intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chính sách phát triển ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay

Chia sẻ: ViSamurai2711 ViSamurai2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

68
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là một trong những chính sách lớn và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong điều kiện một nước đa dân tộc như nước ta. Trong những năm qua, chính sách này đã đáp ứng được các vấn đề về dân tộc và ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, góp phần thiết thực vào thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chính sách phát triển ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> <br /> <br /> CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA<br /> DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CHỖ HIỆN NAY<br /> Phú Văn Hẳn(1)<br /> <br /> C hính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là một trong những chính sách lớn<br /> và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong điều kiện một nước đa dân tộc như<br /> nước ta. Trong những năm qua, chính sách này đã đáp ứng được các vấn đề về dân tộc và<br /> ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, góp phần thiết thực vào thực hiện chính sách đại đoàn kết<br /> dân tộc. Tuy nhiên tại một số địa phương khi triển khai chính sách ngôn ngữ đối với dân tộc<br /> thiểu số dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các<br /> chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp cụ thể, hình thức tổ chức thực hiện thích<br /> hợp với từng khu vực, từng dân tộc, thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức<br /> và phương pháp… Khắc phục tình trạng đó sẽ khiến cho bức tranh chung về thực trạng giáo<br /> dục, sử dụng tiếng nói, chữ viết dân tộc trong các dân tộc thiểu số tại chỗ Việt Nam hiện nay<br /> sáng sủa hơn.<br /> Từ khóa: Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số; chính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu<br /> số; giáo dục, sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số.<br /> <br /> 1.Vài nét về ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Lào), Cao Lan (chữ Nôm Cao Lan), Mông (chữ<br /> Việt Nam Mông), Dao (chữ Nôm Dao), Chăm (chữ Thrah,<br /> Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. chữ Jawi), Khmer (chữ Khmer), Hoa (chữ Hán).<br /> Ngoài người Kinh là dân tộc đa số, nước ta còn Một số dân tộc thuộc nhóm này xuất hiện chữ<br /> có 53 dân tộc thiểu số (DTTS). Hiện người DTTS viết mới theo chữ cái La Tinh gần gũi với chữ<br /> là 13,39 triệu người (năm 2015), chiếm 14,6% phổ thông; Khoảng 23 dân tộc có chữ viết theo<br /> dân số cả nước. Đến nay số người DTTS tăng La Tinh: Tày-Nùng, Mông-Dao, Bru-Vân Kiều,<br /> không đáng kể (14,3%, năm 1999). Số dân của Pacô, Cơtu, Xơđăng, Bana, Hrê, Giarai, Êđê,<br /> các DTTS không đồng đều. Có 19 dân tộc có số Chăm Hroi, Mnông, Cơho, Xtiêng, Ra-glai,<br /> dân từ 100.000 người đến trên 1,6 triệu người; Churu, Chơro...; Khoảng 24 dân tộc chưa có chữ<br /> 18 dân tộc có từ 10.000 người đến dưới 100.000 viết riêng: Mường, Khơ-mú, Xinh-mun, Kháng,<br /> người, 11 dân tộc có từ 1.000 đến dưới 10.000 Thổ, Chứt, Nguồn… Nhiều dân tộc thuộc nhóm<br /> người. Có 5 dân tộc có dân số dưới 1.000 người: này có nguyện vọng xây dựng chữ viết.<br /> Si La có 709 người; Pu Péo 687 người; Rơ-mâm 2.Một số chính sách liên quan ngôn ngữ<br /> 436 người; Brâu 397 người; Ơ-đu 376 người. dân tộc thiểu số<br /> Về ngôn ngữ các DTTS, bên cạnh tiếng Đảng và Nhà nước ta luôn có chính sách<br /> Việt là ngôn ngữ phổ thông, một số ngôn ngữ bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của các<br /> của người Tày, Thái, Mường (các tỉnh phía Bắc), DTTS. Đến nay đã có nhiều văn kiện chính trị<br /> Ê-đê (ở Tây Nguyên), Chăm (ở Ninh Thuận và được ban hành và được nhắc lại nhiều lần trong<br /> Bình Thuận), Khmer (vùng Tây Nam Bộ)… đã các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ, chữ viết<br /> trở thành ngôn ngữ vùng. Trong khi đó, một số các DTTS Việt Nam:<br /> ngôn ngữ thiểu số khác như các ngôn ngữ Ơ-đu, - Hội đồng Chính phủ (1969), Quyết