intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chế biến phụ phẩm giết mổ dùng cho người – Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ dùng cho người

Chia sẻ: Long Nguyễn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

53
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung vào các phụ phẩm động vật được sử dụng trực tiếp cho con người. Các thông tin về sản lượng thịt và sản lượng phụ phẩm trên thế giới cũng như ở Hoa Kỳ sẽ được thảo luận. Sản phẩm chính được chú trọng là các loại dầu, mỡ cùng những thuộc tính của chúng, những phụ phẩm động vật từ thịt xẻ và được người tiêu dùng nấu ngay hoặc được dùng trong các loại thức ăn khác. Việc tách chiết gelatin, phân tách các loại mô ăn được ra khỏi xương và các ứng dụng khác cũng sẽ được thảo luận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chế biến phụ phẩm giết mổ dùng cho người – Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ dùng cho người

CHẾ BIẾN PHỤ PHẨM GIẾT MỔ DÙNG CHO NGƯỜI – CÁC SẢN PHẨM<br /> CHẾ BIẾN TỪ PHỤ PHẨM GIẾT MỔ DÙNG CHO NGƯỜI<br /> Herbet W. Ockerman, PhD và Lopa Basu<br /> Bộ môn Khoa học động vật<br /> Đại học Bang Ohio<br /> Tóm tắt<br /> Chương này tập trung vào các phụ phẩm động vật được sử dụng trực tiếp cho con người. Các<br /> thông tin về sản lượng thịt và sản lượng phụ phẩm trên thế giới cũng như ở Hoa Kỳ sẽ được thảo<br /> luận. Sản phẩm chính được chú trọng là các loại dầu, mỡ cùng những thuộc tính của chúng,<br /> những phụ phẩm động vật từ thịt xẻ và được người tiêu dùng nấu ngay hoặc được dùng trong các<br /> loại thức ăn khác. Việc tách chiết gelatin, phân tách các loại mô ăn được ra khỏi xương và các<br /> ứng dụng khác cũng sẽ được thảo luận. Khi cần thiết, các tài liệu tham khảo cung cấp các thông<br /> tin chi tiết hơn sẽ được giới thiệu<br /> Các khái niệm<br /> Một số định nghĩa cơ bản quan trọng liên quan đến các phụ phẩm động vật dùng làm thức ăn cho<br /> người:<br /> - Batch cooker: Thiết bị hình trụ nằm ngang bao bọc bởi vỏ bọc hơi nước có gắn bộ phận khuấy.<br /> - Centrifuge: Máy sử dụng lực ly tâm để phân tách các nguyên liệu có tỷ trọng khác nhau.<br /> - Chitling: Ruột non lợn<br /> - Continuous cooker: Nồi nấu liên tục - nguyên liệu di chuyển qua hệ thống liên tục.<br /> - Cracklings: nguyên liệu protein rắn thu được bằng cách ép xoắn sau khi loại bỏ mỡ lợn.<br /> - Dry rendering: Giải phóng mỡ bằng quá trình loại nước<br /> - Edible: Sản phẩm sử dụng cho con người sau khi đã được Bộ phận thanh tra an toàn thực phẩm<br /> Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ kiểm tra.<br /> - Giblets: Bao gồm phần cổ, gan, tim và mề gia cầm.<br /> - Grease: Mỡ có điểm nóng chảy thấp, mềm, có trị số titer nhỏ hơn 400C<br /> - Lard (grease): mỡ lợn, mềm hơn mỡ động vật nhai lại.<br /> - Rendering: Quá trình làm các chất dầu mỡ trong thịt tan chảy khỏi phần rắn của mô động vật.<br /> - Tallow: Mỡ bò, cừu, dê, lạc đà, lama, hươu. Loại mỡ này có điểm nóng chảy cao hơn mỡ của<br /> các loài không phải động vật nhai lại, có độ cứng cao hơn và trị số titer ≥ 400C.