intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghệ hỗ trợ Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

55
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ kinh nghiệm của các quốc gia trong phát triển CNHT, tác giả trình bày các mô hình phát triển CNHT trên thế giới. Qua đó, các điều kiện, yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của các ngành CNHT của quốc gia ở cấp độ vùng sẽ được nhận diện, phân tích trên quan điểm lý thuyết về lợi thế cạnh tranh vùng và hệ sinh thái kinh doanh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghệ hỗ trợ Việt Nam

Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 1(49)/năm 2009<br /> <br /> Kĩ thuật – Công nghệ<br /> <br /> CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN<br /> CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM<br /> Lê Thế Giới (Đại học Đà Nẵng)<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Sau gần hai thập kỷ phát triển nhanh chóng nhờ vào chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài<br /> và hướng về xuất khẩu, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành công quan trọng. Tuy<br /> vậy, khi bước sang một giai đoạn mới, Việt Nam cần xây dựng một nền công nghiệp có khả năng<br /> cạnh tranh mạnh và tham gia vào phân công lao động quốc tế, cần thu hút thêm đầu tư nước<br /> ngoài vào lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp có giá trị cao. Muốn làm<br /> được điều này, một trong các điều kiện tiên quyết là phải có một nền công nghiệp hỗ trợ (CNHT)<br /> phát triển, đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư và các doanh nghiệp trong nước.<br /> Từ kinh nghiệm của các quốc gia trong phát triển CNHT, tác giả trình bày các mô hình<br /> phát triển CNHT trên thế giới. Qua đó, các điều kiện, yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình<br /> thành và phát triển của các ngành CNHT của quốc gia ở cấp độ vùng sẽ được nhận diện, phân<br /> tích trên quan điểm lý thuyết về lợi thế cạnh tranh vùng và hệ sinh thái kinh doanh.<br /> 2. Các mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ thế giới<br /> Ngành công nghiệp bổ trợ bao gồm các hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ<br /> công nghiệp, cung ứng các yếu tố đầu vào trung gian (linh kiện, phụ tùng, công cụ, nguyên vật<br /> liệu đã qua chế biến, dịch vụ sản xuất) cho các ngành công nghiệp lắp ráp, chế tạo và chế biến.<br /> 2.1. Mô hình công nghiệp hỗ trợ theo hướng tự phát<br /> Ở một số quốc gia đã công nghiệp hóa sớm như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, các doanh nghiệp<br /> tham gia vào quá trình cung cấp diễn ra một cách tự phát và hình thành nên hệ thống các ngành<br /> công nghiệp hỗ trợ. Việc hình thành các mạng lưới cung ứng và các doanh nghiệp hỗ trợ xuất<br /> phát trực tiếp từ nhu cầu và điều kiện của nền kinh tế, được “dẫn dắt” bởi “bàn tay vô hình” của<br /> thị trường, ít có sự tham gia và điều tiết của chính phủ.<br /> Quá trình hình thành các ngành CNHT ở các quốc gia này diễn ra tuần tự, theo sự phát<br /> triển của các ngành công nghiệp then chốt. Giai đoạn đầu tiên, với đặc điểm của nền công nghiệp<br /> thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các doanh nghiệp chủ yếu phát triển theo mô hình tập đoàn lớn,<br /> đảm nhận hầu hết các hoạt động trong một chu trình sản xuất sản phẩm. Chiến lược mà các tập<br /> đoàn này áp dụng là tăng cường lợi thế về quy mô và năng lực sản xuất tập trung, sử dụng mô<br /> hình “in-house” nhằm tạo ra các sản phẩm có giá thành rẻ và chất lượng cạnh tranh. Điển hình là<br /> các công ty ôtô như Ford, GM hay các công ty sản xuất máy tính và thiết bị điện tử như IBM và<br /> AT&T. Với đặc điểm sản xuất như vậy, việc hình thành các doanh nghiệp hỗ trợ khá lâu dài và<br /> không tạo thành một khu vực sản xuất độc lập trong nền kinh tế.