định<br /> Brâu, Rơ-mâm… lại đang có nguy cơ bị mai một. số 153-CP ngày 20/8/1969 “Về việc xây dựng, cải<br /> Về mặt chữ viết, có 10 dân tộc sử dụng tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu số”;<br /> chữ viết cổ truyền: Tày (chữ Nôm Tày), Nùng - Hội đồng Chính phủ (1980), Quyết định<br /> (chữ Nôm Nùng), Thái (chữ Thái cổ), Lào (chữ số 53-CP ngày 22/2/1980 “Về chủ trương đối với<br /> <br /> Ngày nhận bài 5/8/2017; Ngày phản biện: 24/8/2017; Ngày duyệt đăng: 10/9/2017<br /> (1)<br /> Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; e-mail: phuvanhan@yahoo.com.vn<br /> 33<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> chữ viết của các dân tộc thiểu số”; có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân<br /> - Uỷ ban Khoa học xã hội và Bộ Giáo dục tộc… dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết trên các<br /> (1980), Một số quy định về chính tả trong sách phương tiện thông tin đại chúng ở vùng dân tộc”.<br /> giáo khoa cải cách giáo dục, ngày 30/11/1980; Các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980,<br /> - Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1984), Quyết 1992 và gần đây nhất năm 2013 đều khẳng định:<br /> định số 240/QĐ ngày 5/3/1984 ban hành “Quy các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,<br /> định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong<br /> Việt” áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn tục, tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của<br /> bản của ngành giáo dục; mình. Luật Giáo dục, Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu<br /> học, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Toà án, Luật Báo<br /> - Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng<br /> chí, Luật Xuất bản… đều ghi rõ, cụ thể về quyền<br /> sản Việt Nam khoá 8 (1998), Nghị quyết Hội nghị<br /> sử dụng tiếng nói, chữ viết của các DTTS.<br /> lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng<br /> (khoá 8) “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Năm 1961, Chính phủ có Nghị định số 206/<br /> Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; CP ngày 27/11/1961 phê chuẩn các phương án<br /> chữ Tày-Nùng, chữ Thái cải tiến; đồng thời quy<br /> - Quốc hội (1998), Luật Giáo dục;<br /> định phạm vi, mức độ sử dụng các loại chữ đó.<br /> - Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định Năm 1964, Ban Bí thư Trung ương có Chỉ thị số<br /> số 219/2005/QĐ-TTg ngày 9/9/2005 “Về phê duyệt 84-CT/TW, ngày 3/9/1964 về “Nhiệm vụ công tác<br /> Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010; giáo dục ở miền núi trong 2 năm 1964/1965 và<br /> - Quốc hội (2005), Luật Giáo dục; 1965/1966”, khuyến khích tiếp tục nghiên cứu và<br /> - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), mở rộng việc dạy chữ dân tộc trong trường học,<br /> Dự án hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống quản đồng thời sử dụng rộng rãi chữ dân tộc trong đời<br /> lý đất đai Việt Nam (VLAP) sử dụng nguồn vốn sống hàng ngày. Chỉ thị số 84-CT/TW nêu rõ: “Sử<br /> của Ngân hàng Thế giới. Khung kế hoạch dân tộc dụng chữ dân tộc là nguyện vọng thiết tha của các<br /> thiểu số; dân tộc, cần tiếp tục nghiên cứu về mặt khoa học,<br /> đồng thời mạnh dạn sử dụng rộng rãi ba thứ chữ<br /> - Chính phủ (2010), Nghị định số 82/2010/<br /> Tày-Nùng, Mèo, Thái trên sách báo, trong cơ quan<br /> NĐ-CP ngày 15/07/2010 “Quy định việc dạy và<br /> hành chính và trong đời sống hàng ngày. Chống tư<br /> học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong<br /> tưởng coi thường chữ dân tộc, ngại khó, không<br /> các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo<br /> mạnh dạn phát triển việc học và sử dụng chữ dân<br /> dục thường xuyên”.<br /> tộc. Đi đôi với việc học tập chữ dân tộc, cần dạy<br /> Văn kiện Đại hội lần thứ nhất của Đảng chữ phổ thông ngay từ các lớp cấp I. Đảng đoàn<br /> (tháng 3/1935), về công tác trong vùng DTTS đã Bộ Giáo dục và Ban Dân tộc Trung ương cần phối<br /> xác định: “Các dân tộc… được dùng tiếng mẹ đẻ hợp để chỉ đạo và rút kinh nghiệm về vấn đề này”.