VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HƯƠNG TRÀ

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ DOANH

NGHIỆP KHỞI NGHIỆP, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, KINH NGHIỆM

QUỐC TẾ VÀ GỢI SUY CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO THỊ HƯƠNG TRÀ

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ DOANH

NGHIỆP KHỞI NGHIỆP, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, KINH NGHIỆM

QUỐC TẾ VÀ GỢI SUY CHO VIỆT NAM

Ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ

Mã số: 8 34 04 12

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS HỒ VIỆT HẠNH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của

cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS HỒ

VIỆT HẠNH .

Các số liệu sử dụng trong luận văn có trích dẫn nguồn rõ ràng, không

sao chép của người khác. Các kết luận nghiên cứu trong luận văn được đúc

kết từ cơ sở lý luận đến thực tiễn của vấn đề luận văn cần giải quyết.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.

Học viên

ĐÀO THỊ HƯƠNG TRÀ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC

TỔ CHỨC HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP, ĐỔI MỚI

SÁNG TẠO ...................................................................................................... 6

1.1. Các khái niệm và đặc điểm của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ..................................................................... 6

1.2. Những vấn đề cơ bản và quy trình về chính sách phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. ........................ 12

Quy trình chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp, đổi mới sáng tạo: .......................................................................... 13

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính phát triển tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. ...................................................... 17

Chương 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC TỔ

CHỨC HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP, ĐỔI MỚI SÁNG

TẠO HIỆN NAY ........................................................................................... 21

2.1. Bối cảnh chung về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam

giai đoạn 2013 – 2019 ............................................................................... 21

2.2. Chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

ĐMST giai đoạn 2013-2018. .................................................................... 25

2.3. Đánh giá chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt nam hiện nay. ................................ 32

Chương 3: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT

TRIỂN CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP,

ĐỔI MỚI SÁNG TẠO VÀ GỢI SUY CHO VIỆT NAM .......................... 40

3.1. Một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển các tổ chức hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. ..................................... 40

3.2. Bài học cho chính sách phát triển các tổ chức doanh nghiệp khởi

nghiệp, đổi mới sáng tạo của Việt Nam. ................................................... 52

3.3. Định hướng các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam

hiện nay. .................................................................................................... 55

KẾT LUẬN .................................................................................................... 61

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 63

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Nguyên câu Viết tắt

1. Doanh nghiệp khởi nghiệp DNKN

2. Đổi mới sáng tạo ĐMST

3. Đầu tư mạo hiểm ĐTMH

4. Khoa học và Công nghệ KH&CN

5. Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV

DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ

Bảng 1.1: (Nguồn – Tự sưu tầm và phân tích). ................................................. 7

Bảng 2.2: Thực trạng các tổ chức hoạt động và hỗ trợ phát triển doanh

nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam .............................................................. 30

Bảng 2.3 Tổng hợp các biện pháp hỗ trợ startup trong các chính sách của

Việt Nam ................................................................................................... 35

Sơ đồ 1.1: (Nguồn – Internet) ......................................................................... 11

Sơ đồ 1.2: Quy trình chính sách – (Nguồn Internet) ....................................... 13

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp

4.0 trên thế giới hiện nay, các nước phát triển đều tích cực đầu tư cho hoạt

động ứng dụng và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo để phát triển nền kinh tế quốc

gia, chiếm lĩnh các vị trí dẫn đầu trong các chuỗi sản xuất và cung ứng dịch

vụ toàn cầu. Tại Việt Nam, Chính phủ coi khởi nghiệp sáng tạo là một trong

những mục tiêu cấp quốc gia nhằm khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệpkhởi

nghiệp không ngừng phát triển, tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Khác với khởi nghiệp thông thường, doanh nghiệp hay dự án khởi nghiệp

sáng tạo (startups) có khả năng tăng trưởng nhanh về quy mô khách hàng,

doanh thu, lợi nhuận... dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình

kinh doanh mới nên khởi nghiệp sáng tạo luôn chứa đựng các yếu tố rủi ro

cao, nhưng một khi doanh nghiệp khởi nghiệp vượt qua các khó khăn, thách

thức ban đầu sẽ đem lại các giá trị xứng đáng góp phần cho sự phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Theo thống kê của tạp chí Echelon, Singapore (một

trong những tạp chí truyền thông trực tuyến lớn nhất về khởi nghiệp ở Đông

Nam Á) hiện có khoảng 3000 doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST tại Việt Nam,

tăng gần gấp đôi so với số liệu ước tính cuối năm 2015 (khoảng 1800 doanh

nghiệp). Đồng thời, số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp khởi nghiệp

ĐMST cũng ngày càng tăng cao, thể hiện ở số lượng các tổ chức đầu tư, số

lượng vườn ươm, khu làm việc chung phát triển mạnh mẽ trong năm 2017.

