intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các vấn đề về môi trường của ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ

Chia sẻ: Long Nguyễn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

52
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm đã tự nguyện tham gia vào các nghiên cứu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường và các dự án khảo sát công nghiệp. Kiểu hợp tác như thế này, chứ không phải quan hệ theo kiểu đối đầu với các nhà quản lý như trước, đang dẫn đến việc xây dựng các điều luật, quy định, và chính sách của Liên bang dựa trên việc áp dụng công nghệ kiểm soát đáng tin cậy và khả thi về mặt kinh tế để bảo vệ môi trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các vấn đề về môi trường của ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ

CÁC VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ<br /> BIẾN PHỤ PHẨM GIẾT MỔ<br /> Gregory L. Sindt, P.E.<br /> Kỹ sư môi trường<br /> Tập đoàn Bolton & Menk<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ có ảnh hưởng tích cực rất rõ ràng tới chất lượng<br /> môi trường. Quá trình chế biến các chất hữu cơ có giá trị kinh tế thấp lấy từ ngành chăn nuôi, chế<br /> biến thịt, chế biến thực phẩm và các ngành dịch vụ thực phẩm bởi ngành công nghiệp chế biến<br /> phụ phẩm giết mổ góp phần làm giảm lượng chất thải chở đến bãi rác và các cơ sở xử lý nước<br /> thải công cộng. Việc chế biến các gia súc chết của ngành chăn nuôi gia súc gia cầm làm giảm<br /> nguy cơ ô nhiễm nước ngầm và các vấn đề về sức khỏe có thể gây ra bởi việc tiêu hủy xác gia<br /> súc chết một cách không hợp lý.<br /> Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ra các ảnh hưởng xấu tới chất<br /> lượng môi trường. Mặc dù phần lớn các cơ sở chế biến phụ phẩm giết mổ không tạo ra các chất<br /> thải nguy hại nhưng quá trình vận chuyển và chế biến các nguyên liệu hữu cơ có thể tạo ra rất<br /> nhiều phụ phẩm có thể phân hủy sinh học (biodegradable by-product) không mong muốn và các<br /> chất này có thể tác động đáng kể đến chất lượng nước và chất lượng không khí. Các cơ sở chế<br /> biến phụ phẩm động vật hiện đại có qui trình xử lý tinh vi và các thiết bị kiểm soát để có thể duy<br /> trì mức ô nhiễm nước và không khí trong phạm vi cho phép. Các hệ thống kiểm soát không khí<br /> và nước thải đòi hỏi chi phí đầu tư vốn và chi phí vận hành nhà máy khá lớn.<br /> Hoạt động của ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ phải chịu sự chi phối của một số<br /> qui định về môi trường. Ngoài sự kiểm soát của chính phủ thông qua các qui định của Liên bang,<br /> tiểu bang và địa phương, ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ còn là một đối tượng<br /> phải chịu áp lực từ các nhóm và cá nhân quan tâm đến môi trường. Ngày càng khó để chọn địa<br /> điểm xây dựng nhà máy mới và bảo đảm tuân thủ mọi quy định về môi trường vì số lượng và sự<br /> phức tạp của các điều luật và quy định cũng như các vấn đề pháp lý về môi trường đang tiếp tục<br /> tăng lên.