intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cách điều trị suy thận mạn – Phần 1

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

119
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Suy thận mạn là tình trạng diễn tiến suy chức năng thận rất chậm. Nguyên nhân gây bệnh thường là do tiểu đường, cao huyết áp hoặc viêm cầu thận cấp. Cần kiểm soát huyết áp, đường huyết và chế độ ăn hạn chế đạm để khống chế bệnh. Các triệu chứng lâm sàng: ban đầu người bệnh có dấu hiệu mệt mỏi, giảm năng lực, mất ngủ, sau đó là chán ăn, buồn nôn, nôn ói... Để lâu sẽ dẫn đến các triệu chứng tim mạch như viêm màng ngoài tim, suy tim, sung huyết và cao huyết...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cách điều trị suy thận mạn – Phần 1

  1. Cách điều trị suy thận mạn – Phần 1 Suy thận mạn là tình trạng diễn tiến suy chức năng thận rất chậm. Nguyên nhân gây bệnh thường là do tiểu đường, cao huyết áp hoặc viêm cầu thận cấp. Cần kiểm soát huyết áp, đường huyết và chế độ ăn hạn chế đạm để khống chế bệnh. Các triệu chứng lâm sàng: ban đầu người bệnh có dấu hiệu mệt mỏi, giảm năng lực, mất ngủ, sau đó là chán ăn, buồn nôn, nôn ói... Để lâu sẽ dẫn đến các triệu chứng tim mạch như viêm màng ngoài tim, suy tim, sung huyết và cao huyết áp. Đồng thời, người bệnh sẽ bị thiếu máu và dễ đông máu, thần kinh mỏi mệt, mất tập trung, mất ngủ, lú lẫn bị hôn mê. Bệnh còn dẫn đến những thay đổi về nội tiết như giảm testosterone, ít tinh trùng, vô sinh, rối loạn cương và đồng thời gây loãng xương, gãy xương bệnh lý.
  2. Nguyên nhân gây suy thận mạn: gồm các bệnh gây tổn thương thận như: cao huyết áp, suy tim, hội chứng tắc nghẽn sau thận kéo dài, dị dạng hệ niệu, các bệnh lý tại thận như viêm vi cầu thận mãn, bệnh lý mạch máu thận và đái tháo đường. Cách điều trị suy thận mạn: Nội khoa: - Cần cải thiện các triệu chứng của suy thận mạn như buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, thiếu máu..., kiểm soát huyết áp, đường huyết, và chế độ ăn hạn chế đạm. - Cần loại bỏ chất độc thận bằng cách: Lọc máu ngoài thận: Tất cả bệnh nhân được kết luận là suy thận mạn giai đoạn cuối, với hội chứng Urê huyết cao và độ thanh thải Creatinin
  3. + Tăng potassium máu, điều trị nội khoa không cải thiện. + Toan chuyển hóa. + Quá tải về thể tích, không đáp ứng với điều trị lợi tiểu. Hiện nay có 2 phương pháp điều trị lọc máu ngoài thận là thận nhân tạo và thẩm phân phúc mạc. Việc chọn lựa phương pháp thích hợp cần tùy thuộc người bệnh, điều kiện địa lý xa hoặc gần trung tâm thận nhân tạo... Ghép thận: đây là phương thức điều trị tốt nhất cho bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Bác sĩ Phạm Hữu Đương, Khoa Học Phổ Thông Suy thận và các phương pháp lọc máu Ngày nay, để điều trị suy thận mãn, người ta thường áp dụng lọc máu định kỳ với 2 phương pháp: Chạy thận nhân tạo và thẩm phân phúc mạc. Trong trường hợp suy thận cấp do nhiễm trùng thì người ta cũng áp dụng một trong hai cách này.
