Chiến tranh vùng Krym

Tranh của Franz Roubaud

Cuộc bao vây Sevastopol.

.

Thời gian 1854–1856

Địa điểm Bán đảo Krym,

Balkan,

Biển Đen,

Biển Ban Tích,

Thái Bình Dương

Kết quả Đồng minh chiến thắng, Hoà

ước Paris (1856)

Tham chiến

Đồng Minh: Đế quốc Nga

Pháp

Đế quốc Ottoman

Đế quốc Anh

Vương quốc

Sardinia

Chỉ huy

Napoléon III Nikolai I †

Armand Jacques Aleksandr II

Leroy de Saint- Mikhail

Arnaud † Gortchakov

François Certain Ivan Paskevich †

th Canrobert Pavel

Abdul Mejid I Nakhimov †

Abdülkerim Eduard Totleben

Nadir Pasha Mikhail

Omar Pasha Semyonovich

James Brudenell, Vorontsov

Bá tước Cardigan Aleksandr

thứ 7 Sergeyeich

FitzRoy Menshikov

Somerset, Nam tước Vasily Zavoyko

Ragdan thứ nhất †

Edmund Lyons,

Nam tước Lyons thứ

nhất

Alfonso La

Marmora

Lực lượng

300.000 lính Thổ 700.000 lính Nga[1]

400.000 lính Pháp 4.000 lính Bulgaria

250.000 lính Anh

10.000 lính Sardinia

Tổn thất

Tổng số 252.000 tử Khoảng 522.000[7] [8]

vong, trong đó bị chết trận, bị

70.000 thương vong trong trận chiến[2]

Pháp: Tổng số tử thương và chết bệnh [9], trong đó chết 60.000[10] tới

vong khoảng

100.000[3] 110.000[11][12]

trong đó 10.240 chết

trận; 20.000 chết vì

bị thương; khoảng

75.000 chết bệnh

Anh: 2.755 chết

trận; 2.019 chết vì bị

thương; 16.323 chết

bệnh

Sardinia: 2.050 chết

vì nhiều nguyên nhân[4]

Thổ Nhĩ Kỳ: Tổng

số chết và bị thương

ước khoảng 200.000.[5] Tổng số chết ước 50.000[6]

.

[hiện]

x • t • s

Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ

Chiến tranh Krym bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực

lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế

quốc Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia chống lại Đế quốc Nga. Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga.[13] Phần lớn các trận chiến

xảy ra trên bán đảo Krym, những trận nhỏ hơn tại miền tây Thổ Nhĩ Kỳ và vùng

biển Ban Tích. Một trong những lý do gây ra cuộc chiến là việc chính phủ Nga

hoàng bảo hộ cho các thần dân Chính Thống giáo nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ.[14] Cuộc chiến tranh tàn khốc này mở đầu với việc Thổ Nhĩ Kỳ

tuyên chiến với Nga vào năm 1853, với trận đánh tại Oltenitza cùng năm đó, khi

một cuộc tiến công của quân Nga bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đập cho tan nát. Nhưng sau

đó, trong trận thủy chiến Sinope, khi thủy binh Nga đập tan nát thủy binh Thổ Nhĩ

Kỳ. Tuy nhiên, quân Thổ Nhĩ Kỳ cũng phá tan tành được vòng vây của quân Nga ở Silistria. Vả lại, Anh và Pháp cũng lần lượt tuyên chiến với Nga. [15][16][17]

Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử,

trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước và thay đổi hình thức của các cuộc chiến tranh sau đó[18]. Cuộc công kích anh dũng

của Tiểu Lữ đoàn Anh Quốc nhằm vào quân Nga vào năm 1854 tuy thất bại, nhưng trở thành biểu tượng của tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ cương cao.[13]

Cuộc đấu tranh bảo vệ Sevastopol (1855) của quân Nga trước liên quân Anh - Thổ

- pháp cũng vậy, tuy là thất bại của Quân đội Nga nhưng được xem là một chiến thắng về tinh thần của họ.[19] Vào năm 1856, các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia đã giành được chiến thắng.[17] Quân đội Nga - đội quân tinh nhuệ nhất của châu Âu trong con mắt của Nga hoàng Nikolai I - đã đại bại.[14] Nước Nga bị

mất chủ quyền ở biển Đen - một thành quả của Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế năm xưa. [20]