Trong một báo cáo được công bố tại Diễn đàn Khởi nghiệp trẻ năm 2017,

Việt Nam được đánh giá dẫn đầu thế giới về chỉ số tinh thần khởi nghiệp và

thứ hai về thái độ tích cực với khởi nghiệp.

Tuy vậy, phần lớn các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam hiện nay

đều đang ở giai đoạn đầu của vòng đời phát triển, với giá trị doanh nghiệp còn

1

tương đối thấp. Ngoại trừ một số doanh nghiệp tên tuổi có thời gian hoạt động

tương đối dài và một số doanh nghiệp nhận được vốn đầu tư trong khoảng vài

chục nghìn đến vài triệu đô-la Mỹ, thì phần lớn doanh nghiệp khởi nghiệp

ĐMST Việt Nam vẫn chỉ nằm ở giai đoạn ươm mầm. Thực tế này đã đặt ra

những yêu cầu khắt khe về năng lực sáng tạo, trình độ công nghệ đối với

doanh nghiệp Việt Nam khi bắt đầu khởi nghiệp, dẫn đến việc chính phủ cần

có các biện pháp hỗ trợ, đặc biệt cấp thiết hình thành và phát triển các tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST đồng thời đòi hỏi phải tiếp tục đổi

mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện, môi trường kinh doanh cho doanh

nghiệp khởi nghiệp, nhất là nhóm chính sách về đầu tư, vườn ươm khoa học

công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo trong điều kiện

chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất lao động, chất

lượng sản phẩm và sức cạnh tranh doanh nghiệp.

Theo nghiên cứu và khảo sát những năm gần đây có rất nhiều các đề

tài, đề án nghiên cứu về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp

ĐMST, tuy nhiên nghiên cứu về chính sách phát triển các tổ chức chuyên sâu

về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp thì hầu như chưa có nghiên cứu nào thực

sự chuyên sâu, vì vậy, đề tài này sẽ đề cập và nghiên cứu về chính sách phát

triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST trong lĩnh vực

KH&CN đồng thời nghiên cứu thực trạng hoạt động khởi nghiệp đổi mới

sáng tạo trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về chính sách

phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo như

là một chủ thể, đối tượng nghiên cứu. Một số đề tài liên quan đến doanh

nghiệp khởi nghiệp chỉ mới đề cập đến chủ đề quỹ đầu tư mạo hiểm hay việc

ươm tạo công nghệ như:

2

- Đề tài cấp bộ năm 2015 “Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến

khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước để thành lập các quỹ đầu

tư mạo hiểm phát triển công nghệ mới, công nghệ cao”.

- Đề án “Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội

giai đoạn 2019-2025”.(Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số

844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016)

- Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến

năm 2025”;

- Đề án “Vườn ươm doanh nghiệp Công nghệ thông tin đổi mới sáng

tạo Hà Nội” (Quyết định số 6156/QĐ-UBND ngày 07/11/2016).

Ngoài ra còn có những bài viết nghiên cứu về khởi nghiệp trên các tạp

chí doanh nghiệp, khoa học và công nghệ Việt nam, ví dụ như: “Cần có chiến

lược phát triển giáo dục và đào tạo khởi nghiệp cấp quốc gia –Trần Thị Thu

Hà – trích số 3 năm 2019” hay “Mô hình ươm tạo ảo hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp tại các làng nghề truyển thống của tác giả Vũ Thị Xen trích số 7

năm 2019” …v.v..

Qua những ví dụ cụ thể trên có thể thấy việc chọn nghiên cứu về chính

sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST như một

chủ thể là vô cùng cấp thiết và đúng đắn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng chính sách

và nghiên cứu một số bài học kinh nghiệm quốc tế, đề xuất các giải pháp

nhằm hoàn thiện quy trình chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Làm rõ cơ sở lý luận của chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và nghiên cứu một số bài học

3

kinh nghiệm về chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp của một số quốc gia trên thế giới và gợi suy cho Việt Nam.

