T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2017<br />
<br />
BIẾN ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ BIẾN THIÊN NHỊP TIM TRONG<br />
LAO ĐỘNG CA KÍP Ở BỘ ĐỘI TRINH SÁT KỸ THUẬT<br />
Nguyễn Minh Phương*; Nguyễn Tùng Linh*<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: tìm hiểu biến đổi chỉ số biến thiên nhịp tim (BTNT) trong lao động ca kíp ở bộ đội<br />
trinh sát kỹ thuật (TSKT). Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu tiến hành trên 15 bộ đội<br />
TSKT (thuộc đơn vị X). Ghi điện tim Holter 24 giờ bằng máy MSC 8800 Monitoring - Analysis<br />
System trong 1 ngày làm ca ngày và 1 ngày làm ca đêm. Phân tích chỉ số BTNT theo phổ tần<br />
được tính toán trên phần mềm phân tích điện tim 24 giờ phần mềm Version 5.02. Kết quả: đối<br />
với cả hai ca lao động (ca ngày hay ca đêm), giá trị LFnorm (low frequency) giảm thấp khi ngủ và<br />
tăng cao khi thức và làm việc, đồng thời giá trị HFnorm (high frequency) biến thiên ngược lại,<br />
tăng cao khi ngủ và giảm thấp khi thức và làm việc. Kết luận: khi bộ đội TSKT làm việc ca đêm,<br />
trương lực thần kinh giao cảm tăng cao trong lúc làm việc vào buổi đêm, ngược với nhịp sinh<br />
học bình thường của cơ thể là giảm trương lực thần kinh giao cảm vào buổi tối.<br />
* Từ khóa: Biến thiên nhịp tim; Lao động ca kíp; Nhịp sinh học; Bộ đội trinh sát kỹ thuật.<br />
<br />
The Change of some Heart Rate Variability Indices during WorkShift among Technical Reconnaissance Soldiers<br />
Summary<br />
Objectives: To investigate the changes of heart rate variability indices during work-shifts<br />
among the technical reconnaissance soldiers. Subjects and methods: The study was conducted<br />
on 15 technical reconnaissance soldiers (Unit X). All of subjects were recorded ECG Holter 24<br />
hours using MSC 8800 Monitoring - Analysis System in one day of day-shift and one day of<br />
night-shift. The power spectrum analysis of heart rate variability was calculated on a 24-hour<br />
ECG analysis Software Version 5.02. Results: For both work-shifts whether day-shift or nightshifts, the value of LFnorm was lower during sleep and higher while awake and working, in<br />
contrast, the value of HFnorm was higher during sleep and lower while awake and working.<br />
Conclusion: When the technical reconnaissance soldiers work in the night-shift, the sympathetic<br />
nervous tone rises while working at night, that opposes to the normal circadian rhythm of the<br />
body (sympathetic nervous tone is reduced in the evening).<br />
* Key words: Heart rate variability; Work-shift; Circadian rhythm; Technical reconnaissance soldiers.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hiện nay, lao động ca kíp khá phổ biến<br />
và là một trong những yếu tố liên quan<br />
đến bệnh mạn tính. Lao động ca kíp được<br />
<br />
xác định là thời gian làm việc của người<br />
lao động trong khoảng từ 7 giờ tối đến 9<br />
giờ sáng. Lao động ca kíp là đặc thù lao<br />
động của nhiều ngành nghề khác nhau<br />
như y tế, quân đội, an ninh.<br />
<br />
* Học viện Quân y<br />
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Minh Phương (phuongk21@gmail.com)<br />
Ngày nhận bài: 05/01/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 17/02/2017<br />
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2017<br />
<br />
48<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2017<br />
Một trong những cơ chế ảnh hưởng<br />
đến sức khỏe và gây ra bệnh tật của lao<br />
động ca kíp là do rối loạn nhịp sinh học<br />
ngày đêm, hay mất đồng bộ nhịp sinh<br />
học. Mất đồng bộ nhịp sinh học xảy ra là<br />
do sự không phù hợp giữa nhịp bên ngoài<br />
môi trường với nhịp sinh học bên trong<br />
cơ thể, gây ra mất ổn định các chức năng<br />
sinh lý. Trong lao động ca kíp, cơ thể phải<br />
làm việc vào ban đêm và nghỉ vào ban<br />
ngày, trong khi đó theo nhịp sinh học bình<br />
thường, cơ thể làm việc vào ban ngày và<br />
nghi ngơi ban đêm. Do đó, lao động ca<br />
kíp đã ảnh hưởng nhất định đến nhịp sinh<br />
học của cơ thể. Ở một số người, sau thời<br />
gian làm việc theo ca kíp, cơ thể sẽ có<br />
phản ứng thích nghi điều chỉnh lại nhịp<br />
sinh học cho phù hợp. Tuy nhiên, phần<br />
lớn người lao động phải làm việc theo các<br />
chế độ ca kíp thay đổi và không cố định,<br />
khi đó cơ thể không thể tạo ra được phản<br />
ứng thích nghi, dẫn đến nhịp sinh học bị<br />
rối loạn và mất đồng bộ. Nhịp sinh học có<br />
vai trò quan trọng trong các hoạt động<br />
sinh lý của cơ thể, giữ cho chức năng của<br />
cơ thể cân bằng và bình thường. Khi nhịp<br />
sinh học của cơ thể bị mất đồng bộ hay<br />
rối loạn sẽ làm cho chức năng sinh lý của<br />
cơ thể mất cân bằng, là nguyên nhân gây<br />
ra nhiều bệnh lý khác nhau.<br />
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự<br />
mất đồng bộ của nhịp sinh học cơ thể<br />
trong lao động ca kíp liên quan đến các<br />
bệnh lý như rối loạn tâm sinh lý, hội<br />
chứng rối loạn chuyển hóa, bệnh đái tháo<br />
đường, ung thư và tim mạch.<br />
Lao động ca kíp cũng là một trong<br />
những nguyên nhân chính gây bệnh lý<br />
tim mạch. Nghiên cứu của Kristensen T.S<br />
cho thấy những người lao động ca kíp có<br />
tỷ lệ mắc bệnh tim mạch cao hơn 40% so<br />
với những người không phải lao động ca<br />
kíp [7]. Thống kê của Boggild H trên<br />
<br />
5.940 công nhân cũng cho thấy tỷ lệ mắc<br />
bệnh tim mạch ở công nhân lao động ca<br />
kíp cao hơn so với công nhân làm việc ban<br />
ngày, mặc dù tiếp xúc ít hơn với các yếu<br />
tố bất lợi khác như tiếng ồn, nóng… [2].<br />
Hiện nay, bằng kỹ thuật Holter ghi điện<br />
tim 24 giờ, chúng ta có thể theo dõi sự<br />
biến đổi mạch theo thời gian trong ngày,<br />
đồng thời đánh giá biến đổi theo thời gian<br />
nhiều chỉ số BTNT trên điện tim Holter<br />
phản ánh hoạt động của hệ thần kinh tự<br />
động (giao cảm và phó giao cảm). Chẳng<br />
hạn chỉ số LF (low frequency) đánh giá<br />
hoạt động của hệ giao cảm, HF (high<br />
frequency) đánh giá hoạt động của hệ<br />
phó giao cảm, tỷ số LF/HF đánh giá sự<br />
cân bằng chức năng hệ giao cảm và phó<br />
giao cảm. Bằng phân tích và đánh giá các<br />
chỉ số trên điện tim Holter này cho phép<br />
nghiên cứu khá chính xác đặc điểm và<br />
biến đổi nhịp sinh học thông qua đánh giá<br />
hoạt động của hệ thần kinh tự động.<br />
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm:<br />
Tìm hiểu sự biến đổi một số chỉ số BTNT<br />
trong lao động ca kíp ở bộ đội TSKT.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng nghiên cứu.<br />
Nghiên cứu tiến hành trên 15 bộ đội<br />
TSKT khỏe mạnh làm việc tại đơn vị X,<br />
không có bệnh lý tim mạch, thần kinh và<br />
các bệnh lý mạn tính khác. Hiện tại không<br />
có bệnh lý cấp tính nào phải dùng thuốc.<br />
2. Phương pháp nghiên cứu.<br />
Điện tim Holter 24 giờ được ghi liên<br />
tục trên đối tượng nghiên cứu từ 7 giờ<br />
sáng ngày hôm trước đến 7 giờ sáng<br />
ngày hôm sau bằng máy MSC 8800<br />
Monitoring - Analysis system (Nhật Bản).<br />
Lưu kết quả ghi điện tim Holter trong<br />
thẻ nhớ của máy và nhập vào máy tính.<br />
49<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2017<br />
Phân tích chỉ số BTNT trên máy tính<br />
bằng phần mềm Software Version 5.02.<br />
<br />
- HFnorm = (HF/(total power - VLF)) x 100.<br />
(đơn vị n.u).<br />
<br />
* Chỉ số BTNT theo phân tích phổ tần:<br />
- LF (low frequency, từ 0,03 - 0,15 Hz):<br />
giá trị vùng tần số thấp (đơn vị ms2).<br />
- HF (hight frequency, từ 0,15 - 0,40<br />
Hz): giá trị vùng tần số cao, chỉ biểu thị<br />
hoạt động của thần kinh phó giao cảm<br />
(đơn vị ms2).<br />
- Total power = VLF + LF + HF.<br />
<br />
- LF/HF.<br />
Trong các giá trị trên, giá trị LF, LFnorm<br />
phản ánh hoạt động của thần kinh giao<br />
cảm, khi trị số này tăng thường quan sát<br />
thấy kết quả của hoạt động thần kinh giao<br />
cảm.<br />
Các giá trị HF và LFnorm biểu thị hoạt<br />
động thần kinh phó giao cảm.<br />
<br />
Trong đó, VLF (very low frequency):<br />
giá trị vùng tần số rất thấp từ 0 - 0,03 Hz.<br />
<br />
Giá trị LF/HF biểu thị sự cân bằng giữa<br />
thần kinh giao cảm và phó giao cảm.<br />
<br />
- LFnorm = (LF/(total power - VLF)) x<br />
100 (đơn vị n.u).<br />
<br />
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm thống<br />
kê y sinh học SPSS 12.0 và Prism 5.<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng nghiên cứu được ghi điện tim Holter 24 giờ trong một ngày làm việc ca<br />
ngày và một ngày làm việc ca đêm (từ 0 - 3 giờ). Phân tích các giá trị LFnorm và HFnorm<br />
theo từng giờ trong ngày. Đồ thị biến thiên các giá trị LFnorm và HFnorm theo thời gian<br />
trong ngày được trình bày trên hình 1 và hình 2.<br />
A<br />
<br />
AB<br />
<br />
Hình 1: Biểu đồ biến thiên giá trị LFnorm trên Holter điện tim ở bộ đội TSKT theo thời<br />
gian trong ngày khi đối tượng làm việc ca ngày (A) và ca đêm (B).<br />
50<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2017<br />
Đối với cả hai ca lao động (ca ngày và ca đêm), giá trị LFnorm trên điện tim Holter của<br />
bộ đội TSKT trong thời gian làm việc và thời gian ngoài ca lao động tăng cao hơn so<br />
với thời gian ngủ.<br />
C<br />
<br />
D<br />
<br />
Hình 2: Biểu đồ biến thiên giá trị HFnorm trên Holter điện tim ở bộ đội TSKT theo thời<br />
gian trong ngày khi đối tượng làm việc ca ngày (C) và ca đêm (D).<br />
Đối với cả hai ca lao động, giá trị HFnorm trên Holter điện tim ở bộ đội TSKT trong khi<br />
ngủ tăng cao hơn so với thời gian làm việc và thời gian ngoài ca lao động.<br />
Như vậy, đối với cả hai ca lao động, cho dù là ca ngày hay ca đêm thì giá trị LFnorm<br />
giảm thấp khi ngủ và tăng cao khi thức và làm việc, đồng thời giá trị HFnorm biến thiên<br />
ngược lại, tăng cao khi ngủ và giảm thấp khi thức và làm việc.<br />
51<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2017<br />
Bảng 1: Biến đổi một số chỉ số BTNT của bộ đội trong thời gian làm việc và thời<br />
gian ngủ, khi làm việc ca ngày và khi làm việc ca đêm (X ± SD).<br />
Ca ngày (n = 15)<br />
<br />
Các chỉ số<br />
<br />
RR trung bình<br />
LFnorm (n.u)<br />
HFnorm (n.u)<br />
<br />
LF/HF<br />
<br />
Ca đêm (n = 15)<br />
<br />
Trong ca (1)<br />
<br />
Ngủ (2)<br />
<br />
Trong ca (3)<br />
<br />
Ngủ (4)<br />
<br />
675 ± 25<br />
<br />
998 ± 24<br />
<br />
715 ± 27<br />
<br />
976 ± 24<br />
<br />
p1-2 < 0,001; p3-4 < 0,001; p1-3 > 0,05; p2-4 > 0,05<br />
58,48 ± 2,87<br />
<br />
20,62 ± 2,38<br />
<br />
47,18 ± 2,93<br />
<br />
17,72 ± 2,83<br />
<br />
p1-2 < 0,001; p3-4 < 0,001; p1-3 < 0,05; p2-4 > 0,05<br />
60,18 ± 3,83<br />
<br />
92,28 ± 3,35<br />
<br />
66,40 ± 2,98<br />
<br />
87,38 ± 3,75<br />
<br />
p1-2 < 0,001; p3-4 < 0,001; p1-3 < 0,05; p2-4 > 0,05<br />
0,93 ± 0,08<br />
<br />
0,24 ± 0,06<br />
<br />
0,72 ± 0,07<br />
<br />
0,20 ± 0,05<br />
<br />
p1-2 < 0,001; p3-4 < 0,001; p1-3 < 0,05; p2-4 > 0,05<br />
<br />
Đối với cả hai ca lao động (ca ngày và ca đêm) ở bộ đội TSKT, giá trị RR trung bình<br />
và HFnorm trong thời gian ngủ tăng cao hơn đáng kể so với thời gian trong ca làm việc;<br />
đồng thời giá trị LFnorm và LF/HF trong thời gian ngủ thấp hơn so với thời gian trong ca<br />
làm việc có ý nghĩa (p < 0,001).<br />
So sánh giữa hai ca lao động, giá trị LFnorm và LF/HF của bộ đội TSKT trong ca lao<br />
động khi làm việc ca đêm thấp hơn so với làm việc ca ngày; đồng thời giá trị HFnorm<br />
trong ca lao động khi làm việc ca đêm cao hơn so với làm việc ca ngày.<br />
BÀN LUẬN<br />
Lao động ca kíp là một đặc điểm đặc<br />
thù trong lao động của bộ đội TSKT.<br />
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh lao<br />
động ca kíp gây biến đổi nhịp sinh học<br />
ngày đêm và có liên quan đến một số<br />
bệnh lý như rối loạn chuyển hóa, bệnh lý<br />
tim mạch, tâm thần kinh [2, 4, 6].<br />
Hoạt động của hệ thần kinh tự động có<br />
mang tính chu kỳ ngày đêm rõ rệt. Do<br />
vậy, đánh giá chu kỳ hoạt động của hệ<br />
thần kinh tự động cho phép đánh giá<br />
được nhịp sinh học ngày đêm của cơ thể.<br />
Nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn 15<br />
đối tượng thuộc nhóm nghiên cứu trực<br />
tiếp và ghi điện tim Holter 24 giờ cho các<br />
đối tượng 2 lần, một lần khi đối tượng làm<br />
52<br />
<br />
việc ca ngày và một lần làm việc ca đêm.<br />
Các chỉ số phân tích theo phổ tần bao<br />
gồm LFnorm và HFnorm được xác định theo<br />
từng giờ trong suốt 24 giờ ghi Holter. Kết<br />
quả nghiên cứu cho thấy giá trị LFnorm<br />
tăng cao trong thời gian làm việc và giảm<br />
thấp nhất khi ngủ, trong khi đó giá trị<br />
HFnorm biểu hiện ngược lại (tăng cao trong<br />
thời gian ngủ và giảm thấp khi làm việc).<br />
Như vậy, cho dù là làm việc ca ngày<br />
hay ca đêm thì quá trình làm việc và thời<br />
gian ngủ đóng vai trò chủ yếu chi phối giá<br />
trị lớn nhất và nhỏ nhất của LFnorm (đặc<br />
trưng cho thần kinh giao cảm) và HFnorm<br />
(đặc trưng cho thần kinh phó giao cảm),<br />
theo đó thần kinh giao cảm trội hơn khi<br />
làm việc và ngược lại thần kinh phó giao<br />
cảm trội hơn khi ngủ.<br />
<br />