Liên minh thứ ba
Liên minh thứ ba là một liên minh quân sự gồm các vương quốc Anh, Nga, Áo,
Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Napoli và Sicilia chống lại hoàng đế Napoléon
Bonaparte và Đệ nhất đế chế Pháp cùng các đồng minh Tây Ban Nha, vương quốc
Ý, Bayern, Etruria, Batavia, công quốc Württemberg trong các năm 1805 và 1806.
Mục lục
1 Từ Hòa ước Amiens tới Liên minh thứ ba
2 Chiến trận tại Đức
3 Trận hải chiến ở Tây Ban Nha
4 Các trận chiến giữa phe Pháp và Liên minh thứ ba
5 Chú thích
6 Tài liệu tham khảo
7 Xem thêm
8 Liên kết ngoài
[ ] Từ Hòa ước Amiens tới Liên minh thứ ba
Mặc dù Vương quốc Anh và Đế quốc Pháp đã ký Hòa ước Amiens ngày 25.3.1802,
kết thúc chiến tranh giữa Pháp và Liên minh thứ hai, nhưng nền hòa bình không
được vững chắc. Tháng 5 năm 1803, Anh bắt giữ 1.200 tàu buôn của Pháp và Hà
Lan trên các hải cảng Anh. Ít ngày sau, Pháp trả đũa, bắt mọi người Anh trên đất
Pháp rồi theo đuổi chính sách bảo hộ mậu dịch, phong tỏa thị trường tiêu thụ của
nền kỹ nghệ Anh, đồng thời ngăn cản các hàng nhập cảng cần thiết của Anh, nhất
là sản phẩm nông nghiệp mà Anh không thể tự túc được. Cuộc xung đột trở nên
không thể tránh được, khi quân Anh không chịu di tản khỏi đảo Malta và
Napoléon gửi quân đi để dập tắt cuộc cách mạng Haiti.
Ngày 23.5.1803, Vương quốc Anh chính thức tuyên chiến với Đế quốc Pháp. Thủ
tướng Anh thời đó là William Pitt tăng cường các nỗ lực ngoại giao nhằm lập Liên
minh thứ ba. Ngày 11.4.1805, Vương quốc Anh và Nga ký hiệp ước liên minh.
Anh tài trợ mỗi năm 1,25 triệu bảng Anh cho 100.000 quân Nga. Anh cũng tìm
cách lôi kéo Áo và ngày 11.6.1805 Áo gia nhập Liên minh. Thụy Điển cũng theo
Liên minh từ ngày 9.8.1805 và ngày 31.10.1805 Thụy Điển tuyên chiến với Pháp.
[ ] Chiến trận tại Đức
Napoléon tập trung quân đội Pháp, Tây Ban Nha và CH Batavia tại các trại ở
Boulogne (bắc Pháp) gồm bộ binh, kỵ binh và hải quân có lúc lên tới 350.000
quân, nhằm tấn công Vương quốc Anh. Mục tiêu của thủ tướng Anh là triệt tiêu sự
đe dọa đó của Pháp. Quân Liên minh tấn công cùng lúc Vương quốc Hannover (do
Pháp chiếm từ 27.5.1803) với 40.000 quân Nga-Anh-Thụy Điển, vùng sông
Danube với 180.000 quân Nga-Áo và vùng bắc Ý với 142.000 quân Áo.
Napoléon tập trung tấn công vào trung tâm lực lượng Liên minh ở Đức, trong khi
thống chế Pháp André Masséna và Gouvion Saint-Cyr phải kìm giữ quân Liên
minh tại bắc Ý.
Quân Áo quyết định chờ quân Pháp tại vùng núi Schwarzwald (tây nam Đức),
nhưng Napoléon triển khai quân cắt đứt liên lạc giữa quân Áo và quân Nga. Tháng
9 năm 1805, đại quân Pháp vượt sông Rhine rồi sông Main. Thống chế Pháp
Michel Ney thắng tướng Áo Karl Mack tại trận Elchingen (Bayern) và vây quân
tướng Karl Mack tại Ulm (bên sông Danube, Đức) khiến tướng Mack phải đầu
hàng ngày 19.10.1805.