- Làm rõ thực trạng và nguyên nhân của chính sách phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sáchphát triển các tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Các chính sách, quy định của Nhà nước trong việc phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo KH&CN, sau đó đi

sâu phân tích một số kinh nghiệm quốc tế và gợi suy cho Việt Nam;

- Một số tổ chức cung cấp dịch vụ, cơ sở vật chất – kỹ thuật, truyền

thông, đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST KH&CN của Việt Nam

(vườn ươm doanh nghiệp, tổ chức tăng tốc kinh doanh, trung tâm hỗ trợ khởi

nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học,…);

- Các quỹ đầu tư, nhà đầu tư trong nước và quốc tế.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi đối tượng:

+ Khách thể chính: Cơ chế, chính sách của nước ta nhằm hỗ trợ, hoàn

thiện và phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST

KHCN trong khuôn khổ các cơ chế chính sách chung của nhà nước;

+ Khách thể phụ: Các chính sách phát triển tổ chức hỗ trợ và các doanh

nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trên thế giới.

- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu khảo sát ở bộ KH&CN, một

số bộ, ngành liên quan, một số tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi

mới sáng tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội và tại một số quốc gia cụ thể.

- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các chính sách của nhà

nước từ năm 2013 đến nay.

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch

sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và một số thành tựu của khoa học chính sách công,

khoa học quản lý, khoa học tâm lý, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, pháp luật…

5.2. Phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn

dịch, đánh giá.v.v…

5.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, phỏng vấn sâu, thực

nghiệm v.v…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận liên quan đến bản chất, đặc điểm của

các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo;

- Làm rõ quy trình chính sách của nhà nước trong việc phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo từ khâu phân tích,

hoạch định chính sách đến ban hành, thực thi chính sách và đánh giá chính sách

phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo;

- Làm rõ một số kinh nghiệm quốc tế và gợi suy cho Việt Nam;

- Chỉ ra được một số vấn đề thực tiễn của chính sách làm cơ sở cho việc

đề xuất một số giải pháp có tính khả thi để nhằm hoàn thiện chính sách của

nhà nước trong việc phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

đổi mới sáng tạo.

6. Kết cấu của luận văn

GỒM 3 CHƯƠNG:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Chương 2: Thực trạng về chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển các tổ chức hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và gợi suy cho Việt Nam.

5

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO

1.1. Các khái niệm và đặc điểm của các tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

- Tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp: Là cơ quan, tổ chức hỗ trợ

các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được

cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ xây dựng, tổ chức thực hiện, phối hợp, giám

sát, đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp.

- Doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo: Khởi nghiệp (tiếng

Anh là: startup hoặc start-up) là thuật ngữ chỉ về những công ty đang trong

giai đoạn bắt đầu kinh doanh nói chung (Startup company), nó thường được

dùng với nghĩa hẹp chỉ các công ty công nghệ trong giai đoạn lập nghiệp.

Doanh nghiệp khởi nghiệp là một tổ chức được thiết kế nhằm cung cấp sản

phẩm và dịch vụ đột phá, sáng tạo trong những điều kiện kinh doanh chưa

chắc chắn.

- Cơ sở ươm tạo (Incubator):Là các cơ sở cung cấp các điều kiện thuận

lợi về hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực và dịch vụ cần thiết phục vụ việc ươm tạo

công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao (Theo Luật công nghệ

cao số 21/2008/QH12).

- Tổ chức thúc đẩy kinh doanh (Accelerator): là các tổ chức cung cấp

các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua đào tạo, cấp vốn

mồi và tổ chức các sự kiện kêu gọi đầu tư. Một chương trình hỗ trợ của các tổ

chức này thường kéo dài từ 3 – 4 tháng, tổ chức thúc đẩy sẽ sở hữu một phần

cổ phần của doanh nghiệp khởi nghiệp sau khi cấp vốn mồi.

6

- Đầu tư mạo hiểm (Venture Capital): Ở Việt Nam, khái niệm đầu tư

mạo hiểm được chính thức định nghĩa trong Luật Công nghệ cao, năm 2008:

“đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao là đầu tư cho nghiên cứu phát

triển công nghệ cao, hình thành và phát triển doanh nghiệp ứng dụng, sản xuất

sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao, được thực hiện bằng hình thức

góp vốn và tư vấn cho tổ chức, cá nhân nhận đầu tư”.

- Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Fund): Thực hiện đầu tư vào

hoạt động đổi mới công nghệ của một doanh nghiệp hoặc đầu tư để lập ra một

doanh nghiệp mới, mà đặc trưng cơ bản của nó là còn thiếu độ tin cậy về kết

quả kinh doanh, chưa tỏ rõ khả năng sinh lợi của mình, những nơi mà các thể

chế tài chính truyền thống (tín dụng, ngân hàng...) không để ý đến. Thay vì

cho vay, họ đầu tư vốn để một công ty có thể phát triển, đồng thời có thể nhận

lấy một tỷ lệ cổ phần không có lãi cố định hoặc quyền sở hữu cổ phần trong

công ty mà họ đầu tư. Xét về bản chất, hệ thống tín dụng thông thường không

thể thúc đẩy đổi mới công nghệ khi mà khả năng thành công về kỹ thuật và

thương mại còn chưa rõ ràng.

1.1.2. Một số đặc điểm của doanh nghiệp khởi nghiệp và các tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

- Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp khởi nghiệp:

Những đặc điểm nổi bật phân biệt doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

sáng tạo với doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện trong bảng dưới đây:

Bảng 1.1: (Nguồn – Tự sưu tầm và phân tích).

Doanh nghiệp khởi nghiệp, Doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới sáng tạo

-Steve quyết định đã đến lúc theo -Vui mừng bởi những tiềm năng

đuổi ước mơ của mình và mở của các kết quả nghiên cứu gần Ví dụ

một nhà hàng pizza toàn sử dụng đây của mình, Karen, một giáo sư

7

nguyên liệu hữu cơ từ một công kỹ thuật hóa học, đã quyết định

thức có sẵn. Đối với Steve, nhà nộp đơn xin bằng sáng chế cho

hàng là cơ hội để làm việc trở lại công nghệ phát triển các tấm pin

sau thời gian ba năm không có mỏng như tờ giấy và cùng với một

việc làm toàn thời gian. đồng nghiệp thành lập một doanh

-Steve coi thành công là một nhà nghiệp.

hàng địa phương thịnh vượng. -Karen hy vọng sẽ phục vụ nhiều

-Steve đổi mới thành phần độc khách hàng trong các thị trường

đáo của lớp vỏ pizza và công toàn cầu.

thức nấu ăn của mình, nhưng -Ngược lại, các tấm năng lượng

pizza của anh cũng chỉ được mặt trời mỏng như tờ giấy của

công nhận là một chiếc bánh nhóm Karen sẽ làm thay đổi cách

pizza. thức hoạt động của những người

-Steve chủ yếu làm việc một tham gia trong lĩnh vực này.

mình trong một doanh nghiệp cá -Karen có một đội ngũ sáng lập

thể. viên và sẽ sớm có một hội đồng

Mặc dù việc mở nhà hàng chắc quản trị và các nhà đầu tư.

chắn có những rủi ro nhất định, Việc kinh doanh của Karen rất

tuy nhiên Steve sẽ có cơ hội mạo hiểm và có khả năng (giống

thành công khiêm tốn nếu anh như rất nhiều công ty khởi nghiệp

thực hiện tốt công việc của mình. công nghệ cao) cô sẽ thất bại,

Nếu thành công, anh có thể sẽ không tạo ra việc làm nào cả. Mặt

tạo ra một số ít việc làm - chủ khác, nếu thành công, cô sẽ tạo ra

yếu cho nhân viên phục vụ và hàng chục đến hàng trăm việc làm

nhân viên nhà bếp. cho các tiến sĩ và thạc sỹ về hóa

học, kỹ thuật và kinh doanh. Cô

cũng có thể tạo ra các công việc

8

chế tạo và bán hàng trên khắp thế

giới.

Loại hình đầu tiên là khởi sự Các hoạt động của Karen thể hiện

kinh doanh với doanh nghiệp một loại hình khởi sự được gọi là

nhỏ và vừa (DNNVV). Loại hình DNKN ĐMST - sáng lập ra “các

doanh nghiệp này thường do một doanh nghiệp định hướng ĐMST”

người sáng lập để phục vụ thị theo đuổi các cơ hội toàn cầu dựa

trường địa phương và sẽ trở trên việc mang đến cho khách

thành một DNNVV hoạt động hàng những cải tiến mới có lợi thế

trong phạm vi địa phương đó. cạnh tranh rõ ràng và tiềm năng

Doanh nghiệp thường được tổ tăng trưởng cao.