<br /> Nhiều thành viên của ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ dựa vào các tổ chức thương<br /> mại và công nghiệp như Hiệp hội các nhà chế biến phụ phẩm quốc gia (NRA) và Viện nghiên<br /> cứu Thịt Hoa Kỳ (AMI) và các các Ủy ban môi trường để giám sát việc xây dựng các chính sách<br /> và qui định về môi trường.<br /> Khái niệm hệ thống quản lý môi trường (EMS-Environmental Management System) đang được<br /> xây dựng là một bước tiến theo hướng tự kiểm soát và cải thiện chất lượng môi trường được triển<br /> khai ở cấp độ nhà máy. Các chương trình EMS được khuyến khích bởi các cơ quan quản lý môi<br /> trường trong đó có cả Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (Environmental Protection Agency -<br /> EPA).<br /> Các qui định về môi trường sẽ trở nên chặt chẽ và việc tuân thủ sẽ trở nên phức tạp và tốn kém<br /> hơn vì sẽ có nhiều hơn nữa các chất gây ô nhiễm nguồn nước và không khí được đưa vào qui<br /> định trong tương lai. Qui định về khí nhà kính, các chất thải amoniac, nitơ tổng số, phốt pho và<br /> nước thải chứa chất rắn hòa tan sẽ là những thách thức trong tương lai gần. Những qui định đối<br /> với các chất gây ô nhiễm chưa được biết đến tại thời điểm này chắc chắn sẽ xuất hiện cùng với<br /> các nghiên cứu về môi trường và các vấn đề môi trường thực sự hoặc cảm nhận được.<br /> <br /> 232<br /> Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm đã tự nguyện tham gia vào các nghiên cứu của Cơ quan<br /> Bảo vệ Môi trường và các dự án khảo sát công nghiệp. Kiểu hợp tác như thế này, chứ không phải<br /> quan hệ theo kiểu đối đầu với các nhà quản lý như trước, đang dẫn đến việc xây dựng các điều<br /> luật, qui định, và chính sách của Liên bang dựa trên việc áp dụng công nghệ kiểm soát đáng tin<br /> cậy và khả thi về mặt kinh tế để bảo vệ môi trường.<br /> Các vấn đề nước thải<br /> Các nhà máy chế biến phụ phẩm tạo ra lượng nước thải rất lớn. Nước thải thường chứa các tạp<br /> chất mà nguy cơ gây ô nhiễm môi trường về mặt lâu dài của chúng là tương đối thấp. Thế nhưng<br /> cũng không thể thải trực tiếp nước thải này vào sông, suối hay ao hồ khi chưa được xử lý một<br /> cách thích hợp. Việc thải nước thải được qui định trong các điều luật và nguyên tắc của Liên<br /> bang, tiểu bang và địa phương.<br /> Các mối quan tâm về môi trường<br /> Có bốn phạm trù quan tâm đến môi trường khi đề cập đến nước thải được tạo và thải ra từ các<br /> nhà máy chế biến phụ phẩm giết mổ: bảo vệ đời sống các loài thủy sản, bảo vệ sức khỏe con<br /> người và động vật, bảo vệ tính thẩm mỹ của các dòng chảy có chất thải chảy vào, và bảo vệ chất<br /> lượng nguồn nước. Bảo vệ các loài thủy sản đòi hỏi sự quan tâm cũng như chi phí nhiều nhất<br /> trong việc xử lý nước thải.<br /> Hạn chế việc thải các chất hữu cơ sẽ bảo vệ các loài thủy sản tránh phải sống trong môi trường<br /> nước có nồng độ O2 hòa tan thấp ở các dòng chảy phía sau vị trí có nước thải đổ vào. Chất hữu<br /> cơ được vi khuẩn có trong dòng chảy dùng làm nguồn thức ăn cho chúng. Do các vi khuẩn tiêu<br /> thụ chất hữu cơ nên chúng sẽ sử dụng O2. Nếu tốc độ tiêu thụ O2 của vi khuẩn vượt quá tốc độ<br /> hòa tan O2 vào dòng chảy thì mật độ O2 hòa tan trong nước sẽ giảm đi và cá sẽ chết vì thiếu O2<br /> hòa tan cho quá trình hô hấp. Cá chết do thiếu O2 hòa tan trong các dòng chảy phía dưới cửa ra<br /> của nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt không được xử lý triệt để đã từng xảy ra rất<br /> phổ biến trước khi các cơ sở xử lý nước thải sinh học (biological wastewater treatment) qui mô<br /> lớn được xây dựng ở Hoa Kỳ trong những năm 1970 và 1980.