intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu khoa học " Xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “Lùn sọc đen phương nam” hại lúa tại Nghệ An "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

111
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dự án: Áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “lùn sọc đen phương Nam” hại lúa tại Nghệ An Chủ nhiệm dự án: Th.S Trịnh Thạch Lam Cơ quan chủ trì: Chi cục Bảo vệ thực vật Nghệ An Dự án: Áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “lùn sọc đen phương Nam” hại lúa tại Nghệ An

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học " Xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “Lùn sọc đen phương nam” hại lúa tại Nghệ An "

  1. Xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “Lùn sọc đen phương nam” hại lúa tại Nghệ An Dự án: Áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “lùn sọc đen phương Nam” hại lúa tại Nghệ An Chủ nhiệm dự án: Th.S Trịnh Thạch Lam Cơ quan chủ trì: Chi cục Bảo vệ thực vật Nghệ An Dự án: Áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình quản lý tổng hợp bệnh “lùn sọc đen phương Nam” hại lúa tại Nghệ An Chủ nhiệm dự án: Th.S Trịnh Thạch Lam Cơ quan chủ trì: Chi cục Bảo vệ thực vật Nghệ An 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong mấy năm gần đây, sự bùng phát của bệnh lùn sọc đen phương Nam (hay còn gọi là b ệnh vàng lùn, lùn xo ắn lá)... đã làm ả nh hưở ng nghiêm trọng đến năng suấ t lúa. Đây là loạ i bệ nh r ất nguy hiể m trên cây lúa, có t ố c độ lây lan nhanh. Vụ h è thu - mùa năm 2009, bệnh lần đ ầu tiên xuất hiệ n đã gây hạ i thành dị ch ở các tỉnh phía Bắ c như Ngh ệ An, Nam Định, Thái Bình... vớ i t ổng diện tích thiệt hại lên đế n trên 40.000ha. Riêng ở N ghệ An, bệnh đã gây thi ệt hại trên 13.500ha, trong đó có 10.500ha bị mất trắng. Thiệ t hạ i kinh t ế ướ c tính khoả ng 140 tỷ đ ồng. T heo đánh giá c ủ a các nhà khoa họ c B ả o vệ t h ực vậ t trong và ngoài nư ớ c t hì b ệ nh lùn s ọ c đen c òn có nguy cơ gây hại n ặng trong nh ữ ng năm tiế p theo n ế u không có biệ n pháp quả n lý phù h ợp. Đ ể c h ủ đ ộ ng qu ả n lý bệ nh có hiệ u q u ả và bề n vữ ng, hạ n ch ế đ ế n mứ c th ấp nhấ t thi ệ t h ại do b ệnh gây ra, UBND t ỉ nh, Sở K hoa họ c và Công ngh ệ N gh ệ An đã giao Chi c ục B ả o vệ th ự c vậ t x ây d ự ng và th ự c hi ện d ự á n “ Áp d ụng các tiế n b ộ k hoa h ọ c công nghệ x ây d ự ng mô hình q uả n lý tổ ng hợ p b ệnh “lùn s ọ c đen phương Nam” h ạ i lúa t ại N gh ệ A n” trong năm 2010.
  2. II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Kết quả thực hiện mô hình quản lý bệnh lùn sọc đen phương Nam Mô hình áp dụng các biện pháp kỹ thuật quản lý bệnh lùn sọc đen phương Nam (các giải pháp kỹ thuật quản lý bệnh áp dụng theo dự thảo quy trình ở giai đoạn 1 của dự án) được triển khai trên quy mô 25ha tại các xã Hồng Thành. Huyện Yên Thành (15ha), xã Long Sơn, huyện Anh Sơn (10ha) cho các vụ sản xuất lúa xuân và vụ hè thu - mùa năm 2010. Kết quả thực hiện mô hình đạt được như sau: 1.1. Tình hình gây hại của rầy và bệnh lùn sọc đen phương Nam trên đ ịa bàn tỉnh Nghệ An trong năm 2009 - 2010 Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, hàng năm Nghệ An gieo cấy 178-185 nghìn ha lúa. Trong 2 năm (2009, 2010), trên địa bàn Nghệ An, rầy nâu, rầy lưng trắng (rầy lưng trắng chiếm 70-80%) thường phát sinh gây hại với mật độ cao và trên diện rộng. Đặc biệt, từ vụ hè thu - mùa năm 2009, sự bùng phát của rầy lưng trắng đã kéo theo dịch bệnh lùn sọc đen phương Nam phát sinh trên diện rộng, gây thiệt hại nghiêm trọng đến năng suất lúa. Diện tích nhiễm rầy và bệnh lùn sọc đen phương Nam trong các năm 2009-2010 trên địa bàn Nghệ An (nguồn Chi cục BVTV Nghệ An) được trình bày ở bảng.