chức theo một nhóm nhỏ, có Vậy thế nào là đồi mới sáng tạo

quan hệ mật thiết với nhau, có (Innovation)? Khái niệm ĐMST

thể là một doanh nghiệp gia đã trở thành một thuật ngữ ngày Kết đình, nơi việc kiểm soát chặt chẽ càng sáo rỗng, nhưng có một định quả doanh nghiệp là rất quan trọng. nghĩa rất đơn giản mà Bill Aulet

“Phần thưởng” cho các thành của Viện Công nghệ

viên sáng lập doanh nghiệp loại Massachusetts tiếp nhận từ Giáo

này là sự tự do cá nhân và dòng sư Ed Roberts cũng của Viện này,

tiền từ việc kinh doanh. Về cơ đó là: Đổi mới sáng tạo = Sáng

bản, loại hình doanh nghiệp này chế × Thương mại hóa

không cần kêu gọi nhiều vốn.

Khi rót thêm tiền vào doanh

nghiệp thì nhanh chóng có được

kết quả là tăng thêm doanh thu

và tạo ra công ăn việc làm. Như

vậy, doanh nghiệp có thể được

9

phát triển tại địa phương và công

việc mà họ tạo ra hầu hết là các

việc không thể vươn ra toàn cầu.

DNNVV thường là các doanh

nghiệp dịch vụ hoặc nhà bán lẻ

các sản phẩm của công ty khác.

Yếu tố chính để phân biệt là họ

tập trung vào các thị trường địa

phương.

- Nguồn vốn nhỏ; - Nguồn vốn lớn;

- Quy mô hẹp, mang tính chất - Quy mô phát triển rộng;

địa phương; - Cần thiết sự hỗ trợ của các tổ Kết

- Không cần thiết sự hỗ trợ của chức hỗ trợ, các quỹ đầu tư luận

các tổ chức quỹ lớn; thiên thần;

- Tính an toàn cao, rủi ro thấp. - Rủi ro lớn, mạo hiểm cao.

- Đặc điểm về cơ cấu của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

đổi mới sáng tạo:

Các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST bao gồm nhiều

dạng tổ chức như các quỹ phi lợi nhuận, các cơ quan tổ chức của nhà nước,

các tổ chức được tạo bởi doanh nghiệp, các mô hình ươm tạo...v..v...Mỗi một

tổ chức có một hình thái, cơ cấu, nguồn vốn riêng, cụ thể như sau:

- Các quỹ phi lợi nhuận là một hình thức pháp nhân độc lập, có con

dấu, tài khoản riêng; cung cấp khoản tiền tài trợ hoặc các hỗ trợ cho các tổ

chức, cá nhân khác, quỹ có thể được điều hành bởi một tổ chức, cơ quan,

doanh nghiệp như một dạng quỹ cộng đồng hoặc dưới hình thức quỹ cá nhân,

thường được tài trợ bởi một cá nhân hoặc gia đình. Một số quỹ phi lợi nhuận

10

trên thế giới đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo như CFF (Cystic

Fibrosis Foundation – Mỹ), Bill & Melinda Gates foundation (quỹ từ thiện

lớn nhất thế giới) hay Michael J. fox foundation

- Các mô hình ươm tạo: là các nhà cung cấp các dịch vụ nhằm hỗ trợ,

đẩy nhanh quá trình phát triển của một doanh nghiệp khởi nghiệp. Hiện chính

phủ đang đẩy mạnh triển khai dự án xây dựng chính sách đổi mới và phát

triển các cơ sở ươm tạo (BIPP).

Đặc điểm về cơ cấu của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp trong bộ máy

nhà nước theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát

triển doanh nghiệp:

Sơ đồ 1.1: (Nguồn – Internet)

11

1.2. Những vấn đề cơ bản và quy trình về chính sách phát triển các

tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Khái niệm về chính sách công:

“Chính sách công là những định hướng mục tiêu và biện pháp hành

động, được Nhà nước lựa chọn và ban hành như một công cụ quản lý của Nhà

nước, nhằm giải quyết các vấn đề công cộng được lựa chọn, và được bảo đảm

thực thi bởi các chủ thể có thẩm quyền”.

