VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC TRUNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng số liệu nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Chính
sách công về “Thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện trên địa
bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Đà Nẵng, ngày tháng năm 2021
Tác giả luận văn
Trần Ngọc Trung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 8
1.1. Khái niệm, mục tiêu và ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy ............................................................................ 8
1.2. Nội dung và quy trình thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện
ma túy ............................................................................................................. 12
1.3. Tiêu chí đánh giá việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện
ma túy ............................................................................................................. 18
1.4. Các phương pháp thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma
túy ................................................................................................................... 19
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách sau cai nghiện ma
túy ................................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CHO NGƯỜI SAU CAI
NGHIỆN MA TÚY TẠI QUẬN SƠN TRÀ GIAI ĐOẠN 2015- 2020 .... 26
2.1. Đặc điểm, tình hình có ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà ............................................... 26
2.2. Thực trạng và kết quả tổ chức thực hiện chính sách đối với sau cai
nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà ...................................................... 30
2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà ............................................................... 43
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN
MA TÚY ........................................................................................................ 51
3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu tăng cường thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng .......... 51
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng .................................... 58
3.3. Đề xuất, kiến nghị ................................................................................... 68
KẾT LUẬN ................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
ANTT An ninh trật tự 1
BLĐTBXH Bộ Lao động thương binh và xã hội 2
3 CCB Cựu chiến binh
4 CT Chỉ thị
5 CTXH Công tác xã hội
6 HĐND Hội đồng Nhân dân
7 LHPN Liên hiệp phụ nữ
8 NSNN Ngân sách nhà nước
9 QĐ Quyết định
10 TN Thanh niên
11 TT Thông tư
12 TTg Thủ tướng
13 TW Trung ương
14 UBND Ủy ban Nhân dân
15 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng Trang
Bảng
2.1 Số liệu người sau cai nghiện ma túy được hổ trợ 39
Số liệu người quản lý sau cai nghiện ma túy tại 2.2 51 phường, xã
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiện, nhất là nghiện ma túy không chỉ là nguyên nhân gây ra các
mối bất hòa trong gia đình mà còn là nguyên nhân dẫn đến tội phạm và gây
mất trật tự an toàn xã hội. Theo một nguồn tin, khoảng 75% các tội phạm
hình sự có nguyên nhân bắt nguồn từ nghiện ma túy. Điều đáng lo ngại là số
người nghiện trong thời gian gần đây có chiều hướng gia tăng và ngày càng
trẻ hóa, đa số tập trung ở lứa tuổi từ 16- 30 tuổi, trong đó có cả học sinh, sinh
viên do đua đòi ăn chơi, bỏ học, không có việc làm, cờ bạc, rượu chè... Họ
sống không có trách nhiệm với xã hội, thiếu niềm tin vào cuộc sống và lòng
tự trọng của bản thân. Đây chính là nguyên nhân bổ sung cho các hành vi
phạm tội liên quan đến ma túy; và một điều tất yếu, khi tội phạm ma túy gia
tăng thì cũng kéo theo nhiều tệ nạn khác như mại dâm, buôn bán ma túy, đe
dọa đến tình hình an ninh trật tự xã hội, đến cuộc sống lành mạnh của người
dân và làm băng hoại đạo đức của xã hội.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã tập trung làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục để người dân, đặc biệt là giới trẻ nâng cao nhận thức và chủ
động phòng chống ma túy; đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp
luật, chiến lược nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sau cai
nghiện ma túy như: Luật phòng, chống ma túy, một số luật và các văn bản
khác dưới luật có liên quan đến công tác quản lý người sau cai nghiện ma túy
tái hòa nhập cộng đồng. Ngoài ra còn có những văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành nhằm đảm bảo sự công bằng cho tất cả mọi người trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và mục tiêu chính là tạo các điều kiện, cơ
hội để phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh…
Quận Sơn Trà có diện tích tự nhiên 63,39 km2 và dân số vào khoảng
158.380 người (Niên giám TK 2019). Là địa bàn nằm ở vị trí chiến lược về
1
quốc phòng - an ninh của thành phố Đà Nẵng. Địa giới hành chính được chia
thành 7 phường trực thuộc quận: phường Mân Thái, Thọ Quang, An Hải
Đông, An Hải Tây, Phước Mỹ, An Hải Bắc và Nại Hiên Đông. Trong những
năm qua, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 2010 tới nay, tình hình kinh tế - xã
hội của quận Sơn Trà phát triển mạnh mẽ, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển
dịch mạnh theo hướng kinh tế đô thị và có xu hướng tăng tỷ trọng các ngành
dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng ngành nông lâm - thủy sản,
kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại, văn minh, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện, văn hóa - xã hội được quan tâm đúng mức, triển khai thực
hiện tốt và có những chuyển biến tích cực, quốc phòng - an ninh từng bước
được giữ vững.
Cùng với lợi thế về vị trí địa lý, địa phương đang ngày càng phát triển.
Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển là sự phát sinh về các vấn đề về an ninh
trật tự và tệ nạn xã hội. Đặc biệt là việc sử dụng trái phép chất ma túy ngày
càng gia tăng làm ảnh hưởng rất lớn đến các mặt của đời sống xã hội: giảm
sức khỏe, suy thoái nòi giống, phá hoại hạnh phúc gia đình và phẩm giá con
người ngày càng mất giá trị gây ảnh hưởng rất lớn đến an toàn xã hội và an
ninh quốc gia.
Trước kia nghiện ma túy bị xem là một loại tệ nạn xã hội và người
nghiện ma túy bị xem là đối tượng phạm tội hình sự, thì nay họ được xem là
những bệnh nhân cần được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cắt cơn và điều trị
nghiện. Người sau cai nghiện ma túy trên con đường phục thiện vẫn mang
trong mình những mặc cảm tội lỗi và không tránh khỏi sự cám dỗ của ma túy.
Đặc biệt, người sử dụng ma túy bị phụ thuộc, trói buộc bởi tình trạng tâm lý,
khao khát, thèm muốn, đam mê sử dụng ma túy, mắc phải nhiều thứ bệnh, dễ
bị tổn thương và hay mặc cảm, lười lao động và không yêu thích lao động.
Việc thực hiện các chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy như dạy
2
nghề, tạo việc làm là một trong các nội dung quan trọng của quy trình cai
nghiện, là yêu cầu thiết yếu, tạo điều kiện cho đối tượng phục hồi tái hòa
nhập cộng đồng, phòng chống tái nghiện.
Tại thời điểm hiện nay, các chế độ, chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy thực hiện còn chung chung và còn nhiều bất cập. Tỷ lệ người
sau cai nghiện có việc làm chỉ chiếm 10% số người được chữa trị, phục hồi.
Ngoài những yếu tố khách quan thì trách nhiệm của chính quyền các cấp
chưa cao, đặc biệt tại các phường và các khu dân cư chưa được phát huy
thường xuyên và tích cực. Bản thân và gia đình của người sau cai nghiện còn
ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của xã hội chứ chưa phát huy được tinh thần
trách nhiệm với gia đình và xã hội. Chính vì vậy việc tìm kiếm việc làm còn
gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, các chính sách của Nhà nước ban hành chưa
khuyến khích, huy động được các nguồn lực xã hội trong hỗ trợ người sau cai
nghiệm ổn định tâm lý và tìm kiếm việc làm phù hợp với năng lực và trình độ
của họ. Mặt khác, các ngành nghề được đào tạo chưa được điều chỉnh tương
xứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và cá nhân của người sau cai
nghiện. Vì vậy việc hỗ trợ để người sau cai nghiện ma túy nhằm ổn định tâm
lý, tìm kiếm việc làm nhằm tạo thu nhập ổn định là một nhu cầu thiết yếu tạo
điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng thành công và từng bước trở thành
công dân có ích cho xã hội và trở thành người công dân hữu ích.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, tại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến các vấn đề về ma túy, người nghiện ma túy và người sau cai
nghiện, có thể nêu một số đề tài sau:
Đề tài cấp Bộ 2001 “Các giải pháp tạo việc làm cho người nghiện ma
túy, người mại dâm sau khi được chữa trị phục hồi” do Nguyễn Văn Minh
(2001) làm chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù nghị lực của
3
người sau cai nghiện là yếu tố quyết định, sự quan tâm của gia đình là yếu tố
quan trọng giúp người sau cai nghiện từ bỏ tệ nạn xã hội; nhiều khả năng tái
nghiện của người nghiện ma túy sau cai là do không nhận được sự quan tâm
đúng mức của cả hệ thống chính trị và cộng đồng, người sau cai nghiện
không có việc làm. Do vậy, các đề xuất của tác giả hướng tới hoàn thiện hệ
thống các giải pháp tạo việc làm cho đối tượng nhằm giúp họ ổn định cuộc
sống, giảm tỷ lệ tái phạm, tái nghiện. [5]
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố năm 2003 “Nghiên cứu các
giải pháp nhằm nâng cao quản lý cai nghiện và sau cai nghiện” của TS.
Nguyễn Thành Công. Đã chỉ ra những giải pháp nhằm hỗ trợ người sau cai
nghiện và cách thức quản lý người sau cai nghiện tại cộng đồng. Các giải
pháp chủ yếu đó là tạo được sự đồng thuận của toàn xã hội, phối hợp chặt
chẽ, tạo mọi điều kiện giúp đỡ người nghiện ma túy quyết tâm cai nghiện từ
bỏ ma túy, tìm kiếm việc làm, ổn định kinh tế gia đình để tái hòa nhập cộng
đồng góp thành công qua đó phần ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội.
Bên cạnh đó, làm tốt công tác giáo dục tuyên truyền về tác hại của ma túy,
vận động nhân dân tham gia đấu tranh, phòng, chống tác hại của ma túy; sự
vào cuộc quyết liệt của cơ quan chức năng trong việc triệt phá các tụ điểm
nóng về ma túy, bắt giữ nhiều tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố, tạo
môi trường trong sạch cho các học viên cai nghiện ma túy trở về tái hòa nhập
cộng đồng. [1]
Luận văn thạc sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn“Hoạt
động hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy. (Nghiên cứu tại
Thành phố Hà Nội)” của tác giả Lê Thị Thanh Huyền, năm 2014. Luận văn
này được tiến hành với mục đích đánh giá thực trạng nhu cầu về vay vốn, tìm
kiếm việc làm của người sau cai nghiện trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm
đưa ra những giải pháp để ổn định cuộc sống cho người sau cai nghiện ma
4
túy. Tuy nhiên, đề tài này chỉ có phạm vi nghiên cứu trong việc hỗ trợ đào
tạo nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy.[8]
Luận văn thạc sỹ Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn của
Nguyễn Thị Hằng với đề tài “Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong
việc trợ giúp người nghiện ma túy tham gia chương trình Methadone (Nghiên
cứu tại cơ sở điều trị methadone quận Nam Từ Liêm)” năm 2016 đã mô tả
khái quát về nghiện ma túy cũng như vai trò của nhân viên Công tác xã hội
trong quá trình tham vấn, hỗ trợ người nghiện đang tham gia chương trình
điều trị thay thế bằng thuốc Methadone. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng
chỉ ra và phân tích các hoạt động trong việc hỗ trợ người nghiện ma túy đang
tham gia chương trình điều trị bằng Methadone, trong đó có hoạt động tư
vấn/tham vấn tâm lý cho người nghiện ma túy. [5]
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xây dựng khung lý thuyết về thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện; đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách đối với người
sau cai nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà, luận văn đề xuất các giải
pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách đối với người sau cai nghiện trên
địa bàn quận Sơn Trà.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách đối với người
sau cai nghiện ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính đối với người sau cai nghiện
tại quận Sơn Trà - TP Đà Nẵng
- Đề xuất một số giải pháp trong thực hiện chính sách đối với người
sau cai nghiện trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Chủ thể triển khai thực hiện chính sách: là các cơ quan của nhà nước từ
cấp Trung ương đến địa phương, trong đó Chính phủ giao ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội là chủ công cùng với đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính nhà nước có thẩm quyền.
Đối tượng thụ hưởng chính sách: Là người sau cai nghiện ma túy và
gia đình của người sau cai nghiện ma túy; cán bộ, công chức, viên chức phụ
trách công tác cai nghiện ma túy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện dưới góc độ ngành chính sách công.
Sau cai nghiện có nhiều loại, song luận văn chỉ nghiên cứu sau cai nghiện ma
túy tại địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015- 2019.
- Phạm vi về không gian:
Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện thực tiễn tại quận Sơn Trà.
- Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện
chính sách đối với người sau cai nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối, chủ trương, cuả Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
quyền con người nói chung và chính sách đối với người nghiện ma túy nói
riêng.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp logic
và lịch sử, phương pháp tiếp cận chức năng xã hội, tổng hợp, so sánh, thống
kê, quy nạp, diễn dịch.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức sâu hơn và đầy
đủ hơn về thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy, thực
trạng thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng và các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo thiết
thực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng và những ai quan
tâm nghiên cứu vấn đề thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma
túy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ở nước ta hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà giai đoạn 2015 – 2019.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà đến năm 2022.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, mục tiêu và ý nghĩa của việc thực hiện chính sách
đối với người sau cai nghiện ma túy
Chính sách đối với người nghiện ma túy được Nhà nước ban hành và
tổ chức thực hiện. Vì vậy trước khi đưa ra khái niệm về chính sách đối với
người nghiện ma túy cần thống nhất cách hiểu chung về chính sách công.
* Khái niệm chính sách công
Trong khoa học chính sách công, “chính sách công” được tiếp cận
nhiều cách khác nhau. William I.Jenkin cho rằng “chính sách công là một tập
hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một
nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để
đạt được những mục tiêu đó”. Còn Kraft và Furlong lại cho rằng “chính sách
công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để
đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu
chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các quy định
và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình”,
“chính sách công là thái độ ứng xử của nhà nước đối với các vấn đề phát
sinh trong đời sống xã hội được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng”…. [2, tr.48-51]. Trong
khoa học chính sách công nước ta, chính sách công cũng được nhận thức
không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn có quan điểm cho rằng “Chính sách
công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn để giải quyết các vấn đề
phát sinh trong đời sống cộng đồng, phù hợp với thái độ chính trị và điều
kiện kinh tế - xã hội trong mỗi thời kỳ” [15, tr.267]; Theo một quan điểm
khác “Chính sách công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn để
8
giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng phù hợp với thái
độ chính trị trong mỗi thời kỳ nhằm đảm bảo cho xã hội phát triển ổn định,
bền vững” [3, tr.167].
Như vậy, tùy theo cách tiếp cận của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa
ra có thể nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách
công. Những đặc trưng này phản ánh những góc độ khác nhau, song chúng
đều chứa đựng những nét đặc thù của chính sách công. Chính sách công được
quan chỉ dẫn có tính nguyên tắc cho các hoạt động của các cơ quan hành
pháp nhằm ứng xử với các vấn đề đang đặc ra trong nền kinh tế - xã hội sao
cho phù hợp với pháp luật và tập quán của xã hội.
* Chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy
Hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có
khái niệm chính thống nào về người sau cai nghiện ma túy. Theo văn bản
hiện hành thì người nghiện ma túy phải trải qua 5 giai đoạn của quy trình
điều trị. Đây là giai đoạn người cai nghiện hoàn thành quy trình cắt cơn, giải
độc và trị liệu phục hồi ở các cơ sở điều trị và các cơ sở cai nghiện cộng
đồng… trở về hòa nhập cộng đồng hoặc chuyển sang Trung tâm quản lý sau
cai nghiện, họ cần phải nổ lực để không tái nghiện với sự giúp sức của người
thân, chính quyền địa phương và các tổ chức.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tôi rút ra khái niệm như sau:
“Người sau cai nghiện ma túy là người từng sử dụng chất ma túy và đã thực
hiện xong các quy trình cai nghiện theo quy định của pháp luật và đang chịu
sự quản lý của địa phương cư trú hoặc tiếp tục tham gia hoạt động trong các
trung tâm quản lý sau cai nghiện nhằm từng bước tái hòa nhập cộng đồng
thành công”.
Từ đó có thể hiểu: người sau cai nghiệm ma túy là người từng sử dụng
trái phép chất ma túy và đã trải qua quá trình cai nghiện, cắt cơn, giải độc,
9
đang chịu sự quản lý của chính quyền địa phương nhằm từng bước tái hòa
nhập cộng đồng. Họ đã được hỗ trợ từ chính quyền hàng loạt các biện pháp
về tâm lý, y tế, xã hội… từ đó bản thân họ từng bước xóa bỏ được mặc cảm,
tự ti và tái hòa nhập cộng đồng. Đây là giai đoạn quan trọng để người sau cai
nghiện ma túy dần loại bỏ sự lệ thuộc vào ma túy.
Người sau cai nghiện ma túy không chỉ có người nghiện đã hoàn thành
giai đoạn cắt cơn, giải độc của quá trình điều trị cai nghiện tạm thời, mà còn
có những người tiếp tục phải sử dụng các biện pháp cai nghiện lâu dài, thông
qua quá trình điều dưỡng, thanh tẩy thể chất và tinh thần do các độc tố của
ma túy còn dư lại trong cơ thể. Tiếp sau của chu trình này là tư vấn, hướng
nghiệp, học nghề và tìm kiếm việc làm.
Chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy hệ thống các văn bản
và các hoạt động mà nhà nước sử dụng để giải quyết các vấn đề có liên quan
đến người sau cai nghiện ma túy (thông qua các các quy định pháp luật, chỉ
thị, nghị quyết, các chính sách hỗ trợ…) nhằm đạt được các mục tiêu giúp đỡ
người sau cai nghiện ma túy hòa nhập cộng đồng, phòng, chống tái nghiện.
1.1.1. Khái niệm chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy
Chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy là tập hợp các chủ
trương và một số hoạt động về một phương diện nào đó của Chính phủ bao
gồm các mục tiêu muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó
thành công. Những mục tiêu nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh.
Các chính sách pháp luật và chính sách xã hội là yếu tố đầu tiên chi phối
đến hoạt động hỗ trợ đối với người sau cai nghiện ma túy, được thực hiện
dựa trên các văn bản luật, nghị định, thông tư của Chính phủ.
