intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ RÒ ĐỘNG MẠCH CẢNH XOANG HANG

Chia sẻ: Van Tien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

144
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả việc áp dụng can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh xoang hang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 62 bệnh nhân được chẩn đoán rò động mạch cảnh xoang hang và được điều trị nội mạch bít lỗ rách trong khoảng thời gian: từ tháng 10/2004 đến tháng 8/2006. Đây là nghiên cứu tiền cứu cắt ngang mô tả. Phương pháp điều trị là loại bỏ shunt động tĩnh mạch và bảo tồn động mạch cảnh. Trong số 62 trường hợp rò động mạch cảnh xoang...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ RÒ ĐỘNG MẠCH CẢNH XOANG HANG

  1. CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ RÒ ĐỘNG MẠCH CẢNH XOANG HANG Tóm tắt Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả việc áp dụng can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh xoang hang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 62 bệnh nhân được chẩn đoán rò động mạch cảnh xoang hang và được điều trị nội mạch bít lỗ rách trong khoảng thời gian: từ tháng 10/2004 đến tháng 8/2006. Đây là nghiên cứu tiền cứu cắt ngang mô tả. Phương pháp điều trị là loại bỏ shunt động tĩnh mạch và bảo tồn động mạch cảnh. Trong số 62 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang: 53 ca rò trực tiếp, 9 ca rò gián tiếp được điều trị nội mạch bít lỗ thông bằng bóng, coils, hoặc keo thông qua đ ường động mạch hay tĩnh mạch. Trong số 53 ca rò trực tiếp: 51 ca do chấn thương đầu, 2 ca do vỡ túi phình động mạch cảnh trong xoang. Các triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất: ù tai, âm thổi ở mắt 90,3%, lồi mắt 88,7%, đỏ mắt, sung huyết kết mạc 93,5%, liệt vận nhãn 53,2%, mù mắt 11,2%, chảy máu mũi họng nặng 1,6%.
  2. Kết quả nghiên cứu: Lỗ rò được bít hoàn toàn trong 60 trường hợp chiếm 96,7%. Chúng tôi điều trị thành công 11/12 bệnh nhân rò động mạch cảnh xoang hang tái phát: sau mổ thả cơ 2 ca, mổ cột động mạch cảnh chung 6 ca, cột động mạch cảnh trong 3 ca, cột động mạch cảnh ngoài 1 ca. Có 4 ca được chọc trực tiếp động mạch cảnh trong ở cổ trên nơi cột và đặt bóng bít hoàn toàn lỗ rách cả 4 ca này. Có 2 ca phải mổ bộc lộ động mạch cảnh trên nơi cột: 1 ca động mạch cảnh trong, 1 ca động mạch cảnh ngoài sau đó lỗ rách được bít hoàn toàn bằng bóng 1 ca và bằng keo 1 ca. Biến chứng về thần kinh chiếm tỷ lệ 1,6%, trong nghiên cứu này có 1 ca nhồi máu não liệt nửa người sau đặt bóng, sau theo dõi có phục hồi bệnh nhân có thể đi lại được. Phần lớn các triệu chứng lâm sàng đều cải thiện rõ rệt sau khi lỗ thông được bít hoàn toàn ngoại trừ triệu chứng mù mắt. Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy can thiệp nội mạch là phương pháp điều trị với tỷ lệ thành công cao, ít tai biến, có thể là phương pháp nên được lựa chọn đầu tiên để điều trị rò động mạch cảnh xoang hang. Abstract Objectives: To evaluate endovascular treatment for carotid cavernous fistalas.
  3. Methods: The goals of treatment are to eliminate the fistula and preserve carotid artery patency. We reviewed 62 consecutive patients with 53 direct carotid-cavernous fistulas and 9 indirect carotid-cavernous fistulas treated by transarterial or transvenous embolization, with detachable balloons, coils or glue: N-butyl-2-cyanoacrylate (NBCA), from October 2004 to August 2006 at University Medical Center of HCM city. Among 53 direct CCFs, 51 were head trauma, 2 resulted from a ruptured of intracavernous carotid artery aneurysm. The most common symptoms were orbital bruit (90.3%), proptosis (88.7%), chemosis (93.5%), abducens palsy (53.2%), visual loss (11.2%), severe nose and throat bleeding (1.6%). Results: The fistulas were successfully occluded in 60 patients (96.7%). We experienced 12 patients with recurrent CCFs, who underwent initial treatment by muscle embolization (2 cases) or ligation of the carotid artery: 3 ICA, 6 CCA and 1 ECA. We performed direct punture the ICA at the neck. The fistulas were successfully occluded in 4 cases by detachable balloon. Two patients required direct surgery to expose the ICA in 1 case and ECA in the other case and the fistula were cured by detachable balloon (1 case) or glue injection in the other. The neurological complication rate was 1.6% (cerebral infarction in one patient). Most of the symptoms
  4. improve after the fistulas were occluded by endovascular treatment except the visual loss. Conclusion: On the basis of these results, we conclude that Endovascular therapy provides a high rate of fistula obliteration with low complication rate and is the best initial procedure to treat Carotid Cavernous Fistulas. MỞ ĐẦU Rò động mạch cảnh xoang hang là sự thông nối bất thường từ động mạch cảnh qua xoang tĩnh mạch hang (xoang hang). Được phân thành 4 type A,B,C,D theo Barrow. Sự thông nối này có thể là trực tiếp (type A) do rách thành động mạch cảnh trong, đoạn đi trong xoang hang hay gián tiếp qua các nhánh động mạch màng cừng của động mạch cảnh trong hoặc cảnh ngoài (các type B,CD). Hậu quả của sự thông nối bất thường này gây ứ trệ dẫn lưu của xoang hang và cả các tĩnh mạch đổ về xoang hang. Rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp hay gặp sa u chấn thương đầu gây xé rách thành động mạch cảnh trong, đoạn đi trong xoang hang, hoặc do vỡ túi phình động mạch cảnh trong ở đoạn này, cũng có thể xuất hiện sau các thủ thuật vùng sàn sọ cạnh xoang hang và động mạch cảnh. Đối với rò động mạch cảnh xoang hang gián tiếp đa số là khởi phát tự phát, nữ
  5. mắc bệnh nhiều hơn nam, một số ít khởi phát sau mang thai và sanh con như theo ghi nhận của Walker và Allegre. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá việc áp dụng can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh- xoang hang. Đối tượng Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng rò động mạch cảnh xoang hang được chụp mạch máu não xóa nền DSA chẩn đoán xác định và phân loại theo Barrow. Thời gian từ tháng 10/2004 đến tháng 8/2006 có 6 2 bệnh nhân được chẩn đoán rò động mạch cảnh xoang hang và được điều trị nội mạch tại BV ĐHYD TP.HCM Phương pháp nghiên cứu Đây là nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang, mô tả. Phương pháp điều trị phương tiện Thủ thuật được thực hiện sử dung máy chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền DSA và theo kỹ thuật Seldinger. Tùy theo tính chất của lỗ rách: kích thước, vị trí, số lượng của đường rò mà lựa chọn chất liệu gây tắc: bóng,
  6. coils hoặc keo sinh học N-butyl -2-cyanoacrylate (NBCA) tên thương mại là Histoacryl. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tuổi, giới Nam Nữ Tổng Rò 44 9 53 trực tiếp Rò 1 8 9 gián tiếp. Tuổi nhỏ nhất là 7 tuổi lớn nhất 72 tuổi tuổi trung bình : 36,4 tuổi. Nguyên nhân Nguyên Rò Rò nhân: trực tiếp gián tiếp Chấn 96,2% 0 thương đầu Vỡ 3,8% 0
  7. phình mạch Tự phát 0 100% Lâm sàng * Cơ năng - Nghe tiếng kêu ù ù trong tai gặp trong 96,2% các trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp, và triệu chứng này gặp trong 55,6% các trường hợp rò gián tiếp. *Thực thể Triệu Rò Rò chứng trực tiếp 53 gián tiếp 9 ca ca Đỏ mắt 94,3% 88,9% phù nề sung huyết kết mạc. Lồi 96,2% 44,4% mắt
  8. Nghe 98,1% 44,4% trên mắt có âm thổi Giảm 30,2% 22,2% thị lực: Sáng tối (+), 3/10- 7/10. Sáng 13,2% 0 tối (-) Liệu 56,6% 33,4% vận nhãn các dây III, IV, VI. Tăng 3 ca 0 nhãn áp. (5,6%) Chảy 1 0 mũi máu
  9. xoang do giả phình trong xoang bướm. Cận lâm sàng + Siêu âm Doppler động mạch cảnh-tĩnh mạch mắt - Có 23 trường hợp siêu âm doppler thấy dãn tĩnh mạch mắt sau đó những bệnh nhân này được chụp DSA và xác định chính xác là rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp. - Dấu hiệu điển hình trên siêu âm doppler là: Tĩnh mạch mắt dãn to, có hiện tượng thông nối động tĩnh mạch, tĩnh mạch mắt bị động mạch hóa. + CT scan sọ não có cản quang: - Được thực hiện trong 10 ca tất cả những ca này đều thấy được các dấu hiệu: - Xoang hang và tĩnh mạch mắt dãn to, bắt thuốc cản quang sớm. - Mắt lồi. + DSA (Digital Subtraction Angiography):
  10. - Thấy được luồng thông từ động mạch cảnh - xoang hang-tĩnh mạch mắt ngay thì động mạch là tiêu chuẩn và để xác định chẩn đoán và phân loại lỗ rò. Hình minh hoạt rò động mạch cảnh xoang hang: Kết quả điều trị Cách điều trị Cách Type Type A B,C,D điều trị Đặt 88,7% 0 bóng Đặt 7,5% 33,3%
  11. coil Bơm 0 66,7% keo Kết quả điều trị - Bít được hoàn toàn lỗ rách: 60/62 ca chiếm: 96,7% (tính chung cả 2 loại trực tiếp và gián tiếp).Tỉ lệ bảo tồn được động mạch cảnh trong sau đặt bóng là 76,2% số còn lại do kích thước lỗ rách quá lớn nên bắt buộc phải gây tắc động mạch cảnh trong đoạn xoang hang mới bít được hoàn toàn lỗ rách. Kết Rò Rò quả trực tiếp gián tiếp 53 ca 9 ca Bít 96,2% 88,9% được hoàn toàn lỗ rách Chưa 1,9% 11,1% bít được hoàn toàn
  12. Không 1,9% 0 đến được thương tổn. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 12 ca rò động mạch cảnh xoang hang tái phát bao gồm: 3 ca tái phát sau mổ cột động mạch cảnh trong, 6 ca tái páht sau mổ cột động mạch cảnh chung, 2 ca tái phát sau thả cơ qua lỗ mở động mạch cảnh ở cổ (chưa cột động mạch cảnh) và 1 ca tái phát sau mổ cột động mạch cảnh ngoài (rò gián tiếp). Việc điều trị cho 10 bệnh nhân đã cột động mạch cảnh gặp rất nhiều khó khăn. Chúng tôi phải chọn dò trực tiếp động mạch cảnh trong ở cổ và đặt bóng thành công 4 ca, 3 ca phải đi bằng đường động mạch thông sau, 2 ca cần phải phối hợp ngoại khoa bộc lộ động mạch cảnh: 1 ca cảnh ngoài và 1 ca cảnh trong phía trên nơi cột sau đó luồn ống thông trực tiếp vào động mạch cảnh để thả bóng (1ca) hoặc bơm keo (1ca) kết quả là bít được hoàn toàn lỗ thông. Có 1 trường hợp không đến được lỗ rách: bệnh nhân rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp tái phát sau mổ cột động mạch cảnh trong trên bệnh nhân tuần hoàn thông nối qua đa giác Willis không tốt (bệnh nhân bị liệt nửa người sau cột động mạch cảnh trong), nên không thể đi đến lỗ rách. Hình minh họa điều trị rò động mạch cảnh xoang bằng bóng.