Mục lục

[ẩn]

 1 Bối cảnh

o 1.1 Tranh chấp vùng Đất Thánh

o 1.2 Những vụ xung đột đầu tiên

o 1.3 Cơ hội hòa giải

 2 Chiến cuộc vùng Crimea

o 2.1 Bao vây Sevastopol

o 2.2 Chiến trường biển Ban Tích

o 2.3 Thái Bình Dương

o 2.4 Ý ủng hộ Đồng minh

o 2.5 Chiến tranh kết thúc

 3 Hậu quả

 4 Thiệt hại của đôi bên trong chiến tranh

 5 Chú thích

[ ] Bối cảnh

[ ] Tranh chấp vùng Đất Thánh

Hoàng đế Nga Nikolai I (1825-1855)

Sau các cuộc Cách mạng 1848 tại các nước Châu Âu, hoàng đế Nga âm mưu đeo

đuổi một chính sách hung hăng hơn tại vùng Balkan. Nước Nga hy vọng trục lợi

trên sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, một cường quốc đã bị hoàng đế Nikolai I

của Nga mệnh danh là "thực thể ốm yếu ở châu Âu", nhưng bị Anh và Pháp phản

đối quyết liệt.

Năm 1854, quân Nga vượt sông Danube tràn vào xâm chiếm lãnh thổ của Đế quốc Ottoman. Anh và Pháp tuyên chiến với Nga và gửi quân tới để bảo vệ Thổ.[21]

Napoléon III - Hoàng đế Pháp (1852 - 1870)

Tuy Anh và Pháp tuyên chiến với Nga vào ngày 28 tháng 3 năm 1854, xích mích

giữa hai phe xảy ra từ cuộc đảo chính năm 1851 tại Pháp. Hoàng đế nước Pháp là

Napoléon III lên ngôi và yêu cầu Đế quốc Ottoman phải công nhận Pháp có chủ quyền đối với vùng đất thánh (xứ Do Thái hay Israel ngày nay)[22].

Nga buộc Ottoman phải khước từ điều kiện của Pháp, đồng thời công nhận Nga là

thế lực bảo vệ Công giáo tại Ottoman. Napoléon III lập tức đưa chiến hạm Charlemagne vào biển Ban Tích, coi thường hiệp ước hàng hải khu vực[23]. Sultan

Ottoman là Abdul Mejid I theo Pháp, công nhận Pháp và Giáo hội Công giáo

Rôma có quyền lực cao nhất của Công giáo trong vùng đất thánh, và là nước bảo

hộ cho giáo dân khắp nơi. Quyền hành này trước đó thuộc Giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp[24]. Hoàng đế Nikolai I đưa quân đoàn bộ binh số 4 và 5 ra sông

Danube diễn binh dằn mặt và cho bộ trưởng ngoại giao là Công tước Karl

Nesselrode sang điều đình với triều đình Ottoman. Tuy nhiên Nga cũng muốn hòa

hoãn với Anh và Pháp, chủ ý rằng cuộc tranh cãi chỉ là giữa Nga và Ottoman,

không liên hệ gì đến Anh và Pháp. Nga muốn ngầm tránh tạo cơ hội cho Anh và

Pháp hợp binh nhau chống lại mình.

Nikolai tiếp tục trấn an Tây Âu rằng Nga đã ngưng bành trướng, và vụ lộn xộn tại

Đế quốc Ottoman chỉ là chuyện tôn giáo địa phương mà thôi. Kế đến, hoàng đế

Nga gửi sứ giả Aleksandr Sergeyevich Menshikov sang Ottoman đòi ký hiệp ước

riêng rằng nếu Sultan Abdul Mejid không đủ khả năng bảo vệ giáo hội và giáo dân

Công giáo thì Nga có quyền vào giúp. Menshikov đi tàu lớn vào cảng Porte và lập

tức kết tội Abdul Mejid là thông đồng với Pháp, và đòi thay đổi các nhân viên cao

cấp trong chính quyền Ottoman.

Lúc bấy giờ cố vấn ngoại giao Anh là Hugh Rose đang có mặt tại tòa đại sứ Anh

tại kinh đô Constantinopolis. Ông thu nhận tin tình báo về quân Nga đang tụ tập

dọc sông Danube và vấn đề Menshikov đặt ra ở cảng Porte. Rose liền truyền lệnh

cho hạm đội Anh từ miền đông Địa Trung Hải kéo về hướng Constantinopolis.

Tuy nhiên mệnh lệnh này bị đề đốc hạm đội Anh từ chối, do ông cho Rose không

được lạm quyền. Chỉ có hải quân Pháp kéo đến giúp Ottoman.

[ ] Những vụ xung đột đầu tiên

Chiến hạm Nga bắn chìm tầu của quân Thổ Ottoman tại Sinope - Tranh Ivan

Aivazovsky

Thủ tướng Anh George Hamilton-Gordon gửi Stratford Canning sang khuyên

sultan Abdul Mejid I của Ottoman bác bỏ hiệp ước với Nga. Khi hoàng đế Nga

hay tin Menshikov làm hỏng chuyện liền viện cớ thay mặt sultan Ottoman để giải

quyết vấn để tôn giáo, kéo quân vào vùng Moldavia và Wallachia thuộc miền

đông châu Âu. Khu vực này tuy thuộc Ottoman nhưng với nhiều giáo dân Chính

Thống giáo, lâu nay vẫn nằm dưới quyền bảo hộ của Nga. Hoàng đế Nga hy vọng

những cường quốc châu Âu, nhất là Đế quốc Áo là nước láng giềng, sẽ không

phản đối việc Nga xâm chiếm các lãnh thổ thuộc Ottoman này. Chính phủ Anh

phản ứng đưa hạm đội tiếp ứng cho hải quân Pháp tại eo biển Dardanelles (đường

biển nối biển Đen và Địa Trung Hải phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ). Thế lực quân sự châu

Âu lúc này cũng đang mong hòa giải, chỉ biểu dương quân lực chứ chưa muốn gây

chiến. Đại diện chính phủ 4 nước lớn Anh, Pháp, Áo và Phổ sau đó họp mặt tại

Viên viết thư giảng hòa giữa Nga và Ottoman. Nga chấp thuận các điều kiện trong

thư nhưng Ottoman từ chối. Khi Anh, Pháp và Áo đề nghị lại các điền kiện thì

Nga lại phản đối. Tuy Áo và Phổ muốn tiếp tục thương lượng, Anh và Pháp cho

rằng Nga ngoan cố. Sultan Abdul Mejid I, khi thấy thương lượng không xong bèn

kéo quân ra đánh quân Nga đang đóng tại sông Danube.

Ngày 30 tháng 11 năm 1853 hoàng đế Nikolai trả miếng đem chiến hạm đến bắn

tan tành đoàn tàu chiến của Ottoman đang neo tại cảng Sinope (Thổ Nhĩ Kỳ).

Hoàng đế Nga cũng không chịu rút quân ra khỏi hai lãnh thổ khu vực sông

Danube. Pháp và Anh chính thức tuyên chiến với Nga để ủng hộ Ottoman.

[ ] Cơ hội hòa giải

Hoàng đế Nga nghĩ rằng Áo sẽ theo phe Nga, vì Nga đã từng giúp Áo đánh dẹp

cuộc nổi dậy năm 1848. Nhưng Áo lại sợ Nga lợi dụng lấn quyền nên từ chối

không theo, và cũng không hứa sẽ giữ thế trung lập.

Anh và Pháp đưa ra 4 điều kiện hòa giải với Nga:

1. Nga phải bỏ chủ quyền ở các lãnh thổ vùng sông Danube mà họ mới cưỡng

chiếm.

2. Nga phải bỏ các quyền bảo hộ với giáo dân Chính thống giáo trong

Ottoman;

3. Luật quy ước hàng hải năm 1841 phải được xem lại và đổi;

4. Quốc gia nào cũng được quyền sử dụng sông Danube.

Khi hoàng đế Nikolai I từ chối các điều kiện này, chiến tranh vùng Crimea bắt đầu.

