VĂNHOÁẤNĐỘ<br />
■ KẾT CẤU CỦA VŨ TRỤ<br />
<br />
Quan niệm của người Ấi Độ cổ đại về cấu trúc thế<br />
giới được phản ánh trong "Rigveda" một cách tươiĩg đối<br />
đơn giản. Có hai lĩnh vực thế giới - đó là tròi và đất.<br />
Chúng thường được quan niệm như hai chiếc chén lớn<br />
hướng lòng vào nhau, hoặc như hai chiếc bánh xe ở hai<br />
đầu trục bánh. Trên trời có các thần và tổ tiên trú ngụ,<br />
ỏ đó m ặt tròi, m ặt trăng và các vì sao luôn chuyển động.<br />
"Rigveda" cho rằng, khoảng cách từ trời xuống đất xa tới<br />
mức chim không thể bay lên tận nơi. Đồ hình này<br />
thưòng được phối hỢp với đồ hình khác mà ở đó, thêm<br />
<br />
vào cặp trời - đất là một yếu tố nữa, đó là khí quyển,<br />
bầu không gian không khí. Đồ hình gồm ba thành phần<br />
như vậy của th ế giới được gọi là "ba th ế giới". Thế giới có<br />
tính trậ t tự nhò lu ật th ế giới phi cá nhân - gọi là rita.<br />
Các thần cũng phải phục tùng luật này. Rita đảm bảo<br />
cho tấ t cả đều có vị trí tốt nhất và ý nghĩa ehân chính.<br />
Trong ý thức tôn giáo, ý nghĩa của sự đối đầu giữa thần<br />
và quỷ (asura) ngày càng tăng. Vì thế, cấu trúc ba<br />
thành phần của th ế giới mang tính đặc tníng khác.<br />
Thay cho phần khí quyển là đất với tư cách yếu tố trung<br />
gian, còn thấp hơn nó là lĩnh vực lòng đất. Tư tưỏng<br />
nghiệp (karma) thay cho tư tưỏng rita. Chúng tôi sẽ giải<br />
thích điều này ở các phần tiếp theo.<br />
192<br />
<br />
Theo thần thoại Hindu, Đại vũ trụ là một quả trứng<br />
Brahma (Brahmanda - thần sáng tạo). Quả trứng này<br />
chia thành 21 lĩnh vực (do mỗi phần trong ba bộ phận là<br />
trên, giữa và dưới của vũ trụ được chia thành 7). Mặt<br />
đất là phần thấp nhất của tầng trên. Trên m ặt đất còn 6<br />
phẫn nữa, phần này chồng lên phần kia. Cao nhất là<br />
th ế giới của Brahma (Brahmaloca), đó là th ế giới tuyệt<br />
hảo và nổi trội. Dưới lòng đất có 7 tầng thuộc th ế giới<br />
trung gian - đó là patala, ở đó có các th ần thông thái<br />
dạng rắn - Nagi và một số sinh thể khác. Dưới Patala là<br />
Naraka, hoặc là địa ngục, nó cũng có 7 tầng theo các<br />
mức độ khổ đau khác nhau. Càng thấp bao nhiêu thì<br />
càng bị hành hình nặng bấy nhiêu. Dưới địa ngục, ncfi<br />
các sinh thể phải chịu hình phạt vì phạm tội đã làm<br />
những điều th ất đức, có đại xà Sesa, hay là Ananta<br />
("vĩnh hằng").<br />
Vậy trái đất nhò vào đâu mà giữ được vị trí của<br />
mình? Theo một số tư liệu, nó nhò vào Sesa - đại xà nằm<br />
trên Ivừig con rùa và bơi tron? nước khởi thuỷ. Số khác<br />
thì cho rằng, chỗ dựa của trái đất là bốn con voi. Số thứ<br />
ba cho rằng, trái đất nằm trên vai bốn ngưòi khổng lồ,<br />
và khi họ đổi vai sẽ xảy ra động đất.<br />
Giống như bất kì quả trứng nào, Brahm anda có vỏ<br />
bọc cách li nó với các th ế giới khác. Thế giới ngoài nó thì<br />
nhiều vô kể. Như vậy, những tín đồ H indu giáo hiểu cái<br />
vũ trụ phổ quát như là Đại vũ trụ bao la chất đầy vô 8ố<br />
các th ế giới.<br />
193<br />
<br />
Nói đến bản thân trái đất, người ta thường hình dung<br />
nó dưới hình thức một chiếc đĩa lớn. Giữa lòng chiếc đĩa đó<br />
là ngọn núi thiêng Mera đưỢc hình thành từ vàng và đá<br />
quý. Xung quanh ngọn núi này là các hành tinh và các vì<br />
sao, trên chiếc đĩa có dòng sông Hằng được chia thành bốn<br />
nhánh. Theo các phương trời, núi Mera có bốn lục địa<br />
(dvipa) cách biệt lửiau bỏi các đại dương. Con người sống ở<br />
lục địa phương Nam có Jambudvipa, vì dấu hiệu đặc<br />
trưng của nó là cây Jambu (táo hồng). Theo lời của Visnu purana thì "quả của cây này rất to, to như con voi. Khi<br />
chúng chín thì rụng xuống đất, và nước của quả chảy<br />
thành sông. Mọi ngưòi uống nưốc đó cảm thấy khoan<br />
khoái và khoẻ m ạnh - không hề đổ mồ hôi, không bốc<br />
mùi, không bị đau ốm". Lục địa này chia thành một 8ố<br />
vùng. Phía Nam cách biệt với các vùng khác bởi dăy<br />
Himalaya, gọi là B hataratavarsa (đất nước của các hậu<br />