  13. Kỹ thuật đặt bóng bít lỗ rách Hình DSA trước và sau đặt bóng. Đánh giá các triệu chứng sau thủ thuật Sau thủ thuật nếu thấy lỗ rách đã được bít hoàn toàn trên hình chụp DSA kiểm tra thì triệu chứng âm thổi ở mắt sẽ mất ngay sau làm thủ thuật. Các triệu chứng lồi mắt, đỏ mắt sẽ cải thiện rõ sau 24h và trở về bình thường sau vài ngày hoặc vài tuần tùy theo mức độ nặng nhẹ trước điều trị, trung bình là 1 tuần. Đối với các triệu chứng liệt vận nhãn sự phục hồi sẽ chậm hơn, trong nghiên cứu này có 33 ca có liệt vận nhãn (53,2%) tất cả các trường hợp liệt vận nhãn đều phục hồi hoàn toàn trong thời gian trung bình khoảng 3 tháng. Đối với các trường hợp giảm thị lực kể cả sáng tối (+) khoảng 70% bệnh nhân có cải thiện sau thủ thuật trong thời gian trung bình 3-4 tháng. Riêng
  14. các trường hợp không phân biệt được sáng tối thì khả năng phục hồi rất kém. Trường hợp theo dõi lâu nhất đã được 13 tháng vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện. Tai biến và biến chứng Trong mẫu nghiên cứu này chúng tôi có 1 trường hợp bị liệt nửa người chiếm 1,6%. Triệu chứng xuất hiện sau làm thủ thuật 12g sau đó phục hồi gần hoàn toàn (bệnh nhân có thể tự đi lại được sau 4 tháng). Bệnh nhân này lớn tuổi (55t) tăng huyết áp nhiều năm, hẹp động mạch não giữa cùng bên động mạch cảnh bị rách, lỗ rách lớn không bảo tồn được động mạch cảnh đoạn rách. Các tai biến khác: tụ máu nơi chọc kim: vùng bẹn: 2 ca, ở cổ 1 ca, chiếm 4,8% (3/62). Tai biến này trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi thì nhẹ và tự khỏi. Theo dõi sau thủ thuật. Tất cả các bệnh nhân đều được tái khám đánh giá lại về triệu chứng lâm sàng sau 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 1 năm. Tất cả những trường hợp bít được lỗ rách hoàn toàn, thấy trên hình DSA kiểm tra sau thủ thuật, theo dõi đến nay ca làm đầu tiên đã được 21 tháng hiện không có trường hợp nào tái thông lỗ rách. Không ghi nhận trường hợp nào dị ứng với
  15. chất gây tắc là bóng, coil, keo. Có một trường hợp chụp DSA kiểm tra phát hiện giả phình vùng xoang hang sau thủ thuật đặt bóng do động mạch cản h bị rách không lành tốt, bệnh nhân không triệu chứng. BÀN LUẬN Bệnh rò động mạch cảnh xoang hang được Traves mô tả đầu tiên vào năm 1809. Năm 1931 Brook điều trị bệnh này bằng cách thả miếng cơ qua một lỗ mở động mạch cảnh ở cổ để bít lỗ rách. Năm 1964 Hamby trình bày phương pháp điều trị kết hợp giữa cột động mạch cản ở cổ và thả cơ bít lỗ rách. Đến năm 1974 Serbinenko, một phẫu thuật viên thần kinh người Nga, là người đầu tiên mô tả và sử dụng một catheter gắn một quả bóng có thể tách rời (detachable balloon) để bít lỗ rách mà có thể bảo tồn động mạch cảnh. Từ đó đến nay phương pháp này ngày càng được hoàn thiện và phát triển, nhất là khi có máy chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền DSA (Digital Subtraction Angiography) và ngày càng được áp dụng rộng rãi. Về điều trị rò động mạch cảnh xoang hang ở Việt Nam, năm 1972 Lê Xuân Trung, Tôn Thất Tùng7 1,6 đã điều trị rò động mạch cảnh xoang hang 10 theo phương pháp Brook. Năm 1989, Trương Văn Việt đã trình bày một