Từ những nghiên cứu về chính sách công và hoạt động phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, hiện nay vẫn chưa

có khái niệm cụ thể về chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Vì thế, tác giả xin phép được đưa ra quan điểm

cá nhân của mình, quan điểm sẽ xuyên suốt toàn bộ quá trình nghiên cứu

Luận văn này. Theo đó, tác giả hiểu rằng chính sách phát triển các tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo là những định hướng,

mục tiêu và biện pháp hành động, được Nhà nước lựa chọn và ban hành như

một công cụ quản lý của Nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan

và thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

đổi mới sáng tạo, được bảo đảm thực thi bởi các chủ thể có thẩm quyền.

Mục tiêu của chính sách:

Với mục tiêu cụ thể là giải quyết các vấn đề còn tồn tại và khuyến

khích sự phát triển của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

sáng tạo, nhằm giúp cho các tổ chức này có một cơ chế hoạt động và môi

trường chính sách linh hoạt, tạo động lực để các tổ chức hoạt động và phát

huy được những thế mạnh thúc đẩy các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

sáng tạo. Chính sách sẽ tạo động lực và định hướng phát triển cho nhóm tổ

chức này và gián tiếp thúc đẩy việc phát triển của các doanh nghiệp khởi

nghiệp, đổi mới sáng tạo.

12

Quy trình chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp, đổi mới sáng tạo:

Quy trình chính sách là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên quan với

nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách công đến khi kết quả của chính

sách được đánh giá. Một quy trình chính sách có thể quy về 3 giai đoạn cơ

bản là: hoạch định chính sách, thực thi chính sách, đánh giá chính sách và đan

xen trong đó là quá trình phân tích chính sách tại từng giai đoạn.

Hoạch định chính sách

Thực thi chính sách

Đánh giá chính sách

Sơ đồ 1.2: Quy trình chính sách – (Nguồn Internet)

Các giai đoạn này có liên hệ chặt chẽ với nhau theo nguyên tắc: giai

đoạn trước là nền tảng cho giai đoạn tiếp theo và kết quả của giai đoạn trước

là thông tin cần và đủ cho giai đoạn tiếp theo. Về thực chất, khó có thể mô tả

tiến trình chính sách một cách đơn giản và rõ ràng, vì vừa có tính liên tục, vừa

có tính biến động. Thực tế cho thấy rất khó xác định một chính sách nào đó

hoàn toàn ổn định trong một thời gian dài vì chính sách thay đổi thường

xuyên và cần được điểu chỉnh, bổ sung theo hướng ngày càng hoàn thiện.

a. Hoạch định chính sách

Hoạch định chính sách: Là toàn bộ quá trình nghiên cứu, xây dựng và

ban hành đầy đủ một chính sách. Đây được coi là một loại quyết định quản lý

đặc biệt cho cả một giai đoạn tồn tại phát triển của xã hội nhằm đạt mục tiêu

quản lý.

Hoạch định chính sách có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với một

chính sách: Mở đường cho cả tiến trình chính sách; Khởi xướng được những

13

vấn đề mà xã hội cần giải quyết bằng chính sách và giúp cho việc củng cố

niềm tin của dân chúng vào nhà nước; Thu hút được các bộ phận chức năng

của toàn hệ thống quản lý vào những hoạt động theo định hướng và truyền đạt

được cơ chế quản lý của nhà nước đến nền kinh tế trong từng thời kỳ.

Hoạch định chính sách gồm có các bước: Xác định mục tiêu hoạch định

chính sách; Xây dựng dự thảo các phương án chính sách; Lựa chọn phương án

dự thảo tốt nhất; Hoàn thiện phương án lựa chọn; Thẩm định phương án chính

sách công; Quyết định ban hành chính sách công và công bố chính sách.

Công tác hoạch định chính sách phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo là toàn bộ quá trình từ khi xác định được tính

cấp thiết của việc cần có những chính sách, cơ chế cụ thể đối với những tổ

chức này nhằm thúc đẩy các hoạt động của tổ chức, từ đó đẩy nhanh quá trình

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Đây là bước rất quan

trọng trong quy trình chính sách, thông qua nghiên cứu, điều tra và rút ra kết

luận về những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của các tổ chức hỗ trợ

đoanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, thăm dò ý kiến, nguyện vọng

của các tổ chức này, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục một cách phù hợp

với tình hình phát triển chung của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho sự

phát triển của các tổ chức này.

b. Tổ chức thực thi chính sách

Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành quy trình chính

sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành

hiện thức với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Nếu đưa

vào thực thi một chính sách tốt mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối

tượng thụ hưởng, góp phần làm tăng uy tín của Nhà nước.