<br /> của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn Năm 1969, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định<br /> hoá..”. Chính sách bảo tồn và phát huy tiếng nói, số 153-CP ngày 20/8/1969 “Về việc xây dựng,<br /> chữ viết các DTTS của Đảng và Nhà nước thể cải tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu<br /> hiện đầy đủ nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa số”, trong đó xác định cụ thể trách nhiệm của các<br /> các dân tộc cùng chung sống trên đất nước Việt ngành và các địa phương trong việc xây dựng và<br /> Nam. Chủ trương đó đã quán triệt suốt các giai phổ biến chữ dân tộc.<br /> đoạn cách mạng của dân tộc. Sau thống nhất đất nước, Hội đồng Chính<br /> Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ phủ tiếp tục có Quyết định số 53-CP (ngày<br /> V, (khoá VIII) tiếp tục xác định: “…Bảo tồn và 22/2/1980), tiếp tục khẳng định “Tạo điều kiện<br /> phát triển ngôn ngữ, chữ viết các DTTS, đi đôi thuận lợi cho các DTTS phát triển nhanh về kinh<br /> với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, tế và văn hoá, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền<br /> khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào DTTS học bình đẳng giữa các dân tộc, đáp ứng nhu cầu chính<br /> tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ đáng của DTTS và tăng cường sự thống nhất của<br /> viết của dân tộc mình”. Nghị quyết Đại hội Đảng Tổ quốc”. Từ sau đổi mới (1986 đến nay), Đảng,<br /> toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Các dân tộc Nhà nước và chính quyền các tỉnh tiếp tục cụ thể<br /> <br /> <br /> 34 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> hơn các chính sách về ngôn ngữ DTTS, đã ban dân tộc Việt Nam, là phương tiện giao tiếp, giao<br /> hành một số chính sách, chương trình nhằm xúc lưu không thể thiếu được giữa các địa phương<br /> tiến việc giáo dục ngôn ngữ - chữ viết DTTS Việt và các dân tộc Việt Nam. Thông qua tiếng Việt,<br /> Nam trong cán bộ, công chức công tác ở vùng các dân tộc các địa phương xích gần nhau hơn,<br /> dân tộc, cụ thể: thông hiểu nhau hơn, có thể cùng nhau phát triển<br /> - Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1997, Thông tư đồng đều các mặt kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ<br /> số 01/GD-ĐT ngày 3/2/1997 “Về hướng dẫn việc thuật… Khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện<br /> dạy học tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số”; quyền bình đẳng giữa các dân tộc Việt Nam tiếp<br /> tục được tăng cường.<br /> - Thủ tướng Chính phủ, 2004, Chỉ thị số<br /> 38/2004/CT-TTg ngày 9/11/2004 “Về việc đẩy 3.Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở vùng<br /> mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số dân tộc thiểu số tại chỗ<br /> đối với cán bộ, công chức ở các vùng dân tộc, 3.1.Tình hình dạy và học tiếng nói, chữ<br /> miền núi”; viết của các dân tộc thiểu số<br /> - Thủ tướng Chính phủ, 2005, Quyết định số Nhiều DTTS tại chỗ không ngừng truyền<br /> 219/2005/QĐ-TTg ngày 9/9/2005 “Về phê duyệt thụ tiếng nói và chữ viết của mình. Từ năm 1959,<br /> Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010”; chữ Thái, chữ Mông đã được chính quyền địa<br /> - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, phương và cộng đồng các dân tộc tại chỗ tổ chức<br /> 2006, Quyết định số 3/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày dạy và học trong các trường ở vùng. Năm 1961,<br /> tại Nghị định số 206/CP đã phê chuẩn các phương<br /> 24/1/2006 ban hành “Chương trình khung dạy<br /> án chữ Thái được cải tiến từ chữ Thái thuộc hệ<br /> tiếng dân tộc thiểu số (có chữ viết) cho cán bộ,<br /> chữ Phạn cổ; chữ Tày-Nùng và chữ Mông theo<br /> công chức, công tác ở vùng dân tộc thiểu số”;<br /> mẫu tự La Tinh, việc dạy tiếng nói, chữ viết của<br /> - Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, các dân tộc tại chỗ phía Bắc đã được triển khai<br /> 2006, Quyết định số 30/2006/QĐ-BGDĐT ngày trên diện rộng.<br /> 4/7/2006 ban hành “Chương trình dạy tiếng<br /> Ở miền Nam, sau khi thống nhất đất nước,<br /> Chăm cho cán bộ, công chức công tác ở vùng dân<br /> nhất là từ khi có Quyết định 53/QĐ-CP (1980),<br /> tộc, miền núi”.