Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Tiểu luận
Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 1
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 4
I. Lý luận chung về lạm phát ......................................................................................... 5
I.1 Khái niệm về lạm phát và cách tính lạm phát ......................................................5
I.1.1 Khái niệm lạm phát .................................................................................. 5
1.1.2 Cách tính lạm phát .................................................................................. 5
I.2 Phân loại lạm phát ...............................................................................................6
I.2.1 Xét về mặt định lượng .............................................................................. 6
I.2.2 Xét về mặt định tính ................................................................................. 7
I.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát .............................................................................8
I.3.1 Lạm phát do cầu kéo ................................................................................ 8
I.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy ........................................................................... 9
I.3.3 Lạm phát ỳ ............................................................................................. 10
I.3.4 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ ..................................................... 11
I.4 Tác động của lạm phát ...................................................................................... 12
I.5 Biện pháp khắc phục lạm phát ........................................................................... 13
II. Vài nét về lạm phát trên thế giới và thực trạng lạm phát ở Việt Nam .................. 14
II.1 Vài nét về lạm phát trên thế giới ...................................................................... 14
II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011 .................................. 19
II.2.1 Sơ lược lạm phát từ năm 1986 đến 2011 ............................................... 19
II.2.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011 ........... 23
II.2.3 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam ............................ 28
II.3 Lạm phát 2 tháng đầu năm và nhận diện lạm phát trong năm 2012 .................. 32
III. Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đề
xuất chính sách thời gian tới ........................................................................................ 35
III.1 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2011 ...................... 35
III.1.1 Chính sách tiền tệ ................................................................................ 35
III.1.1.1 Lãi suất ....................................................................................... 36
III.1.1.2 Nghiệp vụ thị trường mở.............................................................. 38
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 2
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật III.1.1.3 Quản lý tín dụng ngân hàng ........................................................ 39
III.1.1.4 Điều hành thị trường ngoại hối và tỷ giá ..................................... 40
III.1.1.5 Kiểm soát và điều hành thị trường vàng ...................................... 42
III.1.2 Chính sách tài khóa ............................................................................. 44
III.1.3 Các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất .................................. 47
III.1.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh ..................................................... 47
III.1.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu ......................................... 48
III.1.3.3 Quản lý cán cân thương mại........................................................ 48
III.1.4 Thực hiện các chính sách về an sinh xã hội .................................... 50
III.2 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2012 ...................... 50
III.2.1 Chính sách tiền tệ - Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
linh hoạt ......................................................................................................... 51
III.2.1.1 Lãi suất ....................................................................................... 51
III.2.1.2 Quản lý tín dụng ngân hàng ........................................................ 52
III.2.1.3 Điều hành tỷ giá .......................................................................... 52
III.2.1.4 Dự trữ ngoại hối, kiểm soát và điều hành thị trường vàng và ngoại
hối ............................................................................................................ 52
III.2.2 Chính sách tài khóa – thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ hiệu quả 52
III.2.2.1 Thuế và các khoản thu ngân sách của chính phủ ......................... 52
III.2.2.2 Các khoản chi của chính phủ....................................................... 53
III.2.3 Các biện pháp hỗ trợ, ổn định đời sống và sản xuất ............................. 54
III.2.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh ..................................................... 54
III.2.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu ......................................... 54
III.2.3.3 Quản lý cán cân thương mại........................................................ 55
III.2.3.4 Nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước .................................... 56
III.3 Đề xuất một số chính sách kiểm soát lạm phát cho Việt Nam trong thời gian
sắp tới .................................................................................................................... 56
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 66
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 3
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới trong một thế kỷ vừa qua đã chứng kiến nhiều đợt bùng phát lạm phát ở
nhiều nước. Trong các đợt lạm phát này, đồng tiền mất giá, giá cả hàng hóa tăng vọt và
kèm theo rất nhiều hệ lụy. Đối với Việt Nam, trong một vài thập kỷ vừa qua, kể từ khi
đổi mới nền kinh tế, cũng đã trải qua nhiều đợt bùng phát lạm phát và lạm phát hằng năm
thường ở mức cao.
Theo phân tích của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và một số thành viên Chính phủ,
trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao thì các nguyên nhân nội tại là chủ yếu, trong
đó nguyên nhân chính yếu là do chính sách tài chính tiền tệ nới lỏng kéo dài (Cổng thông
tin điện tử chính phủ VGP).
Việc tìm ra đúng nguyên nhân là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là có
chính sách đúng đắn để kiềm chế lạm phát và hơn nữa chính sách cũng phải linh hoạt
uyển chuyển tùy thuộc vào tình hình thực tế.
Hiện tại vấn đề điều hành của chính phủ nhằm kiềm chế và giảm lạm phát vẫn
đang là một vấn đề nhiều khó khăn. Để có cái nhìn thấu đáo về nguyên nhân lạm phát và
nắm được các chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là
gì? hiệu quả của các chính sách như thế nào? Thông qua tiểu luận “Chính sách kiểm soát
lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” hy vọng sẽ làm rõ được phần nào câu
hỏi trên.
Nội dung tiểu luận gồm 3 phần:
- Phần I: Lý luận chung về lạm phát
- Phần II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
- Phần III: Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Hy vọng bài tiểu luận này mang đến cho các bạn một lượng kiến thức nhỏ. Trong
quá trình làm tiểu luận có những sai sót mong nhận được sự góp ý quý giá từ thầy cùng
tất cả các bạn để tiểu luận được hoàn thiện hơn, rút được kinh nghiệm cho nhóm sau khi
nghiên cứu đề tài này.
Nhóm 2 xin chân thành cảm ơn.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 4
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật I. Lý luận chung về lạm phát
I.1 Khái niệm về lạm phát và cách tính lạm phát
I.1.1 Khái niệm lạm phát
Theo các sách giáo khoa về tiền tệ, lạm phát được coi là hiện tượng giấy bạc lưu
thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, dẫn đến giá cả của hầu hết
các hàng hoá trong lưu thông không ngừng tăng lên.
Nghĩa nguyên gốc “lạm phát” là việc lạm dụng phát hành tiền tệ (in nhiều giấy bạc
hơn mức cần thiết) làm cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông thừa tương đối, dẫn đến
giá cả một đơn vị hàng hoá tăng lên tương ứng và do đó, làm suy giảm sức mua của đồng
tiền. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm phát (inflation). Tuy nhiên, việc xác
định khối lượng “đúng” của tiền tệ cần thiết cho lưu thông là bất khả thi vì tổng lượng
hàng hoá, dịch vụ luân chuyển luôn biến động, vòng quay của đồng tiền không ổn định,
mục đích sử dụng tiền cũng luôn luôn thay đổi. Do đó, người ta chỉ có thể nhận diện được
lạm phát khi có dấu hiệu giá cả hàng hoá dịch vụ gia tăng một cách có hệ thống mà song
song với nó là sự suy giảm sức mua của đồng tiền.
Ví dụ: Lạm phát vào thời điểm tháng 10/2008 của Zimbabwe lên tới 231 triệu %
làm cho giá 1 ổ bánh mì lên tới 10.000 đôla.
1.1.2 Cách tính lạm phát
Lạm phát được đo bằng hai chỉ tiêu cơ bản là chỉ số giá tiêu dung CPI (Consumer
price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator).
- Cách tính CPI sẽ dựa trên một rổ hàng hóa tiêu dùng (goods basket) và giá cả của
những hàng hóa trong rổ ở hai thời điểm khác nhau. Từ đó, chỉ số lạm phát được tính như
sau:
CPIt – CPI0 Chỉ số lạm phát năm t = CPI0
- Cách tính GDPf thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau, thông thường theo
ngôn ngữ thống kê là giá cố định (constant price) và giá hiện hành (current price).
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 5
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
GDPdanh nghĩa x 100% GDPf = GDPthực tế
GDPft – GDPf0 Chỉ số lạm phát năm t = GDPf0
Phương pháp GDP deflator sẽ tính lạm phát chính xác hơn theo định nghĩa của
lạm phát. Tuy nhiên, CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào
căn cứ vào rổ hàng hóa, còn GDP deflator thì chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi
có báo cáo về GDP của năm đó.
I.2 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
I.2.1 Xét về mặt định lượng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát ra
thành:
a. Thiểu phát
Thiểu phát là sự lên giá của đồng tiền, hay giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm. Đây
là tình trạng lạm phát ở tỷ lệ rất thấp, khoảng dưới 3-4%/năm. Có hai điểm đáng chú ý
trong thời gian thiểu phát. Điểm thứ nhất, người tiêu dùng có tâm lý chờ đợi giá sẽ giảm
xuống nữa nên chưa mua, làm giảm nhu cầu đối với sản xuất. Điểm thứ hai là hàng nhập
khẩu giá rẻ sẽ gia tăng, và sẽ càng mạnh nếu trên thế giới cũng bị thiểu phát. Khi đó,
nhập siêu sẽ gia tăng, mà lại là nhập siêu giảm phát, làm cho sản xuất trong nước càng trì
trệ.
b. Lạm phát vừa phải (Lạm phát 1 con số mỗi năm)
Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát
vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động
một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu
hiện: Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và
tích trữ hàng hóa với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 6
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật của nó là không đáng kể.
c. Lạm phát phi mã (Lạm phát 2,3 con số mỗi năm)
Khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến 2 chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát 2 chữ số
thấp (11,12,13%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền
kinh tế vẫn có thể chấp nhận được nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 chữ số cao hoặc ở
mức 3 con số, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động
tiêu cực của nó là không nhỏ. Lúc đó lạm phát 2,3 chữ số sẽ trở thành mối đe dọa đến sự
ổn định của nền kinh tế. Ở mức 2,3 chữ số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah
chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân
tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất
bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế
nghiêm trọng.
d. Siêu lạm phát (Lạm phát 4 con số trở lên)
Siêu lạm phát có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh. Với siêu lạm phát,
những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh trở nên nghiêm trọng: kinh
tế suy sụp một cách nhanh chóng, đồng tiền mất giá nghiêm trọng, thu nhập thực tế của
người lao động giảm mạnh, mọi thứ đều trở nên khan hiếm trừ tiền giấy… dẫn đến đời
sống kinh tế của người dân trở nên khó khăn.
I.2.2 Xét về mặt định tính:
Xét về mặt định tính, lạm phát bao gồm:
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
- Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy loại lạm phát
này không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
- Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập,
trên thực tế lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
b. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
- Lạm phát dự đoán trước: Đây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian tương
đối dài với tỷ lệ lạm phát tăng hàng năm khá đều đặnvà ổn định. Do vậy, người ta có thể
dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 7
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình
trạng lạm phát này.
- Lạm phát bất thường: Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa từng
xuất hiện. Do vậy tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích ứng được.
Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người
dân vào chính quyền.
I.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát
I.3.1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc
vượt quá mức tự nhiên.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về
tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu
dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại.
Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan
của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ
sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương
trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.
Hình 1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Khi nhu cầu xuất khẩu tăng,
lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước.
Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 8
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng
lượng tiền cung ứng 2. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn
nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái.
Lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi
cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường
hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản
lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề
thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng cung trở nên rất dốc
như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng
tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng và việc làm tăng lên rất ít.
I.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn
bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng
cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô
trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp
và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy
hay lạm phát đi kèm suy thoái.
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên
liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh
nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản
xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ
phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả
hàng hóa. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao,
thì ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
thu từ thuế, thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 9
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Hình 2 Lạm phát do chi phí đẩy
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà
nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do
giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình
hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng
nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ
tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
I.3.3 Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa
phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá
ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn
được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh
nghĩa được thanh toán trong tương lai.
Hình 3 Lạm phát ỳ
Hình 3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường
tổng cầu cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở
mức tự nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 10
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
I.3.4 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện
tượng lạm phát. Những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do
lượng cung tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra, và được giải thích bằng phương
trình số lượng sau:
M.V = P.Y
Trong đó:
- M: lượng cung tiền danh nghĩa - V: tốc độ lưu thông tiền tệ
- P: chỉ số giá tiêu dùng - Y: sản lượng thực
Do đó nhóm nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ cổ điển cho rằng giá cả phụ thuộc vào
lượng tiền phát hành. Khi lượng cung tiền tăng lên thì mức giá cũng tăng theo cùng tỷ lệ,
lạm phát xảy ra. Thuyết này chỉ đúng khi cả V và Y không đổi.
Nhóm nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ trọng tiền hiện đại, tiêu biểu là Milton
Friedman cho rằng: Khi dự đoán được tốc độ tăng trưởng của Y hàng năm và tốc độ lưu
thông tiền tệ ổn định, thì chúng ta có thể xác định tỷ lệ tăng lượng cung tiền tương ứng
mà không gây ra lạm phát. Do đó ông đưa ra quy tắc tiền tệ: Khi Y tăng theo tỷ lệ ổn
định thì chính sách tốt nhất là tăng lượng cung tiền theo một tỷ lệ không đổi đã định thì P
sẽ ổn định.
Tuy nhiên trong thực tế tốc độ tăng trưởng của Y là không ổn định, tốc độ lưu
thông của V cũng thay đổi, nên chỉ khi tốc độ tăng của tổng khối tiền tệ hằng năm (M, V)
nhanh hơn tốc độ tăng của Y thì P sẽ tăng lên và lạm phát sẽ xảy ra.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 11
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Hình 4 sử dụng số liệu tăng tiền và tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam từ năm
1987 đến năm 2007. Số liệu này xác minh mối tương quan dương giữa tỷ lệ tăng tiền và
tỷ lệ lạm phát. Những năm Việt Nam có tỷ lệ tăng cung tiền cao có xu hướng đi kèm với
lạm phát cao, còn những năm có tỷ lệ tỷ lệ tăng cung tiền thấp có xu hướng đi kèm với
lạm phát thấp.
I.4 Tác động của lạm phát
Chi phí mòn giày:
Do khi lạm phát cao xảy ra, để tránh thiệt hại lượng tiền mọi người cần giữ sẽ
giảm thiểu và do đó số lần đi đến ngân hàng sẽ tăng lên, hao tốn công sức và lãng phí
thời gian.
Chi phí thực đơn – tác động đến lĩnh vực sản xuất
Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng
gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất, chi phí sản xuất tăng cao. Sự mất giá của
đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có
tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Tác động đến lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất
cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên
không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người
tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt
và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng.
Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền
gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng
với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an
tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng
gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì
mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm
phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 12
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những người có lợi từ sự mất giá của đồng
tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang không còn bình thường nữa, chức năng
kinh doanh tiền tệ bị hạn chế.
Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm
phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm
cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay
kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó, các khoản
chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà nước trong các
ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các
mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện.
Tác động làm phân phối lại của cải trong xã hội
Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất
danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố
định.
I.5 Biện pháp khắc phục lạm phát
Lạm phát do cầu:
Khi xảy ra lạm phát cao, sản lượng lương thực vượt quá sản lượng tiềm năng, nền
kinh tế phát triển quá nóng, phải tìm biện pháp giảm lạm phát, ổn định nền kinh tế là
giảm tổng cầu, bằng cách:
- Áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp: giảm chi tiêu ngân sách, tăng thuế.
- Áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp: giảm mức cung tiền, tăng lãi suất..
Kết quả tổng cầu sụt giảm, đường AD dịch chuyển sang trái, mức giá giảm, sản lượng
giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Lạm phát do cung:
Phải làm tăng tổng cung, giảm chi phí sản xuất bằng cách:
- Tìm nguyên liệu mới rẻ tiền thay cho nguyên liệu cũ đắt tiền.