1.1.2. Mục tiêu của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy
10
Mục tiêu của chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy là: Tổ
chức triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quản lý người sau cai nghiện ma túy nhằm kiềm chế gia tăng người sử
dụng, người nghiện ma túy mới; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
sau cai nghiện ma túy; giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội sau cai
nghiện; phòng, chống tái nghiện, tái phạm, tạo chuyển biến tích cực trong
công tác phòng, chống ma túy nói chung, quản lý sau cai nghiện ma túy nói
riêng.
Luận văn được thực hiện nhằm đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới,
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân tại quận Sơn Trà. Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị,
đoàn thể ở các cấp các ngành và toàn xã hội, tăng cường hiệu lục quản lý nhà
nước trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội; từng bước nâng cao chất
lượng công tác giáo dục và quản lý sau cai nghiện, chữa bệnh, dạy nghề, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội sau cai nghiện, chữa bệnh; tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, có chiều sâu nhằm phòng ngừa, ngăn chăn tệ nạn ma túy, không để
nẩy sinh những điểm nóng; tiếp tục duy trì bền vững mục tiêu "không có
người nghiện ma tuý trong cộng đồng".
1.1.3. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy
Việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy mang
tính quyết định, tác động đến quá trình hỗ trợ xã hội cho người sau cai
nghiện, giúp người sau cai được hưởng các chính sách hỗ trợ, được quan tâm,
chăm sóc về vật chất và tinh thần. Ngược lại, nếu chính sách không cụ thể, rõ
11
ràng, còn chung chung, hình thức thì hậu quả là người sau cai nghiện không
được quan tâm hoặc quan tâm không đúng mức từ đó nguy cơ tái nghiện sẽ
rất cao.
Ngoài ra, chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tác động trực
tiếp đến các mặt đời sống xã hội: Nó trực tiếp làm giảm tỷ lệ đổ vỡ hạnh
phúc gia đình, sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách của người sau cai nghiện ma tuý
được phục hồi. Từ đó việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện
ma túy sẽ tạo thành đòn bẩy huy động cả cộng đồng chung tay góp sức hỗ trợ
người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng, giảm tỷ lệ tái nghiện,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội góp phần phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương.
1.2. Nội dung và quy trình thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện
ma túy được xây dựng trước khi đưa chính sách vào đời sống xã hội. Căn cứ
vào chức năng, nhiệm vụ, chính quyền từ trung ương đến cơ sở đều phải xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện, bao gồm: phân công nhiệm vụ; chuẩn bị
các nguồn lực; thời gian triển khai; công tác kiểm tra, giám sát và đôn đốc
thực hiện các chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy.
Chính quyền từng cấp sẽ chịu trách nhiệm trong việc triển khai thực
hiện chính sách nhằm đảm bảo chủ thể triển khai thực hiện chính sách và cả
đối tượng của chính sách thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu quả cao.
Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên sau cai nghiện ma túy, sau
cải tạo được quy định tại Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 19 Luật thanh
niên số 57/2020/QH16, ngày 16/6/2020 cụ thể như sau:
12
- Tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe cho thanh niên; phòng, chống bạo
lực gia đình, bạo lực học đường, xâm hại tình dục; phòng, chống ma túy,
HIV/AIDS; phòng ngừa bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh xã hội
khác và các nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần của thanh
niên.
- Bảo đảm cho thanh niên được cung cấp thông tin, tiếp cận dịch vụ
thân thiện về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục; được tư
vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, cung cấp dịch vụ y tế, chăm
sóc sức khỏe cho thanh niên.
Ngoài ra cũng được hướng dẫn bởi Nghị định số 78/2017/NĐ-CP,
ngày 03/7/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 120/2007/NĐ-
CP, ngày 23/7/2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thanh niên, cụ thể tại Điều 14 như sau:
- Thanh niên sau cai nghiện ma tuý hoặc sau cải tạo được chính quyền
cơ sở, gia đình và các tổ chức tiếp nhận, tư vấn về nghề nghiệp, việc làm; tạo
điều kiện học nghề, tìm việc làm, vay vốn sản xuất, kinh doanh; tạo điều kiện
tham gia các hoạt động xã hội để hoà nhập cộng đồng.
- Thanh niên sau cai nghiện ma tuý hoặc sau cải tạo của hộ nghèo hoặc
gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn được chính quyền địa phương xác
nhận, khi học nghề được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị
định này.
Từ những nội dung của xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện ma túy. Từ đó chúng ta có thể đề ra các
giải pháp cụ thể như sau:
- Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của
chính quyền, sự phối hợp tham gia tích cực của các ngành, mặt trận, đoàn thể
13
và cộng đồng trong việc thực hiện các chính sách pháp luật về quản lý sau cai
nghiện.
- Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma túy, về cai
nghiện ma túy bằng nhiều nội dung phong phú, đa dạng, hình thức phù hợp.
Đẩy mạnh tuyên truyền có chiều sâu trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tăng cường tuyên truyền bằng hình ảnh, trên đài truyền hình, sử dụng
có hiệu quả loa, đài phát thanh, bảng tin…; chú trọng công tác tuyên truyền
chiều sâu tập trung tại các khu dân cư tập trung đông công nhân lao động,
đông nhà trọ, nơi tập trung đông người sử dụng, người nghiện ma túy, trong
các công ty, xí nghiệp, trường học... Đặc biệt là tổ chức tuyên truyền sâu rộng
tại các nhà hàng, vũ trường, quán bar... nơi dễ phát sinh tệ nạn ma túy.
- Phát động toàn dân tích cực tham gia phòng, chống ma túy, tố giác
tội phạm về ma túy; vận động người nghiện tự nguyện đăng ký các hình thức
cai nghiện phù hợp; tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình điều trị
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone; khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia dạy nghề và giải quyết việc làm cho người
sau cai nghiện; thực hiện đa dạng hình thức huy động sự tham gia, đóng góp
của người dân, gia đình có người nghiện, cộng đồng cho công tác cai nghiện
ma túy, lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội khác như: Giảm
nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
- Tổ chức rà soát, đánh giá đúng, thực chất kết quả, chất lượng công
tác cai nghiện ma túy, điều trị nghiện ma túy bằng thuốc thay thế Methadone
trên địa bàn quận hiện nay.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác xây dựng các phường trên địa bàn
quận làm tốt công tác phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm.
- Tổ chức rà soát, thống kê chính xác, khoa học số liệu người sử dụng,
người nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh, cập nhật thường xuyên di biến động
14
về người nghiện ma túy trên địa bàn toàn tỉnh.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết xây dựng cơ
sở dữ liệu, chỉ số giám sát, đánh giá, báo cáo về công tác cai nghiện phục hồi,
quản lý sau cai; định kỳ đánh giá hiệu quả công tác cai nghiện, điều chỉnh nội
dung, biện pháp phù hợp nhằm không ngừng nâng cao kết quả, hiệu quả
trong công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện.
1.2.2. Tổ chức tuyên truyền về chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy
Sau khi bản kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành tổ chức triển
khai thực hiện theo kế hoạch. Việc làm đầu tiên là tập trung tuyên truyền, vận
động nhân tích cực tham gia thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy. Đây là hoạt động có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện chính
sách của cơ quan nhà nước và các đối tượng thực hiện chính sách. Công tác
tuyên truyền tốt sẽ giúp người dân nhận thức đúng đắn hơn về chính sách. Từ
đó phát huy được năng lực và tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
và nhân dân trong việc thực hiện chính sách. Thông qua công tác phổ biến,
tuyên truyền còn giúp cho cán bộ, công chức nêu cao tinh thần trách nhiệm
trong thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy. Từ đó phát
huy được năng lực trong việc thực hiện nhiệm vụ, tích cực tìm ra giải pháp
phù hợp đối với từng địa phương, đơn vị trong việc thực hiện chính sách và
triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được
giao.
Công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách đối với người
sau cai nghiện ma túy phải được triển khai thường xuyên, liên tục, linh hoạt,
sáng tạo để mọi đối tượng nhận thức đúng đắn, tích cực tham gia vào thực
hiện chính sách. Từ đó để các đối tượng thực hiện chính sách có hứng thú khi
15
tiếp cận như: trao đổi trực tiếp, thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng, các buổi tuyên truyền, sân khấu hóa, kịch, các câu lạc bộ đồng đẳng…
1.2.3. Huy động nguồn lực thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy
Nhằm thực hiện tốt việc huy động các nguồn lực để thực hiện các
chính sách: chính sách hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai
nghiện ma túy; chính sách hỗ trợ phòng chống tái nghiện; chính sách hỗ trợ
đào tạo nghề; chính sách hỗ trợ hướng nghiệp và tìm kiếm việc làm cho
người sau cai nghiện ma túy … đòi hỏi quá trình triển khai thực hiện chính
sách cần rất nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó phải kể đến hai nguồn lực
lớn nhất, đó là:
- Nguồn lực về con người (nguồn nhân lực). Đây là nguồn lực quan
trọng nhất bởi vì nó có thể kiểm soát các nguồn lực khác; chúng ta có thể
khai thác tối đa năng suất, hiệu quả của nguồn lực này. Để thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện ma túy là tất cả cán bộ, công chức, các tổ
chức, cá nhân trong xã hội và các đối tượng của chính sách cùng tham gia
vào quá trình triển khai thực hiện chính sách nhằm đưa chính sách vào đời
sống xã hội. Để triển khai thực hiện chính sách có hiệu quả, điều quan trọng
nhất là đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực, có trình độ chuyên môn sâu.
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách là quá trình xây dựng kế hoạch, phân
công nhiệm vụ cho mỗi tổ chức, cá nhân, cơ quan, đơn vị và đội ngũ cán bộ
để đưa chính sách vào đời sống và duy trình để chính sách có tác động tích
cực đối với xã hội.
- Nguồn tài chính có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên đối tượng sau
cai nghiện, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng, phát triển kinh tế và ổn định cuộc
sống. Nguồn lực này được huy động từ các nguồn: ngân sách nhà nước, vốn
việc trợ (ODA), các dự án phi chính phủ, xã hội hóa và huy động từ cộng
16
đồng…
1.2.4. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy
Chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy khi được tổ chức thực
hiện cần có sự chung tay thực hiện của các cấp, nhiều các ngành ở nhiều lĩnh
vực khác nhau. Vì thế các chủ thể tham gia vào quá trình này rất đa dạng và
phong phú, bao gồm đối tượng của chính sách (người nghiện ma túy), gia
đình của người nghiện ma túy, các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các tổ
chức, cá nhân và toàn xã hội... Bởi vậy, muốn tổ chức thực hiện chính sách
đối với người sau cai nghiện ma túy đạt được kết quả cao cần có sự phối hợp
chặt chẽ từ nhiều cơ quan, đơn vị và chính quyền địa phương . Trong công
tác phối hợp cần có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng. Hoạt động này
cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo để duy trì chính sách được ổn định và từng
bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính sách sau cai nghiện ma túy.
1.2.5. Kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện chính sách
đối với người sau cai nghiện ma túy
Thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy do nhiều tổ
chức, cá nhân và cả hệ thống chính trị cùng tham gia. Tùy điều kiện, hoàn
cảnh, vị trí địa lý và văn hóa từng vùng khác nhau, trình độ, năng lực của cán
bộ không đồng đều nên việc thực hiện chính sách này ở từng địa phương, đơn
vị cũng khác nhau. Từ đó cần triển khai công tác kiểm tra, giám sát thường
xuyên. Qua kiểm tra, đôn đốc thường xuyên sẽ giúp cho nhà nước nắm bắt
được tình hình thực hiện chính sách, từ đó đánh giá được một cách khách
quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức thực hiện chính
sách; giúp phát hiện những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch tổ chức thực
hiện để điều chỉnh; tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng các hoạt động giữa các
cơ quan, đơn vị và đối tượng thực hiện chính sách; tạo ra sự thống nhất cao
17
trong việc thực hiện mục tiêu chính sách; kịp thời khuyến khích những mô
hình cai nghiện có hiệu quả và giúp người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng
đồng thành công, từng bước có việc làm ổn định cuộc sống theo hướng bền
vững.
Kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện chính sách vừa kịp thời bổ
sung, hoàn thiện chính sách, vừa điều chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính
sách, giúp nâng cao kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan nhà nước
từ trung ương đến địa phương.
Chủ thể kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện chính sách đối với sau
cai người nghiện ma túy là các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan, chính xác, công khai, minh
bạch về kết quả kiểm tra đánh giá cần phải có sự tham gia giám sát của mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội và của chính đối tượng chính sách. Có
như vậy mới bảo đảm được tính dân chủ trong quá trình thực hiện chính sách.
1.3. Tiêu chí đánh giá việc thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy
Tính hiệu lực của chính sách: Đây là tiêu chí phản ánh khả năng tác
động vào xã hội của chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy, nó thể
hiện trên các khía cạnh; hiệu lực theo đối tượng điều chỉnh, hiệu lực theo
thẩm quyền quản lý, hiệu lực theo không gian và hiệu lực theo thời gian tác
động của chính sách.
Tính hiệu quả của chính sách: Là những kết quả đạt được so với chi phí
phải bỏ ra để thực hiện chính sách. Kết quả này trong thực tế phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau như cách thức tổ chức thực hiện và sự hợp tác của các
đối tượng trong quá trình chính sách...
Kết quả thực hiện chính sách: Là những lợi ích mà chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy mang lại cho các đối tượng hưởng chính sách và
18
cho toàn xã hội. Tiêu chí này có thể bao gồm những kết quả đạt được so với
mục tiêu mà chính sách hướng đến và kết quả số người sau cai nghiện ma túy
tái hòa nhập cộng đồng thành công trên địa bàn.
1.4. Các phương pháp thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy
1.4.1. Đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phòng
ngừa
Đổi mới công tác giáo dục, phổ biến các quy định của pháp luật về cai
nghiện, quản lý sau cai, phòng, chống và kiểm soát ma túy với nhiều nội
dung phong phú, hình thức phù hợp; đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng, sử dụng có hiệu quả loa, đài truyền thanh,
bản tin của địa phương, tuyên truyền trực tiếp thông qua các hoạt động của
các ban, ngành, đoàn thể các cấp, các tổ chức xã hội như : tọa đàm, sinh hoạt
câu lạc bộ, tư vấn, sân khấu hóa...
Tập trung tuyên truyền tại địa bàn dân cư, trong các trường học, cơ
quan, doanh nghiệp, cơ sở cai nghiện ma túy, quán bar, vũ trường trên địa
bàn... Chú trọng tuyên truyền đối với những người có nguy cơ cao, người sau
cai nghiện ma túy ở cộng đồng, học sinh, sinh viên trong các trường học, cán
bộ, người lao động trong các doanh nghiệp. Phối hợp giữa các cơ quan, đoàn
thể trong công tác vận động người nghiện tự nguyện đi cai nghiện, giúp đỡ,
quản lý người sau cai nghiện ma túy, giảm tỷ lệ tái nghiện.
1.4.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý sau cai
nghiện, điều trị nghiện ma túy
Thực hiện tốt công tác tiếp nhận, quản lý sau cai nghiện, trị bệnh, giáo
dục, dạy nghề, tạo việc làm và đảm bảo an ninh trật tự tại địa bàn dân cư;
thực hiện tốt và bảo đảm các nguồn lực hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho
người sau cai nghiện ma túy.
19
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội
ngũ viên chức, người lao động thực hiện công tác quản lý sau cai nghiện, đáp
ứng yêu cầu công tác quản lý sau cai nghiện.
Tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chế
độ, chính sách, các quy định pháp luật về công tác quản lý sau cai nghiện tại
các địa phương trên địa bàn quận.
1.4.3. Tăng cường thực hiện các biện pháp quản lý và giúp đỡ người
sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng
Thực hiện tốt công tác quản lý sau cai nghiện ma túy; nâng cao hiệu
quả công tác phối hợp giữa chính quyền địa phương với cơ sở dạy nghề, các
doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người sau cai nghiện ma túy học
nghề, lao động sản xuất, giải quyết việc làm.
Các ban, ngành có liên quan phải làm tốt công tác tiếp nhận, hỗ trợ,
giúp đỡ, quản lý người sau cai nghiện, đảm bảo 100% số người đã cai nghiện
bắt buộc tại cơ sở trở về cộng đồng được quản lý sau cai tại nơi cư trú bằng
các hình thức phù hợp; hạn chế thấp nhất tỷ lệ tái nghiện; đẩy mạnh hỗ trợ
dạy nghề, tạo việc làm, thu nhập cho người sau cai nghiện ổn định cuộc sống.
Tổ chức triển khai thực hiện các hình thức liên kết, phối hợp giữa cơ
sở cai nghiện, chính quyền địa phương với cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh để tạo điều kiện cho người sau cai nghiện ma túy thuận lợi
trong học nghề và lao động sản xuất, giải quyết việc làm.
1.4.4. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ trực tiếp
làm công tác quản lý sau cai nghiện ma túy
Thực hiện đào tạo theo chương trình khung, giáo trình, điều kiện, tiêu
chuẩn, trình tự, thủ tục... về quản lý sau nghiện nhằm từng bước chuẩn hóa
đội ngũ cán bộ.
Xây dựng kế hoạch tiếp tục mở các lớp đào tạo cơ bản và nâng cao đối
20
với cán bộ làm công tác quản lý sau cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
Tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý và
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên trách làm công
tác phòng chống tệ nạn xã hội, Điểm tư vấn điều trị nghiện ma túy tại
cộng đồng, Đội hoạt động xã hội tình nguyện và cộng tác viên truyền thông
phòng, chống tệ nạn xã hội của các phường và các đoàn thể.
Thực hiện hợp tác quốc tế trong công tác quản lý sau cai nghiện ma
túy, nhằm tranh thủ sự tài trợ về tài chính, giúp đỡ về chuyên môn kỹ thuật và
kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế trong công tác quản lý sau cai nghiện
ma túy.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách sau cai
nghiện ma túy
1.5.1. Năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ,
công chức ở các cấp trong công tác thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy
Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện ma túy. Năng lực tổ chức, quản lý của nhà
nước và của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về
đạo đức công vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để
có thể chủ động ứng phó được với những tình huống phát sinh trong quá trình
tổ chức thực hiện chính sách...
Trong thực hiện nhiệm vụ được giao đòi hỏi cán bộ, công chức của các
cơ quan, đơn vị cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tâm, tận tụy với công
việc, ý thức kỷ luật cao, có như vậy mới đạt hiệu quả. Đây là nội dung rất
quan trọng trong việc chuyển tải nội dung thông tin, mục tiêu chính sách của
nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tiễn sẽ dẫn đến việc xây
21
dựng các kế hoạch không đi sâu vào thực tế sẽ lãng phí nguồn nhân lực huy
động được. Từ đó làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách trong quá trình
tổ chức thực hiện.
1.5.2. Chất lượng công tác vận động, tuyên truyền về chính sách
Công tác tuyên truyền về chính sách đối với người sau cai nghiện ma
túy nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức và cho các đối
tượng của chính sách để họ chủ động, tự giác tham gia vào quá trình chính
sách của nhà nước đảm bảo chính sách đi vào cuộc sống. Chính sách nếu
được tổ chức một cách khoa học và hợp lý sẽ có tác dụng làm thay đổi nhận
thức và chuyển biến về hành vi của các đối tượng khi tham gia vào quá trình
thực hiện chính sách sau cai nghiện ma túy.
Trong thực tiễn thực hiện chính sách về sau cai nghiện ma túy ở nước ta
hiện nay, công tác vận đồng tuyên truyền còn mang tính máy móc, hình thức,
chưa thật sự đi vào chiều sâu, còn chung chung, hình thức nên kết quả vận
động tuyên truyền chưa cao, chưa tạo được động lực cho người sau cai
nghiện ma túy thấy rằng việc từ bỏ ma túy là cần thiết đối với mình, với gia
đình và toàn xã hội.
1.5.3. Điều kiện và nguồn lực để thực hiện chính sách của Nhà nước
Để triển khai thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy
đạt được hiệu quả trong điều kiện hiện nay, nhà nước luôn phải tăng cường
các nguồn lực vật chất để phục vụ cho việc triển khai thực hiện chính sách.
Trong đó, nguồn lực tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm
nguồn lực thực hiện các chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy và
quản lý sau cai nghiện. Tuy trong thời gian qua nước ta đã đạt được nhiều kết
quả trong công tác quản lý cai nghiện ma túy, một số người sau cai nghiện đã
có việc làm ổn định cuộc sống nhưng hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra,
đó là mối quan hệ giữa nguồn lực đảm bảo cho công tác an sinh xã hội với
22
nguồn chi cho công tác quản lý sau cai nghiện ma túy. Đây là bài toán khó,
bởi vì xu hướng hiện nay, nhiều cơ quan, tổ chức cho rằng cần mở rộng thêm
đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội từ nhà nước; tuy nhiên với
điều kiện kinh tế của đất nước vào thời điểm này còn gặp rất nhiều khó khăn
nên vấn đề này chưa được khả thi. Vì vậy rất cần sự đồng thuận của cộng
đồng, các tổ chức xã hội và các doanh nghiệp trong công tác phối hợp quản
lý người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng.
- Cộng đồng có tác động quan trọng trong quá trình hỗ trợ các hoạt
động của công tác quản lý sau cai diễn ra, bao gồm: hàng xóm, bạn bè, đồng
nghiệp, những người thân thiết với người sau cai nghiện ma túy. Sự hỗ trợ về
tinh thần thông qua các hoạt động thăm hỏi, động viên, tạo mối quan hệ thân
thiết, gần gũi, tránh kỳ thị sẽ giúp người sau cai nghiện ma túy cảm thấy
được quan tâm, có suy nghĩ tích cực hơn, từ đó hòa nhập cộng đồng nhanh
chóng và hiệu quả. Ngoài ra, cộng đồng còn hỗ trợ người sau cai nghiện về
vấn đề việc làm, giúp họ tiếp cận các công việc phù hợp. Ngược lại, nếu
không được sự quan tâm chia sẻ của cộng đồng người sau cai nghiện ma túy
sẽ gặp rất nhiều khó khăn, tâm lý mặc cảm, tự ti từ đó dẫn đến bế tắc và có
thể dẫn đến các hành vi tiêu cực và tái nghiện, thậm chí là đánh nhau, trộm
cắp và có thể dẫn đến giết người.
- Các tổ chức xã hội tại địa phương sẽ là các câu lạc bộ quản lý sau cai
hoặc đội xã hội tình nguyện. Các tổ chức này có vai trò hỗ trợ tâm lý cho
người sau cai nghiện khi gặp khủng hoảng nhằm tư vấn, trao đổi kinh nghiệm
và là cầu nối để người sau cai nghiện tiếp cận việc làm. Trong quá trình hoạt
động, các tổ chức xã hội nếu thực hiện tốt vai trò của mình sẽ giúp người sau
cai nghiện ma túy có động lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, được quan tâm,
được đối xử công bằng và được tiếp cận các nguồn hỗ trợ khác nhau mà các
23
tổ chức xã hội đem lại. Ngược lại, nếu hoạt động của các tổ chức xã hội
không thường xuyên, hiệu quả kém sẽ khiến người sau cai nghiện ma túy
cảm thấy bị cô lập và việc tiếp cận các thông tin về dịch vụ, việc làm và vốn
vay hạn chế.
- Đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết
việc làm, tạo ra thu nhập ổn định cho người sau cai nghiện ma túy. Do đó,
các doanh nghiệp cần mạnh dạn tiếp nhận người sau cai nghiện vào làm việc,
hỗ trợ họ học nghề từ đó giúp người sau cai nghiện cảm thấy mình có ích, có
động lực phấn đấu vươn lên. Như vậy, vấn đề về an ninh trật tự và an sinh xã
hội được đảm bảo, từng bước giảm tỷ lệ người thất nghiệp. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp vẫn còn thái độ kỳ thị, chưa cởi mở trong việc tiếp nhận người
sau cai nghiện ma túy vào làm việc khiến họ cảm thấy không được tôn trọng,
chán nản, không có thu nhập, kinh tế không ổn định và sẽ khó khăn trong
việc xây dựng cuộc sống mới, cản trở việc tái hòa nhập cộng đồng.
1.5.4. Những yếu tố thuộc về người sau cai nghiện ma túy
Người sau cai nghiện ma túy là một chủ thể thuộc nhóm người yếu thế
trong xã hội cần được trợ giúp. Sự hợp tác của họ là một trong những yếu tố
quyết định đến việc thực hiện chính sách có đạt hiệu quả hay không. Do đó
việc nắm bắt các đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu của người sau cai nghiện
ma túy sẽ giúp cho việc định hướng và xây dựng kế hoạch thực hiện chính
sách hổ trợ được thuận lợi hơn.
- Về sinh lý: sức khỏe bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các chức năng của
cơ quan sinh sản, hô hấp và nội tiết bị rối loạn. Thể lực và tinh thần giảm sút,
dễ mắc các bệnh như: lao, viêm gan B, giang mai, HIV….
- Về đặc điểm tâm lý: người sau cai nghiện ma túy họ dễ bị phân biệt,
đối xử từ những người xung quanh nên có cảm giác đơn độc và tâm lý buông
xuôi. Bên cạnh đó, họ xuất hiện sự tự kỳ thị về quá khứ, về những hậu quả đã
24
gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nên họ tự tách mình ra khỏi người
thân và cộng đồng từ đó sẽ dẫn đến việc suy nghĩ cực đoan, hành động tiêu
cực và sẽ tái sử dụng ma túy và có thể sẽ có những hành động cực đoan như:
trộm cắp, đánh nhau…
Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1, tác giả đã tập trung khái quát những vấn đề cơ bản có
tính lý luận về ma túy, nghiện ma túy, người nghiện ma túy, cai nghiện ma
túy, người sau cai nghiện ma túy và thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy tại cộng đồng.
Đồng thời tác giả đã xây dựng khung lý thuyết về quy trình tổ chức
triển khai thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy gồm 5
bước: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện; phổ biến, tuyên truyền về
chính sách; huy động nguồn lực để thực hiện chính sách; phân công nhiệm vụ
và phối hợp thực hiện; kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện. Đây chính là cơ
sở lý luận và là thước đo để tác giả đi vào phân tích thực trạng thực hiện
chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng được trình bày ở chương 2.
25
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA
TÚY TẠI QUẬN SƠN TRÀ GIAI ĐOẠN 2015- 2020
2.1. Đặc điểm, tình hình có ảnh hưởng đến việc thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà
2.1.1. Về đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý:
Quận Sơn Trà ngày nay, là địa bàn của Khu Đông – Sông Đà và Quận
III trước đây. Nằm ở phía đông của thành phố Đà Nẵng, là một trong 8 quận,
huyện của thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Quận có ba mặt giáp
sông, biển. Sơn Trà có 02 hướng giáp biển Đông (hướng Đông và Bắc),
hướng Tây giáp Vịnh Đà Nẵng (Âu thuyền cảng cá Thọ Quang) và sông Hàn,
hướng Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn.
Sơn Trà có vị trí chiến lược về quốc phòng - an ninh của khu vực và
quốc gia - núi Sơn Trà án ngữ như một bức tường thành vững chắc, có hải
cảng quốc tế (cảng Tiên Sa) - là nơi giao thương hàng hóa của khu vực miền
trung - tây nguyên (quốc lộ 14B nối Tây nguyên và Lào). Sơn Trà còn có bờ
biển đẹp - thu hút các nhà đầu tư đến với Đà Nẵng trong những năm gần đây
làm cho bộ mặt của thành phố ngày càng khang trang, sạch đẹp và phát triển.
* Địa hình
Tổng diện tích đất của quận Sơn Trà có diện tích: 59,32 km2, chiếm
4,62% diện tích toàn thành phố. Địa hình của quận Sơn Trà là loại địa hình
đồng bằng ven biển tương đối bằng phẳng dốc dần từ đường Ngô Quyền và
chân núi bán đảo Sơn Trà ra biển, loại này chiếm 90%; loại địa hình thấp
chiếm khoảng từ 7-8%, loại địa hình gò, đồi do cát bồi lâu đời chiếm 1-2%.
Về thổ nhưỡng, Sơn Trà có 3 tổ hợp đất chính: đất núi vàng nâu, đất đồi vàng
nâu và đất cát ven biển. Do có cấu tạo từ đá Granit nên đất có thành phần cơ
26
giới nhẹ, khả năng giữ nước kém.
* Khí hậu
Quận Sơn Trà nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình,
nhiệt độ cao và ít biến động. Sơn Trà còn thường xuyên bị ảnh hưởng của
bão, trung bình hàng năm có 1-2 cơn bão đi qua, ba đến năm năm có một cơn
bão lớn.
* Tài nguyên
Quận Sơn Trà có chiều dài bờ biển trải dài gần 3km, có bán đảo Sơn
Trà là một trong những bãi tắm đẹp của thành phố Đà Nẵng. Thiên nhiên đã
dành cho Sơn Trà nhiều địa điểm lý tưởng để tổ chức các hoạt động du lịch,
nghỉ dưỡng như: suối Đá, bãi Bụt, bãi Xếp, bãi Trẹm, bãi Rạng, bãi Nam, bãi
Bắc, bãi Tiên Sa, bãi Đá Đen, dải cát ven biển từ Thọ Quang đến Mỹ Khê,
ven biển có nhiều bãi cát đẹp,...Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà với khung
cảnh hoang dã có suối - rừng nguyên thuỷ, tất cả tạo nên khung cảnh kỳ vĩ,
lôi cuốn sự hiếu kỳ của con người để đầu tư thành vùng du lịch sinh thái. Sơn
Trà có làng nghề khai thác hải sản lâu đời và mang trong mình nhiều bản sắc
dân tộc, có các lễ hội độc đáo của ngư dân miền Trung như: Lễ hội Cầu ngư,
nghinh Ông và các hoạt động văn hóa- thể thao đặc sắc như: hát bài chòi, đua
ghe, lắc thúng. Sự kết hợp hài hòa giữa những nét đẹp riêng có của thiên
nhiên và các hoạt động văn hóa dân gian chính là tiềm năng để Sơn Trà phát
triển mạnh về du lịch trong thời gian qua không chỉ của Đà Nẵng mà của cả
miền trung nói chung.
Sơn Trà có vị trí thuận lợi như vậy, cùng với điều kiện tự nhiên phong
phú, hệ động thực vật đa dạng, có nhiều bãi biển đẹp trải dài và các khu du
lịch sinh thái tự nhiên phong phú góp phần phát triển du lịch hiệu quả, giao
lưu phát triển kinh tế theo hướng mở. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển
kinh tế- xã hội là sự gia tăng dân số cơ học từ đó sẽ tạo điều kiện để các đối
27
tượng xấu đến ở tại địa bàn, kéo theo các hệ lụy về việc đảm bảo tình hình an
ninh trật tự, đặc biệt là tệ nạn về ma túy, mại dâm ngày càng tăng cao, các đối
tượng sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng nhiều và trẻ hóa trong lứa tuổi
thanh thiếu niên…số lượng người quản lý sau cai nghiện sẽ ngày càng tăng.
Từ đó việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy sẽ gặp
rất nhiều khó khăn trong việc quản lý địa bàn, quản lý con người…
2.1.2. Về đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục
* Về kinh tế, xã hội:
Tình hình sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ trên địa bàn quận
trong những năm gần đây hoạt động ổn định, các chỉ tiêu thương mại dịch vụ,
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt và vượt tiến độ theo kế hoạch đề ra.
Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn giai đoạn 2015-2019 đạt trung bình 21.137
ngàn tỷ đồng, tăng bình quân 10,21%/năm. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ
giai đoạn 2015-2019 tăng bình quân 10,38%/năm. Giá trị sản xuất ngành
công nghiệp – xây dựng tăng bình quân 10,67%/năm, trong đó công nghiệp
tăng 10,96%/năm. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân
2,67%/năm.
Hệ thống y tế luôn được kiện toàn và nâng cao chất lượng. Với 01
Trung tâm y tế, 07 trạm y tế phường, công tác y tế của quận đã đáp ứng yêu
cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh của nhân dân trên địa bàn.
Trung tâm y tế quận được công nhận là bệnh viện hạng 2, với đầy đủ các
khoa phòng hoàn chỉnh, hệ thống trang thiết bị đầy đủ, từng bước trang bị
hiện đại, đội ngũ cán bộ y tế có tay nghề, năng động, sáng tạo. Bảy trạm y tế
phường hoạt động có hiệu quả, đạt tiêu chí Quốc gia về y tế xã, phường giai
đoạn 2010-2020.
* Về văn hóa, giáo dục
Giáo dục - đào tạo được quan tâm đầu tư phát triển và đạt được nhiều
28
kết quả ấn tượng. Hiện nay trên địa bàn quận có 23 trường mầm non công lập
và tư thục, 12 trường tiểu học, 08 trường trung học cơ sở, 05 trường THPT,
01 Trung tâm giáo dục thường xuyên. Trong đó có 07/08 trường mầm non
công lập đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 02 trường mầm non đạt chuẩn quốc
gia cấp độ 2), 09/12 trường tiểu học đạt chuẩn và 02/08 trường trung học cơ
sở đạt chuẩn Quốc gia. Có 100% cán bộ, giáo viên đạt chuẩn đào tạo về sư
phạm, trong đó có hơn 90% giáo viên có trình độ đào tạo trên chuẩn. Trong
những năm qua, ngành giáo dục – đào tạo quận luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ
đề ra và đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ.
Văn hóa, văn minh đô thị từng bước được hoàn thiện và nâng cao như:
tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, di tích lịch sử của địa
phương; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh từng bước phát triển đi vào chiều sâu; thường xuyên quan tâm xây dựng
có Chương trình hành động thành động lực thúc đẩy xã hội như: Chương
trình “thành phố 4 an”, Chương trình thành phố“ 05 không, 3 có”, “05 xây,
03 chống” trong cán bộ, công chức…
Công tác đảm bảo an sinh xã hội được quan tâm thường xuyên, đặc
biệt trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ chính sách khó
khăn, hộ phụ nữ đơn thân nuôi con… được cả hệ thống chính trị và xã hội
quan tâm. Cơ sở hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng đồng bộ, đảm bảo
giao lưu hàng hóa, phát triển du lịch và đáp ứng nhu cầu đi lại và sinh hoạt
của người dân. 100% hộ gia đình được sử dụng nước sạch và điện lưới quốc
gia. Công tác đảm bảo vệ sinh môi trường được chú trọng, hệ thống xử lý
nước thải được nâng cấp và xây dựng mới đồng bộ, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt của địa phương. Việc chỉnh trang, giải tỏa trên diện rộng được đầu tư rất
nhiều, đường xá tại kiệt hẻm được đầu tư bê tông hóa đáp ứng mục tiêu phát
triển ngành dịch vụ- du lịch của địa phương thành ngành nghề mũi nhọn
29
trong tương lai.
Về dân số, theo số liệu thống kê năm 2019, tổng số dân là 158.380
người. Với mật độ dân số trung bình 2.498,5 người/km2, Sơn Trà là quận có
mật độ dân số trung bình thấp của thành phố Đà Nẵng. Cơ cấu lao động có sự
chuyển dịch rõ nét theo hướng công nghiệp hóa, lao động sản xuất nông
nghiệp ngày càng giảm do quá trình quy hoạch, chỉnh trang đô thị trên diện
rộng.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế- xã hội ngày càng phát triển, đời
sống Nhân dân ngày càng được nâng cao từ đó người sau cai nghiện ma túy
có điều kiện thuận lợi hơn để sửa chữa sai lầm, từng bước trở thành người có
ích cho xã hội.
Tuy nhiên trong những năm qua, Sơn Trà ngày càng phát triển hiện
đại, đáp ứng với yêu cầu phát triển thành phố Đà Nẵng trong tình hình mới
với hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, bộ mặt Sơn Trà ngày càng khang trang
thu hút các nhà đầu tư đến với địa phương thì tình hình tội phạm đặc biệt là tệ
nạn ma túy ngày càng diễn biến phức tạp; địa bàn hoạt động của loại tội
phạm ma túy trong những năm gần đây tập trung ở khu vực thành thị, các đối
tượng lợi dụng quán bar, karaoke, khách sạn, nhà nghỉ… để tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy. Nhiều loại ma túy mới xuất hiện; việc sử dụng trái
phép chất ma túy, nhất là ma túy tổng hợp gia tăng trong thanh, thiếu niên.
Tội phạm và tệ nạn ma túy đang là nguy cơ hiểm họa, tác động xấu đến nhiều
mặt đời sống xã hội, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
và đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn nói chung và việc thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện ma túy trên địa bàn quận nói riêng.
2.2. Thực trạng và kết quả tổ chức thực hiện chính sách đối với sau
cai nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà
30
2.2.1. Thực trạng thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện
ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà
Quận Sơn Trà là nơi tình hình các loại tội phạm về ma túy phức tạp, tỷ
lệ người nghiện ma túy tăng hàng năm, số người nghiện đi cai và tái hòa nhập
cộng đồng thành công chưa có sự thay đổi tích cực, tỷ lệ tái nghiện cao,
người sau cai nghiện ma túy chưa có việc làm nên việc thực hiện chính sách
đối với người sau cai nghiện ma túy chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Qua đó, quận Sơn Trà thực hiện các giải pháp tham mưu, chỉ đạo, điều hành,
quản lý và hỗ trợ sau cai cho đối tượng tái hòa nhập vào cộng đồng như tạo
công ăn việc làm, đề xuất vay vốn, góp phần giải quyết tốt vấn đề an sinh xã
hội trên địa bàn. Từ đó công tác quản lý sau cai nghiện đạt được những kết
quả tích cực bước đầu. Trong thời gian tới, cấp ủy, chính quyền cần quan tâm
hơn nữa đến chính sách hỗ trợ cho người sau cai nghiện ma túy, tránh kỳ thị
đối với họ, nâng cao nhận thức của người dân về công tác giúp đỡ người sau
cai nghiện giúp họ tái hòa nhập cộng đồng và từng bước thực hiện tốt
Chương trình thành phố “05 không 03 có”, Đề án thực hiện Chương trình
“Thành phố 4 an” của thành phố Đà Nẵng đạt hiệu quả.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về ma túy và kỹ
năng phòng, tránh ma túy cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thanh,
thiếu niên chưa có chiều sâu, chưa có trọng điểm nên số thanh, thiếu niên bị
rủ rê, lôi kéo sử dụng ma túy gia tăng trong khi gia đình thiếu kiến thức để
nhận biết phát hiện cũng như hỗ trợ con em trong quá trình sau cai nghiện ma
túy. Công tác tuyên truyền, phát động quần chúng tham gia phòng, chống ma
túy chưa sâu rộng, chưa tạo được hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong quần
chúng nhân dân; tâm lý, thái độ kỳ thị với người sau cai nghiện ma túy vẫn
còn phổ biến. Đối tượng cần được tập trung tuyên truyền chưa được cung cấp
đầy đủ các thông tin liên quan nên nhận thức về tình hình cũng như ý thức
31
trách nhiệm của công dân trong thực hiện chính sách, pháp luật về phòng,
chống ma túy ở cơ sở còn hạn chế. Số lượng tin báo, tố giác tội phạm về ma
túy do người dân cung cấp còn ít.
Việc quán triệt, chỉ đạo triển khai thực hiện các quy định của pháp luật
về phòng, chống ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy ở một số địa
phương chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở cấp phường. Nhiều địa
phương chưa ban hành các chương trình, kế hoạch,... liên quan đến công tác
quản lý sau cai nghiện ma túy; có nơi tuy đã ban hành nhưng còn hình thức,
chưa bám sát tình hình thực tiễn của địa phương nên hiệu quả chưa cao; việc
cập nhật, triển khai văn bản chưa thực sự được quan tâm. Cán bộ, công chức
của chính quyền và các tổ chức, đoàn thể ở nhiều địa phương còn thiếu tinh
thần trách nhiệm, thiếu chủ động cập nhật, nghiên cứu các văn bản pháp luật
nên chưa nắm được nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong công tác quản lý
sau cai nghiện, chủ yếu giao khoán cho lực lượng Công an.
Công tác đào tạo, tập huấn cho các cán bộ, công chức làm công tác liên
quan đến quản lý sau cai nghiện ma túy chưa được quan tâm đúng mức, nhất
là công chức văn hóa - xã hội, do đó hiệu quả tham mưu về quản lý sau cai
nghiện chưa cao.
Công tác thanh tra, kiểm tra của UBND quận đối với UBND các
phường và các cán bộ, công chức liên quan đến công tác quản lý sau cai
nghiện thực hiện chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao. Nhiều nơi chưa
quan tâm triển khai thực hiện các quy định của pháp luật trong công tác
phòng, chống ma túy nhưng chưa kịp thời phát hiện để chấn chỉnh, khắc
phục; một số nơi mặc dù đã có kiểm tra, cơ quan chức năng đã kiến nghị
khắc phục nhưng kết quả của việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm
chưa đáp ứng yêu cầu.
Sự tham gia của các ban, ngành, mặt trận, đoàn thể các cấp trong việc
32
quản lý, giáo dục, cảm hóa người sau cai nghiện tại gia đình và cộng đồng đạt
hiệu quả chưa cao, nhất là ở cấp phường. Sự phối hợp giữa các ban, ngành,
đoàn thể ở một số địa phương trong phòng, chống, đấu tranh với tội phạm và
tệ nạn ma túy chưa thường xuyên, chưa chặt chẽ, thiếu chủ động nên hiệu quả
chưa tương xứng với tiềm năng.
Việc bố trí kinh phí cho công tác quản lý sau cai nghiện ma túy; chế độ
chính sách cho các lực lượng tham gia quản lý sau cai nghiện ở cơ sở còn hạn
chế, các thành viên của các câu lạc bộ chưa được nhận hỗ trợ kinh phí nên
hoạt động còn chưa thường xuyên. Việc đầu tư kinh phí, nguồn lực cho công
tác quản lý sau cai nghiện ma túy ở địa phương chủ yếu từ nguồn Chương
trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy do Trung ương hỗ trợ, ngân
sách của các địa phương chi cho công tác phòng chống ma túy còn rất hạn
chế, có nhiều địa phương không phân bổ kinh phí.
Công tác dự phòng và quản lý sau nghiện ma túy chỉ thiên về truyền
thông tư vấn mà chưa có chiều sâu về hoạt động can thiệp như giáo dục kỹ
năng sống cho thanh thiếu niên, biện pháp can thiệp tại nhà trường và gia
đình và xã hội...
Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại phường còn ít
nên ảnh hưởng đến việc áp dụng các biện pháp cai nghiện. Các vụ án về ma
túy được khởi tố, truy tố, xét xử chỉ gồm ba tội danh là: buôn bán, tàng trữ,
vận chuyển trái phép chất ma túy. Trên thực tế hành vi rủ rê, dụ dỗ, xúi giục
người khác sử dụng trái phép chất ma túy xảy ra nhiều, đây là nguyên nhân
trực tiếp làm gia tăng số người nghiện ma túy trên địa bàn. Tuy nhiên, trong
thời gian qua trên địa bàn tỉnh chưa xử lý vụ án nào về tội danh lôi kéo người
khác sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 200 Bộ luật hình
sự (BLHS) 1999 và Điều 258 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
33
Nhìn chung việc triển khai thực hiện chính sách pháp luật về quản lý
sau cai nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà còn hạn chế về nhiều mặt
như đã nêu trên. Do đó, nhiều mục tiêu, chỉ tiêu trong các kế hoạch về quản
lý sau cai nghiện chưa đạt được; tệ nạn và tội phạm về ma túy không những
chưa được kiềm chế mà còn có chiều hướng gia tăng nhanh.
Bảng 2.1. Số liệu người sau cai nghiện ma túy được hổ trợ
Năm
NỘI DUNG
ĐVT
Tổng cộng
2015 2016 2017 2018 2019 680 718 180
520
641
2.739
Quản lý sau cai
122
348
449
395
435
1.749
- Số người có việc làm
122
315
459
434
440
1.770
- Số người tiến bộ
182
129
98
531
98
24
- Số người chưa tiến bộ
59
55
52
235
58
11
23
5
13
78
25
12
- Số người có nguy cơ cao - Số người được hỗ trợ vốn tạo việc làm
23
5
13
78
25
12
1
1
+ Số tiền (triệu đồng) - Số người được hỗ trợ sửa chữa nhà
50
50
0
+Số tiền (triệu đồng) - Số được hỗ trợ, bố trí chung cư
15
16
63
10
15
7
- Số được vay vốn
71
198
320
370
392
1.351
1
1
+ Số tiền (triệu đồng) - Số được hỗ trợ khó khăn thường xuyên
0
0
262
196
323
168
1.268
319
+ Số tiền (triệu đồng) - Số được hỗ trợ khó khăn đột xuất
67
159
103
108
117
554
+ Số tiền (triệu đồng)
34
2.2.2. Kết quả thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma
túy tại quận Sơn Trà
* Đối với người đang quản lý sau cai nghiện
Quận Sơn Trà và thành phố Đà Nẵng đang có quá trình đô thị hoá cao
nhất Việt Nam là bởi quá trình quy hoạch, chỉnh trang đô thị diễn ra đồng
loạt, trên diện rộng, kéo theo hàng loạt đường phố, khu tái định cư ra đời.
Quá trình chỉnh trang mạnh mẽ Sơn Trà đã có những chuyển đổi tích cực về
đời sống xã hội; các khu đô thị mới, các nhà hàng, khách sạn, các khu du lịch
nghỉ dưỡng trên bán đảo Sơn Trà… đặc biệt là các khu công nghiệp, Cảng cá
Âu thuyền Thọ Quang được hình thành ngày càng nhiều song cũng cảnh báo
về những nguy cơ về an ninh trật tự, trật tự an toàn xã hội: địa bàn bán đảo
Sơn Trà địa hình hiểm trở và ít người qua lại, các lô đất trống sau quy hoạch,
chỉnh trang đô thị còn nhiều nhưng chưa xây dựng, các đối tượng xấu từ nơi
khác đến cư trú và làm việc tại các khu công nghiệp, cảng cá ngày càng
nhiều… chính những điều kiện khách quan như vậy sẽ dễ phát sinh các vấn
đề về an ninh trật tự. Bên cạnh đó, Đà Nẵng nói chung và quận Sơn Trà nói
riêng đang trong quá trình hội nhập và phát triển thu hút lao động, các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, làm cho mâu thuẫn trong đời sống xã hội nảy
sinh, nhất là tình trạng phân hoá giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp và tác
động do ảnh hưởng của nhiều yếu tố xấu như: các luồng văn hoá độc hại, các
tệ nạn xã hội trong khu vực và thế giới đưa vào. Do vậy, có thể dự báo tình
hình tệ nạn hội tại quận Sơn Trà vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển trong những
năm tới.
- Năm 2015 có 180 người sau cai nghiện ma túy có hồ sơ quản lý đến
năm 2019 đã có 680 lượt người có hồ sơ quản lý, trong 05 năm tăng 500
người và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Từ các số liệu cụ thể sau cho
thấy thực trạng về người nghiện ma túy hàng năm tăng rất nhanh. Phần lớn số
35
đối tượng sau cai nghiện ma tuý đang quản lý tại địa phương còn trong độ
tuổi lao động, đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên; hình thức sử dụng và
loại ma tuý sử dụng đa dạng; trước đây tập trung chủ yếu ở khu vực trung
tâm thành phố, nhưng nay đã lan rộng khắp các địa bàn khu vực dân cư. Thời
gian qua Quận uỷ, HĐND, UBND đã đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và
đã huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để đấu tranh phòng chống tệ nạn
này, nhưng hiệu quả đạt được vẫn chưa như mong muốn đó là:
- Người sau cai nghiện ma túy có những nét khác biệt về tâm lý so với
người bình thường, phần lớn họ có những thay đổi về nhận thức, cảm xúc nên
khi trở về cộng đồng họ thường mặc cảm, tự ti, không muốn gặp gỡ những
người xung quanh.
- Việc làm ổn định cũng là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
tái hòa nhập cộng đồng. Thực tế cho thấy người sau cai nghiện ma túy chủ
yếu thất nghiệp, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên bản thân và
gia đình người sau cai nghiện gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế. Vì vậy cần
có sự tham gia vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, các
đoàn thể cùng các doanh nghiệp trên địa bàn quận tạo điều kiện hỗ trợ học
nghề, giải quyết việc làm tạo ra thu nhập cho bản thân để họ không còn lệ
thuộc vào ma túy.
- Ngoài ra, trình độ văn hóa và nhận thức của người sau cai nghiện
cũng ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động hỗ trợ, bởi có nhiều trường
hợp trình độ văn hóa thấp, kiến thức xã hội hạn chế, hơn nữa việc sử dụng ma
túy quá dài nên thiếu ý chí và nghị lực trong việc từ bỏ ma túy.
- Người đang quản lý sau cai nghiện nghiện ma túy trong độ tuổi thanh
thiếu niên ngày một gia tăng bởi chính họ là những người trẻ, không có việc
làm ổn định thường dễ tái nghiện hơn những người lớn tuổi, đã có gia đình và
có việc làm ổn định; thứ hai những người trẻ thường có tâm lý bốc đồng,
36
thích thể hiện bản thân nên dễ dính vào các loại tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma
túy...
* Kết quả của công tác cảm hóa giáo dục
Thời gian qua, chính quyền, mặt trận, đoàn thể từ quận đến từng
phường đã nỗ lực tiếp cận, tạo các sân chơi lành mạnh để thu hút thanh, thiếu
niên sau cai nghiện ma túy tham gia, tránh bạn bè xấu rủ rê. Qua đó đã xây
dựng được các mô hình hay, cách làm sáng tạo trong việc quản lý, giáo dục,
cảm hóa đối với các trường hợp thanh thiếu niên sử dụng trái phép chất ma
túy lần đầu sau cai nghiện trở về địa phương, từ đó tạo được các sân chơi
giao lưu để thanh thiếu niên có thông tin cần thiết, cũng như biết trao đổi với
ai mỗi khi gặp khó khăn trong cuộc sống gia đình nhằm gắn bó, tạo niềm tin
cho thanh niên.
Ngoài ra các cấp chính quyền cũng thường xuyên tổ chức các hoạt
động giao lưu văn hóa, thể dục thể thao, ngày hội sáng tạo, khởi nghiệp...
nhằm tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích góp phần nâng cao sức khỏe và định
hướng nghề nghiệp cho người sau cai nghiện ma túy. Từ đó thu hút đông đảo
thanh, thiếu niên và các tầng lớp nhân dân tham gia nhằm tuyên truyền, động
viên các em tránh xa việc vi phạm pháp luật nói chung và sử dụng chất cấm
nói riêng và tái hòa nhập cộng đồng thành công cho người sau cai nghiện ma
túy.
Các tổ chức xã hội như: Câu lạc bộ quản lý sau cai và các đội tình
nguyện đã có các hoạt động, tổ chức sinh hoạt hàng tuần dành cho hội viên
với các nội dung như: tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm…; các hoạt động mang
tính giáo dục như: tổ chức thảo luận nhóm, thực hành các bài tập tình huống,
thực hành kỹ năng phòng chống tái nghiện; tổ chức truyền thông thay đổi
hành vi; hoạt động tái hòa nhập cộng đồng: mittin, tuyên truyền, tọa đàm…
về phòng chống ma túy, giao lưu văn nghệ, thể thao, dã ngoại. Từ đó rất
37
nhiều các mô hình hay, cách làm sáng tạo ra đời như : Câu lạc bộ “Vững
bước tiến lên” của phường Thọ Quang, Câu lạc bộ quản lý sau cai của các
phường trên địa bàn quận…
- Các địa phương tổ chức phát động phong trào “toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” và phong trào “toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc” gắn
với xây dựng “tổ dân phố không có tội phạm và tệ nạn xã hội” và mô hình “1
xây, 2 chống, 3 phòng” để tuyên truyền tại các khu dân cư nhằm giáo dục,
nâng cao nhận thức cho cộng đồng về công tác phòng, chống tệ nạn xã hội;
Kết quả những năm qua, UBND thành phố giao 23 em, trong đó Hội
CCB quận nhận 9 em, Hội LHPN quận và Quận Đoàn nhận 14 em. Qua thời
gian theo dõi đã có 18 em tiến bộ, 02 em chưa tiến bộ và có nguy cơ, 01 bỏ đi
nơi khác không quản lý được và 02 em tái nghiện đưa đi cai nghiện tại cơ sở
Xã hội Bầu Bàng.
- Trong 18 em tiến bộ có 4 em được hỗ trợ sinh kế, 4 em hỗ trợ học
nghề và hỗ trợ khác cho 7 em với tổng số tiền là 108.000.000đ, còn lại 03 em
không có nhu cầu hỗ trợ;
- Hiện nay, các hội, đoàn thể vẫn tiếp tục theo dõi các em, hầu hết các
em có nhiều tiến bộ, có việc làm, chưa có biểu hiện tái sử dụng ma túy hay
các vi phạm khác. Qua theo dõi có 02 em chưa tiến bộ, có nguy cơ tái nghiện.
Các Hội, đoàn thể đã tiến hành hỗ trợ vốn cho 10 trường hợp với số tiền là
58.450.000đ: Trong đó hỗ trợ cho 02 trường hợp đi học nghề, 04 trường hợp
hỗ trợ sinh kế và 04 trường hợp hỗ trợ phương tiện đi làm; giới thiệu việc làm
cho 01 trường hợp, 02 trường hợp không có nhu cầu hỗ trợ.
- Năm 2018, thành phố giao 09 em (mỗi hội, đoàn thể 03 em): Trong
đó có 01 em không có mặt ở địa phương, 01 em đang làm hồ sơ đưa đi
trường giáo dưỡng, 01 em bị Công an bắt giam tháng 6/2018.
- Hiện còn lại 06 em qua thử text chưa phát hiện tái phạm. Đoàn thanh
38
niên đã hỗ trợ học nghề lái xe cho 01 trường hợp với số tiền là 8,5 triệu đồng.
Các trường hợp khác không có nhu cầu.
- Năm 2019, thành phố giao 10 em, Đoàn TN 04 em, Hội CCB và Hội
LHPN 6 em, qua rà soát còn 06 em có mặt ở địa phương. Tiến hành hỗ trợ
sinh kế và học nghề cho 3 em với tổng số tiền là 23 triệu đồng.
* Kết quả của công tác hướng nghiệp cho người sau cai nghiện ma
túy
Giáo dục và dạy nghề cho người sau cai nghiện ma túy là chính sách
lớn được Đảng và Nhà nước quan tâm và có nhiều chính sách cho hoạt động
này nhằm giúp cho người sau cai nghiện được học tập và có tay nghề vững
chắc, tạo điều kiện cho người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng,
phòng chống tái nghiện hiệu quả. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách dạy
nghề cho người sau cai nghiện tại địa bàn quận Sơn Trà vẫn còn những bất
cập và chưa đạt hiệu quả cao. Số người đang cai nghiện được dạy nghề hàng
năm phải theo chỉ tiêu, phụ thuộc rất lớn vào nguồn kinh phí của địa phương,
quản lý sau cai nghiện tại cộng đồng hầu như ít được đào tạo, dạy nghề phù
hợp.
Dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai nghiện là một giải pháp
quan trọng góp phần tích cực nâng cao hiệu quả công tác phòng chống ma
túy. Tuy nhiên, người sau cai nghiện do trình độ thấp, hạn chế về kỹ năng tay
nghề, bên cạnh đó là sự kỳ thị của một số người dân khiến cho người sau cai
nghiện còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận việc làm, ổn định cuộc sống.
Đối với các chủ doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nghi ngờ vào tay nghề
và quá khứ nghiệp ngập của người sau cai nghiện ma túy, họ sợ đối tượng
này gây mất an ninh trật tự, trộm cắp tại công ty, ảnh hưởng đến người khác.
Một lý do khác nữa sau khi cai nghiện trở về địa phương, tình hình sức khỏe
của người sau cai nghiện giảm sút, việc học những ngành nghề có yêu cầu tay
39
nghề cao thì không đáp ứng được. Mặc khác với sự cạnh tranh khốc liệt của
nền kinh tế thị trường nên việc đào tạo nghề cho người sau cai nghiện khiến
cho người ta trở nên e ngại, không muốn tiếp nhận. Do vậy, trong thời gian
đến chính quyền địa phương cũng như các chủ doanh nghiệp cũng cần có
những chính sách phù hợp hơn đối với người lao động là người sau cai
nghiện ma túy để họ có động lực mình là người có ích cho xã hội, được tham
gia tất cả các hoạt động bình thường khác.
Thực hiện chính sách hỗ trợ cho người sau cai nghiện ma túy vay vốn
từ các chương trình, dự án của Nhà nước, chính sách của địa phương, các tổ
chức, cá nhân. Tuy nhiên các nguồn vốn để hỗ trợ cho người sau cai nghiện
được huy động chủ yếu từ các nguồn của Hội như: Hội Nông dân, Hội Liên
hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên và các chương trình, dự
án được triển khai tại địa phương. Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn này
chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, người sau cai nghiện ma túy sử dụng
vốn vay chưa hiệu quả, việc thu hồi vốn gặp khó khăn hoặc không đủ khả
năng để trả lại. Kết quả:
- Năm 2016, UBND quận Sơn Trà mở rộng đối tượng cảm hóa, giáo
dục, giúp đỡ và giao thêm 27 em sau cai nghiện ma túy cho các đơn vị Công
an quận, Hội LHPN quận, Hội CCB quận, Quận Đoàn nhận cảm hóa, giáo
dục. Qua 1 năm quản lý, cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ còn lại 12 em có tiến bộ,
09 em tái nghiện, 5 em không tiến bộ, có nguy cơ. Có 4 em không có nguyện
vọng hỗ trợ, 1 em nguyện vọng học nghề. UBND quận đã tiến hành hỗ trợ
kinh phí cho 6 em với số tiền là 29 triệu đồng, các trường hợp còn lại UBND
các phường hỗ trợ. Các trường hợp còn lại hiện vẫn tiếp tục quản lý và đến
nay chưa có biểu hiện vi phạm.
- Năm 2017, UBND quận Sơn Trà phối hợp với Chương trình phát
triển vùng Sơn Trà mở khóa cảm hóa, giáo dục và huấn luyện các kỹ năng và
40
xác định nghề nghiệp cho 60 em sau cai nghiện ma túy: trong đó có 30 em đủ
điều kiện tham gia bảo vệ học nghề, 20 em tiếp tục với công việc đang làm
với sự hỗ trợ của gia đình và địa phương, 10 em chưa sẵn sàng tham gia bảo
vệ học nghề và tiếp tục tham gia trong khóa sau. Trong số 30 tham gia bảo vệ
học nghề, kết quả có 17/30 đạt các yêu cầu và được xét duyệt hỗ trợ học
nghề. Trong số 17 em có 12 em thuộc hộ nghèo, cận nghèo và học sinh bỏ
học, 5 em thuộc đối tượng quản lý sau cai, sử dụng ma túy lần đầu.
Lãnh đạo quận đã tổ chức được 01 buổi đối thoại trực tiếp với các
doanh nghiệp trên địa bàn nhằm tìm biện pháp tháo gỡ những khó khăn trong
quá trình đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho các em sau cai nghiện ma
túy thành công. Trong những năm qua đã đã giới thiệu 17 em vào học nghề
tại 04 cở sở dạy nghề. Trong đó có: 01 em tốt nghiệp nghề nhiếp ảnh, 01 em
nghề spa, 04 em nghề kỹ thuật pha chế, 08 em nghề kỹ thuật buồng phòng,
01 em nghề tạo mẫu tóc, 02 em nghề chế biến món ăn. Kết quả 17 em đi học
có 13 em đã tốt nghiệp và có việc làm ổn định, 02 em rớt thực tập nên đang
thi lại, 02 em bỏ học giữa chừng.
- Năm 2018, UBND quận Sơn Trà phối hợp với Chương trình phát
triển vùng đô thị Sơn Trà tiếp tục mở khóa cảm hóa, giáo dục và huấn luyện
các kỹ năng và xác định nghề nghiệp cho 40 em: trong đó có 18 em đủ điều
kiện gửi đi học nghề, đến nay có 12 em đã hoàn thành khóa học, đang đi thực
tập và 06 em bỏ học.
- Tháng 11/ 2018, UBND quận chủ trì, phối hợp với chương trình phát
triển vùng Sơn Trà tổ chức 1 khóa tập huấn kỹ năng sống và định hướng
nghề nghiệp cho thanh thiếu niên có hoàn cảnh đặc biệt trên địa bàn, có 17
em tham gia khóa học, trong đó có 06 em đang quản lý sau cai tại địa
phương. Sau khi hoàn thành khóa tập huấn, có 09 em đủ điều kiện đăng ký đi
học nghề.
41
- Năm 2019, phối hợp với chương trình Vùng Sơn Trà tổ chức 02 đợt
cảm hóa, giáo dục cho 29 em, trong đó có 11 em là đối tượng liên quan đến
ma túy, UBND quận hỗ trợ học nghề cho 06 em với số tiền 60 triệu đồng.
Đến nay có 01 em bỏ học, 04 em tái nghiện.
- Đối với người sau cai nghiện ma túy ngoài độ tuổi thanh thiếu niên,
địa phương thường xuyên phối hợp cùng với gia đình và cộng đồng trong
việc quản lý sau cai nghiện, thường xuyên gặp gỡ động viên, giới thiệu việc
làm tại các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận
nhằm tạo thu nhập ổn định cuộc sống gia đình, cùng nhau nuôi dạy con cái.
* Kết quả của công tác hỗ trợ đối tượng sau cai nghiện ma túy
Để động viên, khích lệ và hỗ trợ người sau cai nghiện ma tuý thành
công có cơ sở để ổn định cuộc sống và tránh xa tệ nạn xã hội, từ năm 2013
đến nay, thực hiện theo chính sách đặc thù do UBND thành phố Đà Nẵng đã
ban hành, hỗ trợ cho người sau cai từ 5 năm, 10 năm trở lên không tái nghiện.
Qua kiểm tra, rà soát và nắm tình hình, người sau cai nghiện ma túy
thành công năm 2014 đến nay cho thấy, hầu hết người sau cai nghiện thành
công được thành phố hỗ trợ kinh phí đã sử dụng đúng mục đích số tiền hỗ trợ
để học nghề, làm nghề, ổn định việc làm, chăm lo gia đình, vươn lên trong
cuộc sống bằng sức lao động của mình và có ý thức chấp hành các quy định
của địa phương. Những trường hợp được hỗ trợ đều có việc làm, ổn định
cuộc sống.
Được biết, chủ trương hỗ trợ cho người cai nghiện ma túy thành công
từ 5 năm trở lên không tái nghiện đã được Hội đồng nhân dân thành phố Đà
Nẵng thông qua tại Nghị quyết số 26/2012/NQ-HĐND là chính sách nhân
văn, hợp lòng dân, đã động viên, khuyến khích những người sau cai nghiện
ma túy nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Qua quá trình thực hiện, các ngành,
hội đoàn thể của địa phương cũng đã phối hợp làm tốt các bước theo quy
42
trình kiểm tra, giám sát việc hỗ trợ,…
Theo Phòng Lao động- thương binh và xã hội quận Sơn Trà cho biết
tất cả các học viên sau khi hoàn thành thời gian cai nghiện tập trung đều được
địa phương phối hợp với gia đình đón về cộng đồng, được chính quyền, đoàn
thể cùng gia đình chăm lo giúp đỡ cả về tinh thần lẫn vật chất.
Hàng tháng, ngoài việc tổ chức kiểm danh, kiểm diện, thực hiện xét
nghiệm ma túy đột xuất đối với người có nguy cơ tái nghiện, Ban chỉ đạo các
phường cùng cán bộ đoàn thể được phân công theo dõi, giúp đỡ, giáo dục
người sau cai nghiện tại các địa phương còn tổ chức gặp mặt, thăm hỏi, động
viên thân nhân và người sau cai nghiện đang hòa nhập cộng đồng để kịp thời
hỗ trợ khó khăn đột xuất,... Thực hiện Kế hoạch số 4382/KH-UBND ngày
12/6/2017 của UBND thành phố Đà Nẵng về triển khai thực hiện chính sách
hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy thành công theo Nghị quyết số
26/2012/NQ-HĐND ngày 04 tháng 7 năm 2012 của Hội đồng nhân dân thành
phố Đà Nẵng, đến nay quận Sơn Trà đã đề nghị 03 đợt với tổng số tiền hỗ trợ
là 122.000, cụ thể:
- Năm 2013 hỗ trợ 6 trường hợp với số tiền 12 triệu đồng.
- Năm 2017 hỗ trợ 9 trường hợp với số tiền 90 triệu đồng.
- Năm 2019 hỗ trợ 2 trường hợp với số tiền 20 triệu đồng.
Đến nay, 17 trường hợp trên đã thật sự từ bỏ ma túy, chưa phát hiện tái
nghiện, có việc làm ổn định, làm người công dân có ích cho xã hội.
2.3. Đánh giá chung về việc tổ chức thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà
2.3.1. Về ưu điểm trong việc thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy
Trong thời gian qua, cấp ủy, chính quyền các cấp, thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị của quận Sơn Trà đã quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực
43
hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương, đồng
loạt mở đợt tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân ý thức về tác
hại của ma túy, công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện và đã tạo được
phong trào phòng ngừa, đấu tranh phòng chống ma túy trong từng cơ quan,
đơn vị, từng địa bàn phường và các khu dân cư nhằm phát huy được sức
mạnh của cả hệ thống chính trị trong phòng, chống ma túy và quản lý sau cai
nghiện.
Quận Sơn Trà và các địa phương đã xây dựng và ban hành nhiều kế
hoạch chỉ đạo thực hiện công tác phòng chống ma túy và quản lý sau cai
nghiện tại địa phương; là địa bàn tương đối rộng và địa hình hiểm trở, có các
khu công nghiệp dịch vụ trên địa bàn nên tình hình ma túy diễn biến phức
tạp, nảy sinh về vấn đề an ninh trật tự, do đó việc chú trọng đến công tác
phòng chống ma túy và tái nghiện thông qua các hoạt động cụ thể vừa giúp
ổn định chính trị xã hội vừa đẩy lùi tệ nạn ma túy giúp cho người sau cai
nghiện tái hòa nhập cộng đồng. Đây là một việc làm hết có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc giúp họ tránh nguy cơ tái nghiện, ổn định cuộc sống.
Trong những năm qua tại địa bàn quận Sơn Trà đã tổ chức các hoạt động cụ
thể:
- Công tác tuyên truyền, vận động người dân cũng như các doanh
nghiệp đã được thực hiện tốt hơn. Thái độ kỳ thị đối với người sau cai nghiện
ma túy đã được cải thiện phần nào. Việc nhìn nhận người nghiện là một
người bệnh đã giúp họ gần gũi hơn với cộng đồng, họ cảm thấy tự tin hơn và
thấy bản thân mình có ích hơn trong cuộc sống. Từ đó họ vạch ra cho mình
kế hoạch tương lai và phấn đấu tốt hơn khi trở về hòa nhập với gia đình, cộng
đồng và xã hội.
- Thường xuyên tổ chức lễ ra quân hưởng ứng Tháng hành động
phòng, chống ma túy hàng năm từ cấp trên đến cơ sở đã thu hút đông đảo
44
quần chúng nhân dân đồng tình tham gia. Lực lượng chức năng đã phá nhiều
chuyên án, vụ án về ma túy với số lượng ma túy lớn và các tang vật để thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Trong quản lý, xử lý người nghiện, các cơ quan chức năng đã tăng
cường lập hồ sơ để tổ chức cai nghiện ma túy, rà soát quản lý số đối tượng
được bàn giao về địa phương, tái hòa nhập cộng đồng; gọi hỏi răn đe nhiều
lượt đối tượng sưu tra, nghiện hút và các đối tượng sau cai nghiện chưa có
việc làm ổn định, chủ động phòng ngừa không để phạm tội, tái nghiện, bị dụ
dỗ, lôi kéo tham gia vào các hoạt động gây mất trật tự trên địa bàn quận Sơn
Trà.
- Sự giúp đỡ của gia đình là yếu tố quan trọng nhất để đối tượng được
tham gia các hoạt động bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Đối với bản thân người sau cai nghiện, yếu tố tạo được lòng tin với
mọi người là yếu tố quan trọng hàng đầu để có thể tái hòa nhập cộng đồng
hiệu quả, tích cực tham gia các hoạt động hỗ trợ dành cho người sau cai
nghiện ma túy, đảm bảo cho cuộc sống.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện chính sách
đối với người sau cai nghiện ma túy
Việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy vẫn có
những kết quả bước đầu tương đối khả quan: Trong số 96 trường hợp cai
nghiện có 63 người hoàn thành chương trình cai nghiện, các năm sau đó tiếp
tục tái nghiện 32 người, còn lại 31 người đến nay qua theo dõi chưa phát hiện
tái nghiện.[40, tr.8]
Tuy đã được được kết quả ban đầu nhưng vẫn tồn tại một số mặt hạn
chế do chính sách pháp luật chồng chéo nên việc hỗ trợ của cán bộ phụ trách
cũng gặp không ít khó khăn. Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế
chính sách nhằm thay đổi nhận thức của người dân về thực hiện công tác
45
quản lý sau cai nghiện. Việc tổ chức quản lý sau cai nghiện tại gia đình và
cộng đồng tại các địa phương và địa bàn quận Sơn Trà theo Nghị định số
94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 của Chính phủ và Thông tư số
33/TTBLĐTBXH của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Hướng dẫn
một số điều của Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 về trình tự áp
dụng, biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy hiện nay vẫn chưa được thực
hiện tốt trên địa bàn quận.
- Cán bộ làm công tác hỗ trợ, giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy còn
hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực công tác, đa phần cán bộ làm công
tác này phải kiêm nhiệm nhiều công việc; độ tuổi trung bình 41,86% tuổi.
Trình độ chuyên môn về chuyên ngành này còn rất hạn chế.
Bảng 2.2. Số liệu người quản lý sau cai nghiện ma túy tại phường, xã
Năm Stt Họ và tên Đơn vị Trình độ chuyên môn sinh
1981 ĐH chuyên ngành Luật 1 Nguyễn Duy Tuấn An Hải Đông
An Hải Tây 1983 ĐH chuyên ngành Luật 2 Đỗ Trọng Hòa
3 Nguyễn Thị An Hải Bắc 1987 ĐH chuyên ngành Luật
Nguyên
Phước Mỹ 1972 ĐH chuyên ngành Luật 4 Trần Đăng Ninh
5 Nại Hiên 1972 ĐH chuyên ngành Văn Huỳnh Nho Đông hóa
Mân Thái 1975 ĐH chuyên ngành Luật 6 Nguyễn Văn Quý
7 Nguyễn Thành Thọ Quang 1984 ĐH chuyên ngành Luật
Tâm
- Công tác quản lý, giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề, hỗ trợ và cho
vay vốn, giới thiệu việc làm cho người sau cai nghiện ma túy còn nhiều hạn
46
chế, bất cập và khó thực hiện được. Chính quyền địa phương e ngại không
dám đứng ra bảo lãnh cho người sau cai nghiện vay vốn từ ngân hàng chính
sách xã hội trong học nghề và vay vốn kinh doanh, các doanh nghiệp thì kỳ
thị, ít hoặc không nhận người sau cai vào làm việc. Chính vì vậy nên vấn đề
tìm việc làm không được, không có vốn làm ăn… dẫn đến việc họ buồn chán,
tụ tập bạn bè dẫn đến tái nghiện.
- Vai trò công tác phối hợp giữa các ngành, đoàn thể tham gia công tác
phòng chống ma túy, cai nghiện phục hồi, quản lý và hỗ trợ người sau cai
nghiện cơ bản là tốt nhưng khi đi vào thực hiện chính sách và các hoạt động
thì rời rạc, chưa thống nhất; mỗi ngành chỉ đạo theo hệ thống dọc nên khi
phối hợp thực hiện thì đôi lúc chưa đồng bộ nên kết quả hoạt động không như
mong muốn.
- Người sau cai nghiện ma túy có những nét riêng khác biệt tâm lý so
với người bình thường, phần lớn trong suy nghĩ, nhận thức của họ thường
mặc cảm, tự ti, không muốn gặp gỡ, tiếp xúc với người xung quanh vì sợ thái
độ kỳ thị, xa lánh của xã hội.