  4. Chạy thận nhân tạo đơn giản nhưng đòi hỏi bệnh nhân phải vào bệnh viện, thẩm phân phúc mạc ít tốn kém và việc thực hiện nhanh hơn. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu trên 2 nhóm bệnh nhân bị suy thận cấp do nhiễm trùng, một nhóm được chạy thận nhân tạo và nhóm kia được thẩm phân phúc mạc. Kết quả nhóm bệnh nhân thẩm phân phúc mạc tử vong nhiều hơn (tỷ lệ tử vong là 47%), trong khi nhóm chạy thận nhân tạo có tỷ lệ tử vong chỉ là 5%. Ngoài ra, nhóm chạy thận nhân tạo ít tốn kém về tiền bạc, đỡ mất thời gian và creatinin máu cũng giảm được nhiều hơn. Từ nghiên cứu này, các tác giả ở bệnh viện Churchill và Raddiffe (Anh) đã đưa ra khuyến cáo những trường hợp suy thận do nhiễm trùng nên chạy thận nhân tạo thay cho thẩm phân phúc mạc. (Theo Journal of Infection, SK&ĐS) Suy thận mạn: Cơ hội ghép thận đang rộng mở Để điều trị những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối, y học hiện có 2 phương pháp lọc máu ngoài thận và ghép thận. Cả 2 phương pháp này đã có mặt ở nước ta, nhưng ghép thận được cho là có lợi hơn vì mang lại chất lượng sống, khả năng lao động và tái hòa nhập cuộc sống cao hơn.
  5. Sắp tới, khi Quốc hội và Nhà nước thông qua luật cho tạng và chết não, ngành ghép thận chắc chắn sẽ phát triển, mang lại cơ may cứu sống cho nhiều người, đặc biệt là bệnh nhân nghèo Năm 2001, trong một lần đưa vợ đi khám bệnh, anh C.Q.K, sinh năm 1971, ngụ tại phường 10, quận Gò Vấp - TPHCM xin bác sĩ cho siêu âm và tình cờ phát hiện mình bị u nang nước ở thận. Cho rằng không hề gì, anh không đi điều trị. Năm 2003, anh bắt đầu thấy mệt mỏi, người sưng phù, tăng cân cả chục ký. Đi khám bệnh, bác sĩ cho biết anh đã bị suy thận mạn (STM) giai đoạn cuối và phải chạy thận nhân tạo (lọc máu). Sau hơn 2 năm chạy thận, tốn kém cả trăm triệu đồng, anh quyết định đăng ký xin ghép thận tại Bệnh viện (BV) Chợ Rẫy. Tháng 4-2005, anh K. được mổ ghép thận từ người cho thận là em ruột. Ca mổ thành công, đây cũng là ca ghép thận thứ 100 tại BV này trong số 154 ca ghép thận trong cả nước tính đến nay. 2 nguy cơ gây STM: Tiểu đường và cao huyết áp TS-BS Trần Ngọc Sinh, Trưởng Khoa Tiết niệu BV Chợ Rẫy, cho biết nguyên nhân chính gây STM ở các nước phương Tây là tiểu đường, cao huyết áp, viêm cầu thận, sỏi thận, thận đa nang. Với lối sống và ăn uống giống phương Tây đang phổ biến ở nhiều người – ít vận động, ăn uống thừa năng lượng – chắc chắn số người STM ở nước ta trong những năm tới sẽ
  6. tăng cao. Khi đến giai đoạn suy và mất bù, thận không còn làm việc bình thường được, khiến cơ thể mất cân bằng nước, điện giải; ứ đọng độc chất trong người; xáo trộn chuyển hóa và hệ thống tạo máu. Lúc này bệnh nhân sẽ bị phù và tăng cân, cao huyết áp, tiểu ít, tiểu đạm, thiếu máu, lở loét miệng, xuất huyết tiêu hóa, suy tim, nhức đầu, mỏi mệt, chóng mặt, hôn mê... Nếu không được điều trị kịp, bệnh nhân sẽ tử vong. Đề phòng STM: Kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi năm TS-BS Vũ Huy Trụ, giảng viên Bộ môn Nhi Đại học Y Dược TPHCM, cho biết cách tốt nhất đề phòng