<br /> - Tankage: Các nguyên liệu đã nấu chín sau khi phần lớn mỡ lỏng đã được loại bỏ.<br /> - Titer: Được xác định bằng cách kiểm tra điểm tan chảy (0C), là chỉ tiêu đo độ cứng của mỡ.<br /> Các sản phẩm chế biến từ phụ phẩm giết mổ có thể ăn được<br /> Số lượng<br /> Theo tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) của Liên hợp quốc, năm 2004 sản lượng thịt của thế<br /> giới là 253,6 triệu tấn và sản lượng này tăng lên theo từng năm. Khoảng 40% khối lượng thịt bò<br /> hơi được xử lí bởi các nhà máy chế biến phụ phẩm giết mổ. Những mảnh mỡ điển hình cắt ra từ<br /> thân thịt xẻ của bò thịt từ một nhà máy thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ có chứa 60-64% mỡ, 14-<br /> 16% nước và 20-24% protein rắn (Franco và Swanson, 1996). Ước tính hàng năm có khoảng 54<br /> 93<br /> tỷ pound phụ phẩm được tạo ra ở Hoa Kỳ bởi ngành công nghiệp chế biến thịt bò, lợn, cừu và gia<br /> cầm. Các lò mổ, xí nghiệp đóng gói, siêu thị, cửa hàng bán thịt và nhà hàng tạo ra ít nhất một tỷ<br /> pound phụ phẩm động vật mỗi tuần. Việc sử dụng các phụ phẩm giết mổ đã qua chế biến và có<br /> thể ăn được thể hiện ở Bảng 1.<br /> Bảng 1. Sản lượng và mức tiêu thụ các phụ phẩm giết mổ có thể ăn được ở Hoa Kỳ<br /> Sản lượng Tiêu thụ nội địa Xuất khẩu<br /> Sản phẩm, Năm Triệu pound<br /> Mỡ của động vật nhai lại có 1.513 557 295<br /> thể ăn được, 1994<br /> Mỡ của động vật nhai lại có 1.813 402 306<br /> thể ăn được, 2005<br /> Mỡ lợn, 1994 559 422 139<br /> Mỡ lợn, 2005 267 235 94<br /> Nguồn: U.S. Census Bureau, 1995 và 2006. Ghi chú: 5,6 triệu pound mỡ lợn và mỡ động vật<br /> nhai lại cũng đã được dùng sản xuất bơ trong năm 2004.<br /> Các loại mỡ<br /> Mỡ được dự trữ ở các dạng khác nhau tại rất nhiều vị trí trên cơ thể động vật và số lượng phụ<br /> thuộc chủ yếu vào việc nuôi dưỡng động vật đó. Các tế bào mỡ có một lớp màng tế bào và một<br /> nhân nằm sát màng; tuy nhiên, ở hầu hết các vị trí đều có thành phần triglycerides. Triglycerides<br /> từ nguồn động vật cũng như thực vật đều được cấu tạo bởi glycerol - một loại ester nối với ba a<br /> xít béo. Ba a xít béo này thường khác nhau ở mỗi loại triglycerides và triglycerides thường khác<br /> biệt trên từng vị trí của cơ thể gia súc. Các loài động vật có mỡ đặc trưng cho loài và mỡ động<br /> vật nhai lại rất khác so với mỡ của các loài khác. Đối với những loài không phải là động vật nhai<br /> lại, mỡ dự trữ có thể bị ảnh hưởng bởi loại mỡ ăn vào. Sự khác biệt chủ yếu của các triglycerides<br /> là các a xít béo nối với glycerol và độ dài của chuỗi. Mức độ bão hòa của mỡ có ảnh hưởng tới<br /> các phản ứng hóa học.<br /> Quy trình chế biến các loại mỡ ăn<br /> Quy trình chế biến mỡ ăn được thường là một qui trình liên tục bao gồm hai giai đoạn phân tách<br /> ly tâm. Mỡ tươi cắt ra từ thân thịt thường được nghiền nhỏ bằng máy và được băng chuyền<br /> chuyển tới thùng chế biến sử dụng hơi nước có gắn trục khuấy, tại đây chúng sẽ được làm tan<br /> chảy bằng nhiệt hơi nước. Mỡ tan chảy ở 1100F (430C) được bơm vào một máy công phá tế bào<br /> để làm vỡ các tế bào mỡ. Sau đó, máy ly tâm được dùng để phân tách mỡ, nước, và các chất rắn.<br /> Các mảnh mỡ sau đó được đun nóng tới 2000F (930C) bằng hơi nước trong một hệ thống trao đổi<br /> nhiệt. Ly tâm giai đoạn hai để làm bóng mịn sản phẩm mỡ. Việc ly tâm giúp loại bỏ các mảnh<br /> vụn protein, đưa các mảnh vụn này vào qui trình chế biến các sản phẩm không dùng cho con<br /> người hoặc đưa vào hệ thống xử lý nước thải sơ cấp. Sau đó mỡ lợn và mỡ động vật nhai lại,<br /> được phân biệt dựa theo nguồn mỡ thô ban đầu, được bơm vào nơi lưu trữ. Chỉ có một ít hơi<br /> nước thoát ra từ hai giai đoạn ly tâm khi chế biến mỡ ăn được. Do mỡ chỉ được tiếp xúc với nhiệt<br /> trong thời gian rất ngắn nên cần sử dụng nguồn nguyên liệu tươi và các vấn đề vệ sinh, quét dọn<br /> nhà xưởng cần phải được thông qua trong Chương trình phân tích rỏi ro và kiểm soát điểm tới<br /> hạn (HACCP) được Bộ phận kiểm tra an toàn thực phẩm của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ kiểm tra.<br /> Ngược lại với chế biến mỡ ăn được, việc chế biến mỡ không dùng cho người sử dụng các hệ<br /> thống chế biến ướt và khô. Hệ thống ướt cho các nguyên liệu thô tiếp xúc trực tiếp với nước<br /> nóng (180-2050F, 82-960C), sau đó cho bốc hơi. Kỹ thuật này sẽ tạo ra mỡ, nước sền sệt (vì có<br /> chứa keo) và chất lắng đọng ở dạng ướt (các protein rắn). Hệ thống này có hiệu suất sử dụng<br /> <br /> 94<br /> năng lượng thấp, có tác dụng tiêu cực đến chất lượng mỡ, và hiện không còn được sử dụng ở<br /> Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số phần của quy trình này vẫn đang được sử dụng để sản xuất ra các sản<br /> phẩm ăn được. Hệ thống chế biến khô hoạt động thông qua việc làm mất nước các nguyên liệu<br /> thô ở nhiệt độ 240-2900F (115-1450C) trong các nồi nấu theo mẻ hoặc nồi nấu liên tục. Hệ thống<br /> này không còn được Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cho phép sử dụng để sản xuất các loại mỡ dùng<br /> cho người nữa. Nhiệt độ cuối cùng trong nồi nấu theo mẻ dao động từ 2500 đến 2750F<br /> (12101350C) và thường yêu cầu thời gian nấu từ 2-3 giờ. Sau khi nấu xong, tách phần dịch lỏng<br /> khỏi sản phẩm, ép phần chất rắn (bằng máy ép trục xoắn đơn hoặc trục xoắn kép) và lượng mỡ sẽ<br /> được giảm từ 25% xuống còn khoảng 10%. Phần chất rắn này được gọi là cracklings. Mỡ tạo ra<br /> từ quá trình ép thường chứa một ít hạt mịn có thể loại bỏ được bằng máy ly tâm hoặc hệ thống<br /> lọc. Hệ thống chế biến liên tục thực sự là một quá trình nấu liên tục: nguyên liệu thô được đưa<br /> vào một đầu và sản phẩm sau khi chế biến đi ra ở đầu bên kia của hệ thống. Hệ thống chế biến<br /> liên tục có công suất lớn hơn, chiếm ít diện tích hơn và tiết kiệm năng lượng hơn. Các quy trình<br /> chế biến khác bao gồm hệ thống sấy liên hồi, máy sấy sử dụng hơi nước và nấu bằng áp suất cao.<br /> Các loại mỡ ăn được<br /> Các sản phẩm động vật dùng làm thức ăn cho con người giống với định nghĩa cổ điển về chế<br /> biến phụ phẩm giểt mổ là mỡ lợn và mỡ động vật nhai lại bởi nhiệt được sử dụng để tách lipid từ<br /> mô cơ và xương. Các loại mỡ lợn và mỡ động vật nhai lại ăn được dùng để sản xuất bơ, làm<br /> bánh xốp và nấu ăn, hai loại sau cùng có thị phần lớn nhất. Rất nhiều đầu bếp quả quyết rằng sử<br /> dụng mỡ gia súc nhai lại cho hương vị trong đồ rán thơm ngon hơn sử dụng dầu thực vật. Ngành<br /> sản xuất thức ăn nhanh vào những năm 1990, dẫn đầu là các cửa hàng ăn nhanh McDonald, đã<br /> bắt đầu chuyển từ sử dụng mỡ lợn và mỡ động vật nhai lại sang sử dụng dầu thực vật để chiên<br /> khoai tây vì công chúng lo ngại sử dụng mỡ động vật, cholesterol và bệnh tim mạch.<br /> Mỡ lợn được định nghĩa là mỡ lấy từ lợn sau khi được làm nóng chảy ra khỏi mô tế bào giữ nó.<br /> Mỡ lá là loại mỡ lợn có chất lượng cao nhất, được lấy từ mỡ lá bám ở vùng xung quanh thận. Mỡ<br /> lưng là loại có chất lượng ở cấp thứ hai và mỡ bám xung quanh ruột non là loại có chất lượng<br /> thấp nhất. Mỡ lợn cũng được phân loại theo phương pháp chế biến như mỡ chế biến bằng<br /> phương pháp dùng hơi nước (quá trình chế biến được thực hiện trong một ống kín và hơi nước<br /> được dẫn từ ngoài vào); mỡ chế biến bằng phương pháp trung tính (được nấu chảy ở nhiệt độ<br /> thấp); mỡ chế biến bằng phương pháp chế biến ướt (đun trong nồi nấu (có chứa nước) bao quanh<br /> bởi hơi nước); và mỡ chế biến bằng phương pháp chế biến khô (nguyên liệu thô được băm nhỏ<br /> và đun trong nồi nấu có máy khuấy). Loại mỡ chất lượng tốt sẽ tan chảy rất nhanh và không gây<br /> mùi khó chịu. Loại mỡ nguyên chất (99% chất béo) được dùng làm dầu ăn rất có giá trị vì khi<br /> nấu tạo ra rất ít khói.<br /> Mỡ chưa qua chế biến thường có mùi rất nặng và mềm, nhưng mỡ lợn có thể được chế biến bằng<br /> rất nhiều cách như tách bằng nhiệt, lọc, tẩy và hydro hóa. Nhìn chung, sau khi được chế biến mỡ<br /> lợn sẽ cứng hơn, mùi nhẹ hơn, gần giống mùi lạc và có thời hạn sử dụng lâu hơn dầu thực vật.<br /> Mỡ lợn làm cho các loại bánh quy và bánh ngọt rất giòn và dễ vỡ vụn. Nó cũng tạo mùi thơm khi<br /> dùng để rán thức ăn. Khi sử dụng mỡ lợn để thay thế cho bơ hoặc dầu thực vật để nướng bánh,<br /> cần giảm lượng sử dụng 20-25%. Mỡ lợn cần được bọc kỹ để tránh hấp phụ các loại mùi khác có<br /> thể có tại nơi bảo quản. Có thể bảo quản mỡ lợn ở điều kiện nhiệt độ phòng hoặc trong tủ lạnh<br /> tùy vào phương pháp đã được dùng để chế biến mỡ. Người ta thường dùng kim để bơm mỡ vào<br /> thịt khô (thường là thịt lợn hoặc thịt lợn xông khói). Mục đích là tạo cho những miếng thịt khi<br /> nấu chín sẽ mọng và ngon hơn, giòn và đậm đà hương vị hơn. Những dải mỡ này thường được<br /> gọi là mỡ phần (hay mỡ nhét vào thịt để rán).<br /> Bảng 2. Thành phần hóa học của mỡ động vật<br /> <br /> 95<br /> Độ dài chuỗi Mỡ bò Mỡ lợn Mỡ gia cầm<br /> cacbon và trạng<br /> thái chưa no<br /> 12<br /> C Lauric 0,5<br /> 14<br /> C Myristic 3,0 1,5 1,5<br /> 15<br /> C Pentadecanoic 0,5<br /> 16<br /> C Palmitic 24,0 27,0 22,5<br /> 16<br /> C 1=Palmitoleic 2,5 3,0 8,5<br /> 17<br /> C Margaric 1,5 0,5<br /> 18<br /> C Stearic 20,0 13,5 5,5<br /> 18<br /> C 1=Oleic 43,0 43,5 40,0<br /> 18<br /> C 2=Linoleic 4,0 