<br /> Nhu cầu ôxy hóa sinh cacbon (Carbonaceous biochemical oxygen demand-CBOD) và nhu cầu<br /> ôxy hóa sinh (Biochemical oxygen demand-BOD) là những phương pháp xác định nồng độ chất<br /> hữu cơ trong nước. CBOD và BOD là lượng oxy được các vi sinh vật tiêu thụ khi chúng sử dụng<br /> các chất tạp nhiễm làm nguồn thức ăn trong suốt thời gian của một đợt kiểm tra năm ngày trong<br /> phòng thí nghiệm. Kết quả được thể hiện bằng đơn vị mg/L (hoặc ppm- phần triệu) của lượng O2<br /> tiêu thụ trong thời gian kiểm tra năm ngày.<br /> BOD đã được sử dụng làm phương pháp xác định hàm lượng chất hữu cơ trong vài thập kỷ qua.<br /> CBOD cũng tương tự như BOD nhưng khác ở chỗ trong phép thử CBOD thì phản ứng của nitơ<br /> hữu cơ bị khóa chặt. Số lượng phản ứng nitơ được giả định là không đáng kể trong phép thử<br /> BOD khi tiến hành với nguồn nước thải nồng độ thấp. Các nồng độ BOD và CBOD là tương tự<br /> nhau trong nước thải có nồng độ nitơ thấp. Phản ứng của các hợp chất chứa nitơ trong các phép<br /> thử BOD có thể là đáng kể trong nước thải có nồng độ amoniac và nitơ hữu cơ cao như nước thải<br /> của các nhà máy chế biến phụ phẩm giết mổ. Vì thế, với những loại nước thải này thì phép thử<br /> CBOD được ưa sử dụng hơn phép thử BOD. Nồng độ CBOD luôn thấp hơn nồng độ BOD. Nước<br /> thải chưa qua xử lý của nhà máy chế biến phụ phẩm giết mổ có nồng độ CBOD dao động trong<br /> khoảng từ 4.000-10.000 mg/l. Các giới hạn CBOD điển hình đối với nước thải trước khi đổ vào<br /> dòng chảy là 10-25 mg/l.<br /> Amoniac được tạo ra từ quá trình phân hủy sinh học các chất protein. Nitơ Kjeldahl tổng số<br /> (TKN) là tổng của nitơ hữu cơ và nitơ amoniac. Amoniac rất độc đối với các loài thủy sản.<br /> <br /> 233<br /> Amoniac tự do (NH3) và amonium dạng nguyên tử (NH4+) cùng tồn tại trong nước ở trạng thái<br /> cân bằng. Amoniac độc trong khi NH4+ không độc. NH4+ được chuyển hóa thành NH3 khi pH<br /> tăng lên. Amoniac cũng độc hơn ở nhiệt độ nước cao hơn. Do vậy, pH và nhiệt độ là những yếu<br /> tố quan trọng cần xem xét khi đánh giá độc tính của NH3 đối với các động vật sống dưới nước.<br /> Độc tính của NH3 tăng lên khi pH và nhiệt độ tăng lên. Nước thải chưa qua xử lý của các nhà<br /> máy chế biến phụ phẩm giết mổ có nồng độ TKN trong khoảng dao động từ 500-1000 mg/l. Giới<br /> hạn NH3 thông thường cho chất lượng nước trong các dòng chảy biểu thị bằng nồng độ nitơ là<br /> nhỏ hơn 2 mg/l.<br /> Các động vật sống dưới nước nhạy cảm với pH. Dao động điển hình của mức pH cho phép đối<br /> nước thải trước khi đổ vào dòng chảy là 6-8.<br /> Một số muối hòa tan như muối clo và muối sulfat có thể độc đối với các động vật thủy sinh.<br /> Nước thải của các nhà máy chế biến phụ phẩm giết mổ có thể chứa các muối hòa tan ở nồng độ<br /> cao do muối thải ra từ việc xử lý da sống và các muối có trong nguyên liệu thô như phần nước<br /> của huyết thanh. Các chất rắn hòa tan tổng số (Total Disolved Solids - TDS) là hàm lượng các<br /> chất rắn đi qua giấy lọc. Đây là một đơn vị xác định hàm lượng chất hữu cơ hòa tan và muối.