<br /> các DTTS tại chỗ ở tỉnh phía Nam, Tây Nguyên<br /> Từ các chủ trương của Đảng và chính sách và Nam Bộ đã triển khai dạy và học song ngữ:<br /> của Nhà nước về ngôn ngữ, các cơ quan chức tiếng Dân tộc và tiếng Việt phổ thông. Các tỉnh<br /> năng có liên quan và các địa phương có đồng Ninh Thuận, Bình Thuận dạy tiếng nói, chữ viết<br /> bào DTTS đã tích cực triển khai thực hiện, đẩy dân tộc Chăm; các tỉnh vùng Tây Nam Bộ dạy<br /> mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng tiếng DTTS đối tiếng nói, chữ viết dân tộc Khmer; thành phố Hồ<br /> với cán bộ, công chức ở các vùng dân tộc, miền Chí Minh dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Hoa.<br /> núi. Nhiều cán bộ công chức công tác ở vùng dân Việc tổ chức dạy tiếng nói, chữ viết DTTS<br /> tộc đã thông qua các khoá học như vậy mà đã sử tại chỗ có nhiều chuyển biến khi Bộ Giáo dục<br /> dụng được chữ và tiếng của DTTS trong vùng. và Đào tạo ban hành Thông tư số 01/GD-ĐT,<br /> Đây là một lợi thế trong công tác dân tộc. Trong ngày 3/2/1997 hướng dẫn việc dạy tiếng nói, chữ<br /> khi đó người bản ngữ của nhiều DTTS vẫn còn viết DTTS. Đến nay, Bộ đã xây dựng được 8 bộ<br /> nhiều vấn đề về ngôn ngữ cần giải quyết để có thể chương trình cho 8 thứ tiếng DTTS, gồm: chữ<br /> được học chữ và tiếng của chính dân tộc mình. Chăm, chữ Thái, chữ Bana, chữ Hán, chữ Mông<br /> Tiếng nói và chữ viết của mỗi DTTS ở Việt và chữ Khmer, chữ Giarai, chữ Xơđăng. Các tài<br /> Nam vừa là vốn quý của dân tộc đó, vừa là tài sản liệu đó đang được đưa vào áp dụng tại một số<br /> văn hoá của toàn dân tộc. Thực hiện chính sách trường tiểu học có người DTTS tại chỗ theo học<br /> ngôn ngữ, ở các vùng DTTS, tiếng nói và chữ đông và trường phổ thông dân tộc nội trú. Bộ cũng<br /> dân tộc được dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ đã chỉ đạo biên soạn các sách song ngữ tiếng Việt<br /> thông. Mọi công dân Việt Nam dù bất cứ là dân - tiếng dân tộc gắn nội dung kiến thức địa phương<br /> tộc nào cũng đều có nghĩa vụ và quyền lợi học để sử dụng trong nhà trường, biên soạn các loại<br /> tập, sử dụng tiếng Việt. Tiếng Việt phổ thông là từ điển so sánh, đối chiếu: Tiếng dân tộc thiểu<br /> quốc ngữ, là ngôn ngữ chung của cộng đồng các số - tiếng Việt, các sách sổ tay phương ngữ tiếng<br /> <br /> Số 19 - Tháng 9 năm 2017 35<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> Việt – tiếng dân tộc thiểu số dùng cho học sinh Kon Tum. Tại tỉnh Đăk Nông, sau khi thành lập<br /> tiểu học. Hiện nay có trên 30 tỉnh, thành phố dạy tỉnh năm 2004, một số cán bộ lãnh đạo tỉnh đã<br /> tiếng DTTS trong chương trình phổ thông tiểu bày tỏ quyết tâm đưa bộ chữ Mnông vào giảng<br /> học như: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, dạy cho học sinh dân tộc Mnông bên cạnh chữ<br /> Hà Giang, Cao Bằng, Thanh Hoá, Nghệ An, Ninh phổ thông.<br /> Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Đắk Lắk, Kon Tum, Việc truyền thụ ngôn ngữ DTTS cho người<br /> An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang, Tây bản ngữ đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp<br /> Ninh, thành phố Hồ Chí Minh… phát triển giáo dục ở vùng dân tộc, ổn định chính<br /> Năm 2005, khi Luật Giáo dục (sửa đổi) trị, nâng cao dân trí, bảo tồn văn hoá truyền thống<br /> được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ và phát triển cộng đồng vùng các DTTS tại chỗ.<br /> 7, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp với Việc dạy tiếng nói, chữ viết DTTS còn phát huy<br /> Ủy ban Dân tộc và các cơ quan chức năng liên được sự tham gia của cộng đồng vào sự nghiệp<br /> quan xây dựng Nghị định của Chính phủ “Quy phát triển giáo dục, thực hiện tích cực quá trình<br /> định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết các dân xã hội hoá giáo dục và góp phần nâng cao chất<br /> tộc thiểu số”. lượng giáo dục ở vùng DTTS.<br /> Thời gian qua ở nhiều địa phương có đồng 3.2.