Đề bài: Bình giảng bốn khổ thơ câu đầu bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương" <br />
của Huy Cận<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Ở hành lang chùa Tây Phương nổi tiếng (tỉnh Sơn Tây) có đặt 18 pho tượng gỗ của các <br />
nghệ nhân thế kỉ XVIII. Huy Cận đã từng đến thăm và rất xúc động trước những nét mặt <br />
đau thương, biểu thị những vật vã của cha ông trong quá khứ. Mãi đến 20 năm sau (1960), <br />
Huy Cận mới bày tỏ được niềm xúc động xưa và nhờ hiện thực cuộc sống cách mạng, <br />
nhờ xã hội mới, ông mới tìm ra câu trả lời cho nỗi đau quá khứ và cho chính cả mình.<br />
<br />
Rõ ràng, cảm hứng chủ đạo của Huy Cận là ông dành cho câu trả lời chứ không phải là <br />
câu hỏi, bởi đây là cơ hội để Huy Cận ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi Đảng, ca ngợi <br />
nhân dân để cảm thông sâu sắc với cha ông ta ngày trước, "những bạn đương thời của <br />
Nguyễn Du". Tuy nhiên nghịch lý của nghệ thuật lại không chiều lòng nhà thơ. Độc giả <br />
vẫn nhớ đến 8 khổ đầu, nhớ đến câu hỏi nhiều hơn là trả lời. Đây là những bức tượng <br />
chùa Tây Phương đã được tạc bằng ngôn ngữ thơ độc đáo.<br />
<br />
Theo lẽ thông thường, muốn người đọc hình dung ra tượng chùa Tây Phương, nhà thơ sẽ <br />
lần lượt miêu tả từ 1 đến 18 pho tượng. Nếu vậy, bài thơ sẽ rất dài, sẽ lan man và không <br />
duy trì được sự chú ý người đọc. Huy Cận đã có một giải pháp tối ưu: Ông chỉ lựa chọn <br />
và miêu tả 3 pho tượng có giá trị điển hình nhất bằng cái lối cận cảnh đặc tả của điện <br />
ảnh, và sau đó ông dùng cái lối viễn cảnh của nghệ thuật thứ bảy để bao quát, để dừng <br />
lại cuộc họp của 18 pho tượng chùa Tây Phương.<br />
<br />
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cuộc đối thoại với những người nghệ sĩ, "bác thợ cả" <br />
xưa kia. Nghĩa là Huy Cận dựa vào đề tài tôn giáo nhưng không hề có cảm hứng tôn giáo <br />
mà hướng về cảm hứng trần thế. Ông coi tất cả những pho tượng La Hán ấy là người, là <br />
những mặt con người, là cha ông xưa.<br />
<br />
Ở khổ thứ nhất, Huy Cận đã ghi lấy một ấn tượng chung khi đi thăm chùa Tây Phương <br />
trở về. Các pho tượng La Hán ở đây không làm cho người thăm chùa thanh thản, không <br />
làm cho nhà thơ cảm tưởng đây là xứ Phật mà lòng cứ vấn vương bởi cảm giác chung là <br />
"Ai nấy mặt" cũng đều "đau thương". Để thể hiện triết lý uyên thâm của nhà Phật, 18 <br />
pho tượng ở chùa Tây Phương có vị buồn nhưng cũng có những vị rất vui. Rõ ràng, Huy <br />
Cận đã cường điệu cảm nhận chủ quan của mình, ông nhìn thấy cái quần tượng này hợp <br />
lại thành cái nét đau thương phổ quát, như vậy triết lý Phật giáo đã bị đẩy về phía hiện <br />
thực nhân sinh.<br />
<br />
Mặt đau thương được đặt ở dưới dạng một câu nghi vấn nó sẽ bật lên được nghịch lý: <br />
Cửa Phật là nơi siêu thoát sao lại là nơi tích tụ những đau thương? Dường như toàn bộ <br />
phần sau của bài thơ là trả lời cho câu hỏi đó.<br />
<br />
Ba khổ thơ sau, tác giả đã chọn ở gương mặt rất tiêu biểu để chứng minh cái cảm giác <br />
về nỗi đau thương in hằn lên các bức tượng chùa Tây Phương. Huy Cận đã có những <br />
quan sát rất sắc sảo mà tạc những bức tượng bằng ngôn ngữ vừa đúng trí tưởng tượng <br />
bay bổng để cung cấp cho bức tượng linh hồn, sự sống bên trong, pho tượng thứ nhất <br />
như muốn thu vào cái tĩnh lặng an nhiên.<br />
<br />
Đây vị xương trần chân với tay<br />
<br />
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy<br />
<br />
... Cho đến nay<br />
<br />
Hình thể tiều tụy đến mức gầy trơ xương đã được Huy Cận giải thích là vì chính những <br />
suy tư vật vã, chính ngọn lửa tâm hồn hừng hực ở trong lòng đã làm cho khổ quắt cái hình <br />
dáng bề ngoài, dường như hình xác bất động để dồn năng lượng vào trong tâm linh. Nỗi <br />
đau khổ bên trong đã thể hiện ra cái nét lạ bên ngoài. "Sâu vòm mắt" chính là chiều sâu <br />
của thế giới bên trong, nó thâm u mà buốt nhói. Như vậy, những suy tư triền miên của <br />
tâm linh đã vắt héo cả thể xác nhà tu hành. Theo Huy Cận, sự ép xác này không phải là <br />
giải pháp đưa linh hồn về miền cực lạc mà chính là nỗi đau đời. Thân xác hao gầy là một <br />
hệ quả vật vã như thiêu như đốt của tâm linh. Pho tượng gợi về một người già, là người <br />
đã xác tín được rất nhiều điều khổ đau. Coi nỗi đau như là một chuyện thường tình. Vì <br />
vậy, bước vào cuộc họp lạ lùng này ông ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh điềm nhiên của <br />
người từng trải. Ông ta có thể đặt ra câu hỏi, có cảm giác rằng mình sẽ cùng mọi người <br />
có thể giải quyết được câu hỏi đó.<br />
<br />
Pho tượng thứ hai là sự đối nghịch hoàn toàn. Nó thiên về động, những lớp sóng ngôn từ <br />
biểu hiện những hoạt động mạnh được huy động dày đặc, cuồn cuộn như là một cơn <br />
động đất dữ dội mà tâm địa chấn ấy bắt đầu từ nơi pho tượng thứ hai này "Có vị.... máu <br />
sôi". Nếu pho thứ nhất bắt đầu là tổng thể của "xương trần chân tay, tấm thân" rồi sau đó <br />
mới đến "vòm mắt", thì ở đây đối ngược lại ấn tượng mạnh mẽ nhất là khuôn mặt chứa <br />
đựng những suy nghĩ sôi sục, với một thế như muốn bung ra ào ào thác lũ và bàn tay như <br />
muốn ngay tức thời phải hành động khi đã vạch ra được một con đường.<br />
<br />
Quả là một tâm linh đang sôi sục như muốn phá vỡ cái hình xác chật chội. Thế nhưng, <br />
suy tư và hành động ấy được dừng lại ở cao trào, nó cũng là một bất lực khi người ta đã <br />
bước tới cái lằn ranh phải hoạt động nhưng bất giác ngẩn ngơ không biết mình sẽ hoạt <br />
động như thế nào và đạt được mục đích gì. Như vậy, khát vọng thì rất lớn nhưng rồi <br />
cũng buông tay bất lực, bản thân pho tượng đã có những xung đột nội tâm đã có những <br />
ngẫu lực của tư duy, của hành động. "Mắt giương" là rất ngạc nhiên và bực bội, "mày <br />
nhíu" là biểu hiện sự cau có sự quan tâm và đặc biệt thớ gỗ cũng nổi lên làn sóng luân <br />
hồi, vầng trán nhăn. Bởi những điều chướng tai gai mắt đó là nỗi đau chót vót của nhân <br />
thế. Sự bất lực đã thể hiện ở hai dòng sau "Môi cong chua chát" là tự giễu mình, tự phủ <br />
định mình. "Gân vặn bàn tay" là ý muốn hành động và ngay cả một lớp sóng luân hồi lại <br />
nổi lên. Vị thứ hai này ghi nhận những con người hành động nhưng mà thất bại trong một <br />
thời đại đầy bão táp. Có lẽ Cao Bá Quát cũng đã từng có những tâm trạng đau đớn này để <br />
phất cờ khởi nghĩa, có lẽ Quang Trung cũng đã có những nỗi đau thời thế... Bao nỗi đau <br />
thời cuộc nhưng tất cả cuối cùng đã thất bại. Những lớp sóng đau thương vẫn nổi lên ở <br />
phía chân trời, vẫn cuồn cuộn như những con giao long lao về phía chúng sinh.<br />
<br />
Nếu nói về cuộc họp "lạ lùng" này thì pho tượng thứ hai nó đã diễn ra vào thời điểm gay <br />
cấn nhất. Câu hỏi được tung ra, câu trả lời sau khi tranh cãi vất vả mọi người mới phát <br />
hiện được rằng nó lâm vào tình thế bế tắc. Nếu pho tượng thứ nhất là người già thì pho <br />
tượng thứ hai là một người trẻ đầy nhiệt huyết, đầy hăng hái, vì thế, tiếng thở dài cũng <br />
đầy não nùng.<br />
<br />
Pho tượng thứ ba rất lạ, hình như là tổng hợp của hai pho tượng trên. Chân tay co xếp lại <br />
là tư thế điềm tĩnh an nhiên, thiền định. Thế nhưng, thật ngộ nghĩnh và bất ngờ cái, "già" <br />
này thực ra là cái rất "trẻ", "tròn xoe tựa thế chiếc thai non".<br />
<br />
Câu thơ thứ ba gợi về một người đã già đã từng trải, Phật tướng đã in rõ trên tai khác <br />
thường của nhà tu hành. Rộng, dài, ngang gối, thế nhưng cũng thật bất ngờ đôi tai ấy <br />
không phải để lánh đời siêu thoát an bằng, tĩnh tại mà là "Cả cuộc đời nghe đủ chuyện <br />
buồn". Vậy là nhân vật nhập thế chứ không phải là xuất thế. Hóa ra nhân vật muốn lánh <br />
đời để tu hành để tịch diệt nhưng đời vẫn cứ vỗ sóng luân hồi đến tận cửa Phật. Có tình <br />
thương chúng sinh không thể không nghe, không thể không đón nhận cảm thông... Câu thơ <br />
nhằm chứa một triết lý nhân sinh rất thâm thúy. Nên nhớ thời đại này có những câu thơ <br />
của Tú Xương:<br />
<br />
Muốn mù, trời chẳng cho mù được<br />
<br />
Pho tượng cuối cùng này không còn là những đau khổ mà nó đã kết tinh lại thành bi kịch: <br />
Nghĩa là nó bị giằng xé giữa cái thực tiễn và ước mơ, giữa cái lánh đời và cái bám vào <br />
đời, giữa mong muốn được làm trẻ con hồn nhiên ngây thơ và cuộc đời bắt buộc phải suy <br />
ngẫm về chuyện đời xung quanh, về những cơn bão nổ cả trăm chiều, vị La Hán này <br />
dường như là nhân vật ở buổi tàn cuộc họp có tính chất nửa vời. Chung cuộc là sự bế tắc <br />
đã trở thành bi kịch.<br />
<br />
<br />