[ ] Chiến cuộc vùng Crimea

[ ] Bao vây Sevastopol

Sevastopol thất thủ

Quân Pháp và Nga đánh giáp lá cà

Ngày 17 tháng 10 năm 1854, quân Anh-Pháp đổ bộ lên bán đảo Crimea bao vây

thủ phủ Sevastopol là căn cứ chính của hạm đội Đế quốc Nga tại Biển Đen với

mục tiêu là ngăn chặn không cho chiến hạm Nga vào Địa Trung Hải. Trên đường

tới Sevastopol liên quân gặp một đạo quân Nga đang đóng trên các điểm cao tại

Alma và mau chóng đánh tan đạo quân này. Dù vậy chiến thắng ở Alma cho thấy Liên quân có ưu thế vượt trội về kỹ thuật hơn là kỷ luật hay tài thao lược.[25]

Binh sĩ người Scotland của Anh đánh bại cuộc tấn công của kỵ binh Nga

Trong nỗ lực giải vây cho Sevastopol, quân Nga mở cuộc tiến công lớn vào Liên

quân tại Inkerman nhưng thất bại. Quân Nga chết và bị thương lên tới 12.000 so với 3.000 người của Liên quân.[26] Quân Nga phải huy động chiến thuyền, dùng

pháo hải quân và cho thủy thủ chiến đấu như lính thủy đánh bộ. Quân đội Nga

thiệt hại 4 chiến hạm lớn (3 tầng, 110 súng), 12 chiến hạm trung (2 tầng, 60 súng)

và nhiều chiến thuyền nhỏ. Đề đốc Nga là Pavel Stepanovich Nakhimov bị bắn

trúng đầu và chết ngày 30 tháng 6 năm 1855. Sevastopol thất thủ vào ngày 11

tháng 9 năm 1855, sau gần 11 tháng bị bao vây.

Cùng năm, quân Nga bao vây và chiếm đồn Kars của Ottoman.

[ ] Chiến trường biển Ban Tích

Những trận đánh ở Crimea được nói đến nhiều, trong khi chiến cuộc trên biển Ban

Tích thường ít được nhắc tới mặc dầu xảy ra gần thủ đô Nga Sankt Peterburg. Lúc

đầu các phe tham chiến bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hải quân Nga tuy kém

lực lượng nhưng lại đóng trú quanh những khu phòng thủ kiên cố như đồn

Kronstadt. Bên kia thì Đề đốc Anh là Charles Napier và Đề đốc Pháp là Parseval-

Deschènes lại ngại tấn công, và chỉ có thể ngăn chặn các tàu buôn Nga và công

kích các đồn phòng thủ nhỏ của Nga dọc bờ biển Phần Lan. Anh-Pháp tấn công và

tiêu diệt đồn Bomarsund và Slava nhưng ở các đồn khác lại bị đánh bật ra.

Bomarsund bị dội bom

Trong những đợt tấn công này, quân Anh đốt phá hai vùng Oulu và Raahe và bị

thế giới lên tiếng phản đối. Tin lan về đến Anh và nghị sĩ quốc hội Thomas Gibson

đòi Hạ viện Anh hạch trách các đề đốc hải quân đang tham chiến về những hành

động tàn phá tài sản của người dân vô tội.

Ở Nga, kinh tế từ từ bị suy yếu vì buôn bán theo đường biển bị bế tắc, và quân

Nga cũng do đó mà giảm sút tinh nhuệ.

Mùa thu năm này, hạm đội Anh do chiến hạm Miranda dẫn đầu kéo từ biển Ban

Tích ra biển Trắng và pháo kích hai tỉnh Kola và Solovki. Kola bị tàn phá hoàn

toàn. Quân Anh tấn công Arkhangelsk nhưng thất bại.

Năm 1855, hơn 1.000 đại bác của hải quân đồng minh Anh-Pháp bắn hơn 20

nghìn viên pháo vào đồn phòng thủ Sveaborg của Nga gần Helsinki. Nhưng chỉ

huy trưởng Nga Viktor Poplonsky đem tàu chiến Rossiya chặn giữ cửa biển,

không cho quân Anh-Pháp vào. Trong khi đó quân Anh-Pháp phá mãi không xong,

phải huy động thêm lực lượng để tấn công lần nữa nhưng chưa kịp thì chiến tranh

chấm dứt.

