Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mặc Tử
lượt xem 11
download
Đây thôn vĩ dạ của Hàn Mạc Tử là bài thơ bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ... Mời các em cùng tham khảo bài văn mẫu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mặc Tử
VĂN MẪU LỚP 11 CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ CỦA HÀN MẶC TỬ BÀI MẪU SỐ 1: Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ. Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình. Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tượng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo. Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình: “Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng trữu nặng của Hàn Măc Tử, hai câu thơ đầu gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ” gió” và “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buông bã đến não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác.Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi. Khổ thơ cuối thể hiện một khung cảnh khi có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ: “Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra” “ Khách đường xa ở đây chính là ai?” cùng với điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại như vô vọng của mối tình đơn phương xa vời. Thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp với xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng thiết tha mãnh liệt. Tác giả không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhòa đi như trong ảo mộng, sương khói làm nhòa hình ảnh ảo mộng: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo” chứ “nhìn không ra”,hình ảnh tà áo trắng gợi ra hình ảnh dịu dàng mà cũng thanh khiết ,có lẽ là dáng dấp của một người con gái xứ Huế . Chỉ biết đây là một hình ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, còn xa xôi là vì khoảng cách thời gian, không gian. Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng. Cái mà Hàn Mặc Tử tha thiết mong đợi như đọng lại tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng. Vừa là nỗi mong ước đến khát khao,câu hỏi bâng quơ nhưng gợi ra nhiều tâm trạng. Đó chính là sự bâng khuâng khó tả và sự nhẹ nhàng như tự nhủ với bản thân. Mặc Dù đã ra đời tư lâu nhưng bài thơ đã lấy nhiều cảm xúc của người đọc cả lúc ấy và cả độc giả thời đại hiện nay. Nó không chỉ gợi mở vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc tử, một tâm hồn nhạy cảm với đời,với tình yêu ,cuộc sống. BÀI MẪU SỐ 2: Trong cuộc sống của chúng ta có những người yêu nhưng nhút nhát mà không dám nói chính vì thế mà để lại sự hối tiếc về sau đồng thời cũng làm cho người kia phải chờ đợi. Trong làng thơ Việt Nam ngoài Nguyễn Bính là một nhà thơ hay viết thơ tình nhưng thực chất thì lại nhút nhát trong chuyện tình cảm thì còn có cả Hàn Mạc Tử. Ông là một nhà thơ góp phần làm nên phong trào thơ Mới phong phú và đa dạng. Như nhà thơ phê bình Hoài Thanh có viết rằng chúng ta điên cuồng Hàn Mặc Tử. Thế nhưng ngoài những vần thơ điên cuồng thì Hàn Mạc Tử còn có cả những vần thơ chứa chan tình thương yêu. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là một bài thơ trữ tình trong số những bài thơ yêu thương của ông. Bài thơ được viết khi ông đã mắc bệnh phong và cuộc sống của ông chỉ bó gọn trong trại phong Tuy Hòa. Với một người yêu cuộc sống yêu thiên nhiên, yêu con người như thế mà lại mắc phải căn bệnh kia cùng với cái chết cận kề Hàn Mạc Tử không khỏi điên cuồng giãy giụa trong bệnh tật thế nhưng may sao trong những năm tháng ấy Hàn mạc Tử được một người mà mình yêu mến năm xưa là Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho một tấm thiệp với câu hỏi Sao anh không về chơi thôn Vĩ?. Thế là bấy nhiêu tình cảm, bấy nhiêu cảm xúc thực tại đã khiến cho nhà thơ sáng tác bài thơ này. Lời nhắn nhủ hỏi thăm của người tình ấy đã khiến cho nhà thơ không khỏi nuối tiếc vì một mối tình mà chính ông lại quá nhút nhát để tiến đến. Bài thơ mở đầu bằng chính câu hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc trong tấm thiệp gửi Hàn Mạc Tử: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” Câu hỏi nghi vấn được đặt làm câu thơ mở đầu bài thơ cho thấy được một sự trách móc đầy yêu thương của người con gái năm xưa dành cho người trong trại phong Tuy Hòa. Không những thế qua câu hỏi ấy ta còn thấy được tình cảm mà Hoàng Cúc danh cho nhà thơ hay đó cũng là một sự quan tâm hỏi thăm đến người xưa cũ. Như vậy câu hỏi kia không chỉ để hỏi mà nó còn mang cả sự thương cảm, nhớ nhung, yêu thương, quan tâm và cả trách móc nữa. Vĩ Dạ kia