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số<br /> bào DTTS tại chỗ cư trú đông, tập trung đều có trong các hoạt động văn hoá<br /> những quan tâm và có những biện pháp thực hiện Cùng với chữ Quốc ngữ, chữ viết của các<br /> chính sách ngôn ngữ và nhu cầu ngôn ngữ. DTTS đã được sử dụng trong các hoạt động văn<br /> Hiện nay, ngoài các dân tộc Êđê, Chăm, hoá, trong sưu tầm các tác phẩm văn học dân<br /> Hoa, Khmer duy trì được truyền thống giáo dục gian, trong sáng tác văn học nghệ thuật…<br /> ngôn ngữ và chữ viết dân tộc, các dân tộc khác Một số tác phẩm văn học dân gian các<br /> đều không duy trì được hoặc duy trì rất cầm DTTS như: Sống Trụ xôn xao (dân tộc Thái),<br /> chừng việc giáo dục ngôn ngữ và chữ viết cổ Tiếng hát làm dâu (dân tộc Mông), Đăm San,<br /> truyền hoặc chữ La tinh hoá. Còn những DTTS Xinh Nhã (dân tộc Êđê), Luật tục (dân tộc Giarai,<br /> chưa từng có chữ viết thì địa phương đó ít hăng dân tộc Mnông), Devamano, Ariya Cham – Bini,<br /> hái xúc tiến việc xây dựng hệ thống chữ viết và lộ Muk Chruh Palei (dân tộc Chăm)… đã được giới<br /> trình để phổ biến, duy trì. thiệu rộng rãi trong cả nước. Điều đó giúp cho<br /> Ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên, tiếng nói, chữ viết của các DTTS tồn tại và phát<br /> trường hợp của tiếng Bru-Vân Kiều và chữ Bru- triển về ngôn ngữ, đồng thời làm giàu kho tàng<br /> Vân Kiều là một trường hợp rất điển hình. Từ văn học nghệ thuật của các dân tộc Việt Nam.<br /> năm 1959 đến năm 1986, đã có đến ba bộ chữ Các ngôn ngữ DTTS luôn được khuyến<br /> La tinh hoá được xây dựng cho tiếng Bru-Vân khích và tôn vinh trong các hoạt động văn hóa.<br /> Kiều ở Việt Nam, nhưng việc triển khai áp dụng Nhiều lễ hội, nhiều làn điệu dân ca, dân vũ, các<br /> đều bị gián đoạn (Lý Tùng Hiếu - Phú Văn Hẳn, trò chơi dân gian của các DTTS nhờ vậy được<br /> Ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Nam Bộ, Hội thảo bảo tồn, giữ gìn và phát huy, như các bài hát giao<br /> khoa học của Viện Khoa học Xã hội vùng Nam duyên của dân tộc Dao; hát Then của dân tộc<br /> Bộ, 2011) Tày; lễ cầu mưa của dân tộc Chăm; sử thi các dân<br /> Trên địa bàn Trường Sơn - Tây Nguyên có tộc Tây Nguyên; mo Đẻ đất đẻ nước của dân tộc<br /> 21 dân tộc tại chỗ. Hầu hết các ngôn ngữ DTTS Mường; ngày hội Chol-Chnăm-Thmây của dân<br /> đó đều đã có chữ viết từ lâu. Thế nhưng chỉ có tộc Khmer; lễ hội Xên cẩu nó, Ksai sà síp của dân<br /> tiếng và chữ Êđê là đã và đang tiến hành dạy ở tộc Xinh-mun… Các ngày hội văn hoá của các<br /> các cấp lớp 3, 4, 5 bậc tiểu học, triển khai thử DTTS như lễ hội văn hoá dân tộc Khmer, dân tộc<br /> nghiệm ở bậc trung học cơ sở các trường dân tộc Chăm, dân tộc Hoa, dân tộc Mông… và các ngày<br /> nội trú của tỉnh Đăk Lăk. Tiếng và chữ Giarai hội văn hoá các dân tộc khu vực Tây Bắc, Việt<br /> vẫn đang tiếp tục thử nghiệm ở các lớp 3, 4, 5 bậc Bắc, Tây Nguyên, được tổ chức và khuyến khích<br /> tiểu học trên địa bàn Đăk Lăk, Kon Tum. Tương sử dụng ngôn ngữ (cả tiếng và chữ) nhằm giới<br /> tự, tiếng và chữ Bana cũng đưa vào giảng dạy thiệu bản sắc văn hoá độc đáo của các DTTS Việt<br /> song ngữ ở ba cấp lớp 3, 4, 5 trên địa bàn tỉnh Nam với công chúng cả nước và bạn bè quốc tế.<br /> <br /> 36 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> Các đợt nghiên cứu, sưu tầm ở khắp tỉnh, đồng bào thụ hưởng được nhiều nhất từ tiếng dân<br /> thành phố trong cả nước, thông qua ngôn ngữ tộc trên sóng điện.<br /> dân tộc đã thu thập được hàng ngàn trang tài Dự án “Mở rộng mạng phủ sóng phát thanh<br /> liệu, phim ảnh tư liệu, băng hình về văn hoá các các chương trình văn hoá - xã hội và các chương<br /> DTTS. Đến nay, hàng loạt các công trình nghiên trình bằng tiếng dân tộc trong khu vực trung du<br /> cứu về ngôn ngữ dân tộc được biên soạn, các từ và miền núi Bắc Bộ giai đoạn 2006-2010” (Văn<br /> điển đối chiếu như Việt - Tày Nùng, Thái - Việt, bản số 1835/TTg-VX, ngày 10/11/2006 của Thủ<br /> Mông - Việt, Việt - Chăm, Chăm - Việt, Việt - tướng Chính phủ) của Đài Tiếng nói Việt Nam<br /> Khmer, Khmer - Việt được xuất bản… các tài được Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho triển<br /> liệu ngữ pháp tiếng dân tộc, như ngữ pháp tiếng khai thực hiện.<br /> Giarai, tiếng Bana, tiếng Chăm, và một số dân Về truyền hình, Chính phủ đã ra Nghị định<br /> tộc khác đã được công bố. Công tác nghiên cứu số 96/2003/NĐ-CP ngày 20/8/2003, Quy định<br /> vấn đề tiếng nói, chữ viết của các DTTS tiếp tục cơ cấu bộ máy tổ chức của Đài Truyền hình Việt<br /> được chú ý. Nam có Ban Truyền hình tiếng dân tộc. Tiếp theo<br /> 3.3.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số có Quyết định số 622/QĐ-THVN ngày 8/6/2004<br /> trong thông tin tuyên truyền của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam<br /> Từ khá sớm, ngôn ngữ DTTS tại chỗ đã quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ<br /> được quan tâm phát sóng. Từ năm 1956 Đài Tiếng cấu tổ chức của Ban Truyền hình tiếng dân tộc<br /> nói Việt Nam đã thực hiện chương trình phát thanh (Chương trình VTV5). Chương trình này phát 12<br /> tiếng DTTS với các tiếng dân tộc Giarai, Bana, giờ/ngày so với năm 2005 và tăng gấp 3 lần so với<br /> Êđê, Hrê, Mnông, Mạ. Năm 1959, phát thanh tiếng giai đoạn phát sóng thử nghiệm, với 10 ngôn ngữ:<br /> Thái - Mông (khu tự trị Tây Bắc). Năm 1961, phát Mông, Thái, Êđê, Giarai, Bana, Xơđăng, Cơho,<br /> thanh tiếng Tày - Nùng (khu vực trị Việt Bắc). Khmer, Chăm, Xtiêng. Theo lộ trình phát triển<br /> Tiếp theo là chương trình tiếng Mông - Dao. Đài của kênh VTV5, thời lượng tăng 20 giờ/ngày với<br /> Tiếng nói Việt Nam đã chuyển tải các nội dung 19 thứ tiếng (nay đã nhiều hơn, 2017). VTV5 đã<br /> phản ánh cuộc sống mới, con người mới lao động phản ánh nhiều mặt trong cuộc sống kinh tế, văn<br /> sản xuất, học tập xây dựng chủ nghĩa xã hội, chiến hoá - xã hội, giáo dục, y tế, khoa học đời sống<br /> đấu và phục vụ chiến đấu của đồng bào các DTTS đến đồng bào các DTTS. Truyền hình bằng tiếng<br /> cả nước trong quá trình đấu tranh giải phóng miền dân tộc VTV5 đã mang đến nhiều thông tin quan<br /> Nam thống nhất đất nước. Ngày 28/8/1980, Đài trọng, góp phần nâng cao dân trí ở vùng DTTS<br /> Tiếng nói Việt Nam đã có Quyết định số 215- tại chỗ.<br /> QĐ/ĐFT về việc thành lập Phòng chương trình Ở các địa phương có đông đồng bào<br /> phát thanh tiếng Khmer; tiếp theo là Quyết định DTTS, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh cũng<br /> số 201/2001/QĐ-ĐFT ngày 12/6/2001 về bố trí đã dành thời lượng nhất định để phát thanh bằng<br /> các chương trình tiếng dân tộc của Đài Tiếng nói tiếng DTTS tại chỗ về các chủ trương, chính sách<br /> Việt Nam tại các tỉnh Tây Nguyên và một số quyết của Đảng, Nhà nước, của cấp uỷ, Hội đồng Nhân<br /> định về phát thanh tiếng dân tộc khác như dân tộc dân, Uỷ ban Nhân dân. Thông qua ngôn ngữ dân<br /> Thái, Mông, Chăm… tộc tại chỗ, Đài Phát thanh và Truyền hình địa<br /> Đến nay Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát phương còn phổ biến khoa học kỹ thuật, nêu<br /> thanh hơn 13 thứ tiếng DTTS: Khmer, Chăm, những gương mặt điển hình xuất sắc về lao động<br /> Êđê, Giarai, Bana, Cơho, Xơđăng, Mông, Dao, giỏi, làm giàu của một số hộ gia đình.<br /> Thái… Ngày 01/10/2004, thành lập Hệ phát Sách, báo, tạp chí, tranh ảnh bằng tiếng<br /> thanh tiếng dân tộc (VOV4). Thời lượng phát DTTS đã được một số địa phương phát huy trong<br /> sóng từ 90 phút đến 150 phút/ngày, phát cả 3 buổi in ấn, trên pa nô, áp phích trong những ngày lễ<br /> sáng, trưa, tối. Tổng thời lượng phát sóng của các lớn, các kỳ bầu cử, đại hội Đảng, phát động các<br /> chương trình DTTS trong Hệ phát thanh tiếng phong trào thi đua yêu nước. Một số ấn phẩm<br /> dân tộc là hơn 30 giờ/ngày. Các buổi phát thanh được in bằng cả tiếng dân tộc và tiếng Việt phổ<br /> tiếng DTTS được các cơ quan chức năng các cấp thông để tuyên truyền về pháp luật, sách về môi<br /> sắp xếp, bố trí thời gian, thời lượng hợp lý để trường, về y tế, giáo dục,… trong đó Bản tin ảnh<br /> <br /> Số 19 - Tháng 9 năm 2017 37<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> Dân tộc và Miền núi do Thông tấn xã Việt Nam của mình. Tuy nhiên vẫn cần đánh giá những mặt<br /> phát hành in bằng chữ dân tộc Êđê, Bana, Giarai, mạnh và những tồn tại để có giải pháp phát triển<br /> Khmer và Chăm cùng với các báo, tạp chí cấp bền vững tiếng nói, chữ viết các DTTS tại chỗ.