STM là không để mắc những “bệnh thời đại” như tiểu đường, cao huyết áp, hội chứng chuyển hóa. Nếu lỡ mắc bệnh thì đừng để bệnh tiến triển bằng cách tuân thủ tốt chế độ ăn uống và điều trị, kiểm soát cân nặng. Tuy nhiên, STM thường diễn tiến âm thầm trong nhiều năm mới đến giai đoạn cuối, do vậy, hằng năm mọi người nên đi kiểm tra sức khỏe ít nhất một lần để xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm máu (chức năng thận, định lượng thành phần mỡ, đường) và siêu âm để tìm sỏi, dị tật bất thường ở tiết niệu. Tuy nhiên, TS Trụ lưu ý là phụ nữ mang thai nên đi siêu âm để phát hiện bất thường ở thai. Nếu phát hiện thai có bệnh tiết niệu bẩm sinh (thận đa nang, dị dạng, teo), khi sinh ra trẻ được chữa trị sớm thì cơ may thành công rất cao. Ngoài ra, các bậc cha mẹ cũng nên quan tâm đến
  7. những dấu hiệu bất thường về tiết niệu ở con mình (tiểu ra máu, đục, gắt buốt...), phù. Đây có thể là dấu hiệu của một bệnh thận cấp tính và nếu không chữa trị kịp thời, bệnh sẽ tiến triển thành mạn tính. Điều trị suy thận bằng phương pháp lọc máu tại nhà Thay vì khăn gói lỉnh kỉnh đến bệnh viện để chạy thận nhân tạo, bệnh nhân suy thận mạn có thêm một sự lựa chọn, đó là điều trị ngay tại nhà bằng phương pháp lọc màng bụng. Thuận lợi cho người bệnh Chị Nguyễn Thị Hoa Mơ (30 tuổi), Gia Lâm, Hà Nội bị suy thận mạn độ 3, buộc phải tiến hành lọc máu để điều trị. Thế nhưng, chị còn vướng con nhỏ ở nhà rồi công việc nên không tiện vào bệnh viện để chạy thận nhân tạo. Vì thế, chị quyết định lựa chọn phương pháp “lọc màng bụng” - cũng có giá trị lọc máu như chạy thận nhân tạo nhưng thay vì phải đến viện 4 lần mỗi tuần, chị có thể lọc máu hàng ngày ngay tại nhà và vẫn có thể chăm lo cho gia đình, con cái. TS. Đinh Thị Kim Dung, trưởng khoa Thận - Tiết niệu (Bệnh viện Bạch Mai), cho biết: "Tại Việt Nam, tuy chưa có số liệu thống kê chính thức
  8. nhưng con số người mắc bệnh suy thận mạn tính ngày càng tăng. Tại khoa, số bệnh nhân mạn tính nằm điều trị luôn chiếm tỷ lệ cao nhất trong số bệnh nhân điều trị nội trú, khoảng 40%". Theo TS Dung, khi suy thận tiến triển đến giai đoạn cuối thì bệnh nhân cần được điều trị thay thế bằng ghép thận hoặc lọc máu. Lọc máu là phương pháp được lựa chọn nhiều vì ghép thận không phải lúc nào cũng thuận lợi như tìm được người cho thận… Với phương pháp lọc máu, bệnh nhân có thể lựa chọn chạy thận nhân tạo, lọc màng bụng liên tục ngoại trú. Tuy nhiên, chạy thận nhân tạo chỉ thực hiện được tại các cơ sở y tế có điều kiện còn lọc màng bụng có thể thực hiện ngay tại nhà người bệnh. Do vậy giảm đáng kể tình trạng quá tải ở bệnh viện, cũng như chi phí nằm viện, sinh hoạt, chăm nom. “Đây cũng là điểm thuận lợi của lọc màng bụng mà nhiều bệnh nhân các tỉnh xa cơ sở chạy thận nhân tạo chọn lựa. Thay vì phải thuê nhà trọ rồi cách ngày đi chạy thận nhân tạo một lần, bệnh nhân sau khi được hướng dẫn lọc màng bụng có thể về nhà, tự thao tác lấy mỗi ngày. Phương pháp này không ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt, làm việc của người bệnh”, TS Dung nhấn mạnh.