- Gia đình được ví như là một tế bào của xã hội, không chỉ là nơi bao
bọc, che chở mà còn là nơi chia sẻ, động viên nhằm giúp đỡ người sau cai
nghiện từ bỏ ma túy. Tuy nhiên, một số gia đình người sau cai nghiện ít quan
tâm, có tâm lý buông xuôi vì quá chán nản, cảm thấy đau khổ và mệt mỏi,
thậm chí là nhục nhã khi có người thân như vậy. Từ đó việc thực hiện chính
sách tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện ma túy còn gặp nhiều
trở ngại nhất định.
- Về kinh phí và trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ công tác:
+ Kinh phí cho việc thực hiện chính sách hỗ trợ người sau cai nghiện
ma túy hàng năm còn hạn chế, các điểm hoạt động còn nhiều khó khăn và
không thể tiếp cận được nhiều người. Hầu hết chỉ dựa vào ngân sách trung
47
ương, không thể vận động được từ các nguồn khác.
+ Cơ sở vật chất chưa được đầu tư nhiều, trang thiết bị chưa được cải
tiến do còn vướng phải những khó khăn về kinh phí.
- Về đội ngũ thực hiện công tác:
+ Cán bộ công chức hoạt động trong lĩnh vực quản lý người sau cai
nghiện ma túy chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, đôi khi chưa nắm rõ các quy định của Nhà nước đối
với nội dung hỗ trợ người nghiện và người sau cai nghiện ma túy nên còn hạn
chế trong việc tiếp cận và giúp đỡ người sau cai nghiện được tốt hơn.
+ Nhân viên công tác xã hội tại địa phương còn rất ít, một số cán bộ,
công chức đa phần tham gia học tập, đào tạo các ngành về Luật, kinh tế, ít
chú trọng đến nâng cao trình độ về công tác xã hội; các câu lạc bộ đồng đẳng
được xây dựng đa số theo nhiệm kỳ cán bộ nên khả năng duy trì và phát triển
chưa được chú trọng. Hoạt động gặp nhiều khó khăn vì ít được quan tâm,
kinh phí hoạt động không đảm bảo…
- Về kết nối nguồn lực còn hạn chế. Mặc dù có nhiều chính sách vận
động mọi người chung tay giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy những vấn đề
vẫn chưa được cải thiện. Người dân và doanh nghiệp vẫn còn có thái độ kỳ
thị đối với người sau cai nghiện ma túy vì họ chưa có lòng tin những người
này có thể thay đổi, vượt qua khó khăn và ổn định cuộc sống.
48
Tiểu kết Chương 2
Trong những năm qua, việc tổ chức thực hiện chính sách đối với người
nghiện ma túy và sau cai nghiện tại quận Sơn Trà đã đạt được những kết quả
sau: Quận đã chỉ đạo các phòng, ban chuyên môn và UBND các phường trực
thuộc đã ban hành nhiều hệ thống văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện
chính sách đối với người nghiện ma túy và đặc biệt đối với người sau cai
nghiện ở địa phương mình; đã chú trọng việc tuyên truyền chính sách, pháp
luật đến cộng đồng dân cư và trực tiếp đến với người nghiện ma túy; việc
phân công phối hợp thực hiện chính sách đã được các địa phương quan tâm
chú trọng triển khai thực hiện đạt hiệu quả; công tác kiểm tra, đánh giá quá
trình tổ chức thực hiện chính sách đã được thực hiện thường xuyên với sự
tham gia của nhiều ban, ngành, đoàn thể thường xuyên, liên tục từ quận đến
cơ sở.
Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà vẫn còn hạn chế đó là: kế hoạch tổ
chức thực hiện vẫn còn chung chung và chưa phù hợp với đặc điểm, tình hình
và các nguồn lực của địa phương. Sự vào cuộc của các đoàn thể, cơ quan,
đơn vị đôi lúc chưa thường xuyên, chủ yếu theo phong trào; tổ chức thực hiện
chưa sát với yêu cầu thực tế thực tế của địa phương làm cho mục tiêu của
chính sách chưa đạt được những kết quả như mong muốc và gây lãng phí
nguồn ngân sách của nhà nước; về kinh phí cho công tác hỗ trợ người nghiện
ma túy sau cai nghiện hàng năm của địa phương cũng còn hạn chế; các Câu
lạc bộ cai nghiện ma túy đa số chỉ là tự phát và còn mang tính hình thức nên
khả năng duy trì lâu dài không cao và chưa đi sâu vào thực tiễn của đời sống
xã hội. Nguyên nhân là do: Một số quy định của pháp luật về phòng, chống
ma túy, chế độ, chính sách đối với người nghiện ma túy và người sau cai
nghiện còn thiếu đồng bộ, chưa theo kịp với tình hình thực tế đã gây rất nhiều
49
lúng túng và khó khăn cho các địa phương trong quá trình triển khai, thực
hiện; do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về nghiện ma túy và cai nghiện
ma túy; về đội ngũ cán bộ phụ trách lĩnh vực cai nghiện ma túy chủ yếu là
kiêm nhiệm, chế độ đãi ngộ về lương chưa đảm bảo đời sống của cán bộ, đặc
biệt khối lượng công việc lĩnh vực văn hóa – xã hội cấp cơ sở rất nhiều
nhưng chỉ có một số ít cán bộ có trình độ chuyên ngành về công tác xã hội và
chuyên môn về các lĩnh vực ma túy; chưa có hình thức biểu dương, khen
thưởng kịp thời các cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong việc tham
gia thực hiện chính sách đối với người nghiện ma túy và sau cai nghiện; Sự
kỳ thị, phân biệt, đối xử với người nghiện và sau cai nghiện còn phổ biến
trong cộng đồng dân cư ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý sau cai
nghiện và hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng thành công góp
phần ổn định kinh tế gia đình; bản thân người sau cai nghiện còn mặc cảm
với xã hội, chưa mạnh dạn bước ra khỏi cái bóng của quá khứ để làm lại cuộc
đời.
50
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN MA TÚY
3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu tăng cường thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng
3.1.1. Quan điểm của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Một là, thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện là trách
nhiệm và nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Thực hiện
chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy là một nội dung, nhiệm vụ
quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh, đảm bảo
an sinh xã hội cho nhân dân. Vì vậy, thực hiện chính sách đối với người sau
cai nghiện ma túy trở thành nhiệm vụ chính trị của toàn bộ hệ thống chính trị
và của toàn dân.
Đối với quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, hoạt động này càng có vai
trò quan trọng. Bởi quận Sơn Trà đã xác định: “Vì xã hội ta với bản chất
nhân đạo, tinh thần nhân văn, vì lợi ích chung của cộng đồng, đã giúp đỡ
những người biết hối cải vì những lỗi lầm làm lại cuộc đời. Việc tạo điều kiện
cho người cai nghiện được chữa bệnh, học tập, học nghề chính là định hướng
cho họ quyết tâm từ bỏ ma tuý, sống lương thiện góp phần xây dựng môi
trường xã hội an lành cho mọi người, vì tương lai con em chúng ta” [38,
tr.6]
Muốn đạt được mục tiêu trên đòi hỏi cả hệ thống chính trị từ quận đến
51
phường cần nhận thức đúng đắn và đề ra những giải pháp cụ thể các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác
sau cai nghiện thành những hành động cụ thể tại địa phương.
Mặt khác cần phải tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ chính sách đối
với người sau cai nghiện ma túy và tác hại của nó. Từ đó, từng cá nhân trong
quận sẽ là một nhân tố tích cực cùng với chính quyền tự nhận thức được tác
hại của ma túy và cảnh giác tránh xa các cám dỗ của ma túy đối với bản thân
mỗi người. Công tác định hướng và dạy nghề cần được tập trung quan tâm
hơn, đặc biệt trong giải quyết việc làm phù hợp với năng lực của người sau
cai nghiện. Từ đó giúp họ xóa bỏ mặc cảm, không còn bị lôi kéo vào con
đường nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng thành công.
Hai là, thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy ở
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phải tranh thủ sự hỗ trợ của các nguồn lực
từ cấp trên và các nguồn hỗ trợ khác của xã hội. Do các nguồn ngân sách
dành cho quản lý người sau cai nghiện ma túy còn hạn chế nên việc sử dụng
kinh phí phải tập trung vào những hoạt động chủ đạo, tránh tình trạng tham
nhũng, lãng phí các nguồn lực.
Ba là, thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy ở quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phải luôn đồng hành với các mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội, mục tiêu quốc gia về giáo dục và các chương trình đảm bảo
an sinh xã hội tại địa phương. Trong thời điểm hiện nay, hệ thống cơ sở vật
chất về y tế, giáo dục ngày càng xuống cấp; trình độ, năng lực của cán bộ làm
công tác quản lý chưa được đào tạo chuyên môn sâu chưa đáp ứng với yêu
cầu của sự phát triển của công nghiệp 4.0; mặt bằng dân trí tại các phường
chưa đồng đều, trình độ dân trí còn thấp nên ảnh hưởng không nhỏ đến công
tác quản lý người sau cai nghiện tại địa phương.
52
3.1.2. Mục tiêu của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
* Mục tiêu chung
Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, đoàn thể ở các
cấp các ngành và các thiết chế xã hội trên địa bàn quận Sơn Trà thực hiện và
tham gia thực hiện công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống tệ
nạn xã hội; từng bước xã hội hoá và nâng cao chất lượng công tác giáo dục,
cai nghiện, chữa bệnh, dạy nghề, giải quyết tốt các vấn đề xã hội sau cai
nghiện, chữa bệnh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, có chiều sâu nhằm phòng
ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy, không để nẩy sinh những điểm nóng; tiếp tục
* Mục tiêu cụ thể
- Cơ bản những người sau cai nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý được
duy trì bền vững mục tiêu "không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng".
chữa trị, dạy nghề trong các cơ sở Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội
từ 80% trở lên;
- Giảm tỷ lệ tái nghiện cho người sau cai từ 8 - 10% / năm;
- Dạy nghề cho khoảng 80% người sau cai nghiện;
- Tổ chức các hoạt động truyền thông, tư vấn, đào tạo, vay vốn, hỗ trợ
vốn, tạo việc làm cho khoảng 60 người sau cai nghiện đang quản lý tại địa
phương.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác quản lý sau cai nghiện tại tại gia
đình và cộng đồng, củng cố, tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ cán
bộ quản lý nhằm đáp ứng kịp thời công tác quản lý giáo dục, tư vấn hướng
nghiệp cho người sau cai nghiện;
- Tham mưu đề xuất UBND thành phố xây dựng đề án tín dụng dạy
nghề đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng
lao động là người sau cai nghiện, chữa bệnh (theo Quyết định 212/2006/QĐ-
53
TTg ngày 20/9/2006 của Thủ Tướng Chính Phủ) [38, tr.11].
* Phương hướng đến năm 2022
- Đẩy mạnh xã hội hoá công tác chữa bệnh, phục hồi cho người sau cai
nghiện ma tuý, huy động sự tham gia của gia đình, các ngành, các cấp, các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội tham gia vào công tác cai nghiện giúp đỡ
người sau cai nghiện.
- Đa dạng hoá các hình thức quản lý sau cai nghiện, giải quyết các vấn
đề xã hội sau cai phù hợp với đặc điểm từng địa phương, đơn vị và đặc điểm
của từng người nghiện.
3.1.3. Yêu cầu của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Để việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy trên
địa bàn quận đạt hiệu quả cao cần phải thực hiện những nội dung cơ bản sau:
- Thực hiện đúng và đầy đủ các mục tiêu của chính sách. Muốn được
như vậy thì chính quyền, mặt trận, các đoàn thể từ quận đến cơ sở phải xác
định được các mục tiêu trọng tâm, trọng điểm. Đồng thời cần phải xây dựng
kế hoạch triển khai cụ thể, rõ ràng phù hợp với từng địa phương, đơn vị để
thực hiện.
- Phải thực hiện đảm bảo đúng các bước của quy trình thực hiện chính
sách. Phối hợp chặt chẽ các bộ phận có liên quan trong chu trình thực hiện
chính sách theo hướng linh hoạt, biến đổi cho phù hợp với từng địa phương,
đơn vị. Điều này sẽ đảm bảo cho chính sách dễ dàng đi vào đời sống xã hội
giải quyết dứt điểm vấn đề tệ nạn xã hội đang diễn ra địa phương.
- Phát huy tính khoa học và hợp lý trong thực hiện chính sách. Nội
dung này đòi hỏi bộ máy điều hành phải có trình độ, năng lực quản lý để tổ
chức thực hiện chính sách theo những mục tiêu đã đề ra gắn bó mật thiết với
quá trình phát triển của địa phương và phù hợp với trình độ nhận thức, khả
54
năng và nguồn lực của từng địa phương.
- Yêu cầu mang lại lợi ích cho người sau cai nghiện ma túy và gia đình
họ. Đó là mục tiêu mà chính sách đang hướng đến. Để chính sách này phát
huy tác dụng cần có sự đồng thuận và tinh thần tự giác của người sau cai
nghiện ma túy. Từ đó chính sách mới thật dự mang lại lợi ích mà mục tiêu
của chính sách đã đề ra và từng bước giúp cho người sau cai nghiện phục hồi
sức khỏe, nhận thức, hành vi và nhân cách để trở thành người lương thiện
góp phần đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương.
3.1.4. Nhu cầu của việc thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Những năm qua, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là về ma
túy tiếp tục tiềm ẩn và diễn biến phức tạp. Các tổ chức, đường dây, băng
nhóm gia tăng hoạt động mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sản xuất trái phép
chất ma túy, nhất là ma túy tổng hợp. Các loại tội phạm về ma túy ngày càng
nhiều, mạng lưới tội phạm có tổ chức quy mô, hệ thống. Các chất ma túy
hiện nay có nhiều loại chứ không đơn thuần là heroin hoặc ma túy tổng hợp
như trước đây. Các đối tượng thường manh động và liều lĩnh chống trả khi bị
phát hiện. Từ các vụ án được phá gần đây cho thấy quận Sơn Trà là nơi tiêu
thụ mới với số người nghiện, người sử dụng ma túy trái phép ngày càng tăng;
tội phạm ma túy là tội phạm của các loại tội phạm, gây hệ lụy lớn đến tình
hình an ninh trật tự toàn địa bàn quận.
Đáng chú ý là các đối tượng sử dụng ma túy ngày càng trẻ hóa và sử
dụng cùng lúc nhiều loại ma túy, nhất là sử dụng ma túy tổng hợp tại những
nơi kinh doanh nhạy cảm như: karaoke, các loại hình nhà nghỉ, nhà trọ, các
khu nghỉ dưỡng, các khu công nghiệp, khu vực cảng cá Âu thuyền Thọ
Quang và các khu vực vắng người trên bán đảo Sơn Trà… đều có thể trở
thành tụ điểm sử dụng trái phép chất ma túy mà các loại tội phạm ma
55
túy tổng hợp rất dễ lợi dụng phạm tội mua bán, dụ dỗ, lôi kéo các đối tượng
sử dụng ma túy và tái sử dụng ma túy.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của địa bàn trọng điểm về an ninh
quốc phòng, nhất là những thách thức mới trong công tác bảo đảm tình hình
an ninh trật tự và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn. Công tác tổ
chức cai nghiện ma túy tại gia đình cộng đồng; tại các cơ sở cai nghiện; và
công tác quản lý người nghiện ma túy không nơi cư trú… đã có những kết
quả tích cực. Công quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú được triển khai thực
hiện nghiêm túc.
Để khắc phục những yếu kém, tồn tại lâu nay, yêu cầu chung của Quận
ủy, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban nhân dân quận và các phường phải nêu cao
tinh thần trách nhiệm, năng động sáng tạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ
thị 36-CT/TW.
Đặc biệt phải xác định rõ công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma
túy quan trọng, thường xuyên. Trước mắt là tập trung đấu tranh triệt phá các
đường dây mua bán, vận chuyển ma túy; triệt xóa, kéo giảm các tụ điểm phức
tạp về ma túy và người nghiện ngoài xã hội, tạo bình yên cho quận Sơn Trà.
Nâng cao ý thức của người dân trong việc quan tâm, không để con em vi
phạm pháp luật về ma túy, tránh tình trạng tái nghiện và tái nghiện nhiều lần
và tích cực tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, hỗ trợ lực lượng chức năng
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy.
Các cơ quan chuyên trách, nhất là lực lượng công an cần phát huy vai
trò nòng cốt, chủ động nắm tình hình, đấu tranh triệt phá các đường dây mua
bán, vận chuyển ma túy. Cùng với đó là thực hiện đồng bộ các biện pháp
chuyển hóa địa bàn phức tạp về ma túy; triệt phá các tụ điểm, điểm tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là các cơ sở kinh doanh có điều kiện về
an ninh trật tự; xử lý nghiêm minh tội phạm ma túy và triệt để thu hồi tài sản
56
do phạm tội ma túy mà có trả lại sự bình yên góp phần vào phát triển kinh tế-
xã hội, quốc phòng- an ninh của quận Sơn Trà xứng tầm là địa bàn trọng yếu,
là trung tâm kinh tế mới của Thành phố.
Từ những yêu cầu thực tế tại địa phương và nhằm thực hiện tốt Kế
hoạch số 05/KH-UBND ngày 08/01/2018 của UBND quận Sơn Trà về thực
hiện đề án “Tập trung lãnh đạo đẩy mạnh công tác phòng, chống, ngăn chặn
và đẩy lùi tội phạm, tệ nạn ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà đến năm 2020
và những năm tiếp theo”, ngày 29 tháng 5 năm 2018 UBND quận Sơn Trà
ban hành Kế hoạch số 109/KH-UBND về việc quản lý sau cai nghiện trên địa
bàn quận năm 2018 và những năm tiếp theo.
- Mục tiêu chung của Kế hoạch là đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội
trong công tác phòng, chống, chủ động đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả đối
với tệ nạn ma túy và từng bước tái hòa nhập cộng đồng thành công cho người
sau cai nghiện. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý sau
cai nghiện ma túy; tập trung giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội đối với
người sau cai nghiện ma túy. Từng bước góp kiềm chế tốc độ gia tăng người
nghiện mới, người tái nghiện, áp dụng nhiều biện pháp và đa dạng các hình
thức quản lý sau cai nghiện ma túy.
- Về mục tiêu cụ thể: 100% cán bộ không chuyên trách phụ trách công
tác phòng, chống tệ nạn xã hội các phường được tập huấn nâng cao về kiến
thức, kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn; Vận động 100% cơ quan, đơn vị đóng
trên địa bàn đăng ký cam kết không có cán bộ, nhân viên, người lao động vi
phạm tệ nạn xã hội đặc biệt là nghiện ma túy, 80% người dân được tuyên
truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội và
chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy nhằm nâng cao nhận thức, tạo
sự đồng thuận của nhân dân trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tệ nạn
57
ma túy. Tổ chức cảm hóa, giáo dục thành công trên 70% số người vi phạm sử
dụng trái phép chất ma túy phát hiện lần đầu; tăng cường quản lý sau cai
nghiện tại gia đình - cộng đồng; hạn chế thấp nhất số người tái nghiện; Hỗ trợ
dạy nghề, tạo và giới thiệu việc làm cho 60-70% số người quản lý sau cai
nghiện tại nơi cư trú.
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đối với người
sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
Trong thời gian đến bên cạnh những thuận lợi đã đạt được, tệ nạn ma
tuý ở thành phố Đà Nẵng nói chung và quận Sơn Trà nói riêng vẫn còn diễn
biến phức tạp, hoạt đông của tội phạm ma tuý, số người nghiện mới, tái
nghiện và tái phạm sẽ tiếp tục được phát hiện; để nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống mại dâm, cai nghiện và quản lý sau cai cần phải triển khai thực
hiện đồng bộ một số giải pháp lớn sau:
* Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng
Người sau cai nghiện ma túy thường có tâm lý mặc cảm, tự ti, xa lánh
cộng đồng. Do vậy, việc tìm các giải pháp khắc phục tâm lý này cũng là điều
kiện giúp họ tự tin và có nghị lực vươn lên tái hòa nhập cộng cồng. Vì vậy,
công tác cần tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền là không thể thiếu và
thực hiện thường xuyên, liên tục.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và cộng đồng dân cư về
tầm quan trọng và trách nhiệm trong việc hỗ trợ xã hội cho người sau cai
nghiện ma túy, phục hồi bằng cách sử dụng đa dạng, linh hoạt các phương
tiện thông tin đại chúng, sách báo, băng rôn, khẩu hiệu, mạng xã hội… Phát
huy vai trò của cả hệ thống chính trị, mặt trận, các đoàn thể trong việc tuyên
truyền, cảm hóa, giáo dục và nâng cao nhận thức của cộng đồng về việc hỗ
trợ, giáo dục, cảm hóa người sau cai nghiện. Truyền thông tốt sẽ góp phần
nâng cao nhận thức của xã hội đối với thực hiện chính sách đối với người sau
58
cai nghiện ma túy. Thay đổi cách truyền thông không tích cực và chưa phù
hợp bằng các thông điệp có ý nghĩa và gần gũi hơn.
- Cần tổ chức tập huấn về kỹ năng trình bày, thuyết phục, vận động
cho cán bộ làm công tác quản lý sau cai nghiện và những đối tượng có liên
quan.
- Cung cấp kịp thời những thông tin đúng đắn, đưa ra những hình ảnh
tích cực.
- Thu hút người sau cai nghiện ma túy tham gia vào các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục vì họ là người hiểu nhất là bản thân mình như thế nào
và muốn gì.
- Tạo nên những quan niệm tích cực về người đang quản lý sau cai
nghiện ma túy và gia đình họ. Cung cấp thông tin đầy đủ về vấn đề sử dụng
chất gây nghiện và người dân cần hỗ trợ, động viên giúp người sau cai nghiện
ma túy.
Công tác truyền thông có hiệu quả góp phần giảm sự kỳ thị của xã hội
đối với người nghiện ma túy nói chung và người sau cai nghiện nói riêng, từ
đó tạo cơ hội cho họ thay đổi. Truyền thông còn giúp các cấp, các ngành, các
tổ chức xã hội tạo điều kiện cho các đội nhóm hỗ trợ các nguồn lực để duy trì
phát triển cũng như có nguồn lực để hoạt động lâu dài góp phần giúp người
sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
Trong công tác tuyên truyền, cần xác định rõ chủ thể, đối tượng, nội
dung và hình thức tuyên truyền. Đối tượng của tuyên truyền là người sau cai
nghiện, gia đình người sau cai nghiện và nhân dân ở các địa bàn dân cư. Cần
phải thu thập đầy đủ thông tin về giới tính, tâm sinh lý, nguyên nhân và động
cơ nghiện ma túy và hoàn cảnh gia đình…để có hình thức tuyên truyền cho
phù hợp đối với họ. Bên cạnh đó cần hiểu rõ về đặc trưng vùng miền, tôn
giáo, trình độ dân trí của từng cộng đồng dân cư để có biện pháp phù hợp để
59
động viên, giúp đỡ. Công tác tuyên truyền tốt sẽ giúp cho người sau cai
nghiện được củng cố niềm tin vào gia đình và xã hội từ đó từng bước học
nghề, tìm việc làm, ổn định cuộc sống tiến đến tái hòa nhập cộng đồng thành
công và trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, tư vấn là giải pháp quan trọng trong
việc thực hiện chính sách quản lý sau cai nghiện phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn khó khăn hiện nay vì đây là giải pháp ít
tốn kém và khả thi hơn các giải pháp khác.
* Nâng cao vai trò của chính quyền và các tổ chức xã hội trong
việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy.
Xác định công tác quản lý, giúp đỡ người sau cai nghiện ma túy là
nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc, phải quan tâm giúp
đỡ thực hiện chính sách hỗ trợ xã hội đối với người sau cai nghiện ma túy
gặp khó khăn.
Xây dựng và hoàn thiện các kế hoạch quản lý sau cai nghiện, tái hòa
nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện. Tổ chức thực hiện nghiêm túc kế
hoạch này, thường xuyên tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm kịp
thời đánh giá và điều chỉnh nếu không phù hợp.
Thường xuyên gặp gỡ, động viên, nắm bắt tâm tư nguyện vọng và
hoàn cảnh gia đình của người sau cai nghiện. Từ đó có những chính sách,
biện pháp cụ thể, ưu tiên hỗ trợ vay vốn, giải quyết việc làm nhằm giúp đỡ,
tạo điều kiện để họ vượt qua những trở ngại trong cuộc sống và sinh hoạt.
Vận động gia đình, cộng đồng cùng chung tay tích cực vào việc giáo
dục,cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ người sau cai nghiện và xem đây là trách
nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Cần phải xây dựng đề án tổ chức dạy nghề, đưa chương trình tạo việc
làm cho ngươi sau cai nghiện ma túy trở về địa phương thành một nội dung
60
quan trọng, cụ thể trong chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
ngắn hạn và dài hạn. Trong đó, cần quy định cụ thể nghĩa vụ của các cấp, các
ngành, các tổ chức xã hội, nhất là các tổ chức kinh tế quan tâm đến việc bố trí
việc làm phù hợp cho người sau cai nghiện nhằm giúp người sau cai nghiện
có việc làm tạo ra thu nhập ổn định cuộc sống.
Bố trí cán bộ để chỉ đạo, theo dõi công tác quản lý sau cai nghiện ở các
địa phương... Thành lập các tổ công tác quản lý sau cai nghiện tại cộng đồng,
gia đình do một Phó chủ tịch UBND phường làm tổ trưởng, thành viên là các
thành phần như công an, y tế, cán bộ lao động thương binh và xã hội, các
đoàn thể. Tập trung mở các lớp tập huấn chuyên môn sâu về cai nghiện cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý từ đó, công tác đào tạo nâng cao năng lực cán bộ là
đổi mới hình thức, nội dung, là đào tạo toàn diện, cơ bản cho mọi loại cán bộ
làm việc thực hiện theo quy trình quản lý sau cai nghiện ma túy, trong đó tập
trung vào một số khâu then chốt, quyết định đến thành công hay thất bại của
nhiệm vụ này. Cần chú trọng bổ sung cán bộ có chuyên môn về công tác xã
hội, y tế vốn đang yếu và thiếu ở các địa phương hiện nay.
Đối với mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cần triển khai các
phong trào, các cuộc vận động như: các mô hình tái hòa nhập cộng đồng cho
người sau cai nghiện ma túy, các mô hình gia đình văn hóa, xây dựng quỹ hỗ
trợ… Qua thực tế cho thấy, các mô hình quản lý sau cai nghiện ma túy đã
làm thay đổi cách nhìn của xã hội về người sau cai nghiện ma túy, khắc phục
được tâm lý kỳ thị, xa lãnh, ngại tiếp xúc như trước đây. Đây là những mô
hình cần quan tâm duy trì thường xuyên và nhân rộng đưa thành các phong
trào thi đua nhằm thu hút sự chú ý, quan tâm của gia đình và cộng đồng xã
hội.
* Đào tạo nghề, tìm việc làm thích hợp cho người sau cai nghiện
ma túy cũng là một giải pháp cần phải quan tâm trong thực hiện chính
61
sách đối với người sau cai nghiện ma túy
Lao động, việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển toàn
diện của đời sống mỗi con người. Từ đó thông qua lao động sẽ phát triển toàn
diện về trí tuệ, thể chất, tư tưởng, tình cảm và nhân cách sống. Nhiều người
sau cai nghiện vì điều kiện sức khỏe, lười lao động, không chịu học tập, học
nghề nên khó tìm kiếm được việc làm. Vì vậy thực hiện chính sách đào tạo,
dạy nghề và hỗ trợ tìm việc làm cho người sau cai nghiện là nội dung rất
quan trọng. Tuy nhiên, đào tạo nghề nào ? đào tạo ra sao ? đó mới là vấn đề
không đơn giản.
- Trước hết cần phải đào tạo những nghề mà xã hội đang có nhu cầu và
phù hợp với điều kiện sức khỏe của người sau cai nghiện như: may mặc,
hàng thủ công, hàn, nguội, mộc, điện dân dụng, xây dựng…. Sau đó phải tổ
chức giới thiệu và tìm việc làm, giúp người sau cai nghiện có việc làm thích
hợp. Đây là nội dung quan trọng cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị,
mặt trận, các đoàn thể, gia đình và bạn bè của người sau cai nghiện.
- Ngoài ra, Đảng, chính quyền cần phổ biến các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước về tạo việc làm cho người dân, kể cả người
sau cai nghiện ma túy là công việc cần phải chú ý đầu tiên trong thời gian
đến. Hơn nữa, cần phải có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
tiếp nhận lao động có hoàn cảnh đặc biệt thông qua chính sách thuế, cho vay
lãi suất thấp và thuê giá đất phù hợp…
- Nâng cao chất lượng dạy nghề, học nghề, lao động sản xuất tại cộng
đồng; tổ chức cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở dạy nghề riêng cho người sau
cai nghiện tại địa phương phù hợp với đặc điểm về sức khỏe và trình độ của
người sau cai nghiện.
- Mở rộng các dịch vụ tư vấn để người sau cai nghiện và gia đình họ có
thể tham khảo ý kiến của cán bộ khi cần thiết. Cần công bố rộng rãi số điện
62
thoại của các cơ sở, các trung tâm nhằm hỗ trợ tốt cho người ngại tiếp xúc
trực tiếp với cán bộ tư vấn để có thể giải đáp những thắc mắc, những khó
khăn trong vấn đề tìm kiếm việc làm, ổn định đời sống, phòng chống tái
nghiện. Đây là giải pháp quan trọng trong thực hiện chính sách đối với người
sau cai nghiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta vì đây là
giải pháp rất ít tốn kém và khả thi hơn các giải pháp khác.
- Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn thanh niên trong công tác quản
lý sau cai nghiện. Người sau cai nghiện ma túy cần được quan tâm, chăm sóc
một cách thường xuyên, các mô hình quản lý và sinh hoạt sau cai được tổ
chức với mục đích phòng ngừa tái nghiện cho họ và hầu hết họ ở độ tuổi
thanh niên nên sẽ dễ tiếp cận và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng kịp thời.
Ngoài ra, cần phát huy vai trò của cấp chính quyền cơ sở tại khu dân
cư trong việc tuyên truyền, phát tờ rơi về phòng chống ma túy, phòng chống
tái nghiện ma túy đến từng hộ gia đình. Từ đó phát huy nội lực của Nhân dân
trong phòng chống tái nghiện ma túy; xây dựng đội ngũ công tác xã hội ở khu
dân cư hoạt động trên tinh thần tự giác, tích cực vào công việc và được
hưởng phụ cấp từ cấp trên… từ đó khuyến khích, tạo được động lực cho các
cá nhân, tổ chức doanh nghiệp và các thành viên đội công tác xã hội trong
việc theo dõi, giám sát được những đối tượng để có biện pháp can thiệp kịp
thời. Từ đó thành viên đội công tác xã hội sẽ vừa là người chia sẻ, tư vấn vừa
là người bạn thân thiết để người sau cai nghiện vượt qua giai đoạn khó khăn.
- Đầu tư, phân bổ, đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực làm công tác
quản lý sau cai, tư vấn giới thiệu và hỗ trợ việc làm cho người sau cai nghiện:
Tăng cường đầu tư các cán bộ có công tác chuyên môn về công tác xã hội, tư
vấn, tâm lý, giới thiệu việc làm giúp người sau cai phòng ngừa tái nghiện.
* Cần hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức các hoạt
động phù hợp
63
Luật pháp là công cụ dùng để quản lý nhà nước. Khung khổ pháp lý
chính là cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động của xã hội nói chung. Song do
luật pháp luôn đi sau sự biến đổi của xã hội nên cần liên tục được hoàn thiện
để đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội. Từ đó dần hoàn thiện cơ chế,
chính sách đáp ứng với nhu cầu trong lĩnh vực cai nghiện phục hồi, quản lý
sau cai nghiện, hỗ trợ tạo việc làm và phòng chống tái nghiện. Từng bước
khẳng định sự quan tâm của chính sách đối với cán bộ làm công tác nhạy cảm
và phức tạp này, vừa cho thấy sự quan tâm của xã hội đến người sau cai
nghiện và gia đình họ. Trong lĩnh vực quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm cho
người sau cai nghiện, khung khổ pháp lý tức là các định chế, văn bản pháp
quy, các đề án mang tính pháp lý quy định hoặc hướng dẫn về mọi hoạt động
của lĩnh vực quản lý sau cai, trong đó có hỗ trợ tạo việc làm cho người sau
cai nghiện. Khuôn khổ pháp lý chính là tiền đề tạo nên hành lang pháp lý
đảm bảo cho các chương trình quản lý sau cai nghiện, trong đó có hỗ trợ tạo
việc làm cho người sau cai nghiện hoạt động theo đúng đường lối, chính
sách, pháp luật mà còn thể hiện được tính nhân văn nhân đạo và mục đích vì
nhân dân phục vụ của Đảng và Nhà nước ta.
Để các cấp, các ngành cùng hiểu được văn bản pháp luật một cách
thống nhất và dễ thực thi trên thực tế thì văn bản pháp luật phải được thực
hiện tốt từ khâu khảo sát, thu thập thông tin nắm tình hình thực tế cho đến
khâu soạn thảo, ban hành. Đến đây, một loạt vấn đề lại được đặt ra, đó là chi
phí đầu tư cho soạn thảo, ban hành một văn bản pháp luật, người thực hiện
soạn thảo, việc kiểm tra, giám sát thực thi trên thực tế…chi phí cho soạn
thảo, ban hành còn ít nên các khâu của quy trình soạn thảo văn bản pháp luật
ví dụ một Nghị định, một Thông tư không thể thực hiện tốt như mong đợi.
Trong khi đó số lượng cán bộ có hạn lại phải giải quyết nhiều vấn đề khác
nhau nên thường bị quá tải.
64
Hệ thống văn bản của pháp luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước
có tác dụng rất lớn trong thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương lớn, chính
sách quan trọng nhằm hỗ trợ cho người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng
đồng, tìm kiếm việc làm đáp ứng với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường sôi
động hiện nay. Chú trọng công tác giáo dục là quốc sách hàng đầu của quốc
gia, dân tộc. Thường xuyên đổi mới công tác giáo dục, đào tạo; mở rộng các
mô hình đào tạo nghề cho người sau cai nghiện. Đó là những chính sách phù
hợp mang lại hiệu quả tích cực. Tuy nhiên hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý sau cai nghiện, đào tạo nghề và hỗ trợ tìm kiếm việc làm
cho đối tượng này còn thiếu và chậm điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp. Vì
vậy:
- Nhà nước cần đầu tư cho việc soạn thảo văn bản về quản lý người sau
cai nghiện sao cho phù hợp hơn với tình hình thực tế tại địa phương, đơn vị.
Ngoài ra cần có các văn bản hướng dẫn kèm theo các văn bản luật, nghị định
để thực hiện đồng bộ, thống nhất hơn. Ví dụ văn bản hướng dẫn cụ thể Luật
phòng chống ma tuý, Luật sửa đổi bổ sung Luật phòng chống ma tuý, pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính ở những điều khoản mà điều kiện để thực
hiện ở các địa phương là khác nhau.
- Sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản pháp quy về giáo dục
đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề cho các đối tượng nghiện ma túy và sau cai
nghiện.
- Trong các văn bản quy phạm pháp luật cần xác định rõ các chức năng
nhiệm vụ của cơ quan , đơn vị trong công tác phối hợp quản lý người sau cai
nghiện và hỗ trợ tạo việc làm để tránh sự chồng chéo trong quản lý sau cai và
hỗ trợ tạo việc làm như hiện nay. Việc phân công nhiệm vụ cần phát huy
năng lực của từng địa phương, đơn vị trong thực hiện đảm bảo chính sách đạt
65
hiệu quả.
- Cần nghiên cứu, bổ sung và điều chỉnh chính sách tạo động lực
khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh tiếp nhận người sau cai nghiện
vào làm việc. Ngoài ra, cần có cơ chế ràng buộc, xác định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của cơ sở sản xuất kinh doanh đối với công tác quản lý sau cai nghiện
của địa phương. Từ đó đảm bảo lợi ích chính đáng của cơ sở, vừa đảm bảo
quyền lợi của người sau cai nghiện.
- Đối với bản thân người sau cai nghiện cũng cần có những quy định
cứng rắn hơn trong quản lý, giáo dục của địa phương, đơn vị. Cần có biện
pháp xử lý nghiêm minh bằng các hình thức lao động công ích; kịp thời động
viên, khen thưởng những người chấp hành tốt các quy định về quản lý sau cai
nghiện, tạo điều kiện để người sau cai nghiện được đào tạo nghề và giải
quyết việc làm.