chính là Huế – là nơi mà hai người đã gặp nhau và tình cảm bắt đầu bằng sự im lặng kết thúc cũng như thế. Thế rồi những câu thơ sau nhà thơ vẽ lên cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh nắng được nhắc đến hai lần trong câu thơ thứ hai cho ta thấy được một cảnh tượng của buổi sơm tinh khôi nơi thôn Vĩ. Câu thơ như vẽ ra hình ảnh nắng mới chiếu sáng từng đọt cau, lá cau để làm nên hình tượng nắng hàng cau. Buổi sáng ấy không phải là nắng trên biển không phải nắng trên những chiếc lá thu vàng mà là trên những cây cau. Đến với Thôn Vĩ người ta không thể nào không nhìn thấy hình ảnh những cây cau cao vút đứng hiên ngang thành hàng thành lối. Và phải chăng nhà thơ đã nói lên cái đặc trưng nhất của xứ Huế mà không phải nơi nào cũng có. Không những thế buổi sáng nơi đây còn hiện lên thật xanh mướt tinh khôi trong hình ảnh của khu vườn nhà ai xanh như ngọc. Vườn ai là vườn của Hoàng Cúc hay của bất kì người Huế nào?. Cái màu xanh ngọc trong trẻo được nhà thơ sử dụng để nói lên cảnh thiên nhiên của con người nơi đây. Không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà con người Huế cũng được hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng qua hình ảnh “lá trúc tre ngang mặt chữ điền”. Đó là một vẻ đẹp kín đáo dịu dàng và phúc hậu. Đến khổ thơ tiếp theo nhà thơ như thể hiện nỗi buồn của bản thân mình, nhà thơ không nói trực tiếp mà mượn hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng: “Gió theo lối gió, mây đường mây, Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay… Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay?” Theo quy luật đời thường thì là gió thổi mây bay thế nhưng ở đây nhà thơ lại nói là gió theo lối gió mây bay đường mây. Liệu rằng câu thơ đó mang một sự vô lý rất trầm trọng. Thế nhưng xét trong hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ thì câu nói kia không hề vô lý,nó trở thành có lý hợp với tâm trạng của nhà thơ. Nói như thế nhà thơ muốn thể hiện sự chia rẽ cách xa trong lòng mình. Phải chăng nhà thơ đang tiếc thương cho mối tình của mình?. Trước hết chia rẽ do nhà thơ nhút nhát và thứ hai bây giờ có muốn nói thì cũng đã quá muộn vì người con gái ấy đã đi lấy chồng còn nhà thơ thì đang mang trong mình trọng bệnh vì thế mà ta nhận ra một bi kịch tình cảm ở đây. Dòng nước buồn thiu, hoa bắp ở bãi nào đó khẽ lay, cái lay ấy chỉ là một chút rất nhẹ nhàng mà thôi. Hình ảnh con thuyền ở đây đậu bến sông trăng thật yên ả làm sao. Bông nhà thơ cất lên câu hỏi vô chứa đầy bi kịch “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Cái bi kịch nằm ở chữ “Kịp” ấy, rõ ràng là một cảnh tượng nên thơ nên họa, đẹp hiền hòa yên bình thế nhưng qua con mắt của người cuộc sống chỉ được tính lại từng ngày ít ỏi mà hạnh phúc lứa đôi dang dở thì lại trở thành buồn hiu hắt đầy bi kịch. Và đến cuối cùng nhà thơ vẫn không thôi mơ về người con gái ấy, nhà thơ đang nhớ hay là đang luyến tiếc: “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra… Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số bài văn mẫu: Cảm nhận về bài thơ Việt Bắc và nhà thơ Tố Hữu
34 p | 2838 | 1657
-
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
4 p | 2778 | 254
-
Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ
4 p | 1295 | 153
-
7 bài văn mẫu phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
36 p | 396 | 71
-
Cảm nhận về hình tượng sóng trong hai khổ thơ đầu bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
4 p | 413 | 42
-
Cảm nhận về bài thơ Chiều tối
11 p | 573 | 41
-
Tổng hợp 7 bài cảm nhận về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
18 p | 591 | 36
-
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
11 p | 533 | 35
-
Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
4 p | 978 | 33
-
4 bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
21 p | 260 | 28
-
Cảm nhận về bức tranh mùa thu trong bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến
25 p | 540 | 24
-
Phân tích hình tượng Sóng trong bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh
3 p | 346 | 21
-
Cảm nhận về bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu
8 p | 310 | 20
-
Cảm nhận về tâm hồn người phụ nữ qua việc phân tích hình tượng "sóng" trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Quỳnh
3 p | 133 | 14
-
Cảm nhận về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
4 p | 213 | 7
-
Cảm nhận về "Bài thơ số 28" của tác giả Ra-bin-dra-nát Ta-go
3 p | 38 | 5
-
Cảm nhận về bài thơ Bài ca Ngất Ngưởng của Nguyễn Công Trứ
11 p | 89 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn