intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Biện pháp phối hợp giữa trường sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn sinh viên thực tập

Chia sẻ: Y Y | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

33
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề cập đến một số vấn đề về phối hợp giữa trường sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn sinh viên thực tập; đưa ra những thuận lợi và khó khăn của trường thực hành trong công tác hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên để từ đó đề xuất các giải pháp phối hợp giữa trường sư phạm với trường thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên của các trường sư phạm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Biện pháp phối hợp giữa trường sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn sinh viên thực tập

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 72-79 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn BIỆN PHÁP PHỐI HỢP GIỮA TRƯỜNG SƯ PHẠM VÀ TRƯỜNG THỰC HÀNH TRONG VIỆC HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC TẬP Dương Thị Thúy Hà Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội Tóm tắt. Bài viết đề cập đến một số vấn đề về phối hợp giữa trường sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn sinh viên thực tập; đưa ra những thuận lợi và khó khăn của trường thực hành trong công tác hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên để từ đó đề xuất các giải pháp phối hợp giữa trường sư phạm với trường thực hành nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên của các trường sư phạm. Từ khóa: Nghiệp vụ sư phạm, trường thực hành, biện pháp, thực tập sư phạm. 1. Mở đầu Muốn nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục" (Điều 15 Luật giáo dục 2005) [1]. Chất lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc nhiều vào quá trình đào tạo trong trường sư phạm cũng như thời gian thực hành, thực tập sư phạm ở trường phổ thông. Việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành năng lực nghề của sinh viên sư phạm. “Trường thực hành sư phạm phục vụ công tác đào tạo giáo viên trung học phổ thông của các trường đại học sư phạm hoặc khoa sư phạm trong các trường đại học khác là trường trung học phổ thông, thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, loại hình công lập hoặc bán công, được giao thêm nhiệm vụ tổ chức các hoạt động thực hành sư phạm. Tổ chức và hoạt động của trường thực hành sư phạm tuân theo quy chế và những quy định chung của Điều lệ Trường trung học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo quyết định số 23/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 11/7/2000” [2] (Điều 1- Quy chế trường thực hành sư phạm, phục vụ công tác đào tạo giáo viên trung học phổ thông của các trường đại học sư phạm, khoa sư phạm trong các trường đại học khác - Ban hành kèm theo Quyết định số 30 /2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Liên hệ: Dương Thị Thúy Hà, e-mail: duongha108@gmail.com 72
  2. Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn... 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những nội dung thực hành rèn luyện sư phạm cho sinh viên trong trường thực hành Theo Điều 8 (Quy chế trường thực hành sư phạm - Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), nội dung thực hành sư phạm trong trường thực hành bao gồm: Tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục của trường trung học phổ thông; Quan sát, tìm hiểu các hoạt động giáo dục ở các khối lớp trong trường trung học phổ thông; Tìm hiểu và thực hành các khâu chuẩn bị dạy học, các hoạt động giáo dục trong và ngoài giờ lên lớp, các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên trường trung học phổ thông; Dự một số hoạt động mẫu về dạy học và giáo dục của giáo viên trường trung học phổ thông; Tập dượt một số hoạt động có chọn lọc về dạy học và giáo dục; Dự một số giờ thực hành về nghiệp vụ do các giảng viên trường đại học sư phạm hoặc các giáo viên trường trung học phổ thông thực hiện tại trường thực hành. . . Mỗi con người là một cá thể riêng biệt có những đặc điểm riêng của mình, giúp người đó thích nghi với một dạng hoạt động nào đó và sự thành công trong công tác của họ phần lớn phụ thuộc vào năng lực của họ với họat động. Có rất nhiều năng lực sư phạm được đào tạo cho sinh viên trong quá trình học tập ở trường sư phạm và những năng lực này càng được phát triển, bồi đắp thêm trong quá trình hoạt động. Vì vậy, khi xuống trường phổ thông, sinh viên được hòa mình với các hoạt động giáo dục thực tế, từ đó giúp sinh viên nâng cao năng lực bản thân. Tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục của trường trung học phổ thông Năng lực hiểu đối tượng và môi trường giáo dục trường trung học phổ thông giúp cho sinh viên dễ dàng hiểu được những đặc điểm tâm lí, tính cách, trình độ nhận thức của học sinh, xác định được trình độ tri thức, niềm tin và những phẩm chất tâm lí của các em; giúp cho người dạy dễ dàng hơn trong việc truyền đạt tri thức cho học sinh và từ đó có phương pháp dạy học thích hợp để giờ học đạt hiệu quả cao hơn. Hiểu hoàn cảnh, điều kiện của học sinh cũng như môi trường giáo dục của trường, sinh viên sẽ có kế hoạch tiếp cận học sinh cũng như cách giao tiếp, phương pháp dạy học, giáo dục phù hợp với từng đối tượng. Để thực hiện tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục được tốt đòi hỏi sinh viên phải có các năng lực tổng hợp khác. Đó là: Cách đặt câu hỏi, nội dung câu hỏi phù hợp với các loại đối tượng khác nhau; Cách khai thác thông tin, gợi mở vấn đề; Năng lực phát hiện vấn đề, những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện giáo dục, dạy học. . . Quan sát, tìm hiểu các hoạt động giáo dục ở các khối lớp trong trường trung học phổ thông Trong quá trình thực hành, thực tập ở trường phổ thông, một nội dung sinh viên cần thực hiện đó là biết quan sát, phát vấn, chọn lọc, thu thập các thông tin về sự phát triển của nhà trường, về truyền thống xây dựng và trưởng thành của trường, về nề nếp giáo dục, dạy học cũng như các hoạt động ngoại khóa khác của trường. . . 73
  3. Dương Thị Thúy Hà Tìm hiểu và thực hành các khâu chuẩn bị dạy học, các hoạt động giáo dục trong và ngoài giờ lên lớp, các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên trường trung học phổ thông Có năng lực xây dựng kế hoạch, tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện và như cầu hứng thú của lớp, của trường, trong đó năng lực chủ nhiệm lớp là một nhiệm vụ quan trọng của của sinh viên khi đi thực tập sư phạm ở trường phổ thông. Trong quá trình học tập tại trường sư phạm, sinh viên được học về vấn đề công tác chủ nhiệm lớp. Khi xuống trường phổ thông, sinh viên được va chạm thực tế, được thực hành công việc của một giáo viên chủ nhiệm, đó là các hoạt động thiết kế, xây dựng kế hoạch chủ nhiệm nhằm giúp sinh viên có thể vạch ra được chiến lược phát triển của tập thể lớp và cá nhân học sinh. Sinh viên có kĩ năng tổ chức các hoạt động của tập thể lớp, của cá nhân học sinh, tổ chức các hoạt động của chính giáo viên chủ nhiệm một cách chính xác, khoa học, giúp họ thực hiện các kế hoạch đã xây dựng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm còn cần có năng lực giao tiếp cởi mở, khoan dung, tạo được sự hiểu biết, thông cảm, tin cậy lẫn nhau với các loại đối tượng trong nhà trường, phát hiện các tính cách, nhu cầu, nguyện vọng, hứng thú của cá nhân, các nhóm trong tập thể học sinh. Biết phối hợp với các tổ chức đoàn đội trong lớp, trong trường. . . biết sử dụng các phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tập thể, cá nhân, tạo cơ hội cho học sinh tiến bộ. Dự một số hoạt động mẫu về dạy học và giáo dục của giáo viên trường trung học phổ thông Việc dự một số giờ dạy mẫu của giáo viên trường trung học phổ thông giúp sinh viên học hỏi được về việc tổ chức giờ học sao cho có hiệu quả, các hình thức dạy học, phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm qua từng giờ giảng của giáo viên phổ thông. Từ đó giúp sinh viên nâng cao năng lực của bản thân. Tập dượt một số hoạt động có chọn lọc về dạy học và giáo dục Trong quá trình dạy học, đặc biệt là qua các buổi học rèn phương pháp ở trường sư phạm, sinh viên được rèn luyện các kĩ năng như phân tích nội dung dạy học, từ đó xác định được mục tiêu, yêu cầu bài giảng, xác định được các đơn vị kiến thức trong bài, biết chọn kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm, kiến thức bổ trợ. . . Khi xuống trường thực hành, sinh viên đem những kiến thức đã được học ở trường sư phạm ứng dụng vào bài giảng của mình. Đó là, lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với trình độ phát triển tư duy của học sinh, sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt kĩ năng sử dụng đa phương tiện. Năng lực dựa trên sự hứng thú với bộ môn mình giảng dạy, tạo khả năng nắm vững, tái hiện tài liệu giảng dạy, ngoài ra biết tư duy một cách rõ ràng và đúng đắn không phải chỉ về mặt lí thuyết của tri thức được truyền đạt mà cả mặt liên hệ các tri thức đó với đời sống và thực hành chúng. Đó là có năng lực về bộ môn mình giảng dạy, nắm vững và yêu thích bộ môn đó, cố gắng mở rộng tri thức về bộ môn. Quá trình giảng dạy ở trường thực hành giúp sinh viên có được năng lực: - Truyền đạt bài học khéo léo, hấp dẫn, dễ hiểu. . . nhằm thu hút sự chú ý của học sinh để các em nắm được và dễ ghi nhớ tài liệu đó. - Phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực tự học, tư duy độc lập và sáng tạo của 74
  4. Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn... học sinh trong học tập. - Quan sát, tính tự chủ và kĩ năng gần gũi học sinh trong suốt giờ học - Năng lực sáng tạo trong công tác dạy học cũng như trong công tác giáo dục. - Năng lực sử dụng công nghệ thông tin: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở tất cả các bậc học, các ngành học, các môn học đã giúp thay đổi căn bản phương pháp dạy, phương pháp học, kích thích hứng thú học tập, đem lại niềm say mê sáng tạo cho người học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. - Năng lực sử dụng các thiết bị dạy học: Thiết bị dạy học góp phần quan trọng trong truyền thụ tri thức cho học sinh. Việc sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học được coi là yếu tố quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục. Dự một số giờ thực hành về nghiệp vụ do các giảng viên trường đại học sư phạm hoặc các giáo viên trường trung học phổ thông thực hiện tại trường thực hành. 2.2. Những thuận lợi và khó khăn của trường thực hành trong việc hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên Phẩm chất và năng lực giáo viên là một trong những vấn đề được đặt biệt quan tâm trong lĩnh vực nghiên cứu giáo dục nói chung, trong đào tạo và bồi dưỡng giáo viên nói riêng. Trong chương trình đào tạo, chúng ta chú trọng nhiều đến trang bị kiến thức bộ môn mà chưa chú ý đúng mức đến rèn luyện năng lực sư phạm cho sinh viên. Thời gian dành cho kiến tập sư phạm và thực tập sư phạm còn ít, cho nên các em khi ra trường còn yếu về tay nghề. Trường thực hành là môi trường lí tưởng giúp cho việc đưa sinh viên xuống thực hành, thực tập, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện kĩ năng để nâng cao tay nghề. Bởi vì, trường thực hành là nơi có các điều kiện phù hợp cho việc thực hành, thực tập sư phạm như trong Điều 3 - Quy chế trường thực hành: Trường thực hành sư phạm phải có các điều kiện: - Là trường tiên tiến của địa phương; - Có quy mô và chất lượng đáp ứng yêu cầu thực hành sư phạm; - Đội ngũ cán bộ quản lí và giáo viên có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có cơ cấu phù hợp để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ thực hành sư phạm; - Cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài chính đảm bảo yêu cầu của nhiệm vụ thực hành sư phạm; - Có vị trí thuận tiện cho sinh viên trường đại học sư phạm thường xuyên đến thực hành sư phạm. Thuận lợi - Trường thực hành có vai trò quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu, chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường sư phạm. - Trường thực hành là môi trường lí tưởng, là nơi sinh viên được thực hành những điều đã được học vào thực tiễn giáo dục. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình rèn luyện nghiệp vụ và nâng cao tay nghề, giúp sinh viên làm quen với học sinh, nói trước đông người, cách trình bày bảng, cách truyền đạt kiến thức, vận dụng kiến thức đã học 75
  5. Dương Thị Thúy Hà vào quá trình giảng dạy trên cơ sở những phương pháp đã học. - Trường thực hành là nơi giúp sinh viên vận dụng kiến thức đã học vào các hoạt động dạy học, giáo dục, cụ thể như: công tác chủ nhiệm lớp, tổ chức các hoạt động giáo dục, xử lí các tình huống sư phạm. - Quá trình sinh viên được thực hành, thực tập tại trường thực hành sẽ từng bước hình thành lòng yêu nghề, giúp sinh viên biết vận dụng kiến thức thực tiễn, làm phong phú hơn các kiến thức chuyên ngành đã học, từ đó giúp sinh viên vững về chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ. . . Khó khăn Về giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm của trường thực hành được quy định phải là những người đạt tiêu chuẩn nhà giáo theo quy định ở Điều 10 - Quy chế trường thực hành sư phạm (Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2001/QĐ-BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì giáo viên hướng dẫn thực hành sư phạm ở trường thực hành sư phạm phải là người: - Có năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng; có nhiệt tình với nhiệm vụ đào tạo giáo viên và đủ khả năng hướng dẫn sinh viên thực hành sư phạm; - Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, nội dung chương trình giáo dục của từng khối lớp và toàn cấp học Trung học phổ thông; - Có số năm giảng dạy Trung học phổ thông ít nhất là 5 năm [2]. Tuy nhiên thực tế giáo viên hướng dẫn ở trường thực hành, thực tập sư phạm nhiều nơi còn thiếu, yếu, chưa đạt theo quy định. Một số giáo viên từ chuyên ngành khác sang giảng dạy kiêm nhiệm, thậm chí giáo viên trình độ cao đẳng hướng dẫn sinh viên đại học, giáo viên trẻ mới ra trường cũng được hướng dẫn sinh viên thực tập. . . Bên cạnh đó, giáo viên ở trường phổ thông sợ sinh viên xuống thực hành, thực tập sư phạm làm xáo trộn, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của trường, nên sinh viên ít có điều kiện để thử nghiệm những nội dung, phương pháp giảng dạy mới với những yêu cầu riêng mà phải tuân theo những yêu cầu của giáo viên hướng dẫn. Khi sinh viên đi thực hành, thực tập sư phạm ở trường phổ thông, sinh viên thường bị phó thác hoàn toàn cho giáo viên phổ thông, giáo viên phổ thông là người hướng dẫn, đánh giá, cho điểm chủ yếu đối với kết quả thực tập của sinh viên. Việc cho điểm của giáo viên phổ thông đôi khi còn dễ dãi để sinh viên có bảng điểm đẹp mang về trường sư phạm. Chính sự dễ dãi đó làm cho sinh viên không đánh giá được khả năng đích thực của mình, dẫn tới định hướng sai lệch về thái độ, hành vi, tự cho mình là có năng lực dạy học, từ đó coi thường việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Hầu như các trường có sinh viên đi thực tập thường phó mặc nội dung thực tập sư phạm và việc đánh giá sinh viên thực tập cho giáo viên hướng dẫn cuả các trường phổ thông đảm trách. Cho nên những kiến thức, kĩ năng mà sinh viên lĩnh hội được trong thời gian thực tập phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm giảng dạy, năng lực sư phạm của giáo viên hướng dẫn của trường phổ thông. Vì vậy, việc hình thành và phát triển năng lực sư phạm cho sinh viên một cách thuần thục ngay trong thời gian sinh viên ngồi trên ghế nhà trường là việc làm cần thiết. Thực tế hiện nay cho thấy, trường thực hành chỉ đáp ứng một phần nhỏ cho các đợt 76
  6. Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn... kiến tập, thực tập định kỳ của sinh viên. Toàn bộ hoạt động chính của trường thực hành là thực hiện nhiệm vụ giáo dục phổ thông như một cơ sở giáo dục bình thường. Một số trường thực hành, thực tập sư phạm cơ sở vật chất còn thiếu, không được ưu tiên đầu tư về cơ sở vật chất phục vụ dạy học; chưa được các cấp quản lí đánh giá đúng vai trò nên chưa khai thác triệt để các tính năng của trường thực hành. Ngay hoạt động thực tập, dự giờ ở trường thực hành để nâng cao nghiệp vụ cho sinh viên cũng gặp trở ngại do số sinh viên sư phạm rất lớn. Mặt khác, chính giáo viên phổ thông không muốn bị người khác dự giờ quá nhiều... Trường thực hành sư phạm và cơ sở đào tạo giáo viên chưa phát huy được mối quan hệ tác động qua lại giữa quá trình đào tạo giáo viên của cơ sở đào tạo giáo viên với việc đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục của trường thực hành sư phạm. Trường thực hành sư phạm chưa thật sự là một trong những môi trường làm việc của giảng viên phương pháp giảng dạy bộ môn của cơ sở đào tạo giáo viên. Ngược lại, các giáo viên ở trường thực hành sư phạm không có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển chương trình đào tạo giáo viên của cơ sở đào tạo giáo viên. 2.3. Các giải pháp phối hợp giữa các trường sư phạm với trường thực hành Về nhận thức Cần có nhận thức đúng đắn về đào tạo nghiệp vụ sư phạm và vai trò của trường thực hành trong việc nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Trường thực hành sư phạm là cần thiết, là nơi giáo sinh được thực hành nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện một số kĩ năng mà nếu thiếu một trong số kĩ năng đó sẽ không thể dạy học tốt được. - Trường thực hành không chỉ góp phần đào tạo lực lượng cán bộ giảng dạy trong trường sư phạm mà còn có tác động đến chương trình và nội dung đào tạo về nghiệp vụ sư phạm; góp phần vào quá trình đào tạo giáo viên. . . Về đội ngũ giáo viên Xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm tốt, có ý thức, tinh thần trách nhiệm cao đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ ở trường thực hành để giúp đỡ, hướng dẫn khi sinh viên xuống trường thực hành, thực tập sư phạm. Để giáo viên của trường thực hành được tham gia vào các hội thảo, các buổi xemina sinh hoạt chuyên môn, tham gia vào các đề tài. . . của trường trường sư phạm tổ chức để họ được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với giảng viên của trường sư phạm. Thường xuyên tổ chức các hội nghị tổng kết đánh giá những mặt được và chưa được trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm của các trường thực hành. Trường sư phạm cần tăng cường đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vu vững vàng và am hiểu thực tế ở trường phổ thông để đi hướng dẫn thực tập sư phạm cho sinh viên Các trường sư phạm cần có quy định cứng về chế độ đi thực tế ở trường phổ thông của giảng viên các bộ môn nghiệp vụ sư phạm, khuyến khích họ trực tiếp tham gia giảng dạy một số giờ ở trường phổ thông. 77
  7. Dương Thị Thúy Hà Về kiểm tra đánh giá Để khắc phục tình trạng sinh viên bị phó thác hoàn toàn cho trường phổ thông khi đi kiến tập, thực tập sư phạm làm cho việc đánh giá không đúng thực chất, trường sư phạm cần có những biện pháp phối hợp chặt chẽ với trường phổ thông trong suốt quá trình sinh viên đi thực tập để việc đánh giá sinh viên không chạy theo thành tích. Cần có bộ tiêu chí/barem đánh giá, cho điểm để giáo viên phổ thông có cơ sở trong việc đánh giá và cho điểm sinh viên một cách chính xác, công bằng. Về thời gian sinh viên xuống trường thực hành Thực tập sư phạm năm thứ ba và thứ tư với tổng số thời lượng là 10 hoặc 11 tuần. Thời lượng thực tập như vậy là quá ít đối với việc yêu cầu đào tạo kĩ năng nghề cho sinh viên. Vì vậy, tạo điều kiện để sinh viên được tiếp cận thường xuyên và cập nhật với việc dạy và học ở trường phổ thông, tăng cường thời lượng thực hành, thực tập sư phạm cho sinh viên. Sinh viên nên được tham quan thực tế, tham gia vào các hoạt động của trường phổ thông/thực hành ngay từ năm thứ nhất với tư cách như một thành viên của trường phổ thông, để sinh viên có hiểu biết thực tế cũng như khơi gợi được sự quan tâm, tình cảm yêu mến đối với con người và tình yêu với nghề dạy học, lòng tự hào với danh hiệu là sinh viên sư phạm, là người thầy giáo tương lai. Về đầu tư cơ sở vật chất Xây dựng trường thực hành sư phạm thuộc sự quản lí trực tiếp của các trường sư phạm nhằm mục tiêu đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, tạo môi trường thực tế và thuận lợi cho việc thực tập và giảng dạy của sinh viên Đối với những trường sư phạm chưa có trường thực hành của riêng trường mình thì cần xây dựng mạng lưới trường thực hành, đồng thời phải kí kết những hợp đồng dài hạn, có sự phối hợp chặt chẽ, có cơ chế để liên kết làm việc và đào tạo giữa trường sư phạm với trường thực hành trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Đầu tư cơ sở vật chất tốt cho các trường thực hành-đặc biệt các trường thực hành thường xuyên như: Trường sư phạm có sinh viên xuống thực hành phải có kinh phí hỗ trợ để trường thực hành có thể xây dựng, mua sắm trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Có chế độ, kinh phí bồi dưỡng phù hợp để động viên, giúp đỡ người hướng dẫn sinh viên thực hành thực tập sư phạm. 3. Kết luận Trường thực hành sư phạm là môi trường sư phạm lí tưởng để sinh viên được rèn luyện nghiệp vụ, nâng cao tay nghề, hình thành nhân cách người giáo viên và kĩ năng, phương pháp dạy học cho sinh viên sư phạm. Trường thực hành có đóng góp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên của các trường sư phạm. 78
  8. Biện pháp phối hợp giữa trường Sư phạm và trường thực hành trong việc hướng dẫn... TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Luật giáo dục số 38/2005/QH11 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, thông qua ngày 27 tháng 6 năm 2005. [2] Quy chế trường thực hành sư phạm (Ban hành kèm theo Quyết định số 30/2001/QĐ- BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). [3] Quy chế thực tập sư phạm, ban hành theo quyết định số 360/QĐ ngày 10/4/1986 của Bộ trưởng bộ GD&ĐT. [4] Quy chế thực hành, thực tập sư phạm (Ban hành theo quyết định số 36/2003/QĐ-Bộ GD&ĐT.) ABSTRACT Measures to connect Universities of Education and practice schools to help students practice teach This article describes the inadequacies in linkage between teacher training schools and practice schools with regards to guiding and helping student teachers practice teach and it reveals the advantages and disadvantages of using practice schools to practice teach. The author suggests a means to improve the linkage between teacher training schools and practice schools to improve teacher training quality at teacher training schools. 79
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2