<br /> Nồng độ của các thành phần cụ thể trong TDS như clo, sulfat và các thành phần khác được quan<br /> tâm nhiều hơn là nồng độ TDS tổng số. Do vậy, việc sử dụng TDS làm một chỉ số bảo vệ các<br /> động vật thủy sinh không phù hợp về mặt kỹ thuật bằng việc sử dụng nồng độ của các chất gây ô<br /> nhiễm cụ thể như clo và sulfat. Mặc dù một số tiểu bang đã có các tiêu chuẩn về chất lượng nước<br /> cho các chất rắn hòa tan, clo, sulfate và các thành phần hòa tan khác từ vài năm nay, nhưng trong<br /> nhiều trường hợp họ vẫn chưa áp dụng các tiêu chuẩn cho những tham số này đối với các mức<br /> giới hạn cho phép của nước thải cho tới mãi thời gian gần đây. Việc xây dựng các tiêu chuẩn qui<br /> định đối với các thành phần tạo nên các chất rắn hòa tan sẽ trở nên quan trọng trong tương lai khi<br /> các tiểu bang xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng nước lần thứ hai.<br /> Nước thải từ các cơ sở chế biến phụ phẩm giết mổ có chứa dịch lỏng chảy ra từ các nguyên liệu<br /> thô chưa được nấu chín, trong đó có cả các vi sinh vật có khả năng gây bệnh. Các trực khuẩn<br /> trong phân được coi là chỉ thị của sự tiềm ẩn các vi sinh vật gây bệnh. Mật độ trực khuẩn trong<br /> phân được biểu thị bằng thuật ngữ “số lượng có thể đúng nhất” trên 100 ml (MPN/100ml). Giới<br /> hạn điển hình của mật độ trực khuẩn trong nước thải trước khi đổ vào dòng chảy là 200-400<br /> MPN/100 ml.<br /> Các chất rắn lơ lửng tổng số (Total Suspended Solids-TSS) là một chỉ số đo lượng nguyên liệu<br /> có thể được loại bỏ từ nước thải bằng cách lọc qua giấy lọc. TSS là một chỉ số quan trọng đánh<br /> giá chất lượng nước về mặt cảm quan. Các giới hạn chất rắn lơ lửng điển hình trong nước thải<br /> trước khi đổ vào dòng chảy là 10-30 mg/l.<br /> Các hợp chất có chứa phốt pho và nitơ là những nguồn dinh dưỡng cho sự phát triển của thực vật<br /> sống trong các dòng chảy và hồ chứa nước. Nước thải của quá trình chế biến phụ phẩm giết mổ<br /> có thể chứa hàm lượng các hợp chất chứa nitơ tương đối cao tạo ra bởi sự phân hủy protein. Các<br /> chất dinh dưỡng kích thích sự phát triển quá mức của tảo trong các hồ chứa và dòng chảy, từ đó<br /> ảnh hưởng tới sự sống của các loài thủy sinh và chất lượng cảm quan của nước. Các mức giới<br /> hạn của việc thải phốt pho vào vùng lòng chảo dẫn lưu của Hồ Lớn (Great Lakes) đã có hiệu lực<br /> từ vài năm nay. Các điều luật của EPA năm 2004 yêu cầu nước thải từ các cơ sở chế biến phụ<br /> phẩm giết mổ vào các hồ chứa và dòng chảy không được chứa hàm lượng nitơ tổng số cao hơn<br /> 134 mg/l. Các mức giới hạn của địa phương dựa trên các tiêu chuẩn chất lượng nước của tiểu<br /> bang có thể còn chặt chẽ hơn. Các mức giới hạn thải phốt pho điển hình ở các vùng có áp dụng<br /> tiêu chuẩn chất lượng nước chứa phốt pho là 1,0 mg/l đối với hàm lượng phốt pho tổng số. Các<br /> <br /> <br /> 234<br /> giới hạn phốt pho và nitơ tổng số có thể trở nên chặt chẽ hơn nhiều khi các tiểu bang áp dụng các<br /> tiêu chuẩn chặt chẽ hơn về chất lượng nước chứa các chất dinh dưỡng .