- Giảm thuế, giảm lãi suất.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 13
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật - Cải tiến kỹ thuật sản xuất, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất
lao động, giảm chi phí.
- Nâng cao trình độ quản lý : tổ chức lao động khoa học và hợp lý hóa sản xuất.
Kết quả là chi phí sản xuất của nền kinh tế sẽ giảm xuống, đường AS dịch chuyển
sang phải, mức giá giảm, sản lượng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm.
II. Vài nét về lạm phát trên thế giới và thực trạng lạm phát ở Việt Nam
II.1 Vài nét về lạm phát trên thế giới
Lịch sử thế giới đã từng trải qua 15 lần siêu lạm phát tại Đông Âu và Trung Á
trong đó trong thế kỷ 20 đã trải qua siêu lạm phát 5 lần tại Mỹ - Latinh, 4 lần tại Tây Âu,
1 lần tại Đông Nam Á và 1 lần tại châu Phi. Siêu lạm phát đầu tiên trên thế giới xảy ra
vào thời kỳ Cách mạng Pháp thế kỷ 18 (1789 – 1799) khi đó lạm phát theo tháng lên mức
143%. Thế nhưng phải đến thế kỷ 20 loại lạm phát vượt tầm kiểm soát này mới trở lại.
Trong những biến cố về hệ thống tiền tệ của lịch sử nhân loại, có 2 thảm kịch siêu lạm
phát tiêu biểu như sau, mà khi đó, tiền chỉ có giá trị bằng một tờ giấy bình thường.
Zimbabwe – tháng 11/2008
Trong lần siêu lạm phát gần đây nhất trên thế giới, khủng hoảng tiền tệ tại
Zimbabwe lên mức tồi tệ nhất vào tháng 11/2008 và tăng 79 tỷ %/tháng. Cứ 24,7 tiếng,
giá tăng gấp đôi.
Chỉ vài ngày sau khi phát hành tờ tiền mệnh giá 100 triệu, Ngân hàng Trung ương
phát hành tiền mệnh giá 200 triệu và hạn chế số tiền rút ra khỏi ngân hàng ở mức 500.000
tương đương 0,25 USD.
Khi tờ 100 triệu được đưa vào lưu hành, giá cả tăng nhảy vọt; báo cáo cho thấy 1 ổ
bánh mi tăng từ 2 triệu lên 35 triệu chỉ sau 1 đêm. Chính phủ còn tuyên bố lạm phát là bất
hộ pháp và bắt giữ giám đốc điều hành công ty nào dám tăng giá bán hàng.
Tình hình tồi tệ đến mức nhiều cửa hàng tại đất nước này từ chối đồng nội tệ và
chỉ nhận đồng USD hay đồng rand của Nam Phi. Ngân hàng Trung ương Zimbabwe cuối
cùng phải định giá lại đồng tiền và neo nó vào đôla Mỹ. Chính phủ cũng buộc phải đóng
cửa sàn chứng khoán.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 14
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Đầu thế kỷ 21, Zimbabwe bước vào siêu lạm phát và đến năm 2006, Zimbabwe in
thêm 21 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả nợ IMF. Cùng trong năm đó, Zimbabwe tiếp tục
in thêm 60 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả lương cho quân đội, cảnh sát và nhiều viên
chức nhà nước.
Năm 2007, nguồn cung thực phẩm, nhiên liệu và thuốc men thiếu trầm trọng, lạm
phát tháng vượt mức 115 nghìn %. 6 tháng cuối năm 2007, chính phủ Zimbabwe quyết
định ngưng trả lương.
Tháng 4/2008, 50 triệu đồng Zimbabwe tương đương 1,20USD trong khi đó Ngân
hàng Trung ương ước tính kinh tế nước này tăng trưởng âm 6% so với 1 năm trước. Theo
Los Anelges Times đưa tin, vào tháng 7/2008, chính phủ Zimbabwe đã có lúc hết giấy để
in tiền bởi phía châu Âu ngừng cung cấp giấy in tiền cho Zimbabwe do lo ngại về lý do
nhân đạo.
Nguyên nhân lạm phát tại Zimbabwe
Khi Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, chính phủ nước này quyết định
sử dụng đồng tiền mới với giá trị ban đầu so với đồng USD ở mức khoảng 1,25USD.
Chính phủ Zimbabwe quản lý yếu kém và mất kiểm soát lạm phát.
Xu thế hình thành siêu lạm phát bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi Tổng thống
Mugabe đưa ra chương trình phân phối lại đất đai, ông lấy đất từ người nông dân gốc Âu
dành cho người nông dân bản xứ. Nhóm người nông dân giàu kinh nghiệm bỗng dưng
mất đất, sản lượng nông nghiệp sụt giảm xuống dưới mức cần thiết, giá tăng không tránh
khỏi.
Đức – tháng 10/1923
Tháng 10/1923 khi lạm phát tháng tăng ở mức 29.500% và với tỷ lệ ngày 20,9%,
cứ sau 3,7 ngày, giá cả hàng hóa tăng gấp đôi.
Đến tháng 8/1923, 1 triệu mác Đức mới đổi được một USD. Đến tháng 11/1923,
con số này lên mức 238 triệu mác Đức/USD và khi trật tự tâm lý có tên “Zero Stroke”
được đưa ra, người ta khi đó đã phải giao dịch hàng trăm tỷ mác Đức cho các chi phí
hàng ngày
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 15
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng tiền, thay thế đồng
papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và giảm đi 12 số 0 trên
tờ tiền. Dù đồng rentenmark đã bình ổn tình hình và chính phủ cộng hòa Weimar tồn tại
cho dến năm 1933, siêu lạm phát và áp lực kinh tế đã dẫn đến việc nổi lên của đảng Nazi
và Adolf Hitler.
Nguyên nhân chính của lạm phát tại Đức
Siêu lạm phát của nước cộng hòa Weimar bắt nguồn từ việc chính phủ in quá
nhiều tiền để chi trả cho chiến tranh.
Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu chi
tiền cho chiến tranh thông qua đi vay chứ không phải tăng thuế. Năm 1919, giá cả đã tăng
gần gấp đôi, Đức thua trận. Giai đoạn từ năm 1919 đến 1921, đồng tiền này khá ổn định
nếu so với những năm trước đó.
Việc giải quyết hậu quả chiến tranh theo yêu cầu của hòa ước Versailles buộc Đức
phải trả các chi phí bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng chứ không phải đồng papiermark.
Đức sử dụng đồng papeirmarks đảm bảo bằng nợ chính phủ để mua ngoại tệ và vì thế đẩy
nhanh tốc độ phá giá đồng tiền.
Hòa ước Versailles năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt Thế chiến thứ Nhất
(1914–1918) giữa Đức và các nước thuộc phe Hiệp Ước. Hòa ước quy định Đức phải trả
lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một mảnh đất cho Bỉ, một mảnh tương tự ở
Schleswig cho Đan Mạch – tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân. Khi người Đức không
thể trả được tiền, quân Pháp và Bỉ chiếm đóng thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để yêu
cầu trả bằng hiện vật dẫn đến hàng loạt vụ đình công và phản kháng của người Đức khiến
mọi chuyện tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc làm sao giải
quyết được tình hình, kinh tế Đức nhanh chóng suy sụp trong chỉ hơn 1 năm, một nửa
nước Đức chìm trong siêu lạm phát.
Chính sách kiểm soát lạm phát của chính phủ Đức
Chính phủ Đức đã cải cách tài chính và tiền tệ. Vào cuối năm 1923, chính phủ đã
tinh giảm biên chế 1/3 số lượng công nhân viên chức, các khoản bồi thường chiến tranh
tạm đình lại. Đồng thời Ngân hàng Trung ương mới ra đời, thay cho ngân hàng trung
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 16
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật ương cũ và cam kết không tài trợ cho chi tiêu chính phủ bằng cách in tiền. Nhờ đó, đến
cuối tháng 12/1923, lượng cung tiền và giá cả đột nhiên ổn định.
Nguyên nhân chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong
cung tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách
quá lớn. Hơn nữa, một khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể
trở nên không thể kiểm soát được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế
tính theo phần trăm so với GDP, làm tăng thâm hụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa
nhiều hơn vào phát hành tiền mà điều này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn.
Dựa trên các bằng chứng lịch sử, thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành
tiền trong khoảng từ 10-12 % của GDP sẽ gây ra siêu lạm phát. Nhìn chung, có một số
điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong
các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất
hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân
sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của
Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước
Mỹ La-tinh. Nhìn chung, siêu lạm phát thường đi kèm với chiến tranh, chính sách tài
khóa kém hiệu quả, tuy nhiên nguyên nhân trọng tâm vẫn ở cung tiền tăng trưởng quá
nhanh mà không được hỗ trợ bởi tăng trưởng kinh tế.
Năm 2008 đánh dấu sự quay trở lại của lạm phát phi mã với những tác động
nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới. Những nền kinh tế lớn như Mỹ và EU đã phải đối
phó với tình trạng lạm phát và thất nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế đình đốn. Lạm
phát trong khu vực các thành viên EU sử dụng đồng euro lập kỷ lục trong tháng 6/2008
với 4%, gấp đôi mục tiêu kiềm chế lạm phát. Mỹ cũng đang đối mặt với lạm phát tăng
hơn 3% trong năm 2008, mức cao gấp đôi so với nhiều năm trước. Hầu hết những nước
đang phát triển và những nền kinh tế mới nổi sau một thời kỳ tăng trưởng nhanh đã bất
ngờ gặp lạm phát tăng cao và đối mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm lại. Đối với các
nước phát triển như Trung Quốc, lạm phát đã đạt mức 8,5%, cao nhất trong 12 năm trở
lại đây. Lạm phát ở Ấn Độ là 7,8%, cao nhất trong vòng 4 năm qua. Lạm phát Inđônêsia
lên tới 12% trong tháng 6 sau khi Chính phủ tăng giá xăng dầu lên gần 30%.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 17
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Nguyên nhân của lạm phát năm 2008
Nguyên nhân của lạm phát tăng cao trong năm 2008 là do giá lương thực và
nhiên liệu tăng cao. Giá dầu tăng nhanh trong thời gian ngắn phá vỡ mọi kỷ lục về giá
trước đây đã khiến cho giá cả các hàng hóa khác tăng nhanh.
Lạm phát tăng nhanh và bất ngờ trong thời gian ngắn có nguyên nhân xuất phát
từ nguồn cung. Từ năm 2002 đến nay, riêng các nền kinh tế mới nổi đã chiếm 90% lượng
gia tăng trong nhu cầu tiêu dùng của toàn thế giới đối với dầu và kim loại, 80% đối với
lượng gia tăng của nhu cầu tiêu thụ toàn cầu đối với ngũ cốc. Nguồn cung khan hiếm đối
với nguyên nhiên liệu và lượng thực đã tạo ra những cú sốc đẩy giá tăng vọt.
Nhưng trên hết, nguyên nhân sâu xa đó là do chính sách tiền tệ nới lỏng được
các nước áp dụng trong nhiều năm qua nhằm đạt được mục tiêu về tăng trưởng kinh tế.
Kết quả là tình trạng tăng trưởng nóng kéo dài trong nhiều năm ở nhiều nước. Chính sách
tiền tệ nới lỏng đã khiến cung tiền tăng mạnh, điều này khiến cho nhu cầu trong nước
tăng vọt và giá cả luôn duy trì ở mức cao. Như vậy, nguyên nhân chính của lạm phát nằm
ở chính sách điều hành kinh tế. Ngân hàng trung ương ở các nước mới nổi thường không
có sự độc lập cần thiết khi phải duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng với việc duy trì lãi suất
thấp để phục vụ cho mục tiêu chính trị là tăng trưởng nhanh và vấn đề việc làm. Điều
hành chính sách tiền tệ không nhanh nhạy và linh hoạt sẽ khiến cho lạm phát tăng nhanh
khi giá cả một số mặt hàng chính yếu tăng cao. Vì mọi người kỳ vọng giá cả sẽ tăng lên
nên lạm phát sẽ gây sức ép đòi tăng lương, hệ quả là giá cả hàng hóa tiếp tục tăng để bù
đắp phần chi phí tăng thêm đó và vòng xoáy lạm phát sẽ lại tăng cao hơn nữa.
Ngoài ra nguyên nhân còn là từ sự bất ổn của khu vực tài chính ở các nước
phát triển trong đó có nền kinh tế Mỹ với sự sụp đổ hàng loạt các tổ chức tín dụng và
ngân hàng, cùng cuộc khủng hoảng nhà đất với tình trạng đầu cơ và tình trạng “siêu bong
bóng”. Các công cụ tài chính phái sinh đã khiến cho thị trường tài chính thế giới trở nên
bấp bênh, dễ khủng hoảng hơn trước.
Việc nâng giá đồng nội tệ có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu tư kỳ vọng đồng
tiền lên giá cao hơn nữa, hấp dẫn các dòng vốn bên ngoài ồ ạt chuyển vào, điều này khiến
lạm phát tăng cao hơn nữa. Đây là vấn đề mà Trung Quốc đang phải đối mặt.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 18
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011
II.2.1 Sơ lược lạm phát từ năm 1986 đến 2011
Số liệu về chỉ số lạm phát đo bằng CPI tháng 12 năm sau so với tháng 12 năm
trước và tốc độ tăng trưởng GDP được tổng hợp lại ở bảng sau:
Bảng 1: Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010
Đơn vị tính: %
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê)
Quan sát vào dãy số liệu ta thấy trong vòng 24 năm này, có 2 năm Việt Nam rơi
vào tình trạng siêu lạm phát với chỉ số lạm phát lên đến trên 200%/năm, thậm chí năm
1988, lạm phát còn ở mức kỷ lục 349,4%/năm.
Thời kỳ 1986-1991, lạm phát phi mã, trong đó 1986-1988 tăng tới 402,1%/năm.
Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm cho thị trường
bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng. Có một nguyên nhân quan trọng là việc thực hiện lộ
trình giá thị trường đối với hầu hết những mặt hàng bao cấp hiện vật bằng tem phiếu định
lượng trong thời kỳ trước, tạo ra mặt bằng giá chung mới cao hơn nhiều. Phải đến cuối
năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới
được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu
tiên mạnh tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt
đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Thời kỳ 1992-1995, lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với các thời kỳ
trước. Nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng (tăng trưởng kinh tế 1991-1995 đạt
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 19
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật 8,2%/năm, đặc biệt lương thực vượt nhu cầu trong nước, đã có xuất khẩu với khối lượng
lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: đối với ngân sách thì thu lấy mà chi; đối với ngân
hàng thì vay lấy mà cho vay-có nghĩa là Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân
sách và bội chi tiền mặt.
Thời kỳ 1996-2003 được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp (mặc dù năm
1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực, với tỷ giá năm 1997 tăng
14,2%, năm 1998 tăng 9,6% và giá lương thực tăng 23,1%, giá thực phẩm tăng 8,6%.
Nhưng nhìn chung cả thời kỳ này đã có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp;
giá lương thực, thực phẩm giảm hoặc tăng thấp. Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm
1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời
gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên
tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ
cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu.
Thời kỳ từ 2004 đến nay là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2
năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn. Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%,
thì năm 2006 tăng 6,6%. Năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009
tăng 6,52%. Năm 2010 tăng 11,75%, năm 2011 sau 8 tháng đã tăng 15,68% (nếu tính
theo năm thì tháng 8/2011 so với cùng kỳ năm trước đã tăng tới 23,02%). Dự báo cả năm
phải phấn đấu tích cực mới ở mức 18% (nếu theo “quy luật” trong mấy năm qua thì khả
năng năm 2012 sẽ tăng thấp hơn và từ đó có thể nhận thấy việc Chính phủ đưa ra chỉ tiêu
dưới 10% của năm 2012 là có tính khả thi).
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá cao. Từ năm
2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 khoảng 7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân
hàng năm khoảng gần 11%.
Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh
với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%;
Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản:
0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 20
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70%
so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây.
Đến năm 2009, theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 12-2009 tăng 1,38% so với tháng trước. Như vậy, CPI của cả năm 2009 dừng ở
mức 6,88%, đúng mục tiêu của Chính phủ đề ra là kiểm soát lạm phát dưới hai con số.
Tăng giá mạnh nhất là nhóm giao thông: 2,47%, tiếp theo là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống: 2,06%. Trong nhóm này, riêng mặt hàng thực phẩm tăng đột biến: 6,88%. Đứng
thứ 3 là nhóm nhà ở - vật liệu xây dựng, tăng 1,40%. Các nhóm hàng hóa còn lại đều tăng
1% hoặc thấp hơn. Tăng giá ít nhất là nhóm thiết bị đồ dùng gia đình: 0,25%. Chỉ số giá
USD và vàng biến động mạnh. Giá vàng chỉ tăng thêm 0,49% trong tháng 12 nhưng cả
năm 2009 đã tăng đến 9,16%. Chỉ số giá USD tháng 12 tăng 3,19% khiến mức tăng cả
năm lên đến 9,17%.
Trong Báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra ngày 7/12/2010 tại Hội nghị
Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG-2010), WB nhận định lạm phát cả năm 2010 ở mức
10,5% - cao hơn nhiều so với mục tiêu 8% mà Quốc hội đề ra trước đó. Báo cáo do Ngân
hàng Thế giới nhận định tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đột ngột dâng cao hơn dự kiến
trong tháng 10 và 11. Cụ thể, đến cuối tháng 11, tỷ lệ lạm phát 11 tháng đứng ở mức gần
9,6%. Lạm phát giá lương thực hàng năm lên đến 14,8%, cao nhất kể từ tháng 4/2009. Tỉ
trọng thương mại so với GDP lên đến gần 150% và VNĐ đang mất giá cùng với sự tăng
giá hàng hóa trên thế giới chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mặt bằng giá trong nước.
Ngoài ra, các cú sốc nguồn cung như lụt lội nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung cũng
góp phần gây ra lạm phát.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 21
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Trong năm 2011, lạm phát tăng 18,13% so với tháng 12/2010. Mức lạm phát tăng
cao trong 4 tháng đầu năm lên tới mức 3,32% trong tháng 4 do sức ép từ tỷ giá, giá cả
hàng hóa năng lượng và cung tiền.Từ tháng 5 trở đi, nhờ những nỗ lực ổn định hóa quyết
liệt của Chính phủ, CPI đã liên tục giảm tốc và xuống dưới 1% kể từ tháng 8/2011
Đặc biệt, mặc dù là tháng cận tết nhưng chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 chỉ
tăng 0,53% so với tháng trước (thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của
cùng kỳ năm 2009 và năm 2010), trong đó các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá
tăng cao hơn mức tăng chung là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm hàng ăn
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 22
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% (Lương thực tăng 1,40%; thực phẩm tăng 0,49%); Thiết
bị và đồ dùng gia đình tăng 0,68%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp
hơn mức tăng chung gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; đồ uống và thuốc lá
tăng 0,49%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,35%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,24%;
giao thông tăng 0,16%; giáo dục tăng 0,05%; riêng bưu chính viễn thông giảm 0,09%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 12/2011 giảm 0,97% so với tháng trước; tăng 24,09% so với
cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2011 tăng 0,02% so với tháng trước;
tăng 2,24% so với cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm
2011 tăng 31,8% so với năm trước; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công
nghiệp tăng 18,43%; chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 21,27%; chỉ
số giá cước vận tải tăng 18,52%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa năm 2011 tăng 19,62% so
với năm 2010; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 20,18%.
Giá cả hàng hóa thế giới tăng: Với tỷ trọng XNK/GDP đạt 160% GDP, tỷ lệ nhập
II.2.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011
khẩu/GDP khá cao ở mức trên 80%, có thể thấy Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở
cửa lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam nền kinh tế có mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu lớn nhất
khu vực, cơ cấu chi phí sản xuất phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Do vậy, giá cả
của hàng hóa trong nước chịu sự ảnh hưởng nhất định của giá cả thế giới. Giai đoạn 2006
- 2011, chỉ số hàng hóa thế giới chung tăng 132%, giá năng lượng tăng 90,9%, giá lương
thực tăng 151,2%. Giá trên thị trường quốc tế tăng tác động đến giá cả trong nước qua
hàng hóa nhập khẩu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến giá cả những loại hàng hóa vừa xuất
khẩu vừa tiêu thụ trong nước, đặc biệt là hàng hóa nông sản, đã góp phần làm tăng mặt
bằng giá chung trong nước.
Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý:
Chi phí sản xuất của nền kinh tế cao: chi phí năng lượng cho một đơn vị GDP
vẫn còn cao so với các nước trong khu vực. Chi phí vận chuyển cao do kết cấu hạ tầng,
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 23
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật giao thông chưa phát triển. Tiền lương tối thiểu được điều chỉnh tăng góp phần trực tiếp
làm tăng chi phí sản xuất, qua đó ảnh hưởng CPI.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động thấp: ICOR cũng tăng
nhanh qua các giai đoạn. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hoạt động kém hiệu
quả nhất về mặt sử dụng vốn. Trong cả giai đoạn 2000 - 2011, để tạo ra 1 đồng giá trị
tăng thêm, khu vực này phải bỏ ra 10,13 đồng vốn. Xét trong giai đoạn 2006 - 2011, giá
trị này phải là 17,42 đồng mới có được 1 đồng giá trị tăng thêm. Khu vực Nhà nước,
trong cả giai đoạn 2000 - 2011, bỏ ra 7,54 đồng để có được 1 đồng giá trị tăng thêm; giai
đoạn 2006 - 2011, hiệu quả đầu tư tiếp tục giảm khi cần 7,98 đồng mới tạo ra được 1
đồng giá trị tăng thêm. Hiệu quả sử dụng vốn ở khu vực ngoài nhà nước lại tốt nhất.
Trong giai đoạn 2006 - 2011, mức đầu tư để tạo ra 1 đồng giá trị tăng thêm của khu vực
này chỉ là 4,32 đồng.
Việc đầu tư tràn lan, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, dẫn đến hiệu quả đầu tư
không cao và tạo gánh nặng về vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc triển khai cùng
một lúc nhiều chương trình tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và tín dụng chính
sách với lãi suất ưu đãi, trong khi hiệu quả đầu tư thấp cũng làm tăng thêm chi phí vốn
cho nền kinh tế.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 24
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ
tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước
Hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả: làm cho chi phí
sản xuất, giá thành và giá vốn tăng cao. Công tác quản lý của khu vực này có nhiều hạn
chế: chưa minh bạch hóa hoạt động và công khai thông tin; chủ sở hữu nhà nước chưa
thực sự trở thành một nhà đấu tư; chưa chuyên nghiệp theo kinh tế thị trường; công tác
giám sát còn thiếu tách bạch giữa quản lý và điều hành, giữa chủ thể giám sát và đối
tượng giám sát.
Phá giá tiền đồng và xuất nhập khẩu: Đồng Việt Nam liên tục mất giá so với USD
trong nhiều năm qua cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa trong nước, tác động
đáng kể đến lạm phát. Trong giai đoạn 2006 - 2010, tỷ giá tăng 21,2%. Xuất khẩu phụ
thuộc vào hàng nhập khẩu từ nước ngoài và tỷ trọng nhập khẩu/GDP cao thì việc đồng
Việt Nam mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả trong nước.
Giá vàng thế giới liên tục tăng: Giá vàng thế giới liên tục tăng từ 2009 cùng với
yếu tố tâm lý, đầu cơ đã đẩy giá vàng trong nước tăng mạnh, nhu cầu nhập khẩu vàng
tăng cao và tác động lên tỷ giá. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý và
lòng tin vào đồng nội tệ dẫn đến lạm phát có xu hướng tăng. Với mức tăng 64.32% năm
2009, 30% năm 2010 và 24.09% năm 2011, giá vàng trong nước đã tác động không nhỏ
đến chỉ số giá tiêu dung trong những năm qua.
Nới lỏng cung tiền và tín dụng trong một thời gian dài: Tốc độ tăng cung tiền M2
khá cao so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2000 - 2010, tốc độ tăng cung
tiền của Việt Nam đạt mức 31,4%, trong khi đó của Trung Quốc là 17,8%, Inđônêxia
13%, Malaysia 8,7%, Thái Lan 6,2%.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 25
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Nguồn: NHNN
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam cũng luôn ở mức cao so với các nước
trong khu vực. Trong giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng bình quân tăng 30,6%/năm. Hệ số
dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đã tăng từ 40% năm 2000, lên mức 116,14% năm
2010 (gần 3 lần). Chính việc tăng trưởng tín dụng nhanh là nguyên nhân dẫn đến M2 tăng
cao. . Mặc dù có tốc độ tăng trưởng tín dụng và đầu tư toàn xã hội ở mức khá cao so với
nhiều quốc giá khác tuy nhiên tăng trưởng GDP của Việt Nam trong giai đoạn này chỉ
trung bình ở mức 6 – 7%. Năm 2010 so với năm 2000, tín dụng cao gấp trên 13,7 lần,
trong khi GDP chỉ gấp trên 2 lần; hệ số giữa tốc độ tăng của tín dụng và của GDP lên đến
trên 6,2 lần-một hệ số rất cao. Dư nợ tín dụng/GDP đã ở mức khoảng 125%, cao gấp đôi
con số tương ứng của nhiều nước.
Bội chi ngân sách và chi thường xuyên luôn ở mức cao: Bội chi ngân sách nhà
nước từ 2006 đến nay luôn xấp xỉ mức 5% GDP gây áp lực lên lạm phát. Chi tiêu của
Chính phủ đã gia tăng liên tục trong các năm tiếp theo nhưng vẫn thuộc mức cao trong
bối cảnh tổng thu ngân sách vẫn ở mức thấp. Cơ cấu chi ngân sách cũng đáng quan tâm:
Chi thường xuyên luôn ở mức khoảng 20% GDP trong những năm gần đây thì chi cho
đầu tư xây dựng cơ bản chỉ ở mức khiếm tốn chưa đến 10% GDP, chỉ gần bằng 1/2 tổng
chi thường xuyên hàng năm. Đồng thời để bù đắp thâm hụt ngân sách, chính phủ phải
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 26
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật huy động nguồn vốn trong xã hội nhiều hơn thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu và
trở thành một nhân tố làm tăng M2 do thực tế số trái phiếu này hầu hết bán cho tổ chức
tín dụng và các tổ chức tín dụng sử dụng để chiết khấu hoặc bán cho Ngân hàng Nhà
nước qua nghiệp vụ thị trường mở.
Ghìm giữ quá lâu những loại hàng hóa quan trọng như xăng dầu, điện, than… làm
thu hẹp không gian chính sách, đến khi buộc phải thực hiện xóa bỏ bao cấp thì lại dồn
dập vào một thời điểm, gây hiệu ứng tâm lý, làm giảm hiệu quả của các giải pháp kiềm
chế lạm phát
Tăng lương tối thiểu và lạm phát kỳ vọng: tiền lương được điều chỉnh liên tục để
đảm bảo điều kiện sinh hoạt thời kỳ lạm phát và thường diễn ra sau lạm phát nhưng cũng
có tác động đến CPI và mặt bằng giá ở kỳ tiếp theo
Lạm phát tâm lý: Yếu tố tâm lý tác động đến giá cả, lạm phát ở nước ta mạnh hơn
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây là nguyên nhân có tính lịch sử, do nước ta
đã từng rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Khi kinh tế vĩ mô bất ổn, các mục tiêu kinh tế
quan trọng không đạt được, phát sinh các biến cố lớn hoặc thông tin chính sách thiếu rõ
ràng, thì sẽ làm gia tăng lạm phát kỳ vọng và trở thành lạm phát tâm lý, tức là tình trạng
người dân phản ứng một cách thái quá trước những biến động của thị trường và qua đó
đẩy lạm phát
Lạm phát tâm lý trong nền kinh tế ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống xã hội, đặc
biệt là giá các loại hàng hóa trên thị trường. Thứ nhất: Các chính sách quản lý nhà nước
nhằm mục tiêu điều hành tốt hơn nền kinh tế nhưng đôi khi chính yếu tố tâm lý của người
dân lại làm nảy sinh lạm phát tâm lý. Ví dụ như việc tăng lương. Về cơ bản, lương tăng
không ảnh hưởng tới giá, tuy nhiên do tâm lý tăng giá chung trong kinh doanh cứ thấy có
nhiều tiền là tăng giá nên thậm chí lương chưa tăng giá cả đã tăng, qua đó lạm phát tăng.
Thứ hai: Tâm lý người dân rất nhạy cảm với lạm phát và thường có phản ứng đôi khi quá
mức càng đẩy lạm phát lên cao. Trong khi đó, các phản ứng của Chính phủ chống lại lạm
phát thường chậm, chính sách điều hành không nhất quán, khiến người dân càng mất
niềm tin vào hiệu quả chính sách. Điều này thể hiện qua những cơn sốt của thị trường
vàng, đô la, hay bất động sản khi người dân đổ xô đầu tư và găm giữ các loại tài sản khác
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 27
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật thay thế tiền đồng. Thứ ba: Tâm lý không cất trữ đồng Việt Nam trong nhà. Dù lãi suất
ngân hàng có lên tới 20%/năm thì việc cất trữ tiền đồng vẫn làm cho người dân thấy bị
thiệt thòi và không an toàn. Do đó có tình trạng tìm kiếm các kênh cất trữ khác trong
cộng đồng như vàng, đô la… Thứ tư: Do tâm lý phụ thuộc vào ngoại tệ. Hiện nay, rất
nhiều yếu tố tạo ra của cải vật chất cho tiêu dùng trong nước và bản thân các sản phẩm
tiêu dùng trực tiếp phụ thuộc vào nhập khẩu. Do đó giá cả phụ thuộc rất nhiều vào tỷ giá
ngoại tệ. Khi giá nhập khẩu và tỷ giá thay đổi sẽ kéo theo phản ứng dây chuyền khiến cho
giá tiêu dùng trong nước thay đổi và thường là theo chiều hướng tăng cao.
II.2.3 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam
Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
- Đối với các ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức
mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, dầu
tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
- Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các
ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân
hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn
biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hấu hết
các ngân hàng (17%-18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng năm 2010), luôn tạo ra mặt
bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân
hàng đưa lãi suất huy động lên gần bằng lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn
nhưng vẫn thực hiện, thậm chí làm trái quy định về trần lãi suất của NHNN, gây ảnh
hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
- Lạm phát tăng cao, Ngân hàng nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm
khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân
khi kinh doanh vẫn rất lớn, ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số khách hàng với hợp
đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác,
do lãi suất huy động cao thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này làm xấu đi môi trường
đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 28
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật - Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá
xảy ra do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động
vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thực sự khó khăn, trong khi nhu cầu cho vay trung và dài
hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài
hạn trong thời gian qua trong các ngân hàng không nhỏ.
- Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp, người dân thực hiện giao dịch hàng hóa,
thanh toán cho nhau bằng tiền mặt, nhưng nguồn tiền mặt lại khan hiếm. Theo điều tra
của Ngân hàng thế giới(WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài
ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trên 90% dân cư không thanh toán
qua ngân hàng. Khối lượng tiên lưu thông ngoài ngân hàng lớn, Nhà nước gặp khó khăn
trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các ngân hàng thương mại cũng gặp
khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán
qua ngân hàng. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường
vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM.
- Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của
các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách
hàng cũng như các thể chế tài chính - tín dụng.
Lĩnh vực sản xuất:
- Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các nguyên vật liệu, sản phẩm
biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong thị trường, gây khó khăn không
nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, giá cả tăng cao sẽ làm tăng chi phí sản
xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ
nền kinh tế. Theo Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có
thể tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của
khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đã làm các công ty không kiểm soát
được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất, thực hiện mua chịu, bán
chịu, công nợ thanh toán tăng, thóat ly ngoài hoạt động.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 29
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật - Lạm phát cũng làm tăng lãi suất danh nghĩa và làm giảm cầu tiền khiến cho các
doanh nghiệp không mặn mà với đầu tư sản xuất. Lạm phát gây ra chi phí thực đơn khi
giá cả thay đổi khiến tất cả doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu lại thị trường nên
cũng rất tốn kém cho khoản này.
- Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn và bất tiện cho các đơn vị hạch toán kinh doanh.
Lạm phát làm cho sức mua của các đồng tiền có sức mua không giống nhau vào các thời
điểm khác nhau vì vậy việc tính toán giữa doanh thu và chi phí của các doanh nghiệp
kém hiệu quả hơn khiến các nhà đầu tư khó phân biệt được doanh nghiệp nào làm ăn hiệu
quả hay kém hiệu quả làm gây cản trở thị trường tài chính trong việc phân bổ vốn sao cho
có hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thì khi lạm phát các doanh nghiệp mua
hàng trong nước với mức giá cao nhưng khi xuất khẩu thì lợi nhuận sẽ đạt thấp thậm chí
là lỗ nếu doah nghiệp có thời gian ký hợp đồng dài hạn.
Lĩnh vực lưu thông:
- Lạm phát tăng cao đến 28.3% (tháng 7/2008) làm giảm giá trị đồng tiền trong
nước. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là
các hoạt động sản xuất. Khi lạm phát khiến cho người dân và các tổ chức sẽ cho rằng
đồng nội tệ mất giá và đổ xô lựa chọn các đồng ngoại tệ mạnh khác hoặc vàng làm công
cụ cất giữ sẽ an toàn hơn khiến cho cơn sốt vàng và ngoại tệ tằng làm cho tình hình kinh
tế sẽ bất ổn hơn. Chính những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị trường trở nên
khan hiếm hàng hóa, dẫn đến mất cân bằng cung- cầu, một lần nữa lại đẩy giá cả hàng
hóa lên cao, lạm phát trở nên trầm trọng hơn.
- Đối với những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý như chứng khóan
và bất động sản thì giá cả của chúng lại giảm xuống rõ rệt. Năm 2008 xu hướng leo thang
của lạm phát vẫn tiếp tục và đã trở thành đỉnh điểm tới gần 23% - mức kỷ lục về lạm phát
trong nền kinh tế trong nhiều năm qua. Diễn biến của thị trường chứng khóan Việt Nam
đã dịu dần sức nóng so với thời kì trước, chỉ số Vn-Index bắt đầu rời khỏi mốc cao kỷ lục
và chuyển sang thời kỳ giảm sâu. Lạm phát năm 2009 đã được khống chế và giảm mạnh
xuống chỉ còn 6,88%, tuy nhiên đến 2010, chỉ số lạm phát vẫn tăng trở lại và đã vượt lên
gần mức hai con số. Trong bối cảnh lạm phát cao như vậy, giao dịch trên thị trường
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 30
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật chứng khóan không còn sức tăng mạnh như năm trước, trải qua những diễn biến tăng
giảm thất thường và nhìn chung sụt giảm.
Tác động đến đời sống xã hội:
Lạm phát cao không chỉ khiến cho người dân ở nông thôn gặp khó khăn mà ngay
cả những hộ gia đình ở thành thị với mức lương eo hẹp cũng phải điêu đứng. Tác động
này phát sinh từ những sự khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Lạm
phát làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, trước hết là người sống bằng tiền lương do
tiền lương thực tế giảm nghiêm trọng. Ngoài ra, lạm phát có thể thay đổi nghĩa vụ nộp
thuế của cá nhân thường trái với ý định của người làm luật, vì khi làm luật thường không
tính đến tác động của lạm phát vì vậy khi thu nhập danh nghĩa tăng khiến thuế cũng tăng
theo nhưng thu nhập thực tế của họ không thay đổi và do vậy làm giảm thu nhập khả
dụng của họ. Dẫn đến số người nghèo khổ tăng lên, và tệ nạn xã hội sẽ nảy sinh. Còn
những người có nhiều tài sản cố định có giá trị cao và những người mắc nợ ngân hàng
với lãi suất cố định thì tự nhiên được hưởng lợi. Theo thống kê thì trên cả nước ta, tỉ lệ
nghèo hóa hay tái nghèo hóa là vào khoảng 50%. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy:
- Người giàu thường có kiến thức và điều kiện tiếp cận các công cụ tài chính để có
thể tự bảo vệ họ trước tác động của lạm phát.
- Người nghèo thường có tỷ lệ tiền mặt trong tổng tài sản cao (do không có điều
kiện chuyển đổi thu nhập thành các khoản đầu tư có thể bù đắp chi phí do trượt giá) nên
phải chịu tác động của lạm phát lớn hơn, phụ thuộc nhiều hơn vào vào những nguồn thu
nhập định trước như tiền lương, phúc lợi và trợ cấp xã hội…những nguồn thu nhập
thường không được tính trượt giá một cách đầy đủ và kịp thời, hay thậm chí không được
tính trượt giá. Nếu lạm phát bất ngờ xảy ra thì có thể phân phối lại thu nhập của cải trong
xã hội không theo nỗ lực cống hiến và nhu cầu của họ. Điều này làm đời sống người
nghèo đã khó khăn, nay lại càng khó khăn hơn. Những người bị lạm phát làm thiệt hại
nhiều nhất là những người hưởng lương hưu, hưởng bảo hiểm xã hội, hưởng trợ cấp xã
hội.
- Lạm phát không chỉ làm giảm thu nhập và tiền công thực tế của người nghèo mà
còn góp phần làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Lạm phát cao làm xói mòn lợi nhuận của doanh
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 31
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật nghiệp và giảm động cơ đầu tư. Một khi đầu tư giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng lên và điều
đó làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân.
II.2 Lạm phát hai tháng đầu năm và nhận diện lạm phát trong năm 2012
Lạm phát hai tháng đầu năm 2012
Lạm phát tháng 01/2012 tăng chậm nhất trong 3 năm trở lại đây và chỉ cao
hơn CPI tháng 01/2009 nếu xét trong 9 năm trở lại đây. CPI tháng 1 tăng 1%, trong đó
các nhóm hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ dịp Tết của người dân có xu hướng tăng
cao, các nhóm hàng khác có mức tăng không đáng kể. Lạm phát tháng 1 thấp do đảm bảo
được cung hàng hóa trong khi cầu nội địa giảm. Theo Tổng cục thống kê, điểm nổi bật
của thị trường hàng hóa Tết năm 2012 là sản phẩm được sản xuất trong nước chiếm thị
phần cao (khoảng 80 - 90% tại các siêu thị và trung tâm thương mại lớn). Trong khi đó,
tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 01/2012 ước tính đạt
191,1 nghìn tỷ đồng và nếu loại trừ yếu tố giá thì con số này chỉ tăng 4% so với cùng kỳ,
trong khi con số này năm ngoái là 8,7%. Sức tiêu thụ yếu là một nhân tố giúp chỉ số CPI
tháng 1 tăng không quá cao như các năm trước.
Lạm phát tháng 2 tăng 1,37% so với tháng 1. Đây là mức tăng CPI theo tháng
cao nhất trong vòng 9 tháng trở lại đây và tiếp tục xu hướng cộng thêm theo từng tháng
đã tiếp diễn trong các tháng trước. Tuy nhiên, nếu so sánh với các năm trước thì mức tăng
này chưa thật sự đáng lo ngại. Biểu hiện rõ nhất là việc CPI YoY đã hạ nhiệt đáng kể, lùi
về mức 16,44% so với con số 17,27% trong tháng 1 và so với mức đỉnh 23,02% thiết lập
vào tháng 8/2011 thì CPI đã giảm được gần 7%. Cầu sụt giảm giúp ghìm cương lạm phát.
Cũng giống như trong tháng 1, nguyên nhân chính khiến CPI trong tháng 2 có mức tăng
thấp hơn hẳn so với các năm trước là do sự sụt giảm mạnh của cầu hàng hóa. Thông
thường, vào dịp Tết Nguyên Đán, nhu cầu tiêu dùng của người dân có xu hướng tăng cao
đột biến. Mặc dù vậy, theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng mức bán lẻ hàng hóa
trong tháng 2 đã giảm 5,9% so với tháng 1 trong khi tại thành phố Hồ Chí Minh, con số
sụt giảm này là 6,3%. Có thể thấy việc Chính phủ kiên trì với chính sách tài khóa và tiền
tệ thắt chặt kể từ đầu năm 2011 đến nay đã có phát huy tác dụng.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 32
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Nhận diện lạm phát trong năm 2012
Nhận diện về Lạm phát ở Việt Nam trong năm 2012 các chuyên gia kinh tế cho
rằng trong năm 2012, mục tiêu kiềm chế lạm phát xuống dưới 1 con số là một trong
những mục tiêu hàng đầu trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Tuy có nhiều khó
khăn nhưng mục tiêu này có cơ sở để thực thi, cụ thể như sau:
Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cho rằng, 5 tháng cuối cùng của năm
2011, chỉ số giá tiêu dùng liên tục sụt giảm dưới mức 1%. Cứ đà này, nếu được tận dụng
sẽ là cơ sở tốt để níu giữ và kìm chế tốc độ tăng giá trong những tháng đầu của năm và cả
năm nay.
Ông Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đánh giá: “5
tháng cuối năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng hàng tháng đều chỉ có mức tăng dưới 1%, đây
cũng là mức tăng rất thấp trong 3-4 năm trở lại đây. Điều này chứng tỏ các chính sách
của chúng ta đã phát huy tác dụng. Đây cũng là tiền đề để kìm chế tốc độ tăng giá trong
nửa đầu năm 2012 vì các chính sách thắt chặt của chúng ta vẫn chưa có sự thay đổi nào
đáng kể. Bởi vậy, dù thận trọng nhưng chúng tôi vẫn cho rằng, mục tiêu lạm phát 9% là
có cơ sở để thực thi”.
Tuy nhiên, Ủy ban giám sát tài chính cũng thừa nhận, mục tiêu kìm chế lạm phát
dưới 1 con số cũng chịu sức ép rất lớn từ áp lực tăng giá các mặt hàng chủ chốt như điện,
than hay tỷ giá, kế hoạch tăng lương trong thời gian tới. Song cộng dồn tất cả những yếu
tố này, con số 9% cho cả năm 2012 vẫn trong tầm kiểm soát.
TS.Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
cho biết: “Trong năm 2012, nếu tỷ giá thay đổi 4-5%, tăng lương hay tăng giá điện 20%,
các chuyên gia và tôi cũng đã tính toán, nó chỉ tác động đến chỉ số giá tiêu dùng khoảng
5-6%”.
Khi lạm phát được kiểm soát tốt, đây cũng là cơ sở để giảm lãi suất. Ủy ban giám
sát tài chính cũng dự báo, nếu thanh khoản ngân hàng sớm được giải quyết, lãi suất ngân
hàng sẽ giảm khoảng 4% so với hiện tại. Tuy nhiên, để giảm được lãi suất, bài toán lúc
này là phải giải quyết cho được khó khăn về thanh khoản, tức là khả năng thanh toán
bằng tiền mặt của các ngân hàng thương mại hiện nay.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 33
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Bên cạnh đó, cũng có 1 số nhận định trái chiều vì với xu hướng tăng giá hiện nay
càng khiến cho nền kinh tế vốn chưa thoát khỏi những khó khăn kéo dài lại phải gánh
thêm những áp lực mới. Lạm phát tháng 2/2012 so với cùng kỳ mới chỉ kéo được xuống
con số 16,4% và vẫn còn khá rủi ro.
Không thể phủ nhận, loạt tăng giá vừa quan của giá xăng, dầu, khí và điện sẽ tác
động mạnh đến chỉ số lạm phát, vốn mới được kéo từ đỉnh cao 18,5% (năm ngoái) xuống
16,4% (so với cùng kỳ) vào cuối tháng 2/2012.
Chưa nói đến việc điện có thể tăng giá bất cứ lúc nào trong thời gian tới khi mà Bộ
Công thương đã bật đèn xanh, việc xăng dầu tăng giá với mức cao 10% vào lúc này sẽ
thực sự một áp lực lớn đối với kiềm chế lạm phát.
Hiện tại chưa có tính toán nào cho thấy xăng dầu tăng giá lần này sẽ tác động bao
nhiều phần trăm lên chỉ số CPI. Mặc dù vậy, con số này chắc chắn là không nhỏ bởi tác
động cộng hưởng của nó. Trong lần tăng giá cách đây gần tròn 1 năm (ngày 29/3/2011),
Cục quản lý giá (Bộ Tài chính) tính toán, với mức tăng 2.000 đồng đối với xăng (từ
19.300 lên 21.300 đồng/lít) và 2.800 đồng đối với dầu diesel (lên 21.100 đồng) khi đó sẽ
tác động trực tiếp và làm tăng CPI lên thêm khoảng 0,4%. Đây là mức tác động được
"tính ra" sau vòng quay đầu tiên đồng tiền (tức là chưa tính tới các các tác động tăng giá
kèm theo). Đáng ngại hơn, xăng dầu luôn là khởi điểm cho mọi chiêu trò, tác động tâm lý
để tăng giá bên cạnh vai trò của một nhiên liệu đầu vào quan trọng, chi phối toàn bộ nền
kinh tế của nó.
Trong khi đó, theo ông Ngô Trí Long, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Khoa học thị trường giá cả, Bộ Tài chính, cho biết, CPI tháng 2 tăng 1,37% vẫn là mức
cao. Bởi lẽ năm nay mục tiêu kiềm chế lạm phát là dưới một con số.
Đây là một khuyến cáo rất đáng chú ý bởi ngay trong tháng 3 này (2012) vẫn có
nhiều yếu tố gây sức ép tăng giá. Cụ thể, dịch cúm gia cầm bùng phát sẽ tác động đến
nguồn cung và gây sức ép tăng giá đối với nhóm thực phẩm khác. Áp lực tăng giá xăng
dầu, dự kiến tăng giá bán than tăng... gây áp lực đầu vào cho những ngành phân bón,
giấy, xi măng...
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 34
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Trong khi đó, giá điện được cảnh báo sẽ còn tăng tiếp và tăng ngay trong năm nay.
Vấn đề chỉ còn là thời gian. Được biết với mức tăng 5% thì đã tác động đến 0,36% CPI
và nếu tăng tiếp thì CPI sẽ về đâu.
Trong hai tháng vừa qua, lạm phát đã là 2,36% như vậy, cả nước phải kiềm chế
lạm phát ở mức 6,64% trong 10 tháng còn lại của năm. Đây là một điều quá khó khi mà
xăng dầu, than, gas... tăng mạnh như vậy và điện lại có thể tăng tiếp.
Trong khi đó, một nhân tố mới được hé lộ cho biết, thời gian vừa qua NHNN đã
bơm ra thị trường một lượng tiền rất lớn thông qua việc mua một lượng lớn ngoại tệ. Dự
trữ ngoại hối trong 2 tháng đầu năm đã tăng tới 20% (so với cuối 2011). Giả sử số dư dự
trữ ngoại tệ kỳ trước là 15 tỷ USD thì số tiền mà NHNN đã bơm ra trong 2 tháng qua là 3
tỷ USD quy ra tiền Việt.
Trong khi đó, lãi suất ngân hàng cũng được chỉ đạo phải giảm. Dù chưa thể nói là
nới lỏng nhưng khi một lượng tiền mới được bơm ra thì luôn là nhân tố gây khó khăn cho
kiềm chế lạm phát. Với dư địa còn hơn 6% cho 10 tháng còn lại nhưng thực sự là một
thách thức cho mục tiêu một con số.
Thực tế, các chuyên gia tài chính cũng bày tỏ lo ngại, năm 2012 Chính phủ đặt ra
hai mục tiêu quan trọng, một mặt theo cơ chế thị trường, mặt khác chỉ tiêu lạm phát dưới
hai con số. Hai mục tiêu này gần như trái ngược nhau, không gian chính sách và dư địa
để cho doanh nghiệp phấn đấu là rất khó khăn. Với thực tế, tăng giá điện, xăng: giữ lạm
phát dưới 10% là một thách thức quá lớn.
III. Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đề
xuất chính sách thời gian tới
III.1 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2011
III.1.1. Chính sách tiền tệ
Trước áp lực lạm phát tăng cao, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ra Nghị quyết
11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội. Trong đó, giải pháp về chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
là giải pháp cơ bản và đã được thực hiện khá nhất quán trong suốt cả năm 2011.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 35
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Để thực hiện các mục tiêu và chính sách của nghị quyết 11, NHNN đã có những
chính sách cụ thể như sau:
III.1.1.1 Lãi suất
Lãi suất điều hành
Về lãi suất điều hành, lãi suất cơ bản tuy vẫn được giữ nguyên ở mức 9% trong cả
năm nhưng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đều đã được điều chỉnh tăng nhằm
làm tăng chi phí vốn của các ngân hàng khi đi vay từ NHNN, từ đó hạn chế việc các ngân
hàng thương mại ỷ lại vào NHNN và khiến các ngân hàng này cẩn trọng hơn trong việc
cho vay tín dụng. Lãi suất tái chiết khấu đã được điều chỉnh tăng từ 7% lên mức 12%
trong quý I và lên mức 13% cho quý III và IV còn lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh
tăng từ mức 9% trong tháng 1 lên tới 15% từ quý IV.
Chính sách lãi suất huy động và cho vay
Lãi suất cho vay VNĐ bình quân khá ổn định trong suốt năm 2011. lãi suất cho
vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu khoảng 17-19%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực
sản xuất-kinh doanh khác khoảng 17-21%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất
khoảng 22-25%/năm. Lãi suất huy động cũng không có nhiều thay đổi. Từ tháng
03/2011, tỷ lệ lạm phát lại tăng cao với sự gia tăng mạnh giá cả nhiên liệu, năng lượng và
các hàng hóa khác. Với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định nền kinh tế, NHNN đã
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 36
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật phải thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt và nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh giữa các ngân hàng, NHNN đã quy định về mức lãi suất trần huy động tiền gửi
là 14% cho các NHTM và đã được duy trì cả năm 2011. Đối với lãi suất không kỳ hạn và
có kỳ hạn dưới 1 tháng được giới hạn ở mức 6%. Đối với đồng USD, lãi suất huy động
USD đối với cá nhân và đối với doanh nghiệp vẫn chủ yếu là 2%/năm và 0,5%/năm theo
quy định của NHNN trong khi lãi suất cho vay USD phổ biến vẫn ở mức 6-7,5%/năm đối
với ngắn hạn và 7,5-8%/năm đối với trung và dài hạn.
Hiệu quả chính sách:
Chính sách trần lãi suất huy động bước đầu làm giảm lãi suất cho vay vào thời
điểm cuối năm 2011. Mặc dù chính sách trần lãi suất được khởi động từ tháng 03/2011
nhưng không thể chấm dứt hẳn các cuộc chạy đua lãi suất huy động ngầm. Mục đích của
các quy định này nhằm tạo ra sức ép giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp, tuy
nhiên, chính sách này cho đến nay vẫn tỏ ra chưa thật sự hiệu quả. Lãi suất huy động và
cho vay vẫn liên tục tăng, mức lãi suất cho vay trung bình đã tăng đáng kể từ mức 14,5%
vào tháng 03/2010 lên đến mức 18,5% vào tháng 06/2011 và 18,73% vào tháng 08/2011.
Tuy nhiên, kể từ khi NHNN có những động thái kiên quyết trong việc thực hiện chính
sách trần lãi suất huy động trong tháng 11 và tháng 12/2011, lãi suất cho vay cũng đã có
những tín hiệu tích cực. Các NHTM lớn đã có những công bố về hạ mức lãi suất cho vay
xuống 17,5% - 18% đối với doanh nghiệp. Như vậy, Chính sách trần lãi suất tỏ ra không
có hiệu lực và khó kiểm soát trong 10 tháng đầu năm, nhưng nhanh chóng có những
chuyển biến tích cực trong các tháng cuối năm.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 37
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
III.1.1.2 Nghiệp vụ thị trường mở
Lãi suất trên thị trường mở cũng có nhiều biến động: Trong tháng 1/2011, lãi suất
mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng lên 10%/năm, từ ngày 22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%,
ngày 4/5, đã được đẩy lên mức 14%/năm, không dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng
lãi suất trên thị trường mở lên 15%. Từ ngày 4/7/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị trường
Diễn biến lãi suất thị trường và tổng lượng tiền bơm (rút) ròng
200,000
16%
14%
150,000
12%
100,000
10%
50,000
8%
6%
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
4%
-50,000
2%
-100,000
0%
Tổng lượng bơm (rút) ròng (nghìn tỷ đồng)
Lãi suât
mở đã giảm nhẹ xuống 14%/năm và được duy trì cho đến cuối năm.
Hiệu quả đạt được
Với nền kinh tế có lạm phát cao, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn
đến tình hình thanh khoản của các NHTM khó khăn, đặc biệt là các NHTM cổ phần quy
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 38
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật mô nhỏ. Trước diễn biến đó, NHNN sử dụng linh hoạt thị trường mở, kết hợp với cho
vay tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM có khó khăn về thanh khoản. Như
vậy, tất cả những sự điều chỉnh trên đều cho thấy quyết tâm kiềm chế lạm phát mà hiện
nay đang được Chính phủ đang ưu tiên hàng đầu. Năm 2011, NHNN đã sử dụng linh
hoạt, thận trọng, có hiệu quả các công cụ CSTT trong đó có nghiệp vụ thị trường mở,
phục vụ tốt mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của mình.
III.1.1.3 Quản lý tín dụng ngân hàng
Ngân Hàng Nhà Nước sử dụng công cụ hạn mức tín dụng, hạn chế cung tiền thông
qua kênh tín dụng, kết hợp với công cụ lãi suất nhằm thực hiện mục tiêu giảm tổng cầu
theo tinh thần của Nghị quyết 11. Theo đó, đã điều chỉnh mục tiêu trần tăng trưởng tín
dụng từ 23% xuống còn 20% trong năm, và tăng trưởng nguồn cung tiền (M2) trong năm
2011 từ 21-24% xuống còn 15-16%.
Để thực hiện các mục tiêu trên, NHNN đã yêu cầu các ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác phải kìm hãm tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% trong năm; các tổ
chức tín dụng hạn chế cấp tín dụng cho những hoạt động không mang tính sản xuất như
bất động sản và chứng khóan xuống dưới 22% trong tổng số tiền cho vay tính đến cuối
tháng 6/2011, và 16% tính đến cuối năm 2011. Đồng thời NHNN sẽ phạt những tổ chức
tín dụng nào không đáp ứng được những mục tiêu trên bằng cách bắt buộc tăng gấp đôi tỷ
lệ dự trữ bắt buộc. Cũng trong nỗ lực nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng trong năm 2011
liên tục được điều chỉnh tăng, từ mức 4% hồi đầu năm lên mức 7% từ tháng 6 và 8% từ
tháng 8 đối với tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng. Đối với tiền gửi có kì hạn trên 12 tháng,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng lần lượt được điều chỉnh tăng lên mức 4% từ tháng 5 và 6% từ
tháng 9 cho đến cuối năm 2011.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 39
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Nguồn: NHNN
Hiệu quả đạt được
Với quyết tâm của NHNN, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã có xu hướng giảm qua
các tháng, đặc biệt là trong Quý II/2011, tín dụng đối với nền kinh tế hàng tháng có xu
hướng giảm rõ rệt chỉ ở mức 0,12% so với tháng trước. Tính đến ngày 10/6/2011, tăng
trưởng tín dụng đạt 7,05% so với tháng 12/2010, thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái.
Đến cuối năm 2011, tăng trưởng tín dụng đạt 12%, trong khi tổng phương tiện
thanh toán cũng chỉ tăng 10%, vẫn thấp hơn nhiều so với mức cho phép theo Nghị quyết
số 83/NQ-CP, tương ứng là 20% và 15-16% cho cả năm. Trong mức tăng tín dụng chung
12%, trong khi tăng trưởng tín dụng đồng nội tệ là khá thấp với mức tăng 10,2% thì tăng
trưởng tín dụng ngoại tệ vẫn còn khá cao với mức tăng 18,7%.
III.1.1.4 Điều hành thị trường ngoại hối và tỷ giá
Tỷ giá:
- Tỷ giá USD/VND năm 2011 đã có nhiều biến động trong những tháng đầu năm và
sau đó được duy trì khá ổn định trong suốt năm với mức điều chỉnh tăng giảm trong biên
độ cho phép +/-1%. Trước sức ép giảm giá của VND, vào ngày 11.2.2011, NHNN đã ra
thông báo tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng lên mức 20.693 VND/USD và
thu hẹp biên độ giao dịch từ +- 3% xuống +- 1%. Sau khi điều chỉnh cho đến gần hết quý
II, tỷ giá liên ngân hàng luôn được duy trì ở mức cao và có lúc lên tới 20.733 VND.USD,
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 40
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật còn trong quý III và giữa quý IV, tỷ giá được niêm yết chủ yếu ở dưới mức 20.300
VND/USD. Tuy nhiên từ giữa tháng 10 đến kết thúc năm 2011, tỷ giá đã dần tăng lên
trên mức 20.700 VND/USD và chốt năm ở mức 20.828 VND/USD. Tính chung lại, đồng
nội tệ vào cuối năm đã giảm giá 0,65% kể từ lần điều chỉnh tỷ giá tháng 2/2011 và giảm
10% so với đồng USD vào thời điểm đầu năm.
Công tác quản lý thị trường ngoại hối trong thời gian qua được đánh giá là có
những bước chuyển biến lớn, đã thể hiện sự chủ động của NHNN trong công tác đón đầu
những rủi ro tiềm ẩn của thị trường.
- Trong những tháng cuối năm, NHNN đã chủ động điều chỉnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng linh hoạt, điều hành tỷ giá tương đối ổn định nhưng không cố định, tạo điều
kiện bình ổn thị trường ngoại hối, tích cực góp phần hỗ trợ sản xuất và kiềm chế lạm
phát.
- NHNN cũng đã triển khai can thiệp thị trường ngoại tệ trong những thời điểm có
dấu hiệu căng thẳng, dưới các hình thức can thiệp trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
thông qua một số NHTM lớn và yêu cầu các ngân hàng này chủ động bán trước ngoại tệ
trên thị trường, đồng thời bán ngoại tệ hỗ trợ cho một số nhu cầu thiết yếu của nền kinh
tế. Việc can thiệp thị trường ngoại tệ đã được thực hiện kịp thời với liều lượng hợp lý,
góp phần bình ổn thị trường ngoại hối và tỷ giá.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 41
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật - Năm 2011, NHNN đã điều chỉnh ba lần tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ cùng
với điều chỉnh lãi suất huy động USD đã có những tác động nhất định với thị trường
ngoại hối và quản lý tín dụng.
- Yêu cầu các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối báo cáo số dư tiền
gửi ngoại tệ của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước
Hiệu quả đạt được
Với động thái quản lý mạnh tay của NHNN, thị trường ngoại hối đã ghi nhận
nhiều diễn biến tích cực: khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và thị trường chính
thức được thu hẹp lại thậm chí có những ngày tỷ giá trên thị trường tự do giao dịch thấp
hơn tỷ giá chính thức, nguồn cung USD tăng đột biến khiến giá USD liên tục giảm, một
số người dân đã chuyển từ USD sang VND để nhận lãi suất cao hơn. Diễn biến tỷ giá
trong năm đã chịu nhiều áp lực từ tình hình tăng trưởng tín dụng ngoại tệ đột biến trong
các tháng đầu năm, từ diễn biến giá vàng và từ chủ trương hạ mức lãi suất đồng nội tệ của
Chính phủ trong bối cảnh lạm phát vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, việc duy trì được tỷ giá
tăng ở mức thấp dưới 1% trong nhiều tháng qua được nhìn nhận mang nhiều ý nghĩa tích
cực trong bối cảnh những sức ép của việc giảm lãi suất tiền đồng và diễn biến của giá
vàng và giá USD trên thị trường tự do vẫn còn cao.
III.1.1.5 Kiểm soát và điều hành thị trường vàng
Diễn biến giá vàng
Giá vàng trong nước đã có nhiều biến động trong năm 2011. Trong tháng 8 và đầu
tháng 9, giá vàng quốc tế sau khi liên tiếp thiết lập những mức cao kỉ lục đã giảm mạnh
từ đỉnh $1.920/oz trong ngày 06/09 về mức $1.624/oz vào cuối ngày 30/09. Theo đó, giá
vàng trong nước cũng giảm từ mức đỉnh xấp xỉ 49.000.000 đồng/lượng vào cuối ngày
22/08 về mức 44.220.000 đồng/lượng vào cuối ngày 30/09. Những tháng cuối năm giá
vàng giảm dần và dừng quanh mốc 44 triệu đồng/lượng. Trong năm 2011, giá vàng trong
nước tăng khoảng 14% trong khi giá vàng thế giới tăng khoảng 11%. Bên cạnh đó, giá
vàng trong nước luôn có xu hướng cao hơn từ 1 – 3 triệu đồng/lượng so với giá vàng thế
giới đã khiến cho việc đầu cơ vàng cũng như thị trường vàng diễn ra khá phức tạp.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 42
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Biểu đồ biến động giá vàng
Chính sách:
Để hạn chế tình trạng đầu cơ để góp phần ổn định thị trường ngoại hối và giảm
phương tiện thanh toán bằng vàng trong lưu thông, NHNN đã ban hành Thông tư quy
định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.
Khi thị trường vàng có dấu hiệu căng thẳng, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng về
việc áp dụng các biện pháp cần thiết để bình ổn thị trường, NHNN đã ban hành Thông tư
cho phép một số NHTM được bán một lượng vàng huy động và giữ hộ tồn quỹ (vàng tồn
quỹ) ra thị trường, đồng thời được mở tài khoản vàng ở nước ngoài để bảo hiểm rủi ro
biến động giá vàng.
Để hạn chế khả năng dùng đòn bẩy tài chính để đầu cơ vàng gây rối loạn thị
trường như hiện tượng tổ chức, cá nhân vay vốn mua vàng hoặc thế chấp, cầm cố vàng để
vay vốn tại tổ chức tín dụng, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện các biện
pháp để kiểm tra chặt chẽ việc vay vốn của khách hàng có cầm cố, thế chấp bằng vàng và
ban hành quy định hệ số rủi ro là 250% đối với các khoản cho vay được bảo đảm bằng
vàng.
Hiệu quả đạt được
Sau khi thực hiện việc bán vàng can thiệp, với lượng cung vàng lớn từ Công ty
SJC và 5 NHTM, cơ chế bán vàng tồn quỹ can thiệp đã thu được những kết quả khả quan.
Mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới đã được thu hẹp đáng kể.
Tỷ giá đô la Mỹ trên thị trường tự do đã giảm do mức chênh lệch thấp giữa giá vàng
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 43
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật trong nước và giá vàng thế giới, khiến cho nhu cầu thu gom đô la Mỹ để nhập khẩu vàng
lậu giảm mạnh. Giới đầu cơ vàng đã co lại và không thể thao túng giá vàng trên thị
trường trong nước. Hiện tượng nhập khẩu lậu vàng gần như chấm dứt. Nhu cầu mua vàng
của người dân đã được đáp ứng với mức giá hợp lý so với giá vàng thế giới.
III.1.2. Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là chính sách của chính phủ thông qua các khoản thu và chi
của ngân sách nhà nước để kiểm soát mức độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát của một quốc
gia. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là hai chính sách vĩ mô quan trọng
nhất để kiểm soát tình hình tăng trưởng kinh tế cũng như tình hình lạm phát. Thông
thường, để thúc đẩy tình hình sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế,
chính phủ thường nới lỏng chính sách tài khóa, giảm thu thuế, tăng đầu tư và chi tiêu
công. Tuy nhiên, khi cần kiểm soát tình hình lạm phát, ổn định kinh tế, chính phủ các
nước thường áp dụng biện pháp thắt chặt chính sách tài khóa, tăng các khoản thuế, giảm
đầu tư và chi tiêu công.
Trong giai đoạn hiện nay, chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách tài khóa thắt
chặt, mục tiêu chính là ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát. Theo nghị quyết 11/NQ-CP,
Chính phủ chỉ đạo:
- Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011
đã được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế,
chống thất thu thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp
cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới
- Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012 cho các
dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách.
- Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước,
trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các
khoản này để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2011.
- Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, xác định
cụ thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong năm
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 44
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật 2011; thu hồi hoặc điều chuyển các khoản đã bố trí nhưng chưa cấp bách, không
đúng mục tiêu, báo cáo và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ biện pháp xử lý trong tháng
3 năm 2011.
- Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh
nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án
đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài.
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch tín dụng đầu tư từ
nguồn vốn tín dụng nhà nước.
- Chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái
phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách và
các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA). Rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại để điều chuyển vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2011 trong phạm vi quản lý để tập trung vốn đẩy
nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011.
- Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước rà soát, cắt giảm, sắp xếp lại các dự
án đầu tư, tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính.
- Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm
thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm
- Tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa
chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh phí cho
các việc chưa thật sự cấp bách. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức
sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo,
tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước... Không bổ sung ngân sách ngoài dự
toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng chống, khắc phục hậu
quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xử lý nghiêm, kịp thời,
công khai những sai phạm.
Hiệu quả đạt được
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 45
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Bội chi NSNN năm 2011 Quốc hội quyết định là 120.600 tỷ đồng, bằng 5,3%
GDP. Ước cả năm, trên cơ sở đánh giá kết quả thu, chi và dự kiến sử dụng tăng thu
NSNN báo cáo trên, giảm bội chi NSNN năm 2011 xuống 4,9%GDP. Số bội chi tuyệt đối
là 111.500 tỷ đồng, giảm 9.100 tỷ đồng so với Quốc hội quyết định.
Bội chi ngân sách nhà nước (Nguồn: Bộ tài chính)
Số bội chi ngân sách nhà nước tăng rất nhỏ, chỉ tăng khoảng 0,27% so với năm
2010 và tỷ lệ bội chi so với GDP năm 2011 đạt 4,9% thấp nhất trong vài năm trở lại đây,
đạt chỉ tiêu phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 thấp hơn mức 5% đề ra
tại nghị quyết 11
Tỷ lệ bội chi so với GDP (Nguồn: Bộ tài chính)
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 46
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Tuy nhiên, ta thấy rằng số bội chi ngân sách tăng thấp không phải nhờ các biện
pháp cắt giảm chi tiêu của chính phủ đề ra trong nghị quyết 11, chi thường xuyên năm
2011 tăng tới 17.5%, tăng mạnh nhất trong những năm gần đây. Bội chi ngân sách nhà
nước tăng chậm nhờ các khoản thu ngân sách tăng, hầu hết, các khoản thuế đều tăng vượt
dự toán, thêm vào đó, khoản thu từ dầu thô tăng 44,6% so với năm 2010 do giá dầu thô
thế giới đang biến động mạnh.
Chủ trương của chính phủ về chính sách tài khóa trong giai đoạn hiện nay nhìn
chung là hi sinh tốc độ tăng trưởng kinh tế để đảm bảo xây dựng nền kinh tế ổn định và
bền vững. Do đó, chính phủ đang từng bước thắt chặt đầu tư công để giảm chi đầu tư phát
triển, tuy nhiên, cần chú trọng hơn nữa về chi thường xuyên, đây là khoản chi lớn nhất
trong chi ngân sách nhà nước. Theo nghiên cứu cho thấy, trong năm 2011, chi thường
xuyên vẫn chưa được quản lý hiệu quả, các biện pháp đề ra trong nghị quyết 11 vẫn chưa
thật sự kiểm soát được nguồn chi này.
III.1.3 CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG, SẢN XUẤT
III.1.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh
Thực hiện các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp,
nông thôn, tăng xuất khẩu, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, bảo đảm an ninh
lương thực.
Đẩy mạnh cổ phần hóa, tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, đổi mới
quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm giá sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ ở mức hợp lý; tập trung vốn cho ngành nghề sản xuất kinh doanh
chính.
Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các quy định về tiết kiệm,
chống lãng phí; xây dựng và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, phấn đấu tiết kiệm sử
dụng điện 10% theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ; đồng thời, áp dụng các
biện pháp cần thiết và phù hợp để khuyến khích, khuyến cáo các doanh nghiệp, nhân dân
sử dụng tiết kiệm năng lượng (điện, xăng dầu), sử dụng các công nghệ cao, công nghệ
xanh, sạch, công nghệ tiết kiệm điện.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 47
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
III.1.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu
Ban hành và thực hiện quy định về điều tiết cân đối cung - cầu đối với từng mặt
hàng thiết yếu, bảo đảm kết hợp hợp lý, gắn sản xuất trong nước với điều hành xuất
nhập khẩu; tiếp tục chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất,
kinh doanh để đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ; chỉ đạo điều hành xuất
khẩu gạo bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước, phối hợp với Bộ Tài
chính trong việc điều hành dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực; thường xuyên
theo dõi sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để kịp thời có biện pháp điều tiết,
bình ổn thị trường, nhất là các mặt hàng thiết yếu. Chủ động có biện pháp chống đầu cơ,
nâng giá.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhất là thành phố Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ tình hình sản xuất, tiêu dùng tại địa phương, chỉ đạo
sản xuất, dự trữ, lưu thông, phân phối hàng hóa thông suốt, trước hết là các hàng hóa thiết
yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu,...; tăng cường quản lý giá, bình ổn giá trên địa
bàn.
III.1.3.3 Quản lý cán cân thương mại
Các biện pháp của lý cán cân thương mại của chính phủ qua nghị quyết 11:
- Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều
tiết lợi nhuận do kinh doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ
việc được sử dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.
- Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập
khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên
liệu như dệt may, da giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực
hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm
2011.
- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi
đặc biệt theo cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế
tại các khu phi thuế quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng
là nguyên liệu đầu vào của sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 48
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất
khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo đảm ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thiết yếu
mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa
thuộc diện không khuyến khích nhập khẩu theo danh mục do Bộ Công Thương ban hành.
Nhìn chung, các biện pháp này đều tạo khuyến khích ưu đãi cho các mặt hàng còn
thiếu nguyên liệu cho các ngành sản xuất hoặc các ngành mà sản xuất trong nước chưa
sản xuất ra được và không khuyến khích xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.
Nhập siêu hàng hóa năm 2011 ước tính 9,5 tỷ USD, bằng 9,9% tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu. Mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp nhất trong vòng 5 năm
qua và là năm có tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu thấp nhất kể từ năm 2002.
Nhập siêu hàng hóa qua các năm (Nguồn: Tổng cục thống kê)
Theo một số nhận định, năm 2011, xuất khẩu là điểm sáng của nền kinh tế, cùng
với các biện pháp hạn chế nhập khẩu, nhiều mặt hàng có khối lượng nhập khẩu giảm so
với năm 2010. Tuy nhiên, đằng sau đó vẫn còn nhiều bất cập: các ngành công nghiệp hỗ
trợ dẫm chân tại chỗ, hàng nông, lâm, thuỷ sản số lượng nhiều, chủng loại phong phú
nhưng chất lượng vẫn còn thấp, thực thu từ xuất khẩu thấp ...
Vào cuối năm 2011, chính phủ đã ký quyết định phê duyệt ”chiến lược xuất nhập khẩu
hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030”, trong đó, định hướng phát triển
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 49
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật là giảm dần xuất khẩu khóang sản thô, phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ và
chất xám cao. Tuy nhiên, với tình hình thắt chặt chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa,
hạn chế đầu tư công thì việc thực hiện chiến lược này thật sự là bài toán khó trong giai
đoạn hiện nay.
III.1.3.4 Thực hiện các chính sách về an sinh xã hội
- Huy động tối đa công suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong
mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện cho sản xuất; đồng thời, tuyên truyền, chỉ đạo việc sử
dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của
sản xuất và đời sống.
- Tiếp tục thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường.
- Bộ Tài chính chủ động điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại
Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về kinh
doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới.
- Trong năm 2011 thực hiện điều chỉnh một bước giá điện, nhà nước có chính sách
hỗ trợ hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện
- Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế
hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo
Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ.
- Tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; Chỉ
đạo các cơ quan, địa phương triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng các
quy định hỗ trợ đối tượng chính sách, người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn (già yếu cô đơn, không nơi nương tựa,...),...
III.2 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2012
Năm 2012, sức ép lạm phát đối với Việt Nam sẽ đến cả từ các nhân tố truyền
thống và phi truyền thống, bên trong lẫn bên ngoài, khách quan và chủ quan, cụ thể là:
Việc nước ta tiếp tục triển khai sâu rộng các cam kết trong Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và ASEAN+, tạo ra những cơ hội to
lớn cho thu hút đầu tư và phát triển xuất khẩu, nhưng cũng đặt ra những thách thức gay
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 50
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật gắt đối với sức cạnh tranh của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi và khả năng
phản ứng chính sách, phản ứng thị trường trước những diễn biến phức tạp của thị trường.
Kinh tế nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ sự có thể đột biến, kéo dài và nặng nề
hơn cuộc khủng hoảng nợ công và suy giảm kinh tế toàn cầu, cũng như các đột biến tiền
tệ và chính trị ở nhiều nước trên thế giới. Giá lương thực, thực phẩm, giá dầu thô, giá một
số nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế và lạm phát có thể tăng cao tại nhiều quốc gia,
cả phát triển, cũng như đang phát triển và mới nổi; khả năng tiếp tục đậm hơn xu hướng
bảo hộ kỹ thuật các thị trường xuất khẩu quốc tế quan trọng của Việt Nam...
Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam phát triển còn thiếu bền vững, chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh còn thấp; kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Những hạn chế, yếu kém
trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường chậm được khắc phục; nợ xấu của hệ
thống ngân hàng tăng, thanh khoản của một số ngân hàng thương mại khó khăn; nhập
siêu còn lớn, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối khó cải thiện căn bản,
gây áp lực lên thị trường tiền tệ và tỷ giá; giá vàng trên thị trường có nhiều khả năng vẫn
biến động bất thường. Sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Nguy cơ mất ổn định
kinh tế vĩ mô có thể trở thành thách thức lớn hơn nếu không có giải pháp quyết liệt, hiệu
quả. Tham nhũng, lãng phí và sự chi phối của lợi ích nhóm chưa được đẩy lùi; hệ số tín
nhiệm quốc gia thấp và chỉ số cạnh tranh tụt bậc liên tiếp nhiều năm.
III.2.1 Chính sách tiền tệ - Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
linh hoạt
III.2.1.1 Lãi suất
Theo nghị quyết 01/NQ-CP, Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp các
Bộ, cơ quan địa phương cần điều chỉnh chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trong, linh hoạt,
phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát
theo mục tiêu 9% đề ra. Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ,
nhất là chính sách lãi suất, cho vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát
mức tăng trưởng tín dụng cả năm 2012 khoảng 15% - 17%, tổng phương tiện thanh toán
tăng khoảng 14% - 16%, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng, giảm mặt bằng
lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 51
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
III.2.1.2 Quản lý tín dụng ngân hàng
Đối với việc quản lý tín dụng ngân hàng, chính phủ cũng đã chú trọng thực hiện
các giải pháp khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức tín dụng ưu tiên vốn tín dụng phục vụ
các lĩnh vực: nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng suất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh
nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động, các dự án hiệu quả, kiểm soát tỷ trọng dư nợ
cho vay các lĩnh vực không khuyến khích ở mức hợp lý. Đảm bảo tăng tổng phương tiện
thanh toán và tăng dư nợ tín dụng hàng năm không vượt quá mức khoảng 15%.
III.2.1.3 Điều hành tỷ giá
Cũng trong nghị quyết này việc điều hành tỷ giá phải đi đôi với điều biến thị
trường ngoại hối linh hoạt, theo đúng định hướng đã đề ra là tương đối ổn định nhưng
không cố định, phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình cung – cầu ngoại tệ, góp
phần khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và
tăng dự trự ngoại hối nhà nước. Tiếp tục chủ động điều hành tỷ giá linh hoạt theo thị
trường, không để chênh lệch 2 giá cao, kéo dài.
III.2.1.4 Dự trữ ngoại hối, kiểm soát và điều hành thị trường vàng và ngoại hối
Thực hiện các biện pháp đồng bộ, hiệu quả để kiểm soát thị trường ngoại tệ và thị
trường vàng, phối hợp với Bộ Công an, các cơ quan chức năng địa phương tăng cường
công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hoạt động kinh doanh vàng, thu
đổi ngoại tệ trái pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tăng cường quản lý,
kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng; thực hiện tốt công tác dự báo và
công khai, minh bạch thông tin thị trường tiến tệ, tín dụng, ngoại tệ, vàng; có giải pháp
phù hợp để quản lý, kiểm soát được luân chuyển vốn, tín dụng giữa các thị trường này.
Tạo điều kiện để nguồn ngoại tệ tập trung vào hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện đáp ứng
các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp, hợp lý của người dân và doanh nghiệp. Cố gắng giảm tình
trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hạn chế tình trạng đầu cơ để góp phần ổn định thị
trường ngoại hối và giảm phương tiện thanh toán bằng vàng trong lưu thông.
III.2.2 Chính sách tài khóa – thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ hiệu quả
III.2.2.1 Thuế và các khoản thu ngân sách của chính phủ
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 52
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Bộ tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan địa phương thực hiện các biện
pháp thích hợp để tiết kiệm chi, tăng thu ngân sách nhà nước, phấn đấu giảm bội chi ngân
sách nhà nước năm 2012 xuống dưới 4.8% GDP. Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa
với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để kiềm chế lạm phát, ổn định mô hình kinh
tế vĩ mô và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước, chống thất thu, thu hồi số tiền nợ
đọng thuế, nhất là các khoản thu liên quan đến đất đai, tài nguyên, hàng hóa nhập khẩu,
chuyển giá. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ tư vấn pháp luật
về thuế cho cộng đồng xã hội. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc kê khai nộp
thuế. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế, chống chuyển giá. Rà soát hoàn thiện
cơ chế và cơ sở pháp lý để bảo đảm kiểm soát của Nhà Nước đối với các hoạt động đặt
cược, trò chơi có thưởng. Phấn đầu tăng thu ngân sách nhà nước để ưu tiên giảm bội chi
và giành cho tài trợ.
Giảm sâu hơn bội chi ngân sách; tăng cường tiết kiệm chi thường xuyên NSNN
III.2.2.2 Các khoản chi của chính phủ
các cấp và áp khóan, lượng hóa bắt buộc tiết kiệm chi phí quản lý, kinh doanh đối với
khu vực DNNN, giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,
chi phí lễ hội, khánh tiết, hội nghị, hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước.
Trong nghị định này, chính phủ yêu cầu các cơ quan, các bộ ban ngành tăng cường
kiểm tra, giám sát, thanh tra các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà nước, các khoản
chi được quản lý qua ngân sách nhà nước, vay về cho vay lại; bảo lãnh vay của Chính
phủ; các khoản chi từ các quỹ tài chính Nhà nước, các khoản vay, tạm ứng của các Bộ,
địa phương. Tiếp tục rà soát, bổ xung hoàn thiện các chế tài xử lý các vi phạm pháp luật
về sử dụng ngân sách nhà nước, bảo đảm thực thi luật pháp nghiêm minh. Thực hiện
minh bạch hóa chi tiêu của ngân sách nhà nước và đầu tư công.
Sắp xếp lại danh mục đầu tư công, nâng cao hiệu quả đầu tư, kinh doanh từ NSNN
và của doanh nghiệp nhà nước theo tiêu chí rõ ràng được luật hóa; bảo đảm nợ công trong
giới hạn an toàn; đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư; kiên quyết tập trung vốn cho các
công trình dự án cấp thiết, sớm hoàn thành, nhanh đưa vào sử dụng để phát huy hiệu quả.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 53
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Ưu tiên bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành và đã đưa vào sử dụng, các công
trình cần thiết phải hoàn thành trong năm 2012 và vốn đối ứng cho các dự án ODA.
III.2.3 Các biện pháp hỗ trợ, ổn định đời sống và sản xuất
III.2.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh
Theo nghị quyết trên, chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh phát triển thương mại trong
nước, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại
Việt Nam đến nằm 2020, chú trọng phát triển thương mại nông thôn nhất là hệ thống các
chợ, hợp tác xã thương mại – dịch vụ, hộ kinh doanh. Nghiên cứu xây dựng và áp dụng
các cơ chế phù hợp khuyến khích phát triển thương mại điện tử. Thực hiện các chính sách
và áp dụng các biện pháp thích hợp tạo lập mối liên kết giữa nhà sản xuất với tổ chức
phân phối và người tiêu dung để hình thành những kênh lưu thông hàng hóa ổn định, gắn
với quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách, đẩy mạnh thực hiện cuộc
vận động “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, kích cầu trong nền kinh tế
theo hướng kiểm soát lạm phát.
III.2.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu
Theo chủ trương của thông tư, Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính
và các Bộ, cơ quan, địa phương để tăng cường nâng cao hiệu quả công tác phân tích dự
báo theo dõi chặt chẹ diễn biến thị trương trong và ngoài nước, kịp thời áp dụng các biện
pháp điều tiết cung – cầu, bình ổn thị trường nhất là những mặt hàng thuộc diện bình ổn
giá, những mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng, sốt
giá. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, bảo
đảm đủ các mặt hàng thiết yếu và các mặt hàng thuộc diện bình ổn giá.
Tăng cường công tác thông tin về giá, kiểm tra, kiểm toán giá, đồng thời đề cao
trách nhiệm, sự chủ động và minh bạch về giá của doanh nghiệp; tăng cường công tác
quản lý thị trường, trừng phạt các hoạt động quảng cáo quá mức; kiểm soát hoạt động của
các hệ thống đại lý phân phối, nhất là phân phối độc quyền nhằm giảm thiểu tình trạng
tăng giá độc quyền, đầu cơ và nhiễu loạn giá, phi thị trường; đấu tranh phòng ngừa hiệu
quả với các hiện tượng chuyển giá, làm giá, gian lận về giá và các gian lận thương mại
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 54
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật khác; hoàn thiện các quy định pháp lý cần thiết theo hướng thiết thực, công bằng, dân chủ
và có tính pháp quyền cao nhằm nâng cao hiệu quả công tác bình ổn giá và bảo đảm an
sinh xã hội.
Xử lý nghiêm khắc các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với các nguyên vật
liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu; tăng cường công tác thông tin tuyên
truyền về các chủ trương, biện pháp điều hành giá cả của Chính phủ, không gây hoang
mang, tạo tâm lý tăng giá và kỳ vọng đầu cơ.
Tóm lại, nghị quyết đầu năm 2012 của Chính Phú đã chỉ đạo cho tất cả các bộ ban
ngành sử dụng quyền tài phán và các công cụ của mình để kiểm soát giá cả một cách hợp
lý, không gây biến đông quá lớn và có thông tin kịp thời trước những dự báo xấu về giá
cả, từ đó tìm phương thức giải quyết, mục tiêu cuối cùng cũng là để kiểm soát mức lạm
phát chỉ tiêu cho phép là tứ 5% - 7%.
III.2.3.3 Quản lý cán cân thương mại
Để ổn định lạm phát trong năm 2012, không còn cách nào khác là phải khuyến
khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và hạn chế nhập siêu.
Trên cơ sở đó, nghị quyết đã nêu rõ Bộ Công thương cần phối hợp với các ban
ngành có liên quan chủ động điều chỉnh bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh
bổ sung: các cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ đối với các sản phẩm, ngành xuất khẩu
có chủ lực, có lợi thế và khả năng cạnh tranh, quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng thương mại, tăng cường kiểm định chất lượng hàng xuất khẩu. Tổ chức chỉ đạo,
hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện việc tiết kiệm năng lượng, vật tư, chi phí đầu vào,
ứng dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
Nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường, phổ biến kịp thời thông tin thị
trường thế giới nhất là đối với các thị trường và mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, thay đổi
chính sách áp dụng các biện pháp bảo hộ, nghiên cứu áp dụng các biện pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động thương vụ, xúc tiến thương mại tại nước ngoài, tăng cường bảo vệ
thương hiệu xuất khẩu của Việt Nam tại nước ngoài… ngăn ngừa các nguy cơ mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam bị bán phá giá.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 55
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Tiếp tục tổ chức kế hoạch tổng thể đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA),
phổ biến hướng dẫn, có giải pháp phù hợp hỗ trợ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả tại thị trường đã có FTA; chủ động tích cực trong đàm pháp FTA nhằm
mở rộng thị trường xuất khẩu.
Rà soát sửa đổi bổ xung cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
vào các dự án sản xuất, bảo đảm chất lượng và khả năng cạnh tranh, sản phẩm có giá trị
gia tăng cao đáp ứng nhu cầu trong nước sớm đi vào sản xuất và đưa sản phẩm ra thị
trường.
Thúc đẩy việc ký kết thỏa thuận công nhận lẫn nhau với các thị trường xuất khẩu
lớn, tiềm năng; có giải pháp giảm thiểu, khắc phục các rào cản kỹ thuật, giảm chi phí cho
hàng xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông lâm thủy sản.
Ngoài ra, cũng trong nghị quyết này, tiến hành rà soát, sửa đổi bổ xung hoàn thiện các
quy định của pháp luật về phòng chóng gian lận thương mại, hay gian lận giá nhập
khẩu…
Chính phủ còn chỉ đạo Bộ Kế hoạch đầu tư rà soát, bổ xung chính sách để thu hút
đẩy nhanh tiến độ giải ngân, các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài (FDI).
Một cách chung nhất trong giai đoạn hiện nay, chính phủ đã tạo điều kiện để tăng
xuất khẩu và giảm nhập siêu, nhầm kiềm chế lạm phát ở mức mong muốn.
III.2.3.4 Nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác phòng
chống tham nhũng; tăng cường cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và đổi mới công tác cán bộ,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; chú trọng cải cách thể chế và thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân; đề cao trách nhiệm giải trình của các
cơ quan nhà nước; nâng cao chất lượng công tác tham mưu, công tác thông tin, dự báo và
phản biện chính sách xã hội, tăng cường tham vấn nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và
các chuyên gia khi xây dựng chính sách và hoàn thiện thể chế.
III.3 Đề xuất một số chính sách kiểm soát lạm phát cho Việt Nam trong thời gian
sắp tới
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 56
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Kinh tế nước ta đang phải nỗ lực giải “bài toán kép”: Vừa ưu tiên kiềm chế lạm
phát năm 2012 xuống một con số, vừa bảo đảm an sinh xã hội; vừa từng bước thực hiện
để đến hết năm 2013, bảo đảm chuyển sang giá thị trường các mặt hàng điện, xăng dầu,
than và một số dịch vụ công. Vì vậy, kiềm chế lạm phát cần có sự nỗ lực phối hợp đồng
bộ.
Thực tế đang cho thấy, khả năng hiện thực hóa mục tiêu vừa ưu tiên kiềm chế lạm
phát năm 2012 xuống một con số, vừa bảo đảm an sinh xã hội được xác lập do những
nhân tố tích cực, như nhận thức và quyết tâm chính trị mới từ cấp cao nhất; sự nhất quán
chính sách tài chính-tiền tệ linh hoạt và thận trọng, chủ động, theo hướng tiếp tục thắt
chặt, giảm bớt khối lượng và nâng cao hiệu quả đầu tư công; xúc tiến đổi mới mô hình và
cơ chế phát triển; sự dồi dào của các nguồn hàng hóa và lao động; sự năng động và bản
lĩnh thương trường của đội ngũ doanh nghiệp; vị thế quốc tế và lòng tin của thế giới đối
với tiềm năng phát triển trung và dài hạn của Việt Nam ngày càng được củng cố.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, sức ép lạm phát đối với Việt Nam vẫn đến cả từ các nhân
tố truyền thống và phi truyền thống, bên trong lẫn bên ngoài, khách quan và chủ quan.
Trong đó, nổi lên những áp lực như: nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ hệ quả
cuộc khủng hoảng nợ công và suy giảm kinh tế toàn cầu, trực tiếp làm giảm động lực
tăng trưởng từ xuất khẩu, cũng như tô đậm hơn xu hướng bảo hộ kỹ thuật từ 3 thị trường
xuất khẩu lớn nhất của mình là Mỹ, EU và Nhật Bản. Nền kinh tế Việt Nam phát triển
còn thiếu bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, một số loại hàng hóa
tăng giá... khiến cho mục tiêu kiềm chế CPI xuống mức một con số trong năm 2012, vì
thế, cũng trở nên khó khăn hơn.
Vì vậy, việc thực hiện nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, trước mắt trong năm 2012,
cần các nỗ lực và sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía và nhiều loại công cụ, giải pháp. Cụ
thể là:
Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt:
Nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn tốc độ tăng CPI chịu ảnh hưởng rất lớn bởi
kỳ vọng lạm phát của công chúng, điều này cũng hàm ý rằng mọi động thái điều chỉnh
chính sách tiền tệ - tài khóa của Chính phủ hiện tại đều tác động đến kỳ vọng lạm phát
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 57
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật của công chúng trong tương lai. Do đó, việc tạo niềm tin trong công chúng về nỗ lực
kiểm soát lạm phát của Chính phủ thông qua việc phát đi các thông điệp về chính sách tài
khóa - tiền tệ là vô cùng quan trọng trong thời kỳ lạm phát cao.
Chính sách tiền tệ: Tiếp tục điều hành theo hướng thắt chặt, thận trọng và linh
hoạt theo tín hiệu thị trường; bảo đảm tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư
nợ tín dụng hàng năm không vượt quá mức khoảng 15%; giảm dần mặt bằng lãi
suất hợp lý; tiếp tục chủ động điều hành tỷ giá linh hoạt theo thị trường, không để
chênh lệch 2 giá cao, kéo dài; bảo đảm và giảm chi phí vốn cho sản xuất; kiểm
soát chặt cho vay bất động sản và kinh doanh chứng khóan; kiểm soát nợ xấu; phối
hợp tốt các cơ quan, tổ chức có liên quan nhằm giữ vững và đảm bảo cao nhất sự
ổn định các thị trường tài chính- tiền tệ và thị trường bất động sản.
Nghiên cứu và xây dựng mô hình định lượng về cơ chế truyền dẫn tiền tệ phục
vụ công tác phân tích và hoạch định chính sách tiền tệ tại NHNN. Việc xây
dựng và nghiên cứu mô hình phân tích cơ chế truyền dẫn tiền tệ cho phép
NHNN xác định và đánh giá các tác động của các cú sốc (shock) từ bên trong
cũng như bên ngoài tới nền kinh tế nói chung và khu vực tiền tệ - ngân hàng
nói riêng cũng như hiệu quả trong công tác điều hành chính sách tiền tệ thông
qua các kênh truyền dẫn.
Từng bước xây dựng và triển khai mô hình kinh tế lượng vĩ mô
(Macroeconometric model) trong việc dự báo lạm phát và xây dựng chương
trình tiền tệ trong khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ theo đuổi lạm phát
mục tiêu.
Việc điều hành chính sách tiền tệ phải tạo tín hiệu cho người dân nhận thức rõ
Chính phủ sẽ quyết tâm duy trì một tốc độ lạm phát ổn định, qua đó làm giảm
lạm phát kỳ vọng của dân chúng, cũng như lạm phát thực tế. Vì vậy,chính sách
tiền tệ theo hướng áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu, để đảm bảo nhiệm vụ
ổn định giá cả. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước nên cam kết duy trì tốc độ lạm
phát ở một mức độ nhất định.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 58
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Thị trường mở: Cần có các giải pháp hoàn thiện thị trường mở để mau chóng
đưa công cụ này vào hoạt động nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu
thông. Trước hết việc vận dụng công cụ thị trường mở đòi hỏi trước mắt không
chỉ đối với tín phiếu kho bạc mà ngay cả với trái phiếu kho bạc và các chứng
chỉ đầu tư của nhà nước (trái phiếu công trình), cần phải phát hành theo
phương thức đấu thầu thông qua hoạt động của NHNNTW và án NHTM trong
đó tăng cường vai trò của NHNNTW trong việc phát hành tiền để mua trái
phiếu chính phủ và sau đó thực hiện mua bán lại trái phiếu chính phủ với các
NHTM, với các tổ chức kinh tế theo tín hiệu thị trường Dựa trên tình hình dư
thừa tiền tại các NHTM lớn, NHNN có thể phát hành tín phiếu với lãi suất hấp
dẫn hơn lợi tức trái phiếu chính phủ sắp đáo hạn giao dịch trên thị trường thứ
cấp để hút tiền dư từ các NHTM lớn. Các NHTM này thay vì đẩy mạnh cho
khách hàng vay hoặc cho vay liên ngân hàng với lãi suất thấp thì có thể “tự
nguyện” mua tín phiếu của NHNN nhờ mức lãi suất hấp dẫn này. Lượng tiền
mà NHNN hút được sau khi các NHTM mua tín phiếu có thể được NHNN điều
hoà trở lại cho các NHTM nhỏ thiếu thanh khoản qua biện pháp tái cấp vốn.
Điều này sẽ giúp cho các NHTM nhỏ không phải huy động bằng mọi giá đồng
thời cũng không phải vay trên thị trường liên ngân hàng. Mặt bằng lãi suất huy
động do vậy sẽ được duy trì ở mức thấp hơn và công cụ trần 13% sẽ có tác
dụng dẫn dắt lãi suất trong toàn bộ hệ thống NHTM. Như vậy, công cụ phát
hành tín phiếu trong trường hợp này có ý nghĩa như là công cụ điều hòa thanh
khoản hệ thống ngân hàng để giúp mặt bằng lãi suất giảm mà không phải nới
lỏng cung tiền. Mặt bằng giá cả trong nền kinh tế sẽ không bị tác động nhiều
khi lãi suất huy động hạ. Ở đây, NHNN đứng ra làm cầu nối trung gian trong
việc dịch chuyển dòng vốn giữa các NHTM thông qua kênh tín phiếu và tái cấp
vốn. Cung tiền cơ sở không tăng, mà chỉ chuyển từ NHTM thừa vốn sang
NHTM thiếu vốn. NHNN vẫn đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát bằng chính
sách cung tiền thắt chặt theo chỉ đạo của Chính phủ.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 59
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Chính sách tài khóa: giảm sâu hơn bội chi ngân sách; tăng cường tiết kiệm chi
thường xuyên NSNN các cấp và áp khóan, lượng hóa bắt buộc tiết kiệm chi phí
quản lý, kinh doanh đối với khu vực DNNN; sắp xếp lại danh mục đầu tư công,
nâng cao hiệu quả đầu tư, kinh doanh từ NSNN và của doanh nghiệp nhà nước
theo tiêu chí rõ ràng được luật hóa; bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn; đổi
mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư; kiên quyết tập trung vốn cho các công trình dự án
cấp thiết, sớm hoàn thành, nhanh đưa vào sử dụng để phát huy hiệu quả. Ưu tiên
bố trí vốn cho các công trình đã hoàn thành và đã đưa vào sử dụng, các công trình
cần thiết phải hoàn thành trong năm 2012 và vốn đối ứng cho các dự án ODA.
Lập dự toán ngân sách nhà nước: Trong bối cảnh lạm phát thì việc lập dự toán
NSNN theo giá trị danh nghĩa sẽ gián tiếp tác động gây nguy cơ tăng khối
lượng tiền tệ tín dụng và từ đó làm tăng mức giá. Để cải thiện hiệu quả lập dự
toán NSNN và hạn chế tác động tiêu cực đến lạm phát cần lưu ý:
Xem xét đến sự thay đổi mức giá của cả một giai đoạn khi lập dự báo
NSNN. Có thể sử dụng số liệu so sánh theo kỳ gốc sau đó điều chỉnh theo
chỉ số giảm phát GDP khi lập dự toán NSNN. Về dài hạn, cần xem xét việc
lập dự toán NSNN cho cả ngắn hạn và trung hạn nhằm hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của các yếu tố danh nghĩa. Hiện nay, Bộ Tài chính đã bắt đầu thử
nghiệm áp dụng việc lập và thực hiện NSNN theo kế hoạch chi tiêu trung
hạn nhằm tiến tới áp dụng mô hình khuôn khổ chi tiêu trung hạn (Medium
Term Expenditure Framework - MTEF). Đây là một hướng đi đúng cần
được đánh giá đầy đủ nhằm triển khai rộng rãi hơn.
Cần có đánh giá đầy đủ về tác động của việc vay nợ qua phát hành trái
phiếu chính phủ đến lạm phát nhằm điều chỉnh lượng phát hành trái phiếu
phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô. Cũng cần xem xét các giải pháp kỹ
thuật từ phía Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước để xác định lãi suất trái
phiếu chính phủ phù hợp nhằm hạn chế tác động tiêu cực của TPCP tới
cung cầu vốn trên thị trường tài chính.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 60
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
Giảm dần mức độ thâm hụt NSNN cả về tỷ lệ trong GDP và cả về tốc độ
tăng bội chi theo số tuyệt đối. Kinh nghiệm thế giới cũng chỉ ra rằng, nếu
quy mô chi ngân sách vượt quá 30 % GDP thì sẽ trở nên kém hiệu quả với
tăng trưởng kinh tế (Tanzi và Schuknecht, 1997).
Giảm chi tiêu chính phủ: chi tiêu Chính phủ có tác động rất lớn tới việc gia
tăng chỉ số CPI, do đó, trong thời kỳ lạm phát cao, Chính phủ phải luôn coi
trọng việc phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ một cách hiệu quả. Hiện
tại, tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam vẫn lệ thuộc nhiều vào vốn đầu tư. Do
đó, để có thể kiểm soát lạm phát hiệu quả trong bối cảnh chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế từng bước từ chiều rộng sang chiều sâu, đòi hỏi các chính
sách tài khóa - tiền tệ của Chính phủ phải phản ứng nhanh, linh hoạt trước các
tín hiệu về lạm phát xuất hiện, tránh trường hợp khi lạm phát tăng cao mới
phản ứng chính sách. Khi đó, thời gian để đưa lạm phát xuống thấp sẽ kéo dài
và gây tổn thất lớn đối với nền kinh tế, đặc biệt đối với khu vực sản xuất.
Hiệu quả quản lý nhà nước
Tăng cường quản lý nhà nước về giá: thực hiện đúng quy luật và trình tự quy
trình kinh tế thị trường. Chỉ cho phép doanh nghiệp thực hiện giá thị trường khi có
cạnh tranh thị trường đầy đủ, lành mạnh trong lĩnh vực đó; tăng cường công tác
thông tin về giá, kiểm tra, kiểm toán giá, đồng thời đề cao trách nhiệm, sự chủ
động và minh bạch về giá của doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý thị
trường, trừng phạt các hoạt động quảng cáo quá mức; kiểm soát hoạt động của các
hệ thống đại lý phân phối, nhất là phân phối độc quyền nhằm giảm thiểu tình trạng
tăng giá độc quyền, đầu cơ và nhiễu loạn giá, phi thị trường; đấu tranh phòng ngừa
hiệu quả với các hiện tượng chuyển giá, làm giá, gian lận về giá và các gian lận
thương mại khác; hoàn thiện các quy định pháp lý cần thiết theo hướng thiết thực,
công bằng, dân chủ và có tính pháp quyền cao nhằm nâng cao hiệu quả công tác
bình ổn giá và bảo đảm an sinh xã hội. Xử lý nghiêm khắc các hành vi tăng giá bất
hợp lý, nhất là đối với các nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu; tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về các chủ trương, biện pháp
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 61
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật điều hành giá cả của Chính phủ, không gây hoang mang, tạo tâm lý tăng giá và kỳ
vọng đầu cơ. Đặc biệt, cần thay việc đăng ký giá bằng tăng cường kiểm soát, kiểm
tra giá. Thực tế cho thấy, đăng ký giá là một động thái quản lý nhà nước về giá
mang tính hình thức cao, ít có giá trị quản lý thực sự, thậm chí còn tạo điều kiện
“hợp pháp hóa giá cả độc quyền”. Nghĩa là, doanh nghiệp chỉ việc đăng ký giá bán
(theo mức tự mình định ra) và tìm cách giải trình lý do khi muốn tăng giá sao cho
hợp lý (kể cả khi việc tăng giá này không phải do tăng giá nhập, mà do cả các yếu
tố khác như tăng chi phí vận chuyển, tăng mức chiết khấu và lợi nhuận) là có thể
hợp pháp bán hàng theo giá đăng ký đó, mà rất ít khi bị “tuýt còi”. Hơn nữa, giá
đăng ký chỉ áp dụng được tại các đại lý trực thuộc hệ thống của doanh nghiệp, còn
các đại lý tư nhân thì không thể kiểm soát được (do luật cho phép được lấy hàng từ
3 doanh nghiệp khác nhau). Bên cạnh đó, các mặt hàng tăng giá theo giá thị trường
nhưng phải cạnh tranh, vì các mặt hàng đồng loạt tăng giá năm nay đều là mặt
hàng thiết yếu do Nhà nước quản lý giá. Nếu không tự do hóa cạnh tranh, áp lực
tăng giá sẽ nhiều hơn vì sẽ lại có những đợt tăng giá mới do giá độc quyền không
bao giờ đủ.
Nâng cao hiệu quả đầu tư công: tăng cường phân cấp và kiểm soát kỹ đầu tư
công, kể cả vốn ngân sách, vốn trái phiếu Chính phủ và tín dụng nhà nước. Thực
hiện cam kết chi đầu tư trong phân bổ vốn đầu tư nhà nước hàng năm nhằm tránh
tình trạng phân tán, kéo dài, kém hiệu quả trong các dự án đầu tư. Nâng cao hiệu
quả sử dụng và minh bạch hóa Ngân sách Nhà nước.
Tái cấu trúc nền kinh tế: thúc đẩy trên thực tế quá trình tái cấu trúc nền kinh tế
theo một chương trình tổng thể, đồng thời, chủ động giảm thiểu các tác động mặt
trái của quá trinh này
Thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều
rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô,
vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện các
chính sách tái cấu trúc nền kinh tế để xử lý những yếu kém cố hữu, hạn chế
hiệu quả thực hiện các chính sách tổng cầu và tổng cung, đồng thời nâng cao
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 62
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng cho việc chuyển dịch mô
hình tăng trưởng kinh tế nêu trên.
Thực hiện quyết liệt tái cơ cấu sâu rộng và tổng thể toàn bộ khu vực doanh
nghiệp nhà nước, bao gồm cổ phần hóa đi kèm với việc đổi mới và nâng cao
chất lượng quản trị trong doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện nhanh việc cổ
phần hóa các tập đoàn kinh tế có lợi thế thị trường nhằm thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài đối với khu vực doanh nghiệp.
Đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa. Hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu
đầu vào, do đó chi phí sản xuất và giá trong nước cũng biến động theo giá thế
giới và tỷ giá hối đoái. Do đó, cần điều chỉnh cơ cấu sản xuất, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên vật liệu
sản xuất.
Tiếp tục khuyến khích thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn
ODA và FDI trong các lĩnh vực mục tiêu (đặc biệt trong phát triển cơ sở hạ
tầng, công nghiệp phụ trợ và nông nghiệp); tăng cường quản lý các dòng vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII); tạo điều kiện thuận lợi để tăng khách du lịch
quốc tế và nguồn kiều hối. Kiên quyết thực hiện thoái vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp mà Nhà nước không cần chi phối và thoái vốn đã đầu tư vào các
hoạt động ngoài ngành kinh doanh chính.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền gắn với nâng cao ý thức trách
nhiệm, vì cộng đồng của doanh nghiệp và người dân, khắc phục triệt để nguyên
nhân lạm phát do yếu tố tâm lý.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 63
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
KẾT LUẬN
Trong thời gian qua, Lạm phát của Việt Nam đã trải qua nhiều đợt bùng phát và
tưởng chừng như không thể kiểm soát được. Qua việc phân tích những nguyên nhân dẫn
tới lạm phát ở Việt Nam và bằng việc điều hành quyết liệt của chính phủ qua các chính
sách kiểm soát lạm phát, mà cụ thể là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính
phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an sinh xã hội và mới đây nhất là Nghị Quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 của
Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2012 đã từng bước tác động đến chỉ
số lạm phát theo chiều hướng giảm. Tuy nhiên lạm phát tuy có bước được kiềm chế
nhưng vẫn ở mức cao, trong khi giá dầu thế giới tăng cao buộc chúng ta phải điều chỉnh
theo giá thị trường; lãi suất còn cao, tăng trưởng tín dụng giảm, thanh khoản của một số
ngân hàng thương mại khó khăn, việc tiếp cận vốn còn hạn chế; sản xuất công nghiệp
tăng chậm, hàng hóa tồn kho lớn, chi phí đầu vào cao, nhiều cơ sở phải thu hẹp quy mô
sản xuất kinh doanh (Nghị quyết số 07/NQ-CP). Đây là thực tế khó khăn đòi hỏi chính
phủ cũng như các thành phần kinh tế và tất cả người dân phải quyết tâm và nỗ lực thì mới
có thể đạt kết quả như mong muốn (giảm lạm phát năm 2012 xuống 12% và các năm sau
từ 6 % đến 7%).
Tình hình kinh tế thế giới hiện nay rất khó dự đoán, phần nào ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế trong nước, vì vậy vấn đề nay đòi hỏi việc điều hành kinh tế phải theo sát
diễn biến thị trường và có những chính sách thay đổi linh hoạt, kịp thời.
Về tình hình trong nước đòi hỏi phải ổn định được chỉ số giá tiêu dùng, giữ ổn
định giá cả các mặt hàng thiết yếu, bản thân các thành phần kinh tế cũng phải nhận thức
được bản chất của vấn đề và tham gia vào việc kiểm soát lạm phát với chính phủ, thể hiện
qua những hành động cụ thể như tiết kiệm chi phí để không tăng giá các mặt hàng hay
tăng giá có kế hoạch.
Về bản thân các Ngân hàng phải cùng với chính phủ trong công tác điều hành
kiểm soát lạm phát, đảm bảo hoạt động ổn định, tránh tăng trưởng tín dụng quá nhanh
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 64
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật không phù hợp với năng lực và chú trọng công tác phòng chống, quản lý rủi ro tín dụng;
Sáp nhập các ngân hàng yếu kém, không thể hoạt động được nữa, nhằm tránh gây ra sự
mất ổn định thị trường tiền tệ cũng là việc góp phần vào công cuộc chống lạm phát đầy
gian nan.
Cuối cùng, một lần nữa chúng em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến TS Diệp Gia
Luật đã tận tình hướng dẫn nhóm thực hiện tiểu luận này.
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 65
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nghị quyết số 11/NP-CP ngày 24/02/2011 của chính phủ vềvề những giải pháp chủ
yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh xã hội.
[2] Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 của chính phủ về những giải pháp chủ yếu
chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước năm 2012
[3] Cổng thông tin điện tử bộ Kế Hoạch và Đầu Tư: http://www.mpi.gov.vn
[4] Trang điện tử Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn:
http://www.agribank.com.vn.
[5] Trang điện tử báo Tiền Phong: http://www.tienphong.vn.
[6] Sử Đình Thành và Vũ Thị Minh Hằng (2008), Nhập môn Tài chính - tiền tệ, NXB
Lao động xã hội.
[7] Trang điện tử Ngân hàng nhà nước Việt Nam: http://www.sbv.gov.vn
[8] Trang điện tử Tổng cục thống kê: http://www.gso.gov.vn
[9] Trang điện tử khác.
[10]Một số Nghị quyết, nghị định của chính phủ, thông tư của các bộ, ngành.
[11]PGS.TS.Trần Hoàng Ngân và Ths. Võ Thị Tuyết Anh: Lạm phát – Nguyên nhân và
giải pháp
[12]Global advanced Business Master Administration: Nguyên lý kinh tế học – Chương
15: Lạm phát
[13]Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW: Điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh
lạm phát cao ở Việt Nam
Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 66