  9. Vì trong cách lọc máu này, màng bụng như một máy chạy thận nhân tạo nhưng thay vì dùng màng lọc nhân tạo thì màng bụng (lớp mỏng lót mặt trong ổ bụng) được sử dụng để lọc các chất độc và điều chỉnh nước - điện giải và thăng bằng kiềm - toan cho cơ thể. Với phương pháp này máu sẽ được lọc liên tục trong ngày, không cần đến bệnh viện và việc ăn uống cũng tự do hơn so với chạy thận nhân tạo. Lọc máu bằng phương pháp này, người bệnh mỗi tháng chỉ phải đến bệnh viện một lần để kiểm tra và lấy dịch. Hơn nữa, ngoài thời gian lọc, người bệnh vẫn có thể lao động, sinh hoạt như bình thường nên không ảnh hưởng nhiều tới chất lượng sống cũng như công việc. Đơn giản, dễ thực hiện Sau khi đến bệnh viện để đặt ống catheter tại vùng bụng - là đường dẫn đưa dịch lọc vào ổ bụng. Bệnh nhân sẽ được hướng dẫn thao tác tại bệnh viện, khi thành thục sẽ được xuất viện, điều trị ngoại trú. Mỗi ngày, bệnh nhân thực hiện khoảng 4 lần lọc màng bụng, đưa khoảng 2 lít dịch vào ổ bụng mỗi lần. Mỗi lần thực hiện chỉ mất khoảng 30 phút. Sau khi đưa dịch lọc sạch vào ổ bụng, các chất độc trong máu sẽ thẩm thấu qua
  10. các mạch máu màng bụng vào dịch lọc. Sau đó, dịch lọc chứa các độc tố sẽ được thải qua ống nhỏ đã được đặt cố định ra ngoài. “Với phương pháp lọc màng bụng, quá trình lọc máu diễn ra liên tục, vì thế bệnh nhân luôn ổn định, tránh hội chứng mất cân bằng. Hơn nữa, phương pháp được áp dụng cho mọi lứa tuổi, đặc biệt đối với trẻ em, người bị các bệnh lý tim mạch: suy tim, rối loạn nhịp, huyết áp... Nó giúp duy tr ì chức nặng thận tồn dư lâu hơn, giảm nguy cơ mất máu và lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm hơn so với chạy thận nhân tạo”, TS Dung nói. Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý, đó là bệnh nhân lọc màng bụng cần chú ý đến vấn đề vệ sinh, yêu cầu là phải vô trùng tuyệt đối. Trước khi thực hiện thao tác truyền dịch, cần vệ sinh tay, thân thể sạch sẽ, đeo khẩu trang theo đúng quy định… Nếu không vô trùng tốt, bệnh nhân rất dễ bị nhiễm trùng, nếu bị viêm phúc mạc có thể tử vong, hoặc bệnh nhân bị tắc Catheter lúc đó sẽ phải chuyển sang thận nhân tạo. Trong quá trình lọc máu tại nhà, nếu bệnh nhân thấy có các biểu hiện bất thường như dịch lọc chảy ra đục, dịch hơi hồng, sốt, đau bụng, đi ngoài... hoặc dịch vào và ra chậm, không như bình thường... thì phải báo ngay cho nhân viên y tế theo dõi rồi làm theo hướng dẫn và nhanh chóng đưa bệnh nhân tới bệnh viện.
  11. Chi phí ban đầu cho một ca phẫu thuật đặt Catheter thường khoảng 3 - 5 triệu đồng tùy theo kỹ thuật mổ và loại thiết bị. Tiếp đó, chi phí cho dịch lọc, thuốc và vật tư tiêu hao khoảng 7 - 8 triệu đồng/tháng/bệnh nhân. Nếu có bảo hiểm, bệnh nhân sẽ được bảo hiểm thanh toán theo quy định. Khoa Thận - Tiết niệu. Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội đã thực hiện thành công trên 200 bệnh nhân bằng phương pháp này. Các bệnh nhân quan tâm đến phương pháp lọc màng bụng có thể gọi điện để được tư vấn qua điện thoại, số máy 04.8686988 (máy lẻ 3544 hoặc 3543). Hồng Hải BỂ THẬN VIÊM MẠN Tự tham khảo cách chữa: Là bệnh phổ biến nhất trong các loại bệnh Thận. Đây cũng là bệnh nhiễm khuẩn thường gặp ở mọi lứa tuổi sau khi bị viêm phổi. Bể Thận – Thận viêm thường bị cả hai bên, ít khi bị một bên nhưng mức độ tổn thương ở hai bên khác nhau, có khi một bên thận bị xơ, teo, bên kia vẫn hoạt động bình thường. Là một quá trình viêm mạn thành từng ổ: bên cạnh ổ mới, có những ổ cũ bị xơ hóa xâm lấn vào tổ chức thận. Rõ nét nhất là sự
  12. xâm lấn vào tế bào, lympho bào và tổ chức kẽ của thận, gây xơ hóa tổ chức kẽ của thận và tổ chức xơ xâm lấn chèn ép làm đảo lộn cấu trúc thận. Đông y xếp vào loại ‘Lao Lâm’, ‘Yêu Thống’, ‘Hư Tổn’. Nguyên nhân Theo Đông y, Thận và bàng quang có quan hệ biểu lý với nhau, nếu tạng bị hư tổn thì phủ cũng bị ảnh hưởng theo và ngược lại. Chứng nhiệt lâm (bể thận viêm cấp) điều trị lâu ngày không khỏi hoặc do cơ thể vốn bị suy nhược, thấp nhiệt và tà khí ở trong, ứ huyết tích tụ lại gây nên tiểu nhiều, tiểu gắt, tiểu buốt, lưng đau. Nếu thấp nhiệt nung nấu lâu ngày sẽ làm hao tổn tân dịch, làm tổn thương chính khí, trên lâm sàng sẽ xuất hiện dấu hiệu thận âm bất túc. Nếu Tỳ Thận đều hư sẽ gây nên chính khí suy, tà khí thịnh. Triệu chứng: + Đa số tiến triển âm thầm, triệu chứng rất sơ sài khiến cho người bệnh dễ bỏ qua. + Thỉnh thoảng sốt nhẹ, ngang thắt lưng đau, người mỏi mệt. + Thỉnh thoảng tiểu buốt, tiểu gắt, có khi không điều trị cũng khỏi.
  13. + Khoảng 1/3 số trường hợp thường có kèm các đợt cấp tính, sốt cao, đau vùng Thận hai bên hoặc một bên, tiểu đục. Triệu chứng giống như trong trường hợp viêm cấp nhưng chỉ là một đợt cấp trên gốc bệnh viêm mạn. + Dấu hiệu tương đối rõ nhất là ba dấu hiệu chính khi xét nghiệm gồm: . Nước tiểu có vi khuẩn. . Tiểu ra bạch cầu, thường trên 4 triệu bạch cầu trên 24 giờ. . Tiểu ra protein: thường chỉ từ 50-200mg% (0,5 đến 2g) / lít nước tiểu. Tiến Triển Tiến triển dai dẳng hàng chục năm, có khi 29-30 năm. Có khi gây nên: . Huyết áp cao tiến triển theo bể thận – thận viêm, nặng dần dẫn đến suy thận. . Thận bị xơ, teo, mất chức năng hoạt động, năng thì phải cắt bỏ bên teo. . Thận suy từng đợt: nặng nhất là giảm khả năng cô đặc nước tiểu, tiến triển trong nhiều năm trước khi bị suy thận hoàn toàn. Điều trị
  14. Thường dùng phép công và bổ cùng lúc. Bệnh mới phát, dùng phép Thanh nhiệt, lợi thấp, lợi niệu thông lâm, hoạt huyết hóa ứ. Khi bệnh đã ổn định, dùng bổ Tỳ, ích Thận để tăng sức đề kháng đối với bệnh. Có thể dùng một số bài thuốc sau: Thanh Hóa Thang (Trung Quốc Hương Tài Y Sinh Tạp Chí 1993: 4, 39): Xích thược Ngưu tất 6 Xuyên khung 6 6 Qui vĩ Xuyên sơn 6 Sa tiền Tây thảo 6 9 9 giáp Mao căn 15
  15. Đã trị 42 ca, toàn bộ đều là nữ giới. Tuổi từ 21-62. Bệnh từ 3-18 năm. Tất cả đã được Tây chẩn đoán là bể thận viêm mạn tính. Uống thuốc này 3-5 thang nhiều lắm cũng không quá 6 thang đều khỏi. Đạt tỉ lệ 96%. Thanh Lâm Thang (Hắc Long Giang Trung Y Dược 1991: 3, 16): Hoàng cầm 20 Hoàng bá 30 Ngân hoa 60 Ngưu tất 12 HEMAX
  16. Thuocbietduoc.com.vn Sản phẩm Giới thiệu Liên hệ NHÓM THUỐC N11 Tác dụng đối với máu 1 N18 Thuốc đường tiêu hóa 1 N20 Huyết thanh & Globulin miễn dịch 1 ĐĂNG NHẬP Email: Mật khẩu: Quên mật khẩu Số khách thăm Estore: 7899 Quay lại *Hemax* Số Đăng ký: VN-0210-06 Dạng bào chế: Bột đông khô pha tiêm-2000IU Quy cách đóng gói: Hộp 1 lọ + 1 ống dung môi Giá kê khai: Mua bán thuốc> Nhóm Dược lý: Thuốc tác dụng đối với máu THÀNH PHẦN: Erythropoietin alfa Người tái tổ hợp + Phần thông tin tham khảo + + Dùng thuốc theo chỉ định của Bác sĩ + Chỉ định:
  17. - Điều trị thiếu máu liên quan đến bệnh nhân suy thận mãn bao gồm bệnh nhân lọc máu (bệnh thận giai đoạn cuối) và bệnh nhân không lọc máu. Hemax được chỉ định làm tăng và duy trì mức hồng cầu (được biểu hiện bằng hematocrit hoặc hemoglobin) và làm giảm sự cần thiết để truyền cho những bệnh nhân này. - Bệnh nhân không lọc máu có triệu chứng thiếu máu được cân nhắc để điều trị nếu có mức hematocrit ít hơn 10 g/dL. - Thiếu máu ở bệnh nhân HIV được điều trị bởi zidovudine. - Thiếu máu ở bệnh nhân ung thư do sử dụng hoá trị liệu. - Giảm sự truyền máu ở bệnh nhân phẫu thuật. - Thiếu máu ở trẻ sinh non. Chống chỉ định: Hemax chống chỉ định với các bệnh nhân: - Cao huyết áp động mạch không kiểm soát. - Có tiền sử mẫn cảm với human albumin. - Có tiền sử mẫn cảm với các chế phẩm có nguồn gốc từ tế bào động vật có vú.