* Nâng cao năng lực, trình độ cho nhân viên công tác xã hội.
Công tác xã hội là nghề thực hành và là một lĩnh vực học thuật hoạt
động chuyên môn nhằm trợ giúp các cá nhân, nhóm, cộng đồng phục hồi hay
tăng cường chức năng xã hội góp phần đảm bảo nền an sinh xã hội. Được
thực hiện theo những nguyên tắc và được vận hành trên cơ sở văn hóa truyền
thống của dân tộc nhằm giải quyết các nan đề trong cuộc sống của họ.
Công tác xã hội nhằm vào những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống
hàng ngày của con người, đó là an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội, đồng thời
hỗ trợ con người giải quyết vấn đề đời sống cụ thể của họ nhằm đem lại sự ổn
định, hạnh phúc cho mọi người và phát triển cộng đồng
Chất lượng, hiệu quả của hoạt động công tác xã hội được quyết định
bởi năng lực, trình độ của nhân viên công tác xã hội. Chính vì vậy việc nâng
cao năng lực, trình độ cho nhân viên làm công tác xã hội, đặc biệt trong công
tác quản lý sau cai nghiện là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Vì
66
vậy cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cho cán
bộ thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội nhằm trang bị, cung cấp những kiến
thức, kỹ năng nhằm truyền đạt những chủ trương, đường lối, chính sách mới
của Đảng và Nhà nước đến người sau cai nghiện. Đồng thời qua đào tạo, bồi
dưỡng, cán bộ thực hiện chính sách sau cai nghiện ma túy xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ nhằm giúp cho người sau cai
nghiện và những đối tượng yếu thế trong xã hội một cách hiệu quả nhất.
Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng các Đề án nhằm đào tạo ra đội ngũ
cán bộ công tác xã hội, tâm lý, việc làm có trình độ, năng lực và chuyên môn
cao tăng cường về cơ sở.
* Phát huy vai trò của gia đình và người sau cai nghiện ma túy
Đối với bản thân người sau cai nghiện
- Để có thể tái hòa nhập cộng đồng, chống tái nghiện và nhận được sự
giúp đỡ của xã hội thì bản thân người sau cai nghiện phải kiên quyết từ bỏ ma
túy và nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật và Nhà nước.
- Cần tích cực hơn nữa và tự tin xóa bỏ sự kỳ thị của xã hội đối với bản
thân, chủ động tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm phù hợp cho bản thân, xóa bỏ
tâm lý trông chờ, ỷ lại. Tích cực tham gia các phong trào chung của cộng
đồng và các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao từ đó từng bước
nâng cao sức khỏe thể chất lẫn tinh thần, khắc phục tình trạng bi quan, tâm lý
mặc cảm. Chủ động học tập vươn lên làm lại cuộc đời.
- Tăng cường trao đổi thông tin hai chiều để mọi người có thể hiểu,
thông cảm để từ đó nhận được sự giúp đỡ từ gia đình và xã hội.
Đối với gia đình người sau cai nghiện ma túy
- Gia đình là cái nôi che chở, chăm sóc cho mọi người. Trách nhiệm
của gia đình người sau cai nghiện là chăm sóc, quản lý, theo dõi, giám sát và
ngăn chặn người sau cai nghiện tái nghiện hoặc có hành vi gây mất an ninh
67
trật tự. Ngoài ra, gia đình người sau cai nghiện còn có chức năng phối hợp
với chính quyền trong việc quản lý người sau cai nghiện, chống tái nghiện,
tìm kiếm việc làm, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại
vẫn còn tiềm ẩn những định kiến của thời phong kiến nên mối quan hệ này
vẫn chưa được phát huy, tình trạng kỳ thị với những hành vi lệch chuẩn trong
quá khứ vẫn còn tiềm ẩn trong tiềm thức của các thành viên khác trong gia
đình. Từ đó chưa tạo được động lực để người sau cai nghiện tái hòa nhập
cộng đồng thành công.. Do vậy, củng cố mối quan hệ này đang là yếu tố quan
trọng chính yếu để tăng cường ảnh hưởng của gia đình với người sau cai
nghiện để họ an tâm cai nghiện, hoàn lương và tái hòa nhập cộng đồng.
- Gia đình cần quan tâm và nắm bắt kịp thời tâm lý, nguyện vọng của
người sau cai nghiện để họ xóa bỏ mặc cảm, xây dựng niềm tin, giúp người
sau cai nghiện dũng cảm vượt qua cám dỗ của ma túy.
- Cung cấp kiến thức, tập huấn kỹ năng chăm sóc sức khỏe, tâm lý,
tình cảm cho thành viên gia đình để họ tham gia vào quá trình giúp đỡ người
sau cai nghiện. Từ đó từng bước kết nối với các nguồn lực bên trong và bên
ngoài giúp gia đình ổn định, yên tâm giúp đỡ người sau cai nghiện tái hòa
nhập cộng đồng.
3.3. Đề xuất, kiến nghị
3.3.1. Đối với Trung ương
Trong thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại
cộng đồng cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền, mặt
trận, đoàn thể và các cơ quan chuyên môn trong việc quản lý người sau cai
nghiện ma túy.
Cần có chính sách khuyến khích, đãi ngộ phù hợp cho cán bộ thực hiện
chính sách sau cai nghiện tại địa phương nhằm khuyến khích, động viên và
nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
68
3.3.2. Đối với thành phố Đà Nẵng
Tiếp tục điều chỉnh các hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND và UBND trong việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp của chương
trình phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh của địa phương gắn với
công tác phòng, chống tệ nạn xã hội của thành phố.
Tăng cường công tác tuyên truyền chính sách quản lý người sau cai
nghiện bằng nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với điều kiện, năng lực của
từng địa phương, đơn vị từ đó phát huy được thế mạnh, tạo được sự đồng
thuận của cả hệ thống chính trị, cộng đồng, bản thân và gia đình của người
sau cai nghiện. Tăng cường và phát huy công tác kiểm tra, giám sát của nhân
dân đối với chính quyền và cán bộ trong thực thi công vụ.
Công khai, minh bạch trong thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện xuất phát từ nhu cầu thực tế của từng đối tượng dưới sự định hướng
về chuyên môn của cơ quan nhà nước.
Cơ chế phối hợp phải đảm bảo chặt chẽ đảm phát huy năng lực của các
ngành, cơ quan, đơn vị trong thực hiện các mục tiêu của chính sách. Thường
xuyên tổ chức hội thảo đánh giá, rút kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
Kịp thời điều chỉnh, hoàn thiện các văn bản nhằm tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc của từng địa phương, đơn vị. Các mục tiêu về cai nghiện ma túy
và quản lý sau cai cần phải được gắn liền, lồng ghép vào các mục tiêu chung
của kế hoạch hàng năm và 5 năm của ngành và kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội của địa phương.
3.3.3. Đối với các tổ chức Chính trị - xã hội ở địa phương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ở các cấp tiếp
tục phát huy vai trò nòng cốt trong việc vận động sự tham gia của xã hội và
cộng đồng trong thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy
trên cơ sở phối hợp với chính quyền cùng cấp.
69
Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở trong việc thực hiện
chính sách đối với người sau cai nghiện. Qua kiểm tra sẽ đánh giá được kết
quả thực hiện chính sách. Kịp thời kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm quyền điều
chỉnh.
Tiểu kết Chương 3
Trong chương 3, tác giả đã trình bày quan điểm và yêu cầu trong thực
hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Từ đó làm căn cứ để tác giả cũng đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện ma túy, bao gồm: tăng cường công tác chỉ đạo tổ chức
triển khai; công tác tuyên truyền, giáo dục; công tác quản lý sau cai nghiện;
tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng cai nghiện, chữa bệnh
tại gia đình và cộng đồng cho người sau cai nghiện ma túy; nâng cao năng
lực của cán bộ làm công tác xã hội, củng cố bộ máy chuyên trách trong việc
thực hiện chính sách quản lý sau cai nghiện, chữa bệnh, phục hồi, đào tạo và
giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện.
Qua nghiên cứu, tác giả cũng mạnh dạn kiến nghị với Trung ương về
việc nêu cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền, mặt trận, đoàn thể trong
thực hiện chính sách, có cơ chế khuyến khích, đãi ngộ đối với cán bộ thực
hiện chính sách nhạy cảm này. Đồng thời tác giả cũng kiến nghị với chính
quyền thành phố Đà Nẵng tiếp tục cụ thể các mục tiêu về kinh tế- xã hội,
quốc phòng- an ninh gắn với công tác xã hội tại địa phương; tăng cường công
tác tuyên tuyền, công khai minh bạch các nội dung của chính sách; tăng
cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong thực hiện chính sách
nhằm phát huy hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ. Phát huy vai trò của mặt
trận, đoàn thể trong công tác vận động sự tham gia của xã hội và người dân
trong việc thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy.
70
KẾT LUẬN
Sau một thời gian nghiên cứu, luận văn “Thực hiện chính sách đối với
người sau cai nghiện tại địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” đã đạt
được một số kết quả sau đây:
Phân tích, khái quát hóa chính sách đối với người sau cai nghiện ma
túy tại địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Mục tiêu của chính sách
đối với người sau cai nghiện ma túy có đạt được như mong muốn của nhà
nước cũng như mong muốn, nguyện vọng của người sau cai nghiện, đối
tượng mà chính sách hướng tới hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào quá
trình tổ chức triển khai thực hiện của các cấp, các ngành, các địa phương và
sự tham gia tích cực của các đối tượng chính sách, gia đình và cộng đồng xã
hội.
Qua nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tổng hợp số liệu từ các nguồn,
luận văn đã làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc thực
hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng, cụ thể như sau:
- Một là, tác giả đã phân tích khái quát một số vấn đề lý luận về thực
hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy.
- Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách đối
với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai
đoạn 2015-2019 để chỉ ra những thành công và hạn chế trong công tác này.
- Ba là, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách đối với người sau cai nghiện ma túy tại quận Sơn
Trà, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới, bao gồm: tiếp tục đầu tư cơ sở
vật chất và nâng cao chất lượng cai nghiện, chữa bệnh tại gia đình và cộng
đồng cho người nghiện ma túy; củng cố bộ máy chuyên trách trong việc thực
hiện chính sách đối với người nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện và phát
71
huy vai trò của các tổ chức, doanh nghiệp trong việc hỗ trợ đào tạo, tạo việc
làm cho người sau cai nghiện ma túy ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng
đồng.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực hiện chính sách đối với người sau cai
nghiện ma túy trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng
đến kết quả trong công tác phòng, chống tệ nạn xã hội, quản lý người sau cai
nghiện tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống trên địa bàn quận Sơn Trà
một cách có hệ thống, toàn diện. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính
sách đối với người sau cai nghiện ma túy trên địa bàn quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Với những hạn chế về mặt thời gian, kinh nghiệm công tác và việc tiếp
cận tài liệu nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn luận văn vẫn còn những điểm
chưa hoàn thiện, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
quý thầy cô giáo./.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công an (2018), Thông tư số 05/2018/TT-BCA, ngày 02/7/2018 của
Bộ Công an quy định việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
2. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2010), Thông tư số 33/2010/TT-
BLĐTBXH, ngày 01/11/2010 của Bộ Lao động thương binh và xã hội về
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày
29/10/2009 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy về quản lý sau
cai nghiện về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện
ma túy;
3. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2014), Thông tư số 14/2014/TT-
BLĐTBXH, ngày 12/6/2014 của Bộ Lao động thương binh và xã hội ban
hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề nghị, thi hành quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn
xây dựng nội quy, quy chế đối với học viên của cơ sở cai nghiện bắt
buộc;
4. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2014), Thông tư số 34/2014/TT-
BLĐTBXH, ngày 30/12/2014 của Bộ Lao động thương binh và xã hội
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 33/2010/TT-BLĐTBXH
ngày 1/11/2010 của Bộ LĐTBXH hướng dẫn một số điều của Nghị định
số 94/2010/NĐ-CP ngày 26/10/2009 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy
về quản lý sau cai nghiện về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp quản lý
sau cai nghiện ma túy;
5. Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 117/2017/TT-BTC, ngày 06/11/2017
của Bộ Tài chính quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và tổ chức cai
nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng;
6. Bộ Tài chính (2018), Thông tư số 124/2018/TT-BTC, ngày 20/12/2018
của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện hỗ trợ
đối với người cai nghiện ma túy tự nguyện;
7. Bộ lao động thương binh và xã hội (2019), Nghị định số 1864/VBHN-
BLĐTBXH, ngày 15/5/2019 của Bộ lao động thương binh xã hội quy
định về điều kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động của cơ sở
cai nghiện ma túy tự nguyện;
8. Bộ lao động thương binh và xã hội (2019), Nghị định số 1866/VBHN-
BLĐTBXH, ngày 15/5/2019 của Bộ lao động thương binh xã hội quy
định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc;
9. Bộ Tư pháp (2016), Nghị định số 2800/VBHN ngày 29/8/2016 của Bộ
Tư pháp quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục
tại xã, phường, thị trấn;
10. Nguyễn Thành Công (2003). Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao
quản lý cai nghiện và sau cai nghiện. Đề tài nghiên cứu cấp thành phố
Hà Nội;
11. Lê Thị Thanh Huyền (2014). Hoạt động hỗ trợ tạo việc làm cho người
sau cai nghiện ma túy. Đề tài nghiên cứu cấpThành phố Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Hằng (2016). Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong
việc trợ giúp người nghiện ma túy tham gia chương trình Methadone.
Đề tài nghiên cứu cấp quận Nam Từ Liêm.
13. Nguyễn Hữu Hải (2012), Giáo trình Hành chính nhà nước, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
14. Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công, những vấn đề cơ bản, Nxb
CTQG- ST, Hà Nội.
15. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Hội đồng chỉ
đạo biên soạn chương trình, giáo trình. Tập bài giảng: Phần Khoa học
Hành chính Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính dung cho các đối
tượng đào tạo Trung tâm Học viện. Hà Nội, 1/2011.
16. Hội đồng nhân dân (2012), Nghị quyết số 26/2012/NQ-HĐND, ngày
07/4/2012 của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng về chính sách hỗ
trợ người sau cai nghiện ma túy thành công sau 5 năm không tái
nghiện;
17. Hội đồng nhân dân (2018), Nghị quyết số 197/2018/NQ-HĐND, ngày
19/12/2018 của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc quy định
mức trợ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức và người lao động
làm việc tại các cơ sở quản lý người nghiện ma túy và người sau cai
nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
18. Hội đồng nhân dân (2018), Nghị quyết số 198/2018/NQ-HĐND, ngày
19/12/2018 của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng về việc quy định
các nội dung, mức chi và chế độ miễn giảm, hỗ trợ công tác cai nghiện
ma túy, quản lý sau cai nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;
19. Nguyễn Văn Minh (2001), “Các giải pháp tạo việc làm cho người
nghiện ma túy, người mại dâm sau khi được chữa trị phục hồi”, Đề tài
cấp Bộ năm 2001.
20. Phòng Lao động thương binh và xã hội quận Sơn Trà (2019), Báo cáo
tình hình thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU, ngày 20/8/2014 của Ban
Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng “ về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn
thành phố”;
21. Quốc hội (2000), Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10;
22. Quốc hội (2000), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng,
chống ma túy số 23/2000/QH10, Luật Số 16/2008/QH12;
23. Thủ tướng Chính phủ (2004), Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày
10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ đối
với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh;
24. Thủ tướng Chính phủ (2009), Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày
26/10/2009 của Chính phủ Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy về quản lý sau
cai nghiện;
25. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày
09/9/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia
đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng;
26. Thủ tướng Chính phủ (2013), Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày
30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành
chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
27. Thủ tướng Chính phủ (2013), Nghị định số 56/2016/NĐ-CP ngày
30/9/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
28. Thủ tướng Chính phủ (2013), Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày
30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp Xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
29. Thủ tướng Chính phủ (2016), Nghị định số 90/2016/NĐ-CP ngày
01/7/2016 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng
thuốc phiện bằng thuốc thay thế;
30. Thủ tướng Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày
09/9/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp
dụng biện pháp Xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
31. Thủ tướng Chính phủ (2018), Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày
29/8/2016 của Chính phủ quy định các danh Mục chất ma túy và tiền
chất;
32. Thủ tướng Chính phủ (2018), Nghị định số 80/2018/NĐ-CP, ngày
17/5/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định
số 147/2003/NĐ-CPngày 02 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy
định về điều kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động của cơ sở
cai nghiện ma túy tự nguyện (sau đây gọi tắt là Nghị định số
147/2003/NĐ-CP); Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm
2004 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên,
người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh;
33. Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BYT-BCA-BLĐTBXH ngày
09/7/2015 của Bộ Y tế- Bộ Công an và Bộ Lao động thương binh và xã
hội quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện
ma túy;
34. Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BCA, ngày
10/02/2012 của Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Y tế, Bộ Công
an về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định
số 94/2010/NĐ-CP ngày 9/9/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức
cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng;
35. Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà (2015), Báo cáo phát triển kinh tế xã hội
năm 2015, phương hướng nhiệm vụ năm 2016.
36. Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà (2016), Báo cáo phát triển kinh tế xã hội
năm 2016, phương hướng nhiệm vụ năm 2017.
37. Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà (2017), Báo cáo phát triển kinh tế xã hội
năm 2017, phương hướng nhiệm vụ năm 2018.
38. Ủy ban Nhân dân (2017), Quyết định số 901/QĐ-UBND, ngày
20/02/2017 của UBND thành phố Đà Nẵng về việc ban hành Quy chế
phối hợp tổ chức tiếp nhận người có biểu hiện loạn thần đang có hành
vi nguy hiểm cho bản thân, gia đình và xã hội tự nguyện vào cơ sở y tế
để chữa bệnh;
39. Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà (2018), Báo cáo phát triển kinh tế xã hội
năm 2018, phương hướng nhiệm vụ năm 2019.
40. Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà (2018), Báo cáo 05 năm thi hành Luật
Phòng, chống ma túy
41. Ủy ban nhân dân quận Sơn Trà (2020), Báo cáo công tác cai nghiện và
quản lý cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng trên địa bàn quận Sơn
Trà