"Tu viện Solovetsky ở biển Trắng

bị hải quân Hoàng gia Anh tấn công"

Sức kháng cự của quân Nga phần lớn do khả năng sử dụng mìn ngầm trên biển tại

Kronstadt và Sevastopol. Thủy lôi trong chiến thuật hải quân ngày nay có lẽ bắt đầu từ chiến tranh vùng Crimea[27].

[ ] Thái Bình Dương

Tranh chấp giữa các đế quốc châu Âu cũng diễn ra ở Thái Bình Dương. Hạm đội

Anh-Pháp do Đề đốc David Price và Febrier-Despointes chỉ huy bao vây đoàn tàu

chiến Nga do Đề đốc Yevfimy Vasilyevich Putyatin chỉ huy tại Petropavlovsk

thuộc bán đảo Kamchatka. Tháng 9 năm 1854, sau khi dùng súng từ chiếm hạm

bắn nát thành phố, hơn 800 quân lính Anh-Pháp đổ bộ nhưng bị phản kích mãnh

liệt và phải rút lui, chịu thiệt hại nặng nề. Đến mùa xuân năm 1855, quân Nga rút

lui khi quân đồng mình đem tiếp viện đến tấn công lần nữa.

[ ] Ý ủng hộ Đồng minh

Trong khi hô hào phong trào thống nhất nước Ý, Camillo Benso nghe lời Victor

Emmanuel II gởi quân lính theo ủng hộ Anh-Pháp. Mục đích của Camillo Benso là

vuốt ve Pháp để tăng thế lực cho khu vực Piedmont của Ý, và qua đó có thể

Piedmont được hội nhập vào nước Ý thống nhất.

[ ] Chiến tranh kết thúc

Đế quốc Ottoman mất phần lớn lãnh thổ (mầu vàng) sau các cuộc phân tranh

1856-78

Sau khi nhận được tin về thảm bại tại Sevastopol, Nga hoàng Nikolai I uống thuốc

độc tự tử ngày 2 tháng 3 năm 1855, con trai là Aleksandr II lên thay. Sau khi

Sevastopol thất thủ, Nga bắt đầu thương lượng hòa bình với phe đồng minh và ký

hòa ước tại Paris năm 1856. Quy ước hàng hải giữa Nga và Ottoman định lại ranh

giới chủ quyền vùng biển Đen. Nga phải chịu thiệt thòi vì hải quân Nga sẽ không

còn khả năng kiểm soát khu biển như trước đó. Ngoài ra, theo hòa ước Paris Đế

quốc Ottoman được các cường quốc châu Âu công nhận.

[ ] Hậu quả

Hóa ước Paris được tôn trọng đến năm 1871 thì Pháp bị Đế quốc Đức đánh bại

(Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871)), hoàng đế Pháp là Napoléon III bị truất phế

và chính phủ Đệ tam Cộng hòa Pháp ra đời.

Nga lợi dụng tình thế và dựa theo ủng hộ của thủ tướng Đức Otto von Bismarck

tái thiết căn cứ hải quân Nga tại biển Đen, không tuân theo quy ước hàng hải đã ký

tại Paris.

Đế quốc Áo không theo Nga khi trước nay lại bị cô lập. Áo thua Phổ trong cuộc

phân tranh Áo-Phổ năm 1866 và mất chủ quyền các lãnh thổ nói tiếng Đức. Áo

sau đó phải phụ thuộc vào Phổ và trở thành một khu vực hành chính của Đức - tạo

rắc rối sau này đưa đến Chiến tranh thế giới thứ nhất.

[ ] Thiệt hại của đôi bên trong chiến tranh

Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm

chứng thông tin.

Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ.

Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài

viết.

Dân số Quân Chết Bị Tử Chết Lý do Quốc gia năm 1853 đội trận thương thương bệnh khác

21 350 000 97 864 2 755 18 253 1 847 17 225 775 Anh

309 36 070 000 10 240 39 818 11 750 75 375 Pháp 268

Vương quốc 4 350 000 21 000 12 167 16 2 166 Sardinia

165 Đế quốc 35 000 000 10 000 10 800 24 500 000 Ottoman

593 Tổng số 96 770 000 23 007 24 413 119 266 132

888 70 400 000 24 731 81 247 15 971 88 775 13 225 Nga 000

167 170 1 481 Tổng số 47 738 40 384 208 041 000 132