  3. Bảng: Tình hình gây hại của rầy và bệnh lùn sọc đen phương Nam tại Nghệ An trong các năm 2009-2010 Bệnh lùn sọc đen phương Nam Rầy nâu + rầy lưng trắng Vụ hè thu - mùa Vụ hè thu - mùa Vụ xuân (ha) Vụ xuân (ha) (ha) (ha) Năm ∑ ∑ DTN DTN DTN DTN ∑ DTN ∑ DTN nặng nặng nặng nặng DTN DTN - - 13.500 10.500 1.372 53 9.576 2.600 2009 18 0 3.800 626 3.095 366 8.952 460 2010 Ghi chú: DTN = Diện tích nhiễm Kết quả thống kê tại bảng cho thấy: Trong các năm 2009, 2010, rầy lưng trắng phát sinh gây hại trong cả 2 vụ sản xuất lúa xuân và hè thu - mùa, song trong phạm vi và mức độ gây hại của rầy vụ hè thu - mùa lớn hơn so với vụ xuân. Bệnh lùn sọc đen phương Nam gây hại trong vụ hè thu - mùa cao hơn hẳn so với vụ xuân. 1.2. Kết quả theo dõi diễn biến của rầy lưng trắng 1.2.1. Diễn biễn số lượng rầy lưng trắng vào đèn Rầy lưng trắng là loài có xu tính đối với ánh sáng đèn. Để theo dõi thời gian phát sinh các lứa rầy trên đồng ruộng phục vụ cho công tác dự tính, dự báo, tiến hành bố trí các bẫy đèn trên khu vực thực hiện mô hình (01 bẫy đèn/mô hình). Kết quả theo dõi diễn biến số lượng rầy lưng trắng vào đèn cho thấy: Tại xã Hồng Thành (Yên Thành): Trong vụ xuân, rầy lưng trắng bắt đầu vào đèn ngay từ thời kỳ gieo mạ (6/1) song số lượng rầy vào đèn thấp, đặc biệt từ tháng 1-3. Trong vụ có 04 cao điểm rầy vào đèn: cao điểm thứ nhất vào đầu tháng
  4. 2 (08-10/2); cao điểm thứ 2 vào giữa tháng 3 (13-17/3); cao điểm thứ 3 vào giữa tháng 4 (14-17/4); cao điểm thứ 4 vào đầu tháng 5 (30/4-07/5). Từ cuối tháng 5 trở đi cho đến hết vụ hè thu - mùa, số lượng rầy vào đèn khá cao, rải đều qua các ngày và không hình thành rõ các cao điểm. Tại xã Long Sơn (Anh Sơn): Trong vụ xuân bắt đầu thu được rầy vào đèn từ thời kỳ mạ (21/1), song các tháng 1, 2, 3 số lượng rầy vào đèn không đáng kể. Trong vụ có 03 cao điểm rầy vào đèn: cao điểm thứ nhất vào cuối tháng 3 đầu tháng 4 (31/3-02/4); cao điểm thứ 2 vào nửa cuối tháng 4 (19-22/4); cao điểm thứ 3 vào đầu tháng 5 (02-04/5). Từ trung tuần tháng 5 trở đi cho đến hết vụ mùa, số lượng rầy vào đèn rất thấp và không hình thành các cao điểm. Như vậy, việc sử dụng bẫy đèn ít có tác dụng phục vụ cho công tác dự tính dự báo, chỉ đạo phòng trừ rầy lưng trắng hại lúa. Đặc biệt, trong vụ hè thu - mùa, số lượng rầy vào đèn khá cao, rải đều và không hình thành các cao điểm. Do đó, việc sử dụng bẫy đèn theo dõi rầy lưng trắng để xác định thời vụ gieo mạ "né rầy" ít có ý nghĩa. 1.2.2. Diễn biến mật độ rầy lưng trắng trên ruộng đoạn mạ Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì giai đoạn mạ là giai đoạn cây lúa rất mẫn cảm đối với vi rút lùn sọc đen phương Nam. Do đó, để phòng chống bệnh thì việc phát hiện và phòng chống kịp thời rầy môi giới xâm nhập gây hại và truyền bệnh ở thời kỳ này có ý nghĩa rất quan trọng. Ở vụ xuân, sau khi mở tấm phủ nilon, rầy lưng trắng bắt đầu xâm nhập song mật độ rầy ở trên ruộng mạ là rất thấp, do nông dân đã tiến hành phun tiễn chân mạ bằng thuốc trừ rầy nội hấp. Ở vụ hè thu - mùa, mật độ rầy lưng trắng gây hại trên mạ khá cao. Trên cả ruộng mô hình và ruộng đối chứng đều được xử lý bằng Cruiser plus 312,5 FS (0,5 ml/kg giống) trước lúc gieo. Sau khi gieo mạ 7, ngày rầy đã bắt đầu xâm nhập, song mật độ rầy thấp. Mật độ rầy trên các ruộng mạ tăng cao ở 14 ngày sau gieo. Trên ruộng mô hình, mạ
  5. được xử lý thuốc trừ rầy nội hấp vào 2 thời điểm là 7 và 14 ngày sau gieo nên đã khống chế được mật độ rầy ở mức thấp hơn nhiều so với ruộng đối chứng. Mật độ rầy trên các ruộng mô hình ở 14 ngày sau gieo phổ biến là 4,5-12 con/m2 so với ruộng đối chứng là 17,5-110 con/m2. Như vậy việc xử lý hạt giống bằng thuốc Cruiser plus 312,5 FS ở liều lượng 0,5 ml/kg giống có hiệu quả phòng trừ rầy cao ở giai đoạn từ gieo đến 7 ngày. 1.2.3. Diễn biễn mật độ rầy lưng trắng trên ruộng lúa sau khi cấy Cho đến nay việc phòng chống bệnh lúa lùn sọc đen phương Nam chủ yếu thông qua việc phòng trừ môi giới truyền bệnh. Do đó, việc theo dõi xác định diễn biến quy luật phát sinh, gây hại của rầy lưng trắng trên đồng ruộng được coi là khâu rất quan trọng. Kết quả theo dõi diễn biến mật độ rầy trên đồng ruộng cho thấy: Từ sau khi cấy đến thu hoạch, rầy lưng trắng luôn có mặt trên ruộng lúa. Năm 2010, trên đồng ruộng rầy lưng trắng phát sinh thành 7 đợt (đợt 1, 2, 3 trên lúa vụ xuân; đợt 4, 5, 6 trên lúa vụ hè thu và đợt 5, 6, 7 trên lúa vụ mùa) tương ứng với các giai đoạn cây lúa đẻ nhánh, đứng cái - làm đòng, chín sữa - chín sáp, trong đó đợt rầy phát sinh vào thời kỳ lúa làm đòng đến trổ và chín sữa - chín sáp có mật độ cao nhất. Kết quả theo dõi cũng cho thấy trong quần thể rầy luôn có tỷ lệ rầy trưởng thành khá cao 50-60%. 1.3. Diễn biến bệnh lùn sọc đen phương Nam trên đồng ruộng Ở giai đoạn mạ, trong vụ xuân ở cả 2 điểm thực hiện mô hình, bệnh lùn sọc đen phương Nam gây hại không đáng kể. Trên đồng ruộng có phát hiện sự hiện diện của bệnh song tỷ lệ cây bị bệnh rất thấp. Vụ hè thu - mùa (2010): Tại Anh Sơn, có phát hiện thấy sự hiện diện của bệnh trên đồng ruộng song tỷ lệ cây bị bệnh quá thấp. Tại Yên Thành, triệu chứng bệnh bắt đầu xuất hiện ở giai đoạn cây lúa đẻ nhánh rộ với tỷ lệ cây bị bệnh ban đầu 2,2% đối với ruộng mô hình và 4,3% đối với ruộng đối chứng. Tỷ lệ bệnh trên đồng ruộng đạt cao nhất vào thời kỳ lúa chín sữa tương ứng 2,7% đối với ruộng mô hình, 9,5% đối với ruộng đối chứng.
