đời sống trong nông nghiệp, nông thôn. Cùng với những thay đổi đó, vai trò chủ yếu của các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp cũng có những đổi thay theo hướng đa dạng và hiệu quả. Chức năng chủ yếu của các HTX nông nghiệp hiện nay là thực hiện hoạt động dịch vụ trong nông nghiệp, đáp ứng các nhu cầu về sản xuất và tiêu thụ nông sản phẩm hàng hoá cho các hộ gia đình nông dân, đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình phân công lại lao động xã hội và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Trong giai đoạn 2000 đến 2003, hầu hết các HTX ở tỉnh Bình Định đã có những chuyển đổi cơ bản về cả phương diện số lượng lẫn chất lượng, phần lớn các HTX đã kinh doanh tương đối có hiệu quả, mở rộng qui mô sản xuất và làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, loại hình HTX dịch vụ nông nghiệp vẫn còn bộc lộ những tồn tại và nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, quan tâm và giải quyết. 5
- Vì vậy, đánh giá thực trạng và những vấn đề về đổi mới của các HTX nông nghiệp một cách nghiêm túc sẽ có một ý nghĩa rất lớn trên cả giác độ quản lý và điều hành. Đây cũng là cơ sở quan trọng để nhìn nhận một cách nghiêm túc và rút ra những bài học, những kinh nghiệm qủ báu trong việc chỉ đạo và đề xuất các giải pháp thiết thực cho quá trình đổi mới và xây dựng kinh tế hợp tác; đáp ứng những yêu cầu mới trước đòi hỏi thực tế và nâng cao không ngừng năng lực và hiệu quả kinh doanh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng nông thôn mới hiện nay. 2. Thực trạng HTX nông nghiệp ở tỉnh Bình Định: Sau những năm thực hiện đổi mới, chuyển đổi HTX nông nghiệp kiểu cũ sang loại hình HTX nông nghiệp kiểu mới (loại hình HTX kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp), Bình Định là tỉnh có tỷ lệ chuyển đổi khá cao so với một số tỉnh khác. Tính đến năm 2003, trên toàn tỉnh có 218 HTX nông nghiệp, thì đã có trên 180 HTX (chiếm trên 82 %) đã chuyển đổi theo hướng kinh doanh dịch vụ, số còn lại đã và đang chuyển đổi. Tuy mức độ hoạt động và hiệu quả có khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả đều có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm và đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, từng bước đáp ứng các yêu cầu và đòi hỏi của thực tế, tháo gỡ dần những khó khăn và các ràng buộc bất hợp lý. Đứng trước những đòi hỏi của sự thay đổi, các HTX đã đề cao dần vai trò và quyền làm chủ của các hộ gia đình xã viên, thực hiện kiểm kê tài sản, vốn quỹ và kiện toàn lại Ban quản lý một cách gọn nhẹ theo hướng tinh xảo, nâng cao trình độ và chất lượng hoạt động. Theo tinh thần đổi mới, đã có hơn 178 HTX thực hiện tốt từ một đến nhiều khâu dịch vụ theo yêu cầu và khả năng cho các hộ gia đình nông dân, chỉ đạo và thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. 6
- Kết quả đó cho thấy, mặc dầu những thay đổi của các HTX chưa thật mạnh và hiệu quả, nhưng kết quả kinh doanh của HTX qua các hoạt động kinh doanh cũng như việc thực hiện các khâu dịch vụ phục vụ cho hộ nông dân đã thể hiện một sự cố gắng rất lớn trong quá trình chuyển đổi, đã góp phần không nhỏ trong việc nâng cao đời sống và từng bước xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn. Bảng1: Tình hình dịch vụ của các HTX cho hộ gia đình ở Bình Định ĐVT: % theo tổng số HTX 7
- Các khâu dịch vụ của Mức độ đáp Năm Năm HTX So sánh ứng nhu cầu 2000 2003 (%) cho hộ gia đình 1. Thuỷ lợi 97,6 98,2 + 0,6 95 2. Khuyến nông 92,9 95,6 +2,7 85 3. Giống cây trồng 63,3 75,2 +11,9 41 4. Vật tư nông nghiệp 63,6 77,7 +14,1 69 5. Làm đất 42,4 50,1 +7,7 88 6. Điện dân dụng và sản 54,5 65,5 +11,0 89 xuất 7. Tín dụng nội bộ 48,5 57,3 +8,8 55 24,2 38,1 +14,1 42 8. Tiêu thụ sản phẩm 9. Chế biến nông lâm 6,6 15,3 +8,7 38 sản 22,2 30,0 +7,8 40 10. Dịch vụ khác (Nguồn: số liệu điều tra 218 HTX) 8
- Nhìn chung các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay đã phần nào thực hiện tốt các khâu dịch vụ phục vụ trực tiếp cho các nông hộ, giúp cho họ ổn định và phát triển. Trong số các loại hình dịch vụ, trước hết phải nói rằng dịch vụ thủy lợi, bảo vệ thực vật và cung ứng vật tư nông nghiệp... là những dịch vụ được các hộ gia đình xã viên quan tâm. Song sự đáp ứng loại hình dịch vụ này của các HTX vẫn chưa thể thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi thực tế, mới chỉ đáp ứng theo từng loại tương ứng là 95%, 85% và 69%. Những tồn tại này có thể khẳng định, nguyên nhân chủ yếu là do các HTX mới chuyển đổi nên còn quá nhiều rụt rè và bỡ ngỡ trước sự khắc khe và đầy biến động của nền kinh tế thị trường, do trình độ tổ chức và khả năng quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, do thiếu năng động trong việc tìm kiếm nguồn hàng hoặc do ảnh hưởng của giá cả vật tư cung ứng. Những thay đổi của các tổ chức kinh tế tập thể, đặc biệt là các HTX kinh doanh, dịch vụ nông nghiệp đã và đang thể hiện vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Kết quả đó đã tạo ra một nội lực quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn và đời sống nông hộ. Cùng với sự thay đổi đó là hệ thông chính trị ở nông thôn cũng chuyển đổi dần về nội dung và phương thức hoạt động theo hướng gắn trách nhiệm với hoạt động kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, những thay đổi của các HTX vẫn chỉ mới là bước đầu và đáng được khích lệ. Nhưng, bên cạnh đó chúng ta cũng phải dám nhìn thẳng vào sự thật rằng công tác tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý của hầu hết các HTX hiện nay vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trước hết, về trình độ tổ chức sản xuất trong phần lớn các HTX còn ở mức thấp, cơ cấu kinh tế và cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển đổi vẫn chưa thật hợp lý và chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao, sản xuất nông nghiệp vẫn còn độc canh cây lúa, ngành nghề nông thôn phát triển chậm chạp. Một số HTX chưa thoát ra khỏi sự trì trệ, lúng túng trong quá trình chuyển đổi, còn mang nặng tư duy của 9
- cơ chế cũ. Vì vậy, tính năng động, nhạy bén và hiệu quả kinh doanh dịch vụ còn quá thấp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên có thể các HTX chưa tìm ra con đường đổi mới trong những ràng buộc về những điều kiện kinh tế của địa phương, hoặc cũng có thể do phương hướng và nội dung hoạt động sản xuất - kinh doanh thiếu tính khoa học và cụ thể. Mặt khác, một nguyên nhân khá quan trọng hiện nay là tình hình tài chính của một số HTX còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu lành mạnh, công tác quản lý tài chính chưa theo đúng chế độ, còn vi phạm các nguyên tắc tài chính, nợ khê đọng trong xã viên còn rất lớn. Qui mô về vốn sản xuất kinh doanh của các HTX sau khi chuyển đổi không lớn, bình quân 900 triệu đồng/1HTX, trong đó vốn cố định và đầu tư dài hạn chiếm khoảng 60%, song lượng vốn này chủ yếu nằm dưới dạng là tài sản cố định, những tài sản này hầu hết đã cũ, hư hỏng nhiều. Thực trạng đó đòi hỏi phải có một nguồn vốn khá lớn để đầu tư mới trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh dịch vụ của các HTX hiện nay. Số vốn lưu động chiếm khoảng 40%, nhưng chủ yếu lại bị các hộ gia đình xã viên chiếm dụng. Vì thế, các HTX đã tỏ ra thiếu vốn trầm trọng và sẽ ảnh hưởng đến tính linh hoạt trong kinh doanh dịch vụ; dẫn đến kém năng động và nhạy bén trước sự đòi hỏi của cơ chế thị trường. Xét về trình độ quản lý của đội ngũ các nhà quản lý HTX là tương đối thấp: Các chủ nhiệm HTX có trình độ sơ cấp chiếm trên 45%, trung cấp 35% và đại học, cao đẳng khoảng 20%. Số cán bộ là trưởng ban kiểm soát chưa qua đào tạo chuyên môn chiếm trên 52%. Điều đó đòi hỏi phải cần có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cao, am hiểu thực tế, nhạy bén, năng động và có trách nhiệm. 10