[ ] Trận hải chiến ở Tây Ban Nha
Cùng thời gian đó liên quân Pháp - Tây Ban Nha do Đô đốc Pháp Pierre
Villeneuve chỉ huy bị Hải quân Anh của Đô đốc Horatio Nelson đánh tan tành
trong trận hải chiến Trafalgar (Tây Ban Nha, ngày 21.10.1805); chiến công này là
một trong những chiến thắng quyết định nhất trên biển, chứng tỏ quyền làm chủ trên biển của Vương quốc Anh.[1] Đô đốc Horatio Nelson bị thương nặng;[2] ông
đã hy sinh trong giờ phút thắng trận, và sự kiện này củng cố vai trò anh hùng dân
tộc nước Anh của ông, mà ông đã đạt được sau vài trận thắng quân Pháp trước đây.[3] Về phía đám bại quân, vết thương chí tử của Đô đốc Tây Ban Nha là Don
Federico Carlos Gravina y Nápoli cũng dẫn tới cái chết của ông ta vào năm 1806; còn Đô đốc Pháp Pierre Villeneuve thì bị bắt sống,[4][1] nhưng sau này ông ta được tha và tự sát[5].
Tại Trung Âu, ngày 2 tháng 12 năm 1805, dù ít quân hơn, hoàng đế Napoléon đã
đánh bại liên quân Áo-Nga do Nga hoàng Aleksandr I và Hoàng đế Áo Franz II
chỉ huy trong trận Austerlitz (nay là Slavkov, Cộng hòa Séc), buộc quân Nga phải
rút về Ba Lan và Áo phải ký hòa ước Pressburg vào ngày 26.12.1805, nhượng
Venezia cho Ý (do Napoléon làm vua) và vùng Tyrol cho Vương quốc Bayern.
Liên minh thứ ba tan rã.
[ ] Các trận chiến giữa phe Pháp và Liên minh thứ ba
22.7.1805: trận hải chiến Finisterre (Tây Ban Nha), Anh thắng Pháp-Tây
Ban Nha
8.10.1805: trận Wertingen (Đức), Pháp thắng Áo
21.10.1805: trận hải chiến Trafalgar (Tây Ban Nha), Anh thắng Pháp-Tây
Ban Nha
30.10.1805: trận Caldiero (Ý), Pháp thắng Áo
4.11.1805: trận hải chiến Cape Ortegal (Tây Ban Nha), Anh thắng Pháp
11.10.1805: trận Haslach-Jungingen (Đức), Pháp thắng Áo
14.10.1805: trận Elchingen (Đức), Pháp thắng Áo
15 - 17.10.1805 : trận Ulm (Đức), Pháp thắng Áo
5.11.1805: trận Amstetten (Áo), Pháp thắng Áo-Nga
11.11.1805: trận Dürenstein (Áo), không thắng bại giữa Pháp và Áo-Nga
16.11.1805: trận Hollabrunn, Pháp thắng Áo-Nga
2.12.1805: trận Austerlitz (nay CH Séc), Pháp thắng Áo-Nga
26.2 - 18.7.1806: trận Gaeta (Ý), Pháp thắng Vương quốc Napoli và Sicilia
10.3.1806: trận Campo Tenese (Ý), Pháp thắng Vương quốc Napoli và
Sicilia
4.7.1806: trận Maida (Ý), Anh-Sicilia thắng Pháp-Ý-Thụy Sĩ
[ ] Chú thích
1. ^ a b Clark G. Reynolds, Navies in history, trang 101
2. ^ Roger Steer, Good News for the World, trang 86
3. ^ Paul Usherwood, Jeremy Beach, Catherine Morris, University of
Northumbria at Newcastle, National Recording Project (Public Monuments
and Sculpture Association), Public sculpture of North-East England, trang
49
4. ^ Gregory Fremont-Barnes,Christa Hook, Trafalgar 1805: Nelson's
crowning victory, trang 16
5. ^ “Pierre-Charles Villeneuve (1763-1806)”. Truy cập 10 April 2009).