<br /> Chuyển sang nửa cuối của thế kỷ 20, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành<br /> công nghiệp, các áp lực về chuyên môn hóa và chi phí làm cho các doanh nghiệp lớn phải xem<br /> xét lại các chiến lược kinh doanh. Với sự phát triển của các quốc gia mới nổi và các nền kinh tế<br /> khác, đặc biệt là ở châu Á và châu Mỹ La tinh, các doanh nghiệp lớn chuyển dần sang mô hình<br /> sản xuất mô-đun, xu hướng giảm quy mô (downsizing) và chuyển sang thuê ngoài (out-sourcing)<br /> nhằm tiết kiệm chi phí, gia tăng tính linh hoạt của tổ chức và tăng cường sức mạnh cạnh tranh.<br /> Kết quả tất yếu của xu hướng này là việc hình thành thị trường tổ chức (B2B-business to<br /> business) đóng vai các nhà thầu phụ và nhà cung cấp hoạt động theo sự điều tiết của các quy<br /> <br /> 1<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 1(49)/năm 2009<br /> <br /> Kĩ thuật – Công nghệ<br /> <br /> luật thị trường. Mặt khác, các chính phủ theo trường phái tự do hạn chế tới mức tối đa sự can<br /> thiệp vào thị trường. Vì vậy, sự hình thành và phát triển của CNHT chỉ tập trung vào một số<br /> ngành (điện tử, cơ khí) hoặc một số doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME).<br /> Mô hình phát triển tự phát này chỉ tồn tại trong một số điều kiện nhất định ở thời kì đầu<br /> của công nghiệp hóa. Khởi đầu, với đặc điểm là các nước tiến hành công nghiệp hóa đầu tiên<br /> trên thế giới, họ không có nhiều các mô hình đi trước để học hỏi và tham khảo. Việc quản lý<br /> công nghiệp chủ yếu được xem xét trên lợi thế so sánh quốc gia, thực hiện các chiến lược về tập<br /> trung hóa theo ngành để đạt được lợi thế cạnh tranh. Thêm vào đó, với đặc điểm về công nghệ,<br /> năng lực sản xuất và quản lý thời kì đó cũng không cho phép sự liên kết sâu rộng trong quá trình<br /> sản xuất. Đồng thời, các chính phủ, với niềm tin vào sự điều tiết của thị trường, đã để cho các<br /> doanh nghiệp hỗ trợ phát triển tự phát, không có những can thiệp sâu vào quá trình này. Chính<br /> điều này tạo ra một nền CNHT vận hành tương đối nhịp nhàng theo nhu cầu thị trường.<br /> Ngày nay, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ một cách tự phát không đem lại hiệu quả<br /> mong muốn. Các quốc gia đến sau phải tiến hành công nghiệp hóa trong thời gian ngắn, không<br /> có điều kiện để chờ “thị trường tự điều chỉnh” như trong quá khứ. Với áp lực cạnh tranh toàn<br /> cầu, nếu không có những tác động tích cực từ phía chính phủ, các quốc gia có thể đánh mất khả<br /> năng tham gia vào chuỗi phân công lao động quốc tế.<br /> 2.2. Mô hình công nghiệp hỗ trợ dựa trên chiến lược kéo<br /> Phát triển công nghiệp hỗ trợ theo mô hình này được khởi xướng đầu tiên ở các nước<br /> phát triển thuộc thế hệ thứ 2 như Nhật Bản. Với nhận thức các yêu cầu và thách thức trong cạnh<br /> tranh toàn cầu, Nhật Bản đã cố gắng xây dựng một nền công nghiệp mạnh dựa trên cấu trúc tích<br /> hợp. Bằng việc sử dụng các chính sách thúc đẩy thị trường các doanh nghiệp nhỏ tham gia vào<br /> quá trình sản xuất linh phụ kiện và trở thành các đối tác lâu dài của các doanh nghiệp lớn, Nhật<br /> Bản đã tạo nên một nền công nghiệp hỗ trợ mạnh mẽ, bộ đệm của nền sản xuất công nghiệp chất<br /> lượng cao trong quá trình cạnh tranh toàn cầu.