duệ Bharata) - đó chính là nước  i Độ. B hataratavarsa<br />
được xem là đất nước tốt nhất, bởi chỉ ỏ đây mới có thể<br />
hi vọng vào sự giải phóng tinh thần hoặc lên thiên<br />
đưòng nhò kết quả của sự hành thiện. Các nước khác và<br />
các khu vực khác nặng về trì trệ và tĩnh, những cái đó<br />
cản trỏ kết quả giải phóng triệt để. Theo hình đồ khác,<br />
xung quanh núi Mera không phải là bốn, mà là bảy<br />
nguồn có hmh cái giếng. Mỗi cái cách nhau bỏi đại dương.<br />
Trong lòng đại dương hàm chứa: thứ nhất, nước mặn;<br />
thứ hai, dòng chảy; tiếp nữa là rượu, dầu ăn, sữa, w .<br />
Đồ hình vũ trụ của đa số các trưòng phái triết học<br />
của Jaina và P h ật giáo đều có những nét chung của An<br />
194<br />
<br />
Độ, mậc dù chúng có một số nét độc đáo riêng, ở Ấi Độ<br />
từng có những quan niệm về cơ cấu vũ trụ được coi là<br />
những quan niệm khoa học. Thiên văn học An Độ, vốn<br />
chịu ảnh hưỏng của thiên văn học Hi Lạp, đã đạt được<br />
những thành tựu nổi tiếng vào giữa thiên niên kỉ 1 tCn.<br />
Khi đó, người ta đã biết đến các hành tinh và những<br />
c h ù m sa o , h ìn h d u n g đưỢc đ ư òn g tr ò n ơ c l i t (q u a n s á t<br />
<br />
được sự vận động của Mặt tròi quanh trá i đất) và những<br />
dấu h-.ệu của hoàng đạo, w . Nhà thiên văn học vĩ đại<br />
nhất là A riabhata (khoảng 476 - 550) cho rằng, hành<br />
tinh cúa chúng ta có hình cầu. ông là người đầu tiên ỏ<br />
Ấn Độ đề xuất ý kiến cho rằng, Trái đất quay quanh<br />
trục của nó, đồng thời giải thích m ột cách hỢp lí các<br />
<br />
nguyên nhân n h ật thực và nguyệt thực. Brahmagupta<br />
(khoảng 598 - 660) đã tính toán tương đốl chính xác chu<br />
vi trái đất. Tuy nhiên, giá trị của tấ t thảy những phát<br />
minh đó trong con m ắt nhân dân đều là số không. Và,<br />
sau nầiều th ế kỉ, đại đa sô" người Ấn Độ vẫn giữ quan<br />
niệm bảo thủ về th ế giới. Khoa học về các vì sao được<br />
xem lè có ích chỉ ở mức độ, 1 hi nó giải thích được ảnh<br />
hưởng của trời đến s ố phận của con người (tử vi).<br />
<br />
Nó: chung, người Ấn Độ ít quan tâm đến các khu vực<br />
khác. Về cơ bản, họ lấy làm thoả mãn với mức hiểu biết<br />
mơ hồ và cách biệt về những nước xa xôi chưa từng đặt<br />
chân tới; họ không có ý định khái quát hoặc hệ thống<br />
hoá những nhận thức, hiểu biết về các nước đó. Nhiing<br />
điều đang ngạc nhiên là: người Ấn Độ, trong truyền thống,<br />
không biết (cũng có thể họ không muốn) tính toán một<br />
195<br />
<br />
cách chính xác kích thước của chírủi đất nước mình. Số<br />
Kệu mà họ đưa ra trong các tư liệu khác nhau về khoảng<br />
cách và hướng rế t sai biệt nhau. Lẽ ra, kinh nghiệm của<br />
số đông ngưòi hành hương, thương gia, quân đội đã từng<br />
đi qua Ấn Độ, từ đầu đất nước đến cuối đất nước, phải có<br />
những thông tin phong phú v ề địa lí của đất nước này,<br />
song đáng tiết là điều đó lại không xảy ra.<br />
<br />
■ NGUỔN GỐC CỦA vũ TRỤ<br />
(VŨ TRỰ TINH NGUYÊN LUẬN)<br />
<br />
Cái có ý nghĩa lón lao đối với người Ấ n Độ là vấn đề<br />
th ế giới xuất hiện bằng cách nào, ai (hoặc cái gì) là<br />
nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện th ế giới ấy và cấu<br />
trúc của nó ra sao? Câu trả lòi là không giống nhau.<br />
Ngay cả các văn bản của Vệ đà cũng đưa ra một số<br />
phương án khác nhau về nguồn gốc vũ trụ. Theo một<br />
trong các phương án đó, có lẽ là cổ nhất, thì Tròi (Diaus)<br />
và Đất (Prithivi) xuất hiện từ một thể thống nhất khi<br />
thể thống n h ất này bị phân chia tại thòi điểm nào đó.<br />
Trạng thái đó được gọi là "amhas", nghĩa là "chật chội",<br />
không có không gian. Amhas của Vệ đà hoàn toàn giống<br />
với trạng thái "hỗn mang" trong quan niệm của người<br />
Hi Lạp. Một vỊ th ần hùng mạnh xuất hiện (Inđra hoặc<br />
vị thần khác nào đó) đã chia tách hai Knh vực đó ra và<br />
thiết lập giữa chúng một cái cột vũ trụ, đồng thòi tạo ra<br />
giữa chúng một không gian (antaricsa). Thay vào chỗ<br />
196<br />
<br />