  16. phương pháp điều trị bít lỗ rò bằng một miếng cơ có thể điều khiển được bằng một catheter qua một lỗ mở ở động mạch cảnh chung và báo cáo 56 ca rò động mạch cảnh xoang hang được điều trị bằng phương pháp này. Năm 1999 Trương Văn Việt, Nguyễn Đình Tùng10,12 đã tổng kết điều trị cho 176 bệnh nhân với tử vong 2, liệt nửa người 4, tái phát 20. Năm 2003 Nguyễn Đình Tùng báo cáo điều trị 123 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang phương pháp gây tắc bằng cơ có điều khiển với kết quả tốt 86,2%, yếu liệt nửa người 5 bệnh nhân (4,065%), tái phát 9 bệnh nhân (7,03%), chảy máu 1 bệnh nhân (0,8%), không gây tắc được 2 bệnh nhân (1,62%)13. Trên thế giới: sau khi Serbinenko11 báo cáo kết quả việc dùng bóng có thể tách rời để điều trị các bệnh lý mạch máu não đến nay, kỹ thuật này ngày càng được áp dụng rộng rãi. Năm 1981 Debrun và cộng sự báo cáo 54 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang sau chấn thương được điều trị bằng bóng và kết quả bít được lỗ rách hoàn toàn bằng bóng trong 51 ca (94,4%) và bảo tồn được động mạch cảnh trong 59% trường hợp; 3 ca bị liệt nửa người chiếm 5,5%2. Năm 1990 Higashida, Halback và cộng sự tổng kết từ năm 1981-1989 có 87 trường hợp túi phình động mạch cảnh trong xoang hang được điều trị bằng bóng trong đó có 8 ca túi phình vỡ gây rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp4. Năm 1995 Lewis và cộng sự báo cáo 100 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang trực tiếp được điều trị bằng bóng
  17. từ 1979-1992 tỉ lệ bít được lỗ rách bằng bóng là 86% bảo tồn được động mạch cảnh trong 66 trường hợp, tỉ lệ biến chứng là 4% bao gồm nhồi máu não, liệt nửa người, chảy máu não có 1 ca tử vong liên quan đến thủ thuật đặt bóng8. Đối với rò động mạch cảnh xoang hang gián tiếp tháng 1 năm 2006 Chen ZQ và cộng sự báo cáo 18 trường hợp được điều trị bằng keo NCBA và điều trị khỏi cho 17 trường hợp1. Tháng 7 năm 2006 Kirsch M và cộng sự tổng kết từ 1991 đến 2005 và báo cáo 141 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang gián tiếp được điều trị bằng cách đặt coil đường tĩnh mạch với 161 lần thực hiện thủ thuật kết quả là bít được hoàn toàn lỗ thông động tĩnh mạch trong 81% (không có trường hợp nào trong nhóm này bị tái phát sau theo dõi), bít chưa hoàn toàn 17%, không đi đến được thương tổn trong 2% trường hợp, triệu chứng giảm thị lực cải thiện sau 2 tuần làm thủ thuật, liệt vận nhãn cải thiện chậm hơn5. Đối với những trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang tái phát sau mổ cột động mạch cảnh, can thiệp nội mạch gặp nhiều khó khăn. Các đường đi khác để đến lỗ rách có thể là: đường động mạch thông sau, đường tĩnh mạch đá dưới đến xoang hang, đường tĩnh mạch mắt trên, nếu các đường trên không thực hiện được thì chọc dò trực tiếp động mạch cảnh trên nơi cột có thể được đặt ra. Năm 1991 Monsein9 và cộng sự báo cáo điều trị 4 trường
  18. hợp rò động mạch cảnh xoang hang bằng đường tĩnh mạch mắt trên, kết quả là bít được hoàn toàn lỗ rách, không biến chứng. Năm 1989 Halbach3 báo cáo 3 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang bị tắc động mạch cảnh trong được điều trị bằng cách chọc trực tiếp động mạch cảnh trong sau nơi b ị tắc và dùng bóng hoặc coil để bít lỗ rách, không biến chứng. Về ảnh hưởng lâu dài của việc điều trị rò động mạch cảnh xoang hang năm 1983 Tsai14 báo cáo 74 trường hợp được theo dõi trong 6 năm: giả phình sau đặt bóng có thể tự lành, liệt các dây vận nhãn thoáng qua gặp trong 16%, bóng xẹp sớm có thể trôi đi làm tắc động mạch cảnh trong hoặc các nhánh của nó. KẾT LUẬN Qua điều trị nội mạch cho 62 bệnh nhân bị rò động mạch cảnh xoang hang tại BV ĐHYD TPHCM trong khoảng thời gian 22 tháng. Chúng tôi thu được các kết quả sau: Về chẩn đoán Triệu chứng lâm sàng điển hình trên 90% trường hợp (đỏ mắt, lồi mắt, âm thổi ở mắt, liệt vận nhãn), nên chỉ bằng các triệu lâm sàng chúng ta có thể chẩn đoán khá chính xác những bệnh nhân bị rò động mạch cảnh xoang hang. Siêu âm Doppler thấy tĩnh mạch mắt dãn, có dấu hiệu thông động tĩnh
  19. mạch hay trên CT scan sọ não có cản quang thấy xoang hang dãn và bắt thuốc sớm, tĩnh mạch mắt dãn mắt lồi thì cần nghĩ đến rò động mạch cảnh xoang hang. Chụp mạch máu não kỹ thuật số xóa nền xác định chẩn đoán 100% trường hợp và giúp phân loại bệnh. Về điều trị Tỷ lệ thành công chung, bít được hoàn toàn lỗ rách là 96,7% (60/62 trường hợp), tỷ lệ biến chứng về thần kinh trong nghiên cứu là 1,6%. Không có trường hợp nào tử vong. Không có trường hợp nào tái phát sau theo dõi. Bằng cách chọc trực tiếp động mạch cảnh trong ở cổ hay phối hợp mổ bộc lộ động mạch động mạch cảnh ở cổ ngay tại phòng DSA, sau đó các ống thông được luồn trực tiếp vào động mạch cảnh, chúng tôi đã điều trị thành công 11/12 trường hợp rò động mạch cảnh xoang hang tái phát sau thả cơ hoặc cột động mạch cảnh ở cổ. Sự cải thiện các triệu chứng sau điều trị là rất tốt: ù tai, âm thổi ở mắt mất ngay sau điều trị, triệu chứng lồi mắt, đỏ mắt giảm sau 1 tuần, liệt vận nhãn, giảm thị lực sẽ phục hồi sau vài tháng ngoại trừ mù mắt theo dõi hơn 13 tháng không thấy dấu hiệu phục hồi. Can thiệp nội mạch trong điều trị rò động mạch cảnh xoang hang với tỷ lệ thành công cao, ít tai biến, là phương pháp nên được lựa chọn đầu tiên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2