- Với sự chuyển đổi của mình, đa số các HTX, mặc dầu chưa đáp ứng đủ yêu cầu, nhưng hiệu quả hoạt động của các HTX kiểu mới này đã mang lại lợi nhuận nhất định, lợi nhuận bình quân của mỗi HTX đạt khoảng từ 25 đến 30 triệu đồng/năm, tỷ suất sinh lời trên vốn sản xuất bình quân là 3%. Có thể nói trong điều kiện hiện nay, chuyển đổi loại hình HTX kiểu cũ sang kiểu mới đánh dấu một sự thay đổi khá phù hợp với quá trình phát triển kinh tế và xã hội ở nước ta nói chung và Bình Định nói riêng. Như vậy, thay đổi cơ chế quản lý, cơ cấu tổ chức, nội dung và chức năng hoạt động đó là một yêu cầu khách quan đối với sự nghiệp đổi mới các HTX nông nghiệp để đáp ứng những đòi hỏi của thực tế và yêu cầu của quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở Bình Định. 3. Những vấn đề đổi mới của HTX - Đổi mới tổ chức bộ máy và ban quản lý HTX: Thực hiện chỉ thị 146CP (02-10-2001) của Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của UBND tỉnh Bình Định về chấn chỉnh và đổi mới HTX., các HTX đã tiến hành đổi mới mà trước hết từ khâu tổ chức bộ máy và Ban quản trị HTX với tinh thần phải gọn gàng, năng động, tránh kồng kềnh kém hiệu quả. Vì vậy, việc qui hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để nâng cao trình độ đã đang được các cấp, ban, ngành quan tâm và thực hiện. - Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động: Với loại hình HTX kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp, các HTX đã dần khẳng định vai trò và vị thế của mình trong việc dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình từng bước phát triển. Vì thế, hình thức và nội dung hoạt động của các HTX ngày càng đa dạng và thiết thực hơn; một số hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân 11
- đã mang lại tính hiệu quả tương đối như thuỷ lợi, khuyến nông, điện dân dụng... Nhiều HTX đã đầu tư mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, kiên cố hóa kênh mương, nhà xưởng; mở rộng liên doanh liên kết để tăng khả năng và năng lực hoạt động của mình. Các HTX An Nhơn, Tây Sơn, Phù Cát, Phù Mỹ và Hòa Nhơn... đã đổi mới thực sự nội dung và hình thức hoạt động gắn kết với thị trường để thực hiện dịch vụ cung ứng đầu vào và thực hiện bao tiêu sản phẩm đầu ra cho các nông hộ. Đồng thời góp phần thúc đẩy các hộ gia đình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế VAC, kinh tế trang trại và kinh tế ngành nghề ở nông thôn. - Đổi mới công tác quản lý tài chính: Đã có trên 97% HTX kiểm kê tài sản, vốn quỹ thu hồi công nợ và thực hiện chế độ kế toán hiện hành. Số công nợ tính đến cuối năm 2002, bình quân mỗi HTX còn khoảng gần 400 triệu, trong đó phải thu ở các nông hộ khoảng 270 triệu, nợ phải trả bình quân 1 HTX là khoảng 190 triệu. Gắn liền với công tác thu hồi công nợ, các HTX đã thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn để nâng cao số vốn hoạt động. - Kết quả đánh giá các HTX ở Bình Định: Theo số liệu thống kê, điều tra các HTX ở Bình Định thì kết quả đánh giá của 218 HTX thể hiện như sau: Bảng 2: Kết quả phân loại các HTX nông nghiệp ở Bình Định 12
- Loại HTX Năm 2002 Năm 2003 Tổng số HTX 218 100,0 218 100,0 1. HTX khá 75 34,4 78 35,7 2. HTX trung bình 99 45,4 102 46,8 3. HTX yếu kém 44 20,2 38 17,5 (Nguồn: dựa vào số liệu điều tra 218 HTX) 4. Những giải pháp chủ yếu thực hiện đổi mới HTX: - Cần tổng kết và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn chuyển đổi của các HTX theo loại hình kiểu mới, để có những cơ sở đề xuất các chủ trương, chính sách phù hợp trong chỉ đạo và thực hiện. - Cần có chính sách mở để tạo điều kiện cho các HTX mở rộng các mối quan hệ liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức xã hội... thực hiện các hợp đồng cung ứng vật tư, bao tiêu sản phẩm. - Trung tâm khuyến nông, Công ty Vật tư Nông nghiệp, Chi cục Thú y và Bảo vệ thực vật, Công ty Thủy nông, Công ty Giống cây trồng... của Tỉnh cần quan tâm giúp các HTX trong việc chuyển giao kỹ thuật mới đến các hộ nông dân, cung cấp các dịch vụ kịp thời. 13
- - Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong HTX, có chế độ thù lao thích đáng với sự đóng góp của họ. - Tạo điều kiện cho các HTX tạo lập vốn dưới nhiều hình thức như vay vốn từ ngân hàng, huy động vốn từ các tổ chức xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước; đầu tư có trọng điểm tài sản cố định, các trang thiết bị phục vụ tốt cho kinh doanh dịch vụ và mở rộng các loại hình dịch vụ mới của các HTX, đồng thời xử lý công nợ tồn đọng tạo sự lành mạnh về hoạt động tài chính. 5. Kết luận: Chuyển đổi các HTX sản xuất nông nghiệp sang loại hình HTX kinh doanh dịch vụ nông nghiệp là một bước chuyển đổi hợp lý. Hoạt động của HTX loại này đã và đang mang lại những ảnh hưởng tích cực, góp phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay, loại hình HTX kiểu mới ở Bình Định đang dần dần ổn định và bước đầu phát triển. Nhiều HTX trong Tỉnh đã mở rộng và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông hộ. Tuy nhiên, các HTX kiểu mới hiện nay vẫn chưa đủ mạnh về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật lẫn trình độ tổ chức quản lý và khả năng ứng xử linh hoạt trong nền kinh tế thị trường vẫn còn rất nhiều hạn chế. Do vậy, đối với Nhà nước phải có chính sách ở tầm vĩ mô về cả đường lối và cơ sở vật chất để hỗ trợ cho các loại hình HTX kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp. Tỉnh và các ban, ngành trong tỉnh phải có những chính sách để quản lý chặt chẽ, tạo mọi cơ hội tốt về đầu tư, về đào tạo và về công tác tổ chức quản lý nhằm nâng cao khả năng kinh doanh - dịch vụ có hiệu quả của các HTX kinh doanh dịch vụ . TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
- 1. Chỉ thị 68/CP của Chính phủ 2. Các tài liệu điều tra và hoạt động của các HTX - Tỉnh Bình Định 3. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chỉ thị 68/CT/TW của Ban Bí thư - Sở nông nghiệp Bình Định đầu năm 2002. 4. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 và phương hướng năm 2003 của Sở Nông nghiệp Bình Định. 5. Niên giám thông kê tỉnh Bình Định (2002, 2003) 6. Luật HTX (1993), Hiến pháp (1992) RENOVATION OF FARMING COOPERATIVES IN BINH DINH PROVINCE Trinh Van Son College of Economics, Hue University SUMMARY The present form of agricultural co-operatives in Binh Dinh Province a conversion from the traditional one. The major function of the present cooperatives is doing business and providing services for farming households. 15
- The activities conducted by these new cooperatives have brought about a great positive influence upon the agricultural development and growth of the country. Till the present time, this new form of co-operatives in Binh Dinh Province has become stable and is on its first stage of development. 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ TÔM TỰ NHIÊN TRONG CÁC MÔ HÌNH TÔM RỪNG Ở CÀ MAU"
12 p | 1366 | 120
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều."