  6. Trong năm, các địa phương đều đã tập trung cao cho công tác chỉ đạo phòng chống dịch bệnh lùn sọc đen phương Nam. Các giải pháp kỹ thuật áp dụng cơ bản giống với các giải pháp trên mô hình. Song việc áp dụng tốt các biện pháp kỹ thuật, đặc biệt là phát hiện phòng trừ rầy kịp thời ở thời kỳ mạ, lúa và tiêu hủy kịp thời cây bệnh đã làm giảm sự phát sinh gây hại của bệnh lùn sọc đen phương Nam cũng như quần thể rầy trên đồng ruộng. Tỷ lệ cây bị bệnh trên ruộng mô hình thấp hơn 6,8% so với đối chứng. 2. Đề xuất quy trình phòng trừ tổng hợp bệnh lùn sọc đen hại lúa tại Nghệ An 2.1. Nhận dạng bệnh trên đồng ruộng Cây lúa bị bệnh có triệu chứng thấp lùn, lá cứng và xanh đậm hơn bình thường. Lá lúa bị bệnh có thể xoăn ở đầu lá hoặc toàn bộ lá. Gân lá ở mặt sau và gân chính trên bẹ lá bị sưng lên. Bộ rễ lúa bị bệnh phát triển kém, bị thâm đen và rất dễ nhổ. Cây lúa bị bệnh sớm thì phát triển còi cọc, lụi dần và chết. Từ giai đoạn làm đòng và khi cây lúa có lóng, cây bị bệnh thường nảy chồi trên đốt thân và mọc nhiều rễ bất định. Trên bẹ và lóng thân xuất hiện nhiều u sáp, mới đầu có màu trắng, sau tạo thành các sọc màu đen. Khi bị bệnh nặng, cây lúa không trổ bông được hoặc trổ không thoát, hạt lép và thường bị đen. 2.2. Các biện pháp kỹ thuật phòng trừ bệnh 2.2.1. Xử lý đồng ruộng trước khi gieo cấy Trên những vùng bị bệnh cần dọn sạch tàn dư cây trồng, cỏ dại và cày lật gốc rạ ngay sau khi thu hoạch để ngăn ngừa lúa chét, lúa tái sinh. Trước khi gieo cấy 5-7 ngày, vệ sinh dọn sạch tàn dư cây trồng, cỏ dại quanh bờ, ruộng, mương dẫn nước, sơn bờ. Bón vôi bột với lượng 25-30 kg/500m2 và cày bừa kỹ. Kiểm tra, bao vây phun trừ kịp thời rầy lưng trắng trên bờ vùng, bờ thửa, mương máng... khi có mật độ cao để hạn chế rầy mang bệnh di chuyển sang gây hại và truyền bệnh cho mạ, lúa.