  18. Tương tác thuốc: Không có bằng chứng cho thấy tương tác của Hemax với các thuốc khác được phát hiện. Tác dụng phụ: Đối với các bệnh nhân suy chức năng thận mãn: Hemax nói chung dung nạp tốt. Các báo cáo về tác dụng nói chung liên quan tới suy chức năng thận không gây ra tác dụng trực tiếp nào của thuốc. Trong các nghiên cứu có kiểm soát với r-hu-EPO va placebo trong các bệnh nhân lọc máu, phần lớn tác dụng phụ là: Mẫn cảm: 24%; Đau đầu: 16%; Đau khớp: 11%; Buồn nôn: 11%; Phù: 9%; Tiêu chảy: 9%; Nôn: 8%; Đau ngực: 7%; Phản ứng tại chỗ tiêm: 7%. Các tác dụng phụ này cũng được quan sát thấy với mức độ tương đương trên các bệnh nhân sử dụng thuốc vờ. Phần lớn tác dụng phụ được miêu tả đối với r-hu-EPO là: co giật, tai biến thiếu máu mạch não, và nhồi máu cơ tim cấp. Bệnh nhân HIV đang sử dụng Zidovudine: Các thử nghiệm có kiểm soát sử dụng r-hu-EPO không cho thấy thuốc có tỷ lệ tác dụng phụ cao hơn so với bệnh nhân dùng giả dược. Bệnh nhân sử dụng r-hu-EPO không làm thúc đẩy sự phân chia virus hoặc làm tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn cơ hội hay tử vong. Bệnh nhân ung thư sử dụng
  19. hoá trị liệu: Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được báo cáo trong nhóm bệnh nhân điều trị với r-hu-EPO. Không có bằng chứng nào là r-hu- EPO có bất kỳ tác động nào trên dòng tế bào ung thư. Hiệu quả chống tăng sing của r-hu-EPO đang được nghiên cứu. Các thông tin sẵn có chưa dùng để xác định là các r-hu-EPO bao gồm Hemax có tác dụng trên ung thư và di căn hay không. Bệnh nhân phẫu thuật: Bệnh nhân phẫu thuật phải truyền máu c ùng nhóm có sử dụng r-hu-EPO, có nguy cơ cao hơn huyết khối đã được chỉ ra. Trên một thử nghiệm có kiểm soát, nhóm bệnh nhân phẫu thuật chỉnh hình sử dụng r- hu-EPO có nguy cơ cao hơn huyết khối tĩnh mạch sâu so với nhóm sử dụng giả dược. Phần trăm bệnh nhân huyết khối tĩnh mạch sâu, tuy nhiên, cũng chỉ nằm trong khoảng đối với loại phẫu thuật này. Trên một nghiên cứu phẫu thuật tim, 23% bệnh nhân điều trị với r-hu-EPO và 29 bệnh nhân dùng giả dược có tai biến mạch máu hoặc huyết khối, 4 trường hợp tử vong trong nhóm sử dụng r-hu-EPO, có liên quan đến tai biến thiếu máu. Sự liên quan của r-hu-EPO không thể được loại trừ. - Thông báo ngay cho bác sỹ nếu có tác dụng phụ. Không dùng thuốc khi đã quá hạn sử dụng Chú ý đề phòng:
  20. - Cảnh báo: Các bệnh nhân suy thận mãn: a. Cao huyết áp động mạch: Hơn 80% bệnh nhân lọc máu có tiền sử cao huyết áp động mạch. Khi bắt đầu điều trị với r-hu-EPO, áp lực động mạch cần phải được kiểm soát chặt chẽ và điều trị với r-hu-EPO bị cao huyết áp và yêu cầu điều trị đầu tiên là trị liệu giảm tăng huyết áp. Có mối quan hệ giữa tỉ lệ của haematocrit và sự tăng lên của chứng cao huyết áp. Vì vậy, khuyến cáo rằng khi lượng haematocrit tăng hơn 4 điểm trong bất kỳ thời điểm nào trong 2 tuần, liều dùng với r-hu-EPO cần giảm xuống. b. Hiện tượng huyết khối: Sự tăng hiện tượng huyết khối đã được báo cáo ở bệnh nhân đang lọc máu sử dụng r-hu-EPO. Xuất huyết hiện tượng huyết khối trong đường vào mạch, nhồi máu cơ tim và các bệnh khác. Hiện tượng huyết khối đã được quan sát trên các bệnh nhân có lượng haematocrit > 40% Trong quá trình lọc máu, bệnh nhân có thể được yêu cầu tăng liều heparin để ngăn cản quá trình huyết khối động mạch. c. Co giật: Co giật chiếm 2,5% tổng trường hợp điều trị với r-hu-EPO. Nói chung, chúng có liên quan đến cao huyết áp động mạch. Huyết áp cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt trước và trong quá trình điều trị. Cần phải thận trọng với các bệnh nhân có tiền sử tai biến co giật.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2