10 p | 614 | 45
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU PHỐI TRỘN CHI TOSAN – GELATI N LÀM MÀNG BAO THỰC PHẨM BAO GÓI BẢO QUẢN PHI LÊ CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG"
7 p | 518 | 45
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Giọng điệu thơ trào phúng Tú Mỡ trong “Dòng nước ngược”"
8 p | 322 | 44
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA AXÍT LÊN TÔM SÚ (PENAEUS MONODON)"
5 p | 455 | 44
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC DINH DƯỠNG VÀ SINH SẢN CỦA LƯƠN ĐỒNG (Monopterus albus)"
12 p | 305 | 43
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THỨC ĂN TRONG NUÔI CÁ TRA VÀ BASA KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG"
8 p | 226 | 38
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PCR-GENOTYPI NG (ORF94) TRONG NGHIÊN CỨU VI RÚT GÂY BỆNH ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM SÚ (Penaeus monodon)"
7 p | 379 | 35
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU CẢI TIẾN HỆ THỐNG NUÔI KẾT HỢP LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) VỚI BỂ NƯỚC XANH"
11 p | 386 | 29
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Vai trò của toán tử tình thái trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan (Qua phân tích truyện ngắn Mất cái ví)"
8 p | 268 | 24
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa câu văn trong tập truyện ngắn “Đêm tái sinh” của tác giả Trần Thuỳ Mai"
10 p | 436 | 24
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU TẠO KHÁNG THỂ ĐƠN DÒNG VI-RÚT GÂY BỆNH HOẠI TỬ CƠ QUAN TẠO MÁU VÀ DƯỚI VỎ (IHHNV) Ở TÔM PENAEID"
6 p | 354 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU DÙNG ARTEMIA ĐỂ HẠN CHẾ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIÊM MAO TRÙNG (Ciliophora) TRONG HỆ THỐNG NUÔI LUÂN TRÙNG"
10 p | 367 | 18
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THIẾT LẬP HỆ THỐNG NUÔI KẾT HỢP LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) VỚI BỂ NƯỚC XANH"
10 p | 373 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU PHÂN VÙNG THỦY VỰC DỰA VÀO QUẦN THỂ ĐỘNG VẬT ĐÁY"
6 p | 349 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THAY THẾ THỨC ĂN SELCO BẰNG MEN BÁNH MÌ TRONG NUÔI LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) THÂM CANH"
10 p | 347 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " CẬP NHẬT VỀ HỆ THỐNG ĐỊNH DANH TÔM BIỂN VÀ NGUỒN LỢI TÔM HỌ PENAEIDAE Ở VÙNG VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG"
10 p | 194 | 14
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học công nghệ: Kết quả nghiên cứu lúa lai viện cây lương thực và cây thực phẩm giai đoạn 2006 - 2010
7 p | 188 | 13
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn