
1
BỆNH DO LEPTOSPIRA
1. Đại cương:
Nhiễm Leptospira là một bệnh nhiễm trùng cấp tính toàn thân do xoắn
khuẩn Leptospira gây nên. Trên lâm sàng bệnh có nhiều thể khác nhau từ
nhiễm trùng không có biểu hiện lâm sàng đến bệnh tối cấp gây tử vong. Nhiễm
Leptospira biểu hiện giống như bệnh Cúm với sốt đau đầu và đau cơ. Thể nặng
của nhiễm Leptospira biểu hiện vàng da viêm gan, suy chức năng thận và xuất
huyết còn gọi là Hội chứng Weil (Weil's Syndrome).
2. Tác nhân gây bệnh:
Xoắn khuẩn Leptospira thuộc giống Leptospira họ Leptospiraceae.
Leptospira có 2 chủng: Chủng gây bệnh L. interrogans và chủng tự do L.
biflexa.
Hơn 200 typ huyết thanh đã được tìm ra. Có 23 nhóm huyết thanh
(Serogroups) gây bệnh ví dụ như L. icterohaemorhagiae, L. grippotyphosa, L.
canicola, L. australis, L. pomona, L. ballum v.v…
Leptospira có hình xoắn đều, mảnh, di động nhanh có móc ở đuôi và 2
cơ quan trông giống cái roi để vi khuẩn dễ dàng xuyên sâu vào tổ chức. Nó dài
6 - 20 m rộng 0,1 m có thể nhìn thấy vi khuẩn qua kính hiển vi nền đen thấy

2
vi khuẩn có màu ánh bạc. Leptospira cần môi trường nuôi cấy đặc biệt, đủ điều
kiện, vi khuẩn mọc sau nhiều tuần nuôi cấy.
3. Dịch tế học:
Nhiễm Leptospira là bệnh của súc vật truyền sang người phân bố trên
toàn thế giới, được ghi nhận ít nhất ở 160 nước.
Loài gặm nhấm đặc biệt chuột nhiễm bệnh quan trọng nhất. Chó, lợn,
động vật hoang dã, cá, chim cũng bị nhiễm bệnh. Có một mối liên quan giữa
một số nhóm Leptospira với vật chủ ví dụ L. icterohaemorhagiae/copenhageni
với chuột, L. grippotyphosa với chuột đồng, L. hardjo với gia súc, L. canicola
với chó, L. pomona với lợn. Leptospira có thể tồn tại trong ống thận các loài
này trong nhiều năm.
Nhiễm Leptospira có thể lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với nước tiểu,
máu, tổ chức của động vật bị nhiễm bệnh. Leptospira được thải qua nước tiểu
ra môi trường, có thể sống trong nước, bùn nhiều tháng. Bệnh có thể phát triển
thành dịch do nước bị nhiễm xoắn khuẩn. Sự lây truyền từ người sang người rất
hiếm. Bệnh Leptospira thường xảy ra ở các nước nhiệt đới - nơi khí hậu cũng
như điều kiện vệ sinh thấp kém thích hợp cho xoắn khuẩn sống và phát triển.
Nhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao như những người nông dân làm
ruộng, trồng rau, chăn nuôi, những công nhân làm vệ sinh nạo vét cống, giết
mổ gia súc, cá, trẻ em hay tắm ở ao hồ do tiếp xúc với nước, bùn bị nhiễm

3
Leptospira. Trong mùa mưa do tình trạng úng ngập xảy ra thường xuyên và ở
nhiều nơi bất kỳ ai cũng có thể nhiễm bệnh.
4. Cơ chế bệnh sinh:
Cơ chế bệnh sinh của nhiễm Leptospira còn chưa được hiểu biết một
cách hoàn toàn.
Leptospira có thể xâm nhập vào cơ thể qua da, niêm mạc đặc biệt là kết
mạc mắt, niêm mạc mũi họng khi uống nước bị nhiễm Leptospira có thể xâm
nhập qua miệng họng hoặc thực quản. Sau khi vào cơ thể Leptospira phát triển
trong máu rồi xâm nhập vào các cơ quan. Người ta có thể phân lập Leptospira
từ máu và dịch não tuỷ từ 4 đến 10 ngày đầu của bệnh. Có một điều còn chưa
thể giải thích được là tại sao Leptospira có mặt trong dịch não tuỷ mà không
gây nên viêm màng não trong giai đoạn này. Vai trò quan trọng của một độc tố
trong cơ chế bệnh sinh của bệnh đã được đề cấp đến nhưng còn chưa được
chứng minh. Leptospira gây tổn thương tế bào nội mạch dẫn đến viêm mạch
máu đặc biệt là mao mạch. Điều này giải thích hầu hết các biểu hiện quan trọng
của bệnh. Ở thận Leptospira xâm nhập vào khoảng kẽ, ống thận gây viêm
khoảng kẽ và hoại tử ống thận. Giảm thể tích tuần hoàn do thiếu nước hoặc
tăng thấm thành mạch cũng có thể dẫn đến suy thận. Ở gan người ta nhận thấy
hoại tử trung tâm tiểu thuỳ, xâm nhập tế bào Kupffer. Tuy nhiên ít thấy hoại tử
tế bào gan nặng. Tổn thương phổi là hậu quả của xuất huyết. Tổn thương cơ
bao gồm sưng phình sợi cơ và hoại tử từng ổ. Trong nhiễm Leptospira thể nặng

4
viêm mạch đặc biệt là mao mạch gây tăng thấm thành mạch, rối loạn vi tuần
hoàn dẫn đến thoát dịch giảm thể tích tuần hoàn hậu quả là sốc và truỵ mạch.
Khi kháng thể đã hình thành, Leptospira bị loại trừ ở mọi nơi trong cơ
thể trừ mắt, ống thận nơi chúng có thể tồn tại hàng tuần, hàng tháng. Sự tồn tại
của Leptospira ở mắt gây viêm mống mắt cấp và mãn tính. Đáp ứng miễn dịch
toàn thân có tác dụng loại trừ xoắn khuẩn nhưng cũng gây nên phản ứng viêm
mạnh. Tăng hiệu giá kháng thể thường xuất hiện cùng với phát triển viêm màng
não. Điều này cho thấy viêm màng não có thể do cơ chế miễn dịch.
5. Biểu hiện lâm sàng:
Các nghiên cứu huyết thanh học cho thấy khoảng 15 - 40% số người bị
nhiễm không có biểu hiện lâm sàng. Trong những trường hợp bị bệnh, biểu
hiện lâm sàng rất khác nhau từ nhẹ đến nặng thậm chí tử vong. Hơn 90% bị
bệnh là thể nhẹ không có vàng da, có hoặc không viêm màng não, khoảng 5% -
10% biểu hiện nặng với vàng da đậm (Weil' s syndrome).
Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 1 đến 2 tuần nhưng thay đổi từ 2 đến
26 ngày.
Nhiễm Leptospira có thể diễn biến hai pha. Nhiễm Leptospira điển hình
thường khởi đầu bằng giai đoạn nhiễm Leptospira huyết thường kéo dài từ 4
đến 7 ngày. Trong giai đoạn này biểu hiện bệnh không đặc hiệu giống như cúm
có thể phân lập Leptospira từ máu, dịch não tuỷ và hầu hết tổ chức. Sau giai
đoạn này bệnh nhân hết sốt từ 1 đến 2 ngày tiếp theo là giai đoạn 2 "Giai đoạn

5
miễn dịch" kéo dài từ 4 đến 30 ngày, đôi khi dài hơn. Xoắn khuẩn bị loại trừ
trong máu và dịch não tuỷ nhưng vẫn còn trong thận, nước tiểu. Giai đoạn này
có sự hiện diện của kháng thể trong máu và xuất hiện viêm màng não, viêm
mống mắt, phát ban và trong những thể nặng có viêm gan thận.
5.1. Nhiễm Leptospira thể không vàng da
Bệnh biểu hiện cấp giống như cúm với sốt. Rét run đau đầu nhiều, buồn
nôn, nôn và đau cơ kéo dài 4 - 7 ngày. Trong thể này giai đoạn 2 có thể không
xảy ra.
Trong giai đoạn miễn dịch của bệnh sốt thường nhẹ hơn và kéo dài từ 1 -
3 ngày. Đau đầu thường dữ dội thường ở vùng trán hoặc hai hốc mắt có khi là
khởi đầu của viêm màng não có sảng nhưng rối loạn tâm thần nặng hiếm gặp.
Đau cơ đặc biệt cơ bắp chân, lưng và bụng là một dấu hiệu quan trọng giúp cho
chẩn đoán. Thăm khám lâm sàng thấy đau cơ, xung huyết kết mạc, hạch to, gan
lách to và phát ban. Hầu hết bệnh nhân có tim nhanh đối khi có cơn nhịp nhanh,
xung huyết mắt và xuất huyết củng mạc mắt, nhìn đôi, đau hốc mắt thường gợi
ý cho chẩn đoán. Biểu hiện hô hấp như ho, đau ngực, đờm có dính máu gặp
trong hầu hết các ca bệnh một vài trường hợp có thể ho ra máu. Khoảng 15% số
bệnh nhân có biểu hiện viêm màng não nước trong vô khuẩn tồn tại vài ngày
nhưng cũng có thể kéo dài hàng tuần.
5.2. Thể vàng da của nhiễm Leptospira (HC Weil)