<br /> Dầu và mỡ dạng lỏng là một chỉ số chất lượng nước về mặt cảm quan. Dầu và mỡ dạng lỏng<br /> được định nghĩa là bất kể nguyên liệu nào có thể thu hoạch được với một dung môi hòa tan chất<br /> hữu cơ chẳng hạn như hexane. Dầu và mỡ dạng lỏng được định nghĩa một cách chính xác hơn là<br /> loại nguyên liệu có thể tách chiết hexan (Hexane extractable material-HEM) vì tất cả các thành<br /> phần thu được từ phương pháp thử haxane có thể không thực sự là dầu hoặc mỡ thật. Việc thải<br /> quá nhiều dầu và mỡ dạng lỏng có thể dẫn đến sự đông vón tích tụ các chất rắn và nổi lềnh bềnh<br /> trên mặt hồ chứa hoặc dòng chảy. Việc thải quá nhiều dầu và mỡ vào hệ thống thoát nước thải<br /> thành phố gây ra hiện tượng mỡ đóng thành lớp trong các ống cống, dẫn đến các vấn đề khó<br /> khăn trong việc bảo dưỡng cống rãnh nước thải. Các giới hạn về hàm lượng dầu và mỡ dạng lỏng<br /> điển hình trong nước thải đổ vào hệ thống nước thải thành phố là 100-200 mg/l.<br /> Các qui định về việc thải nước thải<br /> Các giới hạn trong việc thải nước thải vào các dòng chảy và hồ chứa được đưa ra dựa trên việc<br /> xem xét hai chỉ số: chất lượng tối thiểu dựa trên việc sử dụng các công nghệ xử lý (các giới hạn<br /> dựa trên công nghệ-technology-based limits) và chất lượng yêu cầu cho việc bảo vệ chất lượng<br /> nước của các dòng chảy và hồ chứa (các giới hạn dựa trên chất lượng nước-water quality-based<br /> limits). EPA thiết lập chất lượng nước tối thiểu dựa trên việc áp dụng công nghệ xử lý cho các<br /> ngành công nghiệp cụ thể, thường được đề cập là các giới hạn nước thải công nghiệp theo nhóm<br /> hoặc các hướng dẫn về giới hạn đối với các dòng nước thải (Effluent Limitation Guidelines -<br /> ELGs). Ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm giết mổ là đối tượng phải áp dụng ELGs cho<br /> Phân nhóm các cơ sở chế biến phụ phẩm của Nhóm các sản phẩm gia súc gia cầm điểm nguồn<br /> (Meat and Poultry Products Point Source Category) được phát hành trong cuốn “Code of Federal<br /> Regulations” (Mã số của các điều luật Liên bang) (40 CFR Phần 432, Tiểu phần J). EPA đã thiết<br /> lập ELGs cho các nhà chế biến phụ phẩm độc lập năm 1975 và định kỳ đánh giá lại chúng. EPA<br /> cũng đã sửa đổi lại ELGs cho Phân nhóm các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ năm 2004 trong đó<br /> bao gồm các tiêu chuẩn cho các cơ sở thải nước thải tại các điểm nguồn vào các dòng chảy và hồ<br /> chứa đã có từ trước hoặc mới xuất hiện. Các tiêu chuẩn cho amoniac, BOD, dầu và mỡ dạng lỏng,<br /> và TSS đều dựa vào khối lượng nguyên liệu thô và được thể hiện bằng đơn vị pound của chất<br /> gây ô nhiễm/1000 pound nguyên liệu thô. Tiêu chuẩn áp dụng cho trực khuẩn trong phân là 400<br /> MPN/100 ml và tiêu chuẩn cho nitơ tổng số là 134 mg/l như trong điều luật được ban hành năm<br /> 2004.<br /> Các giới hạn cho nước thải dựa trên chất lượng nước đã được xây dựng trên cơ sở các tiêu chuẩn<br /> chất lượng nước của các dòng chảy có chất thải đổ vào. Các cơ quan quản lý của tiểu bang xây<br /> dựng các tiêu chuẩn để bảo vệ các động vật thủy sinh và cho các ứng dụng khác của hồ chứa và<br /> dòng chảy. Các giới hạn cho nước thải đổ vào dòng chảy được tính toán bằng cách xác định công<br /> suất của dòng chảy trong việc thu nhận và đồng hóa các thành phần đến từ tất cả các nguồn nước<br /> thải mà không vượt quá tiêu chuẩn cho phép của chất lượng nước trong dòng chảy.