<br /> Sau chiến tranh thế giới thứ II, hệ thống công nghiệp trong nước bị tàn phá nặng nề,<br /> chính phủ Nhật Bản đã sử dụng hàng loạt các chính sách điều tiết từ vĩ mô đến các chương trình<br /> kích thích nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp thầu phụ và<br /> khuyến khích việc hình thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cung cấp linh kiện cho các<br /> nhà sản xuất chính trong nước. Dưới góc nhìn tổng quát, đây là việc sử dụng các khuyến khích<br /> để các doanh nghiệp lớn tìm kiếm các nhà cung cấp trong nước, tạo ra một thị trường lành mạnh<br /> và có lợi cho các nhà cung cấp, thu hút các doanh nghiệp tham gia vào CNHT.<br /> Đầu tiên, Nhật Bản sử dụng chiến lược hỗ trợ và giảm giá đồng Yên. Trong một thời gian<br /> dài từ những năm 60 - 80 của thế kỷ XX, chiến lược này đã phát huy tác dụng rất tốt cho tổng thể<br /> nền kinh kế, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ. Với việc đồng Yên được định giá thấp hơn, các linh<br /> phụ kiện khi mua của các doanh nghiệp trong nước sẽ có chi phí thấp hơn so với mua ở nước<br /> ngoài. Các công ty đa quốc gia (MNC) với thị trường chính là xuất khẩu sẽ có lợi lớn khi thực<br /> hiện các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp trong nước, mua linh kiện với giá rẻ và bán ra<br /> nước ngoài với giá cao. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp lớn tìm kiếm các đối tác trong<br /> nước, tạo ra một thị trường cung cấp linh phụ kiện hấp dẫn. Chính phủ Nhật Bản đã ban hành<br /> nhiều chính sách để bảo vệ và thúc đẩy các SME tham gia vào khu vực thị trường này. Điển hình<br /> là Luật về hợp tác với các SME năm 1949 hay Luật xúc tiến doanh nghiệp thầu phụ vừa và nhỏ<br /> năm 1970. Ngoài ra, hàng loạt các cơ quan và các chương trình của chính phủ được lập ra để<br /> <br /> 2<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 1(49)/năm 2009<br /> <br /> Kĩ thuật – Công nghệ<br /> <br /> thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và các nhà cung cấp nhỏ như hỗ trợ về thông tin,<br /> hỗ trợ về nhân lực hay phương pháp quản lý,... Các chính sách trên đã thực sự phát huy tác dụng<br /> và tạo ra một hệ thống liên kết các doanh nghiệp công nghiệp Nhật Bản cho đến những năm<br /> 1980, khi đồng Yên bắt đầu được thả nổi và tăng giá trên thị trường. Hiện nay, để đối phó với chi<br /> phí sản xuất cao trong nước, các doanh nghiệp đang tìm kiếm các đối tác nước ngoài để chuyển<br /> các hoạt động sản xuất ra nước ngoài, trong đó có sản xuất linh phụ kiện.<br /> Chiến lược kéo được thực hiện thành công tại Nhật Bản do nhiều nguyên nhân, từ điều<br /> kiện thực tế của đất nước đến sự phối hợp và điều hành rất tốt các chiến lược phát triển công<br /> nghiệp. Các chính sách phát triển công nghiệp nội địa phục vụ xuất khẩu cũng không gây ra các<br /> trở ngại đáng kể trong quan hệ kinh tế quốc tế (mặc dù cũng gây ra khá nhiều xung đột thương<br /> mại với Mỹ). Ngoài ra, phải kể đến sự phối hợp và điều hành rất hiệu quả của chính phủ và các<br /> cơ quan chức năng trong việc xây dựng và thực thi các chiến lược công nghiệp quốc gia. Kinh<br /> nghiệm về việc sử dụng chiến lược kéo này đã được một số nước học tập như Đài Loan, Thái Lan.