  7. 2.2.2. Giống và thời vụ Chọn và sử dụng giống lúa có chất lượng tốt. Trên cùng một xứ đồng nên sử dụng 1-2 giống có cùng thời gian sinh trưởng. Gieo cấy đúng lịch thời vụ của địa phương, tỉnh đã quy định cho từng giống, từng vùng. 2.2.3. Bảo vệ mạ Gieo mạ tập trung để thuận lợi trong việc chăm sóc, bảo vệ. Không gieo thẳng, không cắt từng khoảnh trong ruộng lúa đang chín để gieo mạ. Không gieo mạ ở gần những ruộng đang có nguồn bệnh, ven đường giao thông, những nơi có nguồn sáng cao thu hút rầy vào ban đêm. Đối với lúa xuân: Thực hiện che phủ nilon cho mạ để vừa chống rét vừa ngăn chặn sự xâm nhập gây hại của rầy. Nếu gặp điều kiện thời tiết nắng ấm thì buổi sáng có thể dỡ nilon song phải che phủ lại trước 17h. Đối với vụ hè thu, vụ mùa: Xử lý hạt giống trước khi gieo bằng thuốc xử lý hạt giống như: Enaldo 40FS, Cruiser Plus 312,5FS. Sau gieo mạ, thường xuyên điều tra để phát hiện kịp thời sự xâm nhập gây hại của rầy lưng trắng và sự xuất hiện của bệnh. Khi có rầy lưng trắng gây hại trên mạ, trước khi đưa ra ruộng cấy 2-3 ngày tổ chức phòng, trừ bằng thuốc nội hấp đặc hiệu trừ rầy. Khi phát hiện mạ có triệu chứng bệnh, kịp thời phun diệt trừ rầy bằng thuốc tiếp xúc và tiêu hủy cả luống hoặc cả ruộng tùy theo mức độ nhiễm bệnh. Tuyệt đối không sử dụng mạ tại các ruộng mạ bị nhiễm bệnh nặng để đưa ra ruộng cấy. 2.2.4. Giai đoạn từ cấy đến kết thúc đẻ nhánh Bón phân cấn đối, tăng cường vôi, phân hữu cơ, lân và kali; tập trung bón lót, bón thúc sớm.
  8. Trên một xứ đồng, tập trung cấy gọn trong 2-3 ngày để thuận lợi trong việc chăm sóc và quản lý dịch bệnh. Với mật độ: 35-40 khóm/m2 và 1-2 dảnh/khóm đối với lúa lai; 45-50 khóm/m2 và 2-3 dảnh/khóm đối với lúa thuần. Trên ruộng chưa phát hiện được triệu chứng của bệnh lùn sọc đen: Thường xuyên thăm đồng, điều tra phát hiện và tổ chức phun trừ kịp thời bằng thuốc nội hấp đặc hiệu khi bắt đầu phát sinh các lứa rầy. Trên những ruộng lúa bị nhiễm bệnh lùn sọc đen: Tổ chức bao vây phun trừ rầy lưng trắng bằng các loại thuốc tiếp xúc hoặc tiếp xúc và nội hấp đặc hiệu trừ rầy, sau đó nhổ tiêu hủy những cây bị bệnh bằng cách vùi kỹ xuống bùn và cấy dặm lại bằng cây khỏe, trường hợp những diện tích lúa bị bệnh nặng không còn khả năng cho thu hoạch thì cày vùi tiêu hủy toàn bộ ruộng lúa. 2.2.5. Giai đoạn từ phân hóa đòng trở đi - Thực hiện phòng trừ rầy khi có mật độ cao (20-25 con/khóm trở lên) theo nguyên tắc 4 đúng: Đúng thuốc, đúng nồng độ, liều lượng, đúng lúc, đúng cách. - Thường xuyên kiểm tra để phát hiện nhổ bỏ, tiêu hủy những cây lúa bị bệnh, đồng thời phun thuốc diệt trừ rầy bằng thuốc tiếp xúc trên ruộng bị bệnh và khu vực xung quanh. - Thực hiện chăm sóc, tưới, tiêu hợp lý, kịp thời để cây lúa sinh trưởng phát triển tốt, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh. 2.2.6. Các loại thuốc trừ rầy - Nhóm thuốc nội hấp: Chess 50WF, Alika 247 SC, Sutin 5EC, Dantotsu 16WSG. - Nhóm thuốc tiếp xúc: Elsin 10EC, Penalty Gold 50EC, Victory 585 EC, Bassa 50EC. 3. Hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội 3.1. Hiệu quả kinh tế
  9. Việc áp dụng quy trình phòng trừ tổng hợp bệnh lùn sọc đen hại lúa đã góp phần tăng hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa thông qua việc tăng năng suất và giảm lượng giống, phân đạm và thuốc BVTV không cần thiết. Hiệu quả kinh tế của mô hình tăng 2,745 đến 4,085 triệu đồng/ha/vụ so với đối chứng. 3.2. Hiệu quả về xã hội Việc thực hiện mô hình đã giúp nông dân được tiếp cận trực tiếp với các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, qua đó nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác, phát hiện và phòng chống dịch hại. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân trong phòng trừ rầy môi giới và bệnh lùn sọc đen phương Nam theo hướng bền vững vì sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng. Giúp nông dân chủ động hơn trong công tác phòng chống dịch bệnh, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực. 3.3. Hiệu quả môi trường Tham gia thực hiện mô hình đã giúp nông dân giảm được 1-2 lần phun thuốc BVTV, giảm lượng đạm dư thừa không cần thiết, qua đó góp phần bảo vệ môi trường, sự đa dạng sinh học trên đồng ruộng và sức khoẻ cộng đồng. Việc lựa chọn và sử dụng các loại thuốc trừ rầy nội hấp thế hệ mới có hiệu quả trừ rầy cao, ít độc hơn đối với con người, môi trường và các sinh vật có ích trên đồng ruộng đã góp phần bảo vệ môi trường sinh thái và sức khoẻ cộng đồng. III. KẾT LUẬN - Ở các địa phương thực hiện mô hình sử dụng bẫy đèn theo dõi rầy lưng trắng di trú để xác định thời vụ gieo mạ "né rầy" là không có ý nghĩa. - Rầy lưng trắng luôn có mặt trên đồng ruộng từ khi gieo mạ cho đến kết thúc vụ. Trong năm 2010, rầy lưng trắng phát sinh thành 7 đợt (đợt 1, 2, 3 trên lúa xuân; đợt 4, 5, 6 trên lúa hè thu và đợt 5, 6, 7 trên lúa vụ mùa) tương ứng với các
  10. giai đoạn cây lúa đẻ nhánh, đứng cái - làm đòng, chín sữa - chín sáp, trong đó đợt rầy phát sinh vào thời kỳ lúa làm đòng đến trỗ và chín sữa - chín sáp có mật độ cao nhất. - Xử lý hạt giống bằng thuốc Cruiser plus 312,5 FS ở liều lượng 0,5 ml/kg giống có hiệu quả phòng trừ rầy cao ở giai đoạn từ gieo đến 7 ngày. - Các thuốc trừ rầy như Chess 50WG, Penalty Gold 50EC, Elsin 10EC, Sutin 5EC, Dantotsu 16WSG đều cho hiệu lực trừ rầy cao sau 5-7 ngày. Hiệu lực các thuốc đều đạt trên 80% ở 7 ngày sau phun. - Trên cơ sở kết quả thực hiện mô hình và các thực nghiệm hoàn thiện, đề xuất được quy trình phòng trừ tổng hợp bệnh lùn sọc đen hại lúa trên địa bàn tỉnh Nghệ An. - Trên cơ sở kết quả thực hiện mô hình và các thực nghiệm hoàn thiện, đề xuất được quy trình phòng trừ tổng hợp bệnh lùn sọc đen hại lúa trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Dự án vừa mang tính chất xây dựng mô hình, vừa mang tính chất nghiên cứu thử nghiệm thăm dò. Qua 01 năm thực hiện, dự án đã đạt được những kết quả nhất định. Đề nghị tiếp tục thực hiện dự án trong năm tiếp theo để có những kết luận chính xác hơn./.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0