<br /> Việc thải trực tiếp vào các dòng chảy và hồ chứa có thể được thực hiện nếu có giấy phép chứng<br /> nhận NPDES (National Pollutant Discharge Elimination System- Hệ thống loại bỏ chất thải ô<br /> nhiễm quốc gia) do các cơ quan quản lý của tiểu bang cấp theo ủy quyền của EPA và Đạo luật về<br /> Nước sạch.<br /> EPA cũng có thể đưa ra các tiêu chuẩn cho các chất thải công nghiệp theo từng nhóm đối với<br /> việc thải chất thải vào hệ thống xử lý của thành phố và thường được gọi là các tiêu chuẩn trước<br /> khi xử lý. EPA không đưa vào điều luật năm 2004 các tiêu chuẩn trước khi xử lý cho Phân nhóm<br /> các nhà chế biến phụ phẩm giết mổ điểm nguồn.<br /> <br /> 235<br /> Các giới hạn về việc thải chất thải vào các hệ thống xử lý công cộng (Publicly Owned Treatment<br /> Works-POTW) hoặc hệ thống cống vệ sinh thành phố, đều dựa trên các điều luật của tiểu bang,<br /> các Sắc lệnh của thành phố địa phương và công suất của các hệ thống xử lý công cộng. Nhìn<br /> chung, các đặc điểm nước thải từ các cơ sở chế biến phụ phẩm giết mổ là tương thích với các<br /> quy trình xử lý POTW, nếu như POTW có đủ công suất xử lý.<br /> Thải chất thải vào POTW thường được cho phép thông qua sắc lệnh của chính quyền địa phương<br /> và sự thỏa thuận giữa cơ sở sản xuất công nghiệp với POTW. Ở một số vùng, cần phải có giấy<br /> phép hoặc phê chuẩn của tiểu bang đối với những thỏa thuận về việc xử lý chất thải.<br /> Việc thải nước mưa cần phải có giấy phép NPDES do các cơ quan quản lý của tiểu bang cấp theo<br /> ủy quyền của EPA.<br /> Các nguồn nước thải<br /> Các chất gây ô nhiễm có trong nước thải của nhà máy chế biến phụ phẩm giết mổ chính là sự<br /> mất mát sản phẩm của các nhà máy đó. Ví dụ: dầu mỡ dạng lỏng trong chất thải chính là loại mỡ<br /> có thể thu hoạch được để làm thành sản phẩm mỡ cuối cùng trong các qui trình chế biến phụ<br /> phẩm giết mổ. Protein thất thoát vào nước thải có thể ước tính bằng cách nhân hàm lượng TKN<br /> với 6,25. Lượng NH3 trong nước thải chính là chỉ thị của tổng lượng protein bị phân hủy. Lượng<br /> nitơ hữu cơ (nitơ tổng số trừ nitơ trong NH3) trong nước thải chính là chỉ thị của lượng protein<br /> thực tế bị mất xuống hệ thống nước thải. Các nhà máy đóng gói thường xuyên sử dụng các số<br /> liệu theo dõi dầu mỡ và TKN trong nước thải để xác định lượng sản phẩm thất thoát và đánh giá<br /> hiệu suất của nhà máy.<br /> Mức độ và đặc điểm tạo nước thải của các cơ sở chế biến phụ phẩm thường rất biến động và bị<br /> ảnh hưởng bởi các yếu tố như loại và tình trạng của nguyên liệu thô, loại quy trình chế biến và<br /> các phương pháp quản lý nhà máy. Các vấn đề rắc rối xảy ra với nước thải thường là do những<br /> nguồn thải có số lượng tương đối thấp nhưng nồng độ lại rất cao gây nên. Một nhà máy chế biến<br /> phụ phẩm gia súc chết điển hình chế biến 3-7 triệu pound nguyên liệu thô mỗi tuần có thể tạo ra<br /> khoảng 100.000 gallon nước thải/ngày với 5.000 pound CBOD và 900 pound TKN cho mỗi triệu<br /> pound nguyên liệu thô.<br /> Nước thải của một nhà máy chế biến phụ phẩm điển hình được tạo ra từ các nguồn dưới đây:<br /> • Các dịch lỏng trong nguyên liệu thô<br /> • Các chất ngưng tụ của công đoạn nấu nguyên liệu<br /> • Các quá trình chế biến mỡ thải nhà hàng<br /> • Các quá trình chế biến máu<br /> • Các quá trình rửa và vệ sinh nhà máy<br /> • Các hoạt động thuộc da<br /> • Các thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí<br /> • Nước làm lạnh gián tiếp<br /> • Nước mưa<br /> Mặc dù các dịch lỏng từ nguyên liệu thô chỉ là một phần nhỏ của tổng lượng nước thải nhưng<br /> những chất lỏng này có thể là một nguồn CBOD, nitơ hữu cơ và amoniac đáng kể. Ví dụ: mật độ<br /> CBOD của máu tổng số dao động từ 150.000 – 200.000 mg/l. Các chất lỏng chảy ra từ nguyên<br /> liệu thô tăng lên về số lượng và nồng độ khi chất lượng của nguyên liệu thô bị giảm xuống trong<br /> thời gian lưu trữ dài dưới điều kiện thời tiết nóng.<br /> Ở các cơ sở chế biến phụ phẩm giết mổ truyền thống, lượng hơi nước bốc lên khi nấu sẽ được<br /> làm lạnh và hơi nước ngưng tụ sẽ được thải cùng với nước thải. Hơi nước ngưng tụ từ quá trình<br /> <br /> 236<br /> nấu chứa các hợp chất hữu cơ có thể ngưng tụ, NH4+, mỡ dạng lỏng aerosol và một số chất rắn<br /> mang theo từ quá trình nấu. Một số quy trình chế biến phụ phẩm động vật gặp phải các vấn đề<br /> tạo bọt và hiện tượng tạo bọt có thể làm cho hàm lượng mỡ và chất rắn trong nước ngưng tụ tăng<br /> rất cao theo chu kỳ. Khối lượng nước ngưng tụ từ quá trình nấu nguyên liệu có thể được ước tính<br /> dễ dàng từ sản lượng của qui trình chế biến. Chất lượng nước ngưng tụ từ quá trình nấu phụ<br /> thuộc vào loại hình và chất lượng của nguyên liệu thô. Nước ngưng tụ từ quá trình nấu trong quy<br /> trình chế biến bột lông vũ và từ nguyên liệu thô bị phân hủy có thể có nồng độ amoniac rất cao.<br /> Hơi nước ngưng tụ của một qui trình nấu điển hình sẽ có 2000-5000 mg/l CBOD và 500-1000<br /> mg/l TKN.<br /> Một vài cơ sở chế biến phụ phẩm sử dụng phương pháp dùng nhiệt độ cao trong thời gian ngắn<br /> để xử lý các chất bốc hơi từ quá trình nấu nhằm mục đích phân hủy các hợp chất hữu cơ gây mùi<br /> và thải trực tiếp hơi nước đã qua xử lý vào không khí chứ không dùng phương pháp ngưng tụ hơi<br /> nước. Nước thải của các nhà máy này không chứa nước ngưng tụ từ quá trình nấu nguyên liệu.<br /> Nước tự do được lấy ra khỏi mỡ thải nhà hàng có nồng độ rất cao các chất gây ô nhiễm tạo ra bởi<br /> các a xít béo tự do và các sản phẩm phân hủy protein. Nước thải của các quá trình chế biến mỡ<br /> thải nhà hàng điển hình thường chứa 50.000-100.000 mg/l CBOD, 100-800 mg/l phốt pho và<br /> 1000-3000 mg/l TKN.<br /> Làm đông đặc bằng hơi nước và tách bằng ly tâm máu nguyên sẽ tạo ra phần nước huyết thanh<br /> có chứa hàm lượng CBOD và TKN rất cao. Nước huyết thanh điển hình có chứa 7000 mg/l<br /> CBOD, 150 mg/l phốt pho và 1800 mg/l TKN.<br /> Xử lý da sống bằng nước mặn tạo ra nước thải có nồng độ TDS, natri và clo rất cao. Hàm lượng<br /> clo điển hình trong nước thải của công đoạn xử lý da bằng nước mặn thường là 100.000-150.000<br /> mg/l.