<br /> 2.3. Mô hình công nghiệp hỗ trợ dựa trên chiến lược đẩy<br /> Điển hình của việc thực hiện chiến lược đẩy là Hàn Quốc. Quốc gia này, với nhận thức<br /> các điều kiện kinh tế xã hội đặc trưng trong điều kiện cạnh tranh quốc tế gay gắt (với đối thủ là<br /> Nhật Bản) đã thực hiện một số các chính sách quyết liệt để thúc đẩy công nghiệp trong nước, đặc<br /> biệt là CNHT. Ngược với cách thức của Nhật Bản, xây dựng các điều kiện cho sự phát triển tự<br /> nhiên của thị trường cung cấp linh phụ kiện và sau đó sử dụng lực hút của thị trường để kéo các<br /> doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các hoạt động CNHT, chính phủ Hàn Quốc sử dụng các<br /> biện pháp thiên về chính sách bắt buộc, thúc đẩy các doanh nghiệp lớn trong nước phải thực hiện<br /> các liên kết với các doanh nghiệp nhỏ, các nhà cung cấp trong nước.<br /> Điểm rõ nét nhất của chiến lược này là các quy định về nội địa hóa. Với việc quy định<br /> chặt chẽ các điều khoản về nội địa hóa, các tập đoàn kinh tế lớn và các công ty nước ngoài phải<br /> thực hiện việc chuyển giao công nghệ sản xuất linh phụ kiện cho các công ty liên doanh trong<br /> nước và các SME. Hàn Quốc đã triển khai hai chương trình 5 năm về nội địa hóa từ năm 1987 1996. Theo chương trình này, có khoảng 7000 linh phụ kiện được chỉ định phải nội địa hóa.<br /> Chiến lược đẩy của Hàn Quốc và Đài Loan áp dụng cũng phát huy tác dụng nhưng không<br /> hoàn toàn. Hàn Quốc đã thành công với chiến lược này với ngành công nghiệp ôtô, tuy nhiên lại<br /> không thành công trong công nghiệp điện và điện tử. Ngày nay, các điều kiện để có thể thực hiện<br /> được chiến lược đẩy cũng đã trở nên khó khăn hơn do các điều khoản về mở cửa thị trường, mậu<br /> dịch tự do của các hiệp định thương mại quốc tế. Các nước vẫn có thể sử dụng các chính sách<br /> này thông qua các giải pháp phi thuế, hỗ trợ vốn vay hoặc kĩ thuật.<br /> 2.4. Mô hình công nghiệp hỗ trợ tổng hợp<br /> Cả hai chiến lược, chiến lược kéo với việc sử dụng các chính sách “mềm” và chiến lược<br /> đẩy, sử dụng các chính sách “cứng”, có các ưu và nhược điểm và chỉ thành công trong một số<br /> điều kiện nhất định của nền kinh tế cũng như bối cảnh thế giới. Các quốc gia không sử dụng<br /> thuần túy một chiến lược kéo hay đẩy mà phối hợp các chính sách này để có được hiệu quả cao<br /> nhất, hạn chế được những tiêu cực trong quá trình phát triển công nghiệp, điển hình là Đài Loan,<br /> Malaysia và Thái Lan.<br /> Các quốc gia đến sau, nhận thức được vị thế và điều kiện cạnh tranh của mình cùng với<br /> kinh nghiệm của các nước khác đã xây dựng cho mình những chiến lược phát triển công nghiệp<br /> <br /> 3<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 1(49)/năm 2009<br /> <br /> Kĩ thuật – Công nghệ<br /> <br /> hỗ trợ linh hoạt và mềm dẻo hơn. Chiến lược này tập trung vào: (1) tạo dựng các điều kiện thị<br /> trường như kêu gọi đầu tư nước ngoài vào khu vực lắp ráp, tạo ra các lợi thế về chi phí để thu<br /> hút và thúc đẩy các MNC tìm kiếm các đối tác trong nước, (2) xây dựng các điều kiện để phát<br /> triển các SME và (3) thiết lập các hỗ trợ về thông tin, nguồn nhân lực, pháp lý cho việc hình<br /> thành và phát triển các liên kết kinh doanh và thị trường linh phụ kiện.<br /> 3. Các điều kiện cần thiết để phát triển CNHT<br /> Trên cơ sở những phân tích về con đường phát triển CNHT thế giới và các kinh nghiệm<br /> trong việc xây dựng một nền CNHT vững mạnh, chúng ta có thể rút ra một số các điều kiện tiên<br /> quyết cho sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. Những điều kiện này bao gồm các<br /> điều kiện hạ tầng nền công nghiệp (khả năng cung ứng của thị trường đầu vào), các điều kiện về<br /> nhu cầu thị trường, môi trường và các thể chế hỗ trợ cho sự phát triển của các ngành này.<br /> 3.1. Điều kiện hạ tầng nền công nghiệp<br /> a. Cơ cấu công nghiệp<br /> Điều kiện đầu tiên về hạ tầng công nghiệp cho sự phát triển của CNHT Việt Nam là việc<br /> hình thành một cơ cấu công nghiệp theo hướng hiện đại với sự xuất hiện của các ngành công<br /> nghiệp chính. Hiện nay, công nghiệp nước ta đang mất cân đối về cơ cấu giữa công nghiệp cơ<br /> khí, lắp ráp và chế biến đã gây ra những khó khăn khi phát triển CNHT bởi vì khá nhiều các hoạt<br /> động CNHT được hình thành trên cơ sở phát triển chung của các ngành công nghiệp này. Sự yếu<br /> kém của ngành công nghiệp luyện kim - điều kiện cần cho công nghiệp cơ khí - đã gây ra những<br /> trở ngại đáng kể cho công nghiệp cơ khí, do đó dẫn đến những hạn chế về khả năng phát triển<br /> của các ngành sản xuất phụ kiện máy móc cho công nghiệp lắp ráp ôtô, xe máy. Thêm vào đó,<br /> nước ta đang cân đối giữa khu vực thượng nguồn (sản xuất và cung ứng các nguyên vật liệu chủ<br /> chốt như sắt, thép, nhựa, hóa chất, cao su,...) và hạ nguồn (công nghiệp chế biến, chế tạo và lắp ráp<br /> như xe máy, ôtô, điện, điện tử,..) làm hạn chế khả năng phát triển các ngành CNHT.<br /> b. Các hoạt động công nghiệp cơ bản<br /> Điều kiện thứ hai đối với hạ tầng công nghiệp là sự phát triển của một số hoạt động công<br /> nghiệp cơ bản. Những hoạt động công nghiệp cơ bản như luyện kim, cao su, hóa chất, nhựa, mạ,<br /> đúc,... có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành và phát triển CNHT, nhưng đối với Việt Nam, các<br /> ngành này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển CNHT do sự hạn chế về nguồn lực, công<br /> nghệ và nhân lực.<br /> c. Năng lực sản xuất và tham gia phân công lao động quốc tế<br /> Các quốc gia với nền công nghiệp có năng lực sản xuất dồi dào (vốn, công nghệ, nhân lực<br /> và trình độ quản lý), tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế sẽ có điều kiện thuận lợi<br /> để phát triển các ngành CNHT. Ngược lại, nếu một quốc gia không tự tăng cường năng lực sản<br /> xuất, tạo dựng lợi thế về chi phí hoặc công nghệ để có thể thu hút các MNC thì sẽ rất khó khăn<br /> trong việc xây dựng CNHT. Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế, dưới áp lực về tối thiểu hóa chi<br /> phí và tăng cường năng lực cạnh tranh, các MNC sẽ tìm kiếm các quốc gia có được các lợi thế và<br /> các điều kiện sẵn sàng tốt nhất để đầu tư. Đặc biệt, năng lực sản xuất của các SME là một trong<br /> những điều kiện then chốt cho sự phát triển của CNHT. Sự phát triển công nghiệp của Đài Loan,<br /> Malaysia và Trung Quốc là bằng chứng thuyết phục cho điều này.<br /> 3.2. Điều kiện thị trường<br /> <br /> 4<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 1(49)/năm 2009<br /> <br /> Kĩ thuật – Công nghệ<br /> <br /> Song song với các điều kiện về hạ tầng công nghiệp, sự hình thành một thị trường “các<br /> hoạt động hỗ trợ” là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của CNHT. Các điều kiện về thị<br /> trường bao gồm: nhu cầu thị trường hàng hóa trung gian, khả năng liên kết của các doanh nghiệp<br /> trong nền kinh tế và các lợi thế thị trường cho lựa chọn chiến lược của các doanh nghiệp.<br /> a. Nhu cầu thị trường linh phụ kiện<br /> Một trong những điều kiện cơ bản để hình thành CNHT là sự xuất hiện nhu cầu về các<br /> sản phẩm và hàng hóa trung gian - thị trường các hoạt động hỗ trợ. Nhu cầu này được hình thành<br /> khi có các doanh nghiệp lớn hoạt động trong khu vực hạ nguồn như các doanh nghiệp sản xuất,<br /> chế tạo và lắp ráp. Các doanh nghiệp nước ngoài hợp lý hóa hoạt động kinh doanh bằng cách<br /> chọn các khu vực sản xuất có lợi thế về chi phí hoặc công nghệ thường có nhu cầu sử dụng các<br /> nguồn lực sẵn có và tại chỗ. Đây sẽ là thị trường lớn cho các doanh nghiệp hỗ trợ địa phương.<br /> Tuy nhiên, thị trường các hàng hóa trung gian này phải đảm bảo các yêu cầu về quy mô,<br /> điều kiện công nghệ và tập quán kinh doanh. Quy mô thị trường phải đủ lớn và ổn định để lôi<br /> kéo các doanh nghiệp tham gia vào khu vực cung ứng; không có sự chênh lệch quá lớn về công<br /> nghệ giữa các doanh nghiệp chế tạo, lắp ráp và khả năng cung ứng của các SME địa phương.<br /> Ngoài ra, quy mô thị trường linh phụ kiện phụ thuộc nhiều vào quy mô hoạt động của các<br /> doanh nghiệp hạ nguồn. Nếu các MNC thực hiện chiến lược thâm nhập thị trường nội địa với<br /> quy mô nhỏ, thì khả năng phát triển CNHT sẽ có giới hạn. Các doanh nghiệp này sẽ không quá<br /> mặn mà với việc tập trung chuyển giao công nghệ, phát triển mạng lưới thầu phụ và các nhà<br /> cung cấp linh kiện, mà chỉ tập trung vào khai thác và tận dụng các điều kiện sẵn có. Đây chính là<br /> bài học của công nghiệp ôtô Việt Nam.<br /> b. Khả năng liên kết<br /> Điều kiện thứ hai về mặt thị trường là khả năng hình thành các liên kết lâu dài giữa các<br /> MNC và các SME. Những đặc điểm của các thị trường mới nổi như là sự chênh lệch khá lớn về<br /> công nghệ và khả năng quản lý, sự hạn chế về thông tin, pháp luật và các rào cản đến từ văn hóa<br /> và tập quán kinh doanh khác biệt sẽ là những trở ngại cho việc thiết lập các quan hệ liên kết lâu<br /> dài. Nếu các liên kết không được đảm bảo lâu dài giữa các MNC và các SME, thì khả năng lôi<br /> kéo SME vào hoạt động hỗ trợ sẽ rất khó khăn. Mặt khác, điều này cũng sẽ hạn chế việc chọn<br /> lựa đối tác của các MNC.<br /> c. Điều kiện về lợi thế so sánh<br /> Đây là điều kiện có vai trò tạo dựng các động cơ để các nhà chế tạo và lắp ráp thực hiện<br /> các chiến lược nội địa hóa và thuê mua ngoài. Động cơ cơ bản nhất để các MNC chọn lựa các<br /> chiến lược này sẽ là các lợi thế so sánh về chi phí, công nghệ và quy trình mà chiến lược sử dụng<br /> nội địa hóa và thuê mua bên ngoài có thể mang lại. Nếu trong điều kiện chi phí cho việc thuê<br /> mua từ các doanh nghiệp tại chỗ có lợi thế hơn việc tự sản xuất hay thuê mua từ nước ngoài thì<br /> đây sẽ là động lực để các nhà sản xuất tiến hành các hoạt động chuyển giao công nghệ, ký kết<br /> hợp tác kinh doanh, tìm kiếm đối tác. Ngoài ra, nếu việc sử dụng các doanh nghiệp tại chỗ sẽ có<br /> lợi từ việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy trình và công nghệ sản xuất thì đây<br /> cũng là động cơ để các doanh nghiệp chế biến, lắp ráp tham gia vào thị trường sản phẩm hỗ trợ,<br /> đặc biệt, các doanh nghiệp trong các ngành da, dệt may, hóa chất, đóng tàu thường rất quan tâm<br /> đến các lợi thế về công nghệ và quy trình.<br /> 3.3. Điều kiện về thể chế và môi trường<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2