10,5 19,0<br /> 18<br /> C 3=Linolenic 0,3 0,5 1,0<br /> 20<br /> C Arachadic 0,5<br /> a<br /> Giá trị Iốt 48 65 90<br /> Sponin hóab 200 200 196<br /> Độ Titer 0C-tính 43 36 32<br /> theo a xít béoc<br /> a<br /> Các số lớn hơn biểu thị nhiều a xít béo chưa no hơn<br /> b<br /> Các số lớn hơn biểu thị a xít béo có mạch ngắn hơn<br /> c<br /> Các số lớn hơn biểu thị điểm nóng chảy cao hơn hay mỡ rắn hơn<br /> Trích từ tài liệu của Franco và Swanson, 1996; Ockerman, 1996.<br /> Đặc tính của các loại mỡ ăn<br /> Mỡ và dầu của cả động vật và thực vật đều là những hợp chất triglycerides bao gồm ba a xít béo<br /> liên kết với glycerol bằng một cầu nối ester. Sự khác biệt của triglycerides chỉ là mức độ chưa no<br /> (các nối đôi của a xít béo) và độ dài mạch Carbon của a xít béo. Chất lượng của mỡ ăn được<br /> được đánh giá bằng đơn vị Titer, a xít béo tự do, bảng mầu FAC (FAC-Fat Analysis Committee<br /> of the Amerian Oil Chemists Society) hoặc bảng mầu Lovibond, độ ẩm, độ không tinh khiết<br /> (không hòa tan), và chất không thể sponin hóa (unsaponifiable matter). Thành phần a xít béo<br /> không thể hydro hóa của mỡ và dầu ăn được liệt kê ở Bảng 2.<br /> Đơn vị titer xác định độ cứng hay độ mềm hoặc điểm đông đặc của mỡ. Mỡ chưa no có độ titer<br /> thấp hơn và mỡ có mạch C ngắn hơn có độ titer thấp hơn. Độ titer của mỡ thuộc các loài khác<br /> nhau thì khác nhau. Ví dụ: mỡ bò và cừu có độ titer cao hơn và mỡ lợn có độ titer thấp hơn.<br /> Điểm đông đặc của mỡ thuộc ba loài nói trên được sắp hạng như sau:<br /> Bò 1080-1130F (420-450C)<br /> Lợn 970-1040F (360-400C)<br /> Cừu 1110-1180F (440-480C)<br /> Sự khác nhau trong nhiệt độ đông đặc là rất quan trọng khi sản xuất xúc xích dạng nhũ tương bởi<br /> vì nhiệt độ cắt phải được điều chỉnh tùy theo loài và độ titer sử dụng.<br /> Trong cùng một loài độ titer cũng thay đổi tùy theo vị trí của mỡ trong thân thịt. Ví dụ: mỡ ở<br /> vùng thận có độ titer cao hơn mỡ ở vùng thắt lưng. Đối với động vật dạ dày đơn, khẩu phần ăn<br /> cũng ảnh hưởng đến độ cứng của mỡ. Vì thế, lợn ăn lạc sẽ có mỡ với điểm đông đặc thấp hơn<br /> mỡ của lợn ăn ngô. Gia súc được nuôi dưỡng tốt sẽ cho mỡ có độ titer cao hơn những con vật<br /> gầy gò.<br /> <br /> <br /> 96<br /> A xít béo tự do thường được biểu thị bằng tỷ lệ a xít oleic trên tổng khối lượng mẫu. A xít béo tự<br /> do được tạo ra khi cầu nối ester bị bẻ gẫy và a xít được giải phóng ra khỏi triglyceride. Tuy nhiên<br /> đây là điều không mong muốn và là dấu hiệu cho thấy mức độ ôi thiu của mỡ. Để giữ cho sản<br /> phẩm có càng ít a xít béo tự do càng tốt, cần sử dụng nguồn nguyên liệu thô thật sạch, sử dụng<br /> các dụng cụ sạch, kiểm soát nhiệt độ luôn < 200C hoặc >650C (để vô hoạt vi khuẩn và enzym),<br /> giữ nguyên liệu thô nguyên khối càng lâu càng tốt (giảm diện tích bề mặt), xử lý nguyên liệu<br /> nhanh chóng, kiểm soát nhiệt độ và áp suất trong quá trình chế biến và bảo quản. Muốn sản<br /> phẩm có chất lượng chấp nhận được thì tỷ lệ a xít béo tự do thường phải
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0