<br /> không thu tiền cho vùng DTTS và miền núi, vùng - Việc thực hiện chính sách ngôn ngữ thật<br /> đặc biệt khó khăn theo quyết định của Thủ tướng sự chưa có sự chỉ đạo thống nhất, do đó mỗi địa<br /> Chính phủ, đã thiết thực góp phần tuyên truyền phương đều thực hiện theo yêu cầu thực tế của<br /> hiệu quả ở vùng đồng bào DTTS. địa phương mình. Vì vậy có những địa phương<br /> 3.4.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số triển khai tương đối tốt, nhưng ngược lại cũng có<br /> trong công tác tư pháp địa phương thực hiện chưa tốt, hoặc không triển<br /> Hiến pháp đã quy định Toà án Nhân dân khai thực hiện.<br /> đảm bảo cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ - Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp<br /> nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc được quyền trong việc bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc<br /> dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước tại chỗ chưa chặt chẽ và đồng bộ, chưa thường<br /> toà. Các Bộ luật Tố tụng Hình sự (năm 1988 và xuyên.<br /> sửa đổi, bổ sung năm 1992), Luật Tổ chức Toà án - Việc sử dụng tiếng và chữ dân tộc trong<br /> Nhân dân năm 1992, Pháp lệnh giải quyết các vụ các công tác giáo dục, văn nghệ, thông tin, tuyên<br /> án dân sự năm 1999… đều quy định cụ thể các truyền… còn chưa sát với tình hình kinh tế, chưa<br /> DTTS có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của phục vụ tốt nhu cầu đồng thời vừa học tốt chữ<br /> dân tộc trước Toà. phổ thông và chữ DTTS tại chỗ.<br /> Hiện nay, trong các hoạt động tư pháp, - Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và soạn<br /> người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, sách giáo khoa bằng chữ dân tộc còn nhiều điều<br /> chữ viết DTTS của mình thông qua phiên dịch bất cập.<br /> sang tiếng và chữ dùng trong tố tụng là tiếng Việt<br /> - Trong nhận thức của các ngành, các cấp<br /> Quốc ngữ. Toà án cho phép cử người phiên dịch<br /> và ngay trong đồng bào DTTS (nhất là lớp trẻ)<br /> tiếng dân tộc đối với công dân là người DTTS<br /> có quan niệm cho rằng việc bảo tồn và phát huy<br /> trong quá trình tố tụng, xét xử…<br /> tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số là không<br /> Như vậy tiếng nói và chữ viết của các quan trọng, không cần thiết trước xu thế toàn cầu<br /> DTTS được Nhà nước tôn trọng, duy trì và giúp hoá về ngôn ngữ, về thông tin.<br /> đỡ phát triển, đã góp phần xoá mù chữ dân tộc ở<br /> Những bất cập, hạn chế này rất cần sự vào<br /> một số vùng mà đồng bào ít biết hoặc không biết<br /> cuộc của cả hệ thống chính trị, chứ không phải<br /> tiếng phổ thông; đáp ứng yêu cầu của đồng bào<br /> của riêng ngành giáo dục, với những lộ trình cụ<br /> về việc dùng chữ dân tộc ghi sổ sách, viết thư từ,<br /> thể và những giải pháp thiết thực.<br /> chép tư liệu văn học dân gian và tiến hành công tác<br /> thông tin, tuyên truyền ở địa phương. Một số ngôn Tài liệu tham khảo<br /> ngữ DTTS đã được dạy và học ở các trường phổ [1] Barker, Colin (1996), Foundation of<br /> thông. Bên cạnh đó, tiếng nói và chữ phổ thông bilingual education and bilingualism, second<br /> ngày càng được phổ cập sâu rộng trong cộng đồng edition, L’levedon, Philadelphia, Adelaide;<br /> các DTTS với tư cách là ngôn ngữ chung của cả [2] Coèdes, G. (1948), “Les langues de<br /> nước, đã và đang góp phần thiết thực thúc đẩy sự l’Indochine”, Extrait des conférences de l’Institut<br /> phát triển các mặt ở các vùng DTTS. de Linguistique de l’Université de Paris, T.VIII,<br /> 4.Vấn đề đặt ra trong chính sách đối với année 1940-1948;<br /> các ngôn ngữ thiểu số [3] Diffloth, Gerard (2003),“Tiếng Khmer”,<br /> Đi đôi với thành tựu là những vấn đề bất Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ,<br /> cập trong chính sách và thực hiện chính sách đối NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 439-<br /> với các ngôn ngữ thiểu số. Theo chúng tôi, những 452;<br /> vấn đề bất cập đó là: [4] Francis, John de (1977), Colonialism<br /> - Việc thực hiện Quyết định số 53/QĐ-CP and language policy in Vietnam, The Hague;<br /> đến nay đã có những đóng góp nhất định giúp các [5] Hoffmann Charlotte (1991), An<br /> dân tộc bảo tồn và phát huy hiệu quả ngôn ngữ introduction to biligualism, Longman, London<br /> <br /> 38 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> and New York; [15] Võ Công Nguyện, (Chủ nhiệm đề tài),<br /> [6] Ladefoged Peter & Ian Madieson 2011, Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ:<br /> (1997), The sounds of the world’s languages, Lịch sử và hiện trạng đề tài nghiên cứu khoa học<br /> Blackwell; cấp Nhà nước trong Đề án khoa học xã hội cấp<br /> [7] Ladefoged Peter (2007), Phonetic Nhà nước: Qúa trình hìh thành và phát triển vùng<br /> data analysis. Introduction to fildwork and đất Nam Bộ (đã nghiệm thu năm 2011);<br /> instrumental techniques, Blackwell; [16] Nguyễn Văn Tiệp (Chủ nhiệm đề<br /> [8] Thompson, Laurence C. (1965), A tài), 2013, Chính sách dân tộc của chính quyền<br /> Vietnamese grammar, University of Washington VNCH và tác động của nó đối với vấn đề dân tộc<br /> Press, Seattle; và quan hệ dân tộc Tây Nguyên (đã nghiệm thu<br /> năm 2013);<br /> [9] Đinh Lư Giang (2004), Tình hình song<br /> ngữ Việt - Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long [17] Đinh Lê Thư chủ biên (2005), Vấn<br /> (trường hợp ấp Trà Sết, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng<br /> Châu, tỉnh Sóc Trăng), Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ sông Cửu Long, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ<br /> học, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Chí Minh;<br /> Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; [18] Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm<br /> [10] Phú Văn Hẳn & Jerold Edmonson tiếng Việt, NXB. Đại học và Trung học Chuyên<br /> (1990), “Eastern Cham as a tone language”, nghiệp, Hà Nội;<br /> Mon-Khmer Studies, 20; [19] Đặng Nghiêm Vạn, 1993, Quan hệ tộc<br /> [11] Phú Văn Hẳn (chủ biên) (2005), Đời người trong quốc gia dân tộc, NXB. Khoa học<br /> sống văn hóa & xã hội người Chăm thành phố Hồ Xã hội;<br /> Chí Minh, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; [20] Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố<br /> [12] Phú Văn Hẳn (2006), Hiện trạng Hồ Chí Minh, Quan hệ tộc người và phát triển xã<br /> nghiên cứu khoa học xã hội về người Chăm Nam hội ở Việt Nam hiện nay, NXB. Tổng Hợp thành<br /> Bộ (1996 – 2006) và những mục tiêu nghiên cứu phố Hồ Chí Minh;<br /> trước mắt, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; [21] Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ<br /> [13] Phú Văn Hẳn (2011), Một số vấn đề học tiếng Việt, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội;<br /> về dân tộc nhằm phát triển bền vững vùng Nam [22] Thạch Ngọc Minh (1996), “The<br /> Bộ, Đề tài Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; phenomenon of monosyllab lization in the<br /> [14] Ngô Văn Lệ, 2017, Nghiên cứu tộc Kiengiang dialect of Khmer”, Proceeding of<br /> người và văn hóa tộc người: Tiếp cận Nhân học the IV International Symposium on Languages<br /> phát triển, NXB. Đại học Quốc gia thành phố and Linguistics, January 8-10/1996. Vol. V, pp.<br /> Hồ Chí Minh; 1780-1798.<br /> <br /> <br /> <br /> DEVELOPMENT POLICY IN ETHNIC LANGUAGES AT PRESENT<br /> <br /> Abstract: Ethnic minority language policy is one of the major and important policies<br /> of our Party and State, in the context of a multi-ethnic country like our country, responding<br /> to ethnic and linguistic problems in Vietnam, contributing to practical implementation of<br /> the policy of national unity. However, in some localities where language policy is applied to<br /> ethnic minorities, there has been few new ideas, general arguments, lack of plans, targeted<br /> programs and systems of specific measures and good forms of implementation to each region<br /> and each ethnic group, lacking a cadre of cadres who have good knowledge and training<br /> methods.<br /> Keywords: Languages of ethnic minorities; policy on the language of ethnic minorities;<br /> education, use of spoken and written languages of ethnic minorities.<br /> Số 19 - Tháng 9 năm 2017 39<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0