<br /> Máy lọc hơi nước đệm không khí tạo ra nước thải có nồng độ chất hữu cơ tương đối thấp nhưng<br /> hàm lượng TDS cao do việc bổ sung các chất hữu cơ như thuốc tẩy và sút ăn da.<br /> Xử lý sơ bộ trước (Xử lý lần thứ nhất)<br /> Xử lý sơ bộ nước thải trước khi thải vào hệ thống cống nước thải sinh hoạt của thành phố liên<br /> quan đến việc loại bỏ dầu mỡ và các chất huyền phù. Việc loại bỏ các chất huyền phù cũng đồng<br /> thời loại bỏ phần CBOD bám vào các chất huyền phù.<br /> Việc xử lý sơ bộ các chất thải truyền thống bao gồm các công đoạn dưới đây:<br /> • Sàng lọc<br /> • Phân tách trọng lực<br /> • Cân bằng dòng chảy (Hệ thống bể thông nhau)<br /> • Xử lý trước bằng hóa chất<br /> • Phá bọt không khí<br /> Các sàng của trống quay với kích thước mắt sàng khoảng 0,030 inch (1 inch = 2,54 cm) thường<br /> được sử dụng để loại bỏ các chất rắn có kích thước lớn.<br /> Phân tách trọng lực là việc sử dụng trọng lực để loại bỏ các tiểu phần và mỡ nổi tự do. Các chất<br /> rắn và mỡ lỏng được loại bỏ trong các thùng chứa hình tròn hoặc hình chữ nhật theo cơ chế nạo<br /> vét để quá trình loại bỏ chất rắn và mỡ dạng lỏng diễn ra liên tục.<br /> Cân bằng dòng chảy là biện pháp được sử dụng trong quá trình xử lý sơ bộ nước thải giúp cho<br /> tốc độ dòng chảy và các đặc tính của nước thải được ổn định hơn. Các thùng chứa trong hệ thống<br /> <br /> <br /> 237<br /> cân bằng dòng chảy cũng có vai trò là nơi thu giữ mỡ góp phần hạn chế hiện tượng đóng váng<br /> mỡ của nước thải.<br /> Xử lý trước bằng hóa chất là việc bổ sung các hóa chất để tăng cường quá trình lọc, loại bỏ dầu,<br /> mỡ và các hạt chất rắn nhỏ. Các chất rắn và mỡ lỏng tồn tại ở dạng huyền phù là do các đặc tính<br /> tích điện bề mặt (surface charge). Phần lớn các chất rắn trong huyền phù có đặc điểm tích điện<br /> bề mặt âm. Làm giảm pH bằng cách cho a xít vào sẽ làm giảm mức tích điện bề mặt âm. Bổ sung<br /> các chất gây lắng đọng bằng kim loại như sulfate nhôm làm giảm hơn nữa mức tích điện bề mặt<br /> âm của các tiểu phần và tạo các chất kết tủa kim loại để bẫy các chất rắn nhỏ bên trong các tủa<br /> lớn hơn gọi là các hạt tủa (floc). Các chất hữu cơ mạch dài với độ tích điện bề mặt cao sẽ hỗ trợ<br /> thêm quá trình lắng đọng các chất rắn và hình thành các hạt tủa.<br /> Các chất rắn đã bị làm biến đổi từ bước xử lý bằng hóa chất thường được loại bỏ bằng kỹ thuật<br /> tạo và hớt bọt không khí hòa tan (Desolved Air Flotation- DAF). Kỹ thuật DAF truyền thống<br /> hoạt động bằng cách đưa nước đã được làm bão hòa không khí ở áp suất cao cùng với nước thải<br /> đã được xử lý bằng hóa chất vào trong một thùng chứa hình tròn hoặc hình chữ nhật không đậy<br /> nắp. Khi áp suất giảm xuống, không khí sẽ thoát ra khỏi dung dịch, các tiểu phần sẽ bám vào các<br /> bong bóng nhỏ được tạo ra và nổi lên trên bề mặt thùng chứa và sau đó được hớt bỏ. Một phần<br /> của nước thải đã xử lý được đưa trở lại vào hệ thống tạo áp suất cho không khí hòa tan.<br /> Xử lý trước bằng hóa chất và DAF thường tạo ra nước thải có nồng độ dầu, mỡ dạng lỏng và<br /> TSS
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0