![](images/graphics/blank.gif)
Các doanh nghiệp ngành bán lẻ nội địa Việt Nam với những thách thức trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
lượt xem 3
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Nghiên cứu này đánh giá những cơ hội và khó khăn đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội địa Việt Nam sẽ phải đối mặt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó giúp chính phủ, các doanh nghiệp bán lẻ có những điều chỉnh phù hợp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các doanh nghiệp ngành bán lẻ nội địa Việt Nam với những thách thức trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
- CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH BÁN LẺ NỘI ĐỊA VIỆT NAM VỚI NHỮNG THÁCH THỨC TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TS. Ngô Tuấn Anh Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và chắc chắn sẽ có tác động mạnh đến ngành bán lẻ của Việt Nam ở hiện tại và thời gian tới. Tuy nhiên đi kèm với cơ hội là những thách thức lớn đối với ngành và các doanh nghiệp ngành bán lẻ Việt Nam nếu không tận dụng được. Nghiên cứu này đánh giá những cơ hội và khó khăn đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội địa Việt Nam sẽ phải đối mặt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó giúp chính phủ, các doanh nghiệp bán lẻ có những điều chỉnh phù hợp. Từ khóa: Ngành bán lẻ, cách mạng 4.0, doanh nghiệp bán lẻ Abstract The growing trend of the Industrial revolution 4.0 around the world will have a huge impact on the Vietnamese retail industry at present and in the future. It will not only bring about opportunities but also challenges for the retail industry and businesses in Vietnam. This research assesses the opportunities and constraints encountered by Vietnamese local retail businesses under the context of the Industrial revolution 4.0, hence supporting the government and retail businesses to make appropriate adjustments. Keywords: Retail industry, Industrial revolution 4.0, Retail business. 1. Giới thiệu Sau khi gia nhập WTO năm 2007 và đặc biệt thời gian qua Việt Nam đẩy mạnh đàm phán, ký kết nhiều các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như với Chi Lê, Hàn Quốc, CPTPP, FTA- EU, tham gia Cộng đồng ASEAN…là tiền đề cho các tập đoàn bán lẻ lớn của nước ngoài gia nhập thị trường Việt Nam, như Aeon (Nhật), Lotte (Hàn Quốc), các tập đoàn của Thái Lan đã mua Big C và Mettro. Đồng thời các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam như Vinmart, Saigon Co.op cũng đẩy mạnh xây dựng hệ thống bán lẻ, tạo sự cạnh tranh gay gắt trong ngành bán lẻ tại Việt Nam hiện tại và trong tương lai, với dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam thể đạt doanh thu từ 102 tỷ USD lên 179 tỷ USD sau 5 năm nữa. Theo dự báo của Bộ Công Thương, ngành bán lẻ sẽ tăng trưởng bình quân 20 - 21%/năm từ năm 2016 - 2020. Cả nước sẽ có khoảng 1.300 siêu thị, 180 trung tâm thương mại vào năm 2020. Đây là cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ, và các doanh nghiệp nội địa sẽ bị đẩy bật hoặc bị thông tính 307
- nếu không có chiến lược cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Với dân số trên 90 triệu người, thị trường bán lẻ Việt Nam đang hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư. Việc tham gia các FTA và đẩy mạnh hội nhập kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội đối với ngành bán lẻ của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực bán lẻ kể từ sau ngày 1/1/2009, qui định này hầu như mở hoàn toàn thị trường bán lẻ cho nước ngoài. Tuy nhiên cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới có tác động lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và ngành bán lẻ cũng không ngoài xu hướng đó, xu hướng hội nhập cũng mang đến sự lan toả mạnh mẽ hơn của cuộc cách mạng này đối với Việt Nam. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trong cách mạng công nghiệp 4.0 thì khách hàng và công nghệ sẽ có tác động lớn tới mọi khía cạnh trong lĩnh vực bán lẻ, các doanh nghiệp có theo kịp xu hướng công nghệ trong lĩnh vực này để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng mới có thể tồn tại và phát triển được. Do đó, các doanh nghiệp bán lẻ phải nhận diện được những cơ hội và thách thức để có những điều chỉnh phù hợp. 2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam 2.1. Những cơ hội 2.1.1. Sàng lọc và xây dựng hệ thống doanh nghiệp bán lẻ có sức cạnh tranh trên thị trường Nếu doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Do đó, đây sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp bán lẻ có năng lực cạnh tranh yếu nhưng cũng là sức ép để các doanh nghiệp nội địa phải nâng cao sức cạnh tranh của mình, nếu không sẽ không đấu lại được với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài hiện diện tại thị trường Việt Nam. Do đó, đây có thể là cơ hội hình thành được hệ thống các doanh nghiệp đủ mạnh, cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn bán lẻ mạnh trên thế giới. Để nâng cao được năng lực cạnh tranh trong bối cảnh cách mạng 4.0 thì doanh nghiệp bán lẻ nội địa phải tận dụng được sự phát triển của công nghệ hiện đại vào hoạt động quản trị và bán hàng, đó là thương mại điện tử E- commerce, Mobile commerce, đó là quản lý dây chuyền cung ứng và phát triển kênh, hệ thống phân phối và bán hàng hiện đại, đó là tái cấu trúc doanh nghiệp trên cơ sở cách mạng 4.0 tập trung vào khâu tổ chức và phân quyền và xây dựng các mối liên kết. Trong giai đoạn hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững được sẽ phụ thuộc vào việc có thu hút được khách hàng không; có thoả mãn được khách hàng không; và có duy trì được lòng trung thành của họ không. Vì vậy, khách hàng 308
- chính là nhân tố quyết định đến sự tồn tại, phát triển và thành công của doanh nghiệp, và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong các hoạt động quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp là nhân tố góp phần vào thành bại của doanh nghiệp trên thương trường. ICT giúp các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ứng dụng ICT có 2 hướng chính là sử dụng các phương tiện ICT trong hiện đại hóa dây chuyền sản xuất (chủ yếu là tự động hóa và robot hóa) và ứng dụng ICT phục vụ quản lý kinh doanh, như giải pháp quản lý bán hàng, quản lý kho, quản lý sản xuất cho doanh nghiệp… giúp các doanh nghiệp có thêm nhiều phương án chọn lựa giải pháp ứng dụng công nghệ phù hợp với quy mô và chiến lược phát triển kinh doanh của công ty, góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Tối ưu hóa quy trình kinh doanh bằng ứng dụng công nghệ nhằm tiết kiệm chi phí và nguồn lực là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp hiện đại. Tuy nhiên việc lựa chọn phần mềm quản lý, giải pháp ứng dụng nào là phù hợp với đặc thù, cá tính riêng để tận dụng và phát huy tối đa thế mạnh của mỗi doanh nghiệp lại càng quan trọng hơn. Công nghệ thông tin và truyền thông là nền tảng cho sự hình thành và phát triển của Internet và thương mại điện tử. Thương mại điện tử (TMĐT) đã làm tăng thêm tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Để thành công hoặc tồn tại khi kinh doanh trong một môi trường năng động thì các công ty không chỉ chú trọng đến những hoạt động truyền thống đơn thuần như cắt giảm chi phí, loại bỏ những bộ phận làm ăn không có hiệu quả... mà còn phải phát triển các hoạt động cải tiến như chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới, đẩy mạnh các dịch vụ tăng thêm..vv.. Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông, thương mại điện tử làm tăng thêm tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Thương mại điện tử cho phép các công ty dễ dàng cung cấp cho khách hàng sự hiện diện toàn cầu và có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và nhỏ. Vì sân chơi bình đẳng hơn nên thông qua các Website của mình, các công ty nhỏ cũng có thể đạt được một doanh thu như một công ty lớn mà điều này dường như không tưởng trong môi trường thương mại truyền thống, đây là công cụ nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường hữu ích cho doanh nghiệp. Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ, có nhiều thuận lợi trong sử dụng, khai thác các tiện ích do internet và thương mại điện tử mang lại, đây sẽ là xu hương tại Việt Nam trong tương lai gần, và rõ ràng ngành bán lẻ trong cách mạng 4.0 sẽ có dựa rất nhiều bởi công nghệ số và internet. Đây là thế mạnh của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài, và khi Việt Nam vào WTO đã mở cửa thông thoáng cho các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam, đây là sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội địa, khi mà ngay cả cách mạng công nghiệp 3.0 chúng ta cũng chưa bắt kịp thì đến cách mạng 4.0 đối với các doanh nghiệp Việt Nam là thách thức vô cùng lớn, đơn giản là thương mại điện tử đã rất thành công trên thế giới nhưng Việt Nam vẫn chỉ là chập chững với những bước tiến chậm chạp trên 10 năm nay, nếu không có những đột biến thì rất khó vì họ có lợi thế người đi trước. Hơn nữa cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên một nền tảng dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo là lợi thế của các 309
- tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Do đó, các doanh nghiệp bán lẻ nội địa nếu không nắm bắt được xu hướng này sẽ có thể bị bật khỏi thị trường nội địa và việc nâng cao khả năng cạnh tranh, chuyển hướng phù hợp với cách mạng 4.0 là tất yếu; hy vọng với sự học hỏi khi các tập đoàn nước ngoài vào thị trường Việt Nam chúng ta có thể xây dựng được các mối liên kết, học hỏi nhanh để rút ngắn khoảng cách. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp 4.0 có thể là khó đối với doanh nghiệp nội địa trong cạnh tranh với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài nhưng đây là ngoại ứng tích cực chắc chắn sẽ giúp cho người tiêu dùng hưởng lợi và các doanh nghiệp bán lẻ nội địa một động lực sống còn để tồn tại và phát triển nếu tận dụng được. 2.1.2. Mở rộng thị trường và hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu Đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại (FTA) luôn đi kèm với các đòi hỏi mở cửa thị trường và giảm thuế nhập khẩu cho các đối tác thương mại. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp bán lẻ trong việc mở rộng thị trường bởi môi trường thương mại hiệu quả, minh bạch và dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, loại bỏ các rào cản thương mại và dịch vụ, hơn thế các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn là những đối tác của nước/vùng lãnh thổ có FTA với Việt Nam thông qua các FTA riêng rẽ mà họ đã ký kết. Từ đó, giúp các doanh nghiệp có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn cầu. Thế giới theo đuổi cách mạng 4.0 sẽ là nhân tố tích cực giúp các doanh nghiệp nội địa phải đáp ứng được với các chuẩn mực và kỹ năng khi hợp tác, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đó là các xây dựng kênh phân phối, đổi mới tổ chức và phương thức bán hàng, đó là ứng dụng công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt ứng dụng Internet và thương mại điện tử, thanh toán điện tử, các hoạt động Logistics…. 2.1.3. Thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm Có trên 500 cửa hàng tiện ích tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó 60% do các tập đoàn nước ngoài đầu tư, và sắp tới sẽ có xu hướng mạnh hơn vì sự hấp dẫn và các rào cản dần bị dỡ bỏ. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài có nhiều lợi thế về vốn, thương hiệu, mạng lưới, kỹ năng bán hàng, tuyên truyền quảng cáo, an toàn vệ sinh… Xu hướng thay thế các loại hình bán lẻ truyền thống bằng các loại hình bán lẻ hiện đại đang diễn ra khá mạnh mẽ ở các đô thị lớn. Thông qua thu hút đầu các doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp phân bổ nguồn lực tốt hơn, tạo sức ép cạnh tranh lớn cho các doanh nghiệp nội địa. Với sức mạnh vượt trội, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thu hút được các địa điểm đẹp để kinh doanh mà các doanh nghiệp Việt không đủ nguồn lực để thuê. Cách mạng 4.0 sẽ thúc đẩy các quốc gia phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0. Đây là vấn đề đặt ra tầm quốc gia và dĩ nhiên ngành bán lẻ cũng có được sự lan toả. Các cuộc cách mạng công nghiệp muốn thành công phải có các cá nhân dẫn dắt, cách 310
- mạng 3.0 có những cá nhân làm cách mạng như Bill Gates, Steve Job, Larry Ellison, Lary Page….sẽ là các ngoại ứng dương thúc đẩy các thế hệ tiếp nối trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam trong Cách mạng Công nghiệp 4.0. 2.2. Một số khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam 2.2.1 Thị trường nội địa hiện bị khống chế bởi các doanh nghiệp nước ngoài Bắt đầu từ ngày 11.1.2015, các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn tại Việt Nam theo cam kết với WTO. Các doanh nghiệp nước ngoài có lợi thế về vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị sẽ áp đặt cuộc chơi trên thị trường. Bắt đầu từ năm 2015, lĩnh vực bán lẻ đã chứng kiến các thương vụ mua bán, thôn tính của các doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường Việt Nam, đó là Central Group (Thái Lan) đã mua lại Big C Việt Nam, Berli Jucker (BJC) Thái Lan mua lại Metro Cash & Carry Việt Nam (MCC Việt Nam) bao gồm 19 trung tâm phân phối và danh mục bất động sản có liên quan, tổng giá trị trên 650 triệu Euro. Tập đoàn Aeon (Nhật Bản) đã mua 30% cổ phần của Fivimart và 49% của Citimart nhằm đẩy mạnh xâm nhập của hàng hóa Nhật Bản và các doanh nghiệp của Nhật vào Việt Nam. Từ nhiều năm nay, hàng hoá của các nước khác trong khối ASEAN đã tràn ngập thị trường Việt Nam, như sản phẩm dao gọt trái cây, hay lon nước tăng lực của Thái Lan và sẽ còn phổ biến hơn nữa trong thời gian tới, hay các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử Việt Nam đối mặt với nguy cơ bị đẩy ra khỏi ngành do hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan và Singapore. Các doanh nghiệp sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn khi gia nhập Cộng đồng kinh tế Asean (AEC), nếu như không đổi mới hoạt động quản trị doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường quảng bá thương hiệu thì những doanh nghiệp yếu kém sẽ thất bại. Bởi trong những năm vừa qua, doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc, đa phần là chất lượng kém so với Việt Nam. Tuy nhiên, khi gia nhập AEC, doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với những tên tuổi lớn từ các nước ASEAN với hàng hóa chất lượng cao, giá cả có thể thấp hơn hàng hóa Việt Nam. Bảng 1: Lộ trình cắt giảm thuế theo ASEAN ASEAN – 6( Brunei, Malaysia, Danh mục Việt Nam Indonesia, Philippines, Singapore và Thái Lan) Cắt giảm thuế quan xuống 0-5% Vào 2009 Vào 2009 (80% dòng thuế 0%) E - ASEAN 0% vào 2010 0% vào 2009 Danh mục ưu tiên hội nhập (PIS) 0% vào 2012 0% vào 2010 Danh mục nhạy cảm (SL) 0-5% vào 2013 ---- Xoá bỏ hạn ngạch thuế quan 3 đợt 2013-2014- 3 đợt 2008-2009-2010 (Thái Lan) (TRQs) 2015/2018 Xoá bỏ thuế quan về cơ bản 0% vào 2015/2018 0% vào 2010 Nguồn: Bộ Công Thương (2015) 311
- Mở cửa thị trường đi kèm với sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với các doanh nghiệp nội địa. Hơn nữa, là sự xâm nhập có sức mạnh cực lớn của nước ngoài mà các doanh nghiệp nội địa không dễ đối phó và cạnh tranh được. Trong những năm vừa qua, doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc, đa phần là chất lượng kém so với Việt Nam. Tuy nhiên, khi gia nhập AEC, doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với những tên tuổi lớn từ các nước ASEAN với hàng hóa chất lượng cao, giá cả có thể thấp hơn hàng hóa Việt Nam, đây là nguy cơ đối với doanh nghiệp Việt Nam, có thể đánh mất thị phần ngay trên sân nhà. 2.2.2 Xuất phát điểm thấp, nguồn lực hạn chế là thách thức lớn đối với doanh nghiệp bán lẻ nội địa Các nước trên thế giới đã trải qua cách mạng 3.0 và đang tiến vào cách mạng 4.0 trong khí đó Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội trong tiến trình phát triển, hạn chế trong tận dụng công nghệ thông tin trong cách mạng 3.0 dẫn đến mất lợi thế. Hơn nữa cách mạng 4.0 là sự tiếp nối những thành tựu trong cách mạng 3.0 đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, khi mà các doanh nghiệp nước ngoài đi trước chúng ta hàng thập kỷ thì rút ngắn khoảng cách là khó nếu không có những bước nhảy vọt, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhỏ lại hạn chế về nguồn lực, trong khi đó triển khai nền tảng công nghệ 4.0 đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội địa còn mới mẻ và chi phí cao đối với doanh nghiệp trong triển khai các công cụ như thanh toán tự động, phát triển phục vụ đa kênh và đang hình thành cụm vận hành tự động hóa nhà kho kết nối logistics thông minh, triển khai các ứng dụng, phần mềm mua sắm, thanh toán dựa trên nền tảng công nghệ 4.0, nhằm gia tăng sự tiện dụng cho khách hàng sẽ mất chi phí lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội địa. Các hoạt động đầu tư công nghệ thông trong doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục tiêu của doanh nghiệp như hỗ trợ các hoạt động tác nghiệp, hỗ trợ cho việc ra các quyết định quản lý, hỗ trợ việc xây dựng các chiến lược nhằm đạt lợi thế cạnh tranh,…Có nhiều mô hình đầu tư công nghệ trong doanh nghiệp, mỗi mô hình có cách tiếp cận khác nhau nhưng đều có chung mục đích là giúp doanh nghiệp xác định được lộ trình đầu tư và mối quan hệ giữa các thành phần trong bức tranh tổng thể về ứng dụng công nghệ trong doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần phải chọn cho mình mô hình đầu tư phù hợp để phát huy hiệu quả các khoản đầu tư, phục vụ cho mục tiêu kinh doanh và phù hợp với năng lực khai thác công nghệ của doanh nghiệp. Nhưng yếu kém cốt tử của các doanh nghiệp bán lẻ nội địa chính là chất lượng nhân lực, đó là xuất phát điểm thấp, đó là chưa xây dựng được hệ thống phân phối đa kênh, là tư duy và cách làm manh mún, là nguồn lực hạn chế. Do đó tương lai của các doanh nghiệp bán lẻ nội địa để tồn tại và phát triển thời gian tới là vô cũng khó khăn. Tuy nhiên, Việt Nam với dân số đông, phần lớn tập trung ở vùng nông thôn, vẫn quen với cách mua bán truyền thống, còn hạn chế trong sử dụng công nghệ nên cũng là thời gian để các doanh nghiệp bán lẻ nội địa vẫn có cơ hội phát triển và tồn tại, có thời gian chuẩn bị cho tương lai khi mức sống dân cư ngày càng tăng và công nghệ phủ kín đến mọi vùng, mọi nhà. 312
- 2.2.3 Một số khó khăn khác - Mặt bằng bán lẻ đẹp đều rơi các các doanh nghiệp nước ngoài vì họ có tiềm lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thể giành được các mặt bằng đẹp, một số doanh nghiệp Việt có mặt bằng đẹp lại chọn phương án cho thuê bởi nhiều lý do khác nhau. - Năng lực quản trị, chất lượng nguồn nhân lực yếu, sự yếu kém của các cơ quan quản lý, có nhiều tư tưởng vừa duy trì vừa nhũng nhiễu các doanh nghiệp Việt vì đối với các doanh nghiệp nước ngoài họ rất chặt chẽ về pháp lý nên khó nhũng nhiễu. Sự hỗ trợ các cơ quan quản lý đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước chưa đủ mạnh. Các doanh nghiệp còn hạn chế trong tận dụng các cơ hội do cam kết mở cửa thị trường, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu hoặc chưa quan tâm đến các ưu đãi thuế quan, dẫn đến tự đánh mất lợi thế cạnh tranh về thuế và làm giảm khả năng cạnh tranh hàng hóa trên thị trường quốc tế. Một số doanh nghiệp dù có hiểu biết về quy tắc xuất xứ nhưng khi áp dụng vào thực tế còn yếu. doanh nghiệp cũng chưa cập nhật đầy đủ về cam kết cắt giảm thuế hàng năm của WTO và các đối tác trong các FTA với Việt Nam. - Có sự bất bình đẳng lớn trong thương mại quốc tế đối với Việt Nam khi đàm phán với các nước phát triển, đó là thực tế nếu chấp nhận tham gia cuộc chơi. Toàn cầu hóa đã buộc các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh khốc liệt với doanh nghiệp nước ngoài để giành lấy các hợp đồng với sự cạnh tranh gay gắt khi họ sẵn sàng thực hiện với giá thấp. Tiếp đó, các nước giàu sử dụng quyền sở hữu trí tuệ để bảo đảm sự độc quyền, giúp các doanh nghiệp nước ngoài có thể định giá cao mà không chịu sức ép cạnh tranh. 3. KẾT LUẬN Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 và hội nhập sâu rộng, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện đang gặp sức ép vô cùng lớn đòi hỏi phải có chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bán lẻ nội địa cần có chiến lược và lộ trình thực hiện đổi mới doanh nghiệp đáp ứng được môi trường kinh doanh dựa trên Cách mạng Công nghiệp 4.0. Muốn có doanh nghiệp bán lẻ đáp ứng được Cách mạng Công nghiệp 4.0 thì chất lượng nguồn nhân lực cũng phải đáp ứng được, do vậy chất lượng nguồn nhân lực là đặc biệt quan trọng mà doanh nghiệp cần lưu tâm. Đối với chính phủ và các cơ quan quản lý cũng phải có những hành động thiết thực hơn hỗ trợ ngành bán lẻ nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung, cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt thúc đẩy sự học hỏi nhằm tận dụng những cơ hội do Cách mạng Công nghiệp 4.0 mang lại. Hơn nữa muốn thành công trong ứng dụng công nghệ thì phải có cơ sở hạ tầng đủ mạnh, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của các ứng dụng. Do đó, cần thiết phải xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ trong đó có hạ tầng công nghệ hiện đại đáp ứng Cách mạng Công nghiệp 4.0, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững chung của đất nước và doanh nghiệp nội địa ngành bán lẻ. 313
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Công Thương (2018), Báo cáo ngành bán lẻ giai đoạn 2015-2017. 2. Bộ Công Thương (2016), Báo cáo thực thi các FTA Việt Nam đã tham gia 3. Quyết định số 40/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/1/2016 về việc phê duyệt “Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. 4. Các trang Web: https://vi.wikipedia.org, www.cafef.vn, www.trungtamwto.vn; ww.moit.gov.vn. 314
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chiến lược khách hàng trong ngành bán lẻ
2 p |
415 |
151
-
Hậu trường kinh doanh bán lẻ tại Pháp
5 p |
271 |
111
-
TỶ LỆ THÀNH CÔNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP
4 p |
136 |
38
-
9 xu hướng mới giúp bán lẻ thoát hiểm
5 p |
94 |
17
-
Ngành bán lẻ VN cần định hướng phát triển
7 p |
110 |
17
-
Xu hướng bán lẻ
3 p |
143 |
17
-
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào các doanh nghiệp thuộc ngành bán lẻ trong bối cảnh nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam: Cơ hội và thách thức
16 p |
19 |
6
-
Cộng đồng kinh tế ASEAN: Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ nội địa ở Việt Nam
7 p |
48 |
6
-
Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và thách thức cho thị trường bán lẻ Việt Nam
7 p |
64 |
6
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tại thị trường nội địa
7 p |
55 |
6
-
Mô hình ROPMIS về đánh giá sự hài lòng của khách hàng đối với thương mại điện tử ngành bán lẻ
8 p |
67 |
6
-
Tương lai thị trường phân phối ngành bán lẻ tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
8 p |
34 |
5
-
Cơ hội phát triển bền vững marketing số doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành bán lẻ thời trang Hà Nội
24 p |
21 |
4
-
Vai trò của quản trị công ty đối với tình trạng kiệt quệ tài chính góc nhìn từ hệ số Z-score của các doanh nghiệp ngành bán lẻ tại Việt Nam
13 p |
10 |
4
-
Con đường nào cho doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
3 p |
20 |
3
-
Xu hướng tiêu dùng trong thị trường bán lẻ
4 p |
24 |
3
-
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam với nhu cầu về tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực
4 p |
28 |
2
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)