Các bước tổ chức thực thi chính sách: Xây dựng kế hoạch triển khai

thực hiện chính sách công: Phổ biến, tuyên truyền chính sách công; Phân

14

công, phối hợp thực hiện chính sách công; Duy trì chính sách công; Điều

chỉnh chính sách công; Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

công; Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm.

Những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức thực thi chính sách: Thực hiện

mục tiêu: Bảo đảm tính hệ thống; Các cơ quan nhà nước phải bảo đảm tính

pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện chính sách công; Yêu cầu

bảo đảm lợi ích thật sự cho các đối tượng thụ hưởng.

Sau khi xây dựng và ban hành chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, quá trình chuyển hóa những

quyết định này thành hành động thực tế chính là bước thực thi chính sách

trong quy trình. Tại đây, chính sách được cụ thể hóa bằng các kế hoạch,

chương trình triển khai cụ thể qua các thông tư, văn bản điều hành và bắt đầu

có hiệu lực thi hành tại thời điểm ban hành chính sách. Các tổ chức nắm vai

trò thực thi và đối tượng thực thi sẽ phân công, phối hợp việc thực hiện, cụ

thể ở đây là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Khoc học & Công nghệ

cùng các ban ngành có liên quan chịu trách nhiệm thi hành. Bên cạnh đó, đối

tượng chính sách (các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng

tạo) sẽ chịu tác động trực tiếp từ chính sách. Chính sách được triển khai thí

điểm tại địa phương hay một nhóm doanh nghiệp, tổ chức trong giai đoạn đầu

nhằm đưa ra được những đánh giá cơ bản về mức độ phù hợp, tính hiệu quả

của chính sách và tiếp tục được duy trì, mở rộng phạm vi triển khai nhằm thu

được nhưng kết quả, nhận định ban đầu về hiệu quả chính sách. Cũng trong

bước thực thi chính sách, việc phân tích, đánh giá chính sách được đan xen

trong suốt quá trình, khi nhận thấy được những vấn đề còn tồn tại trong quá

trình triển khai, đơn vị, ban ngành chịu trách nhiệm hoạch định, triển khai sẽ

rút ra được những hạn chế, thiếu xót của chính sách, từ đó tổng hợp, làm nền

tảng cho việc đánh giá tổng thể, chỉnh sửa, bổ sung sau quá trình thực hiện.

15

c. Đánh giá chính sách

Đánh giá chính sách: là việc kiểm tra thực tế một cách có hệ thống

những tác động của việc thực hiện các giải pháp chính sách để từ đó xác định

liệu có đạt mục tiêu mong muốn hay không. Thông qua việc đánh giá chính

sách, các nhà hoạch định chính sách có thể rút ra những bài học về thiết lập

chương trình xây dựng chính sách hoặc các công cụ chính sách.

Sử dụng các tiêu chí đánh giá chính sách: Qua việc phân tích các tiêu

chí đánh giá chính sách có thể biết được khi nào thì vấn đề sẽ được giải quyết

khi nào một chính sách hợp lý đã xây dựng xong; Nhà phân tích có thể so

sánh được các phương án chính sách đệ trình để đưa ra lời khuyến nghị lựa

chọn tốt nhất; Các tiêu chí được xem như các quy tắc bắt buộc phải tuân thủ,

do đó nó giúp cho các nhà phân tích tránh được những sự chi phối hoặc cám

dỗ trong quá trình xây dựng và lựa chọn các phương án chính sách; Các tiêu

chí cùng với hệ công cụ đo lường giúp cho các nhà phân tích xác định rõ các

giá trị, các mục đích, và các mục tiêu của nhóm đối tượng chịu sự tác động

của chính sách lựa chọn, xác định rõ những kết quả đầu ra của mỗi giải pháp.

Nội dung đánh giá chính sách bao gồm: Đánh giá đầu vào; Đánh giá

đầu ra; Đánh giá hiệu lực; Đánh giá hiệu quả; Đánh giá quá trình.

Đây là bước cuối cùng trong quy trình chính sách và cũng là nền tảng

để thực hiện quy trình chính sách mới. Thông qua quá trình triển khai, thực

hiện, các đối tượng hoạch định, thực thi, giám sát chính sách sẽ đưa ra được

những đánh giá quan trọng về tính hiệu lực, hiệu quả của chính sách. Dựa trên

các tiêu chí đánh giá được xây dựng chính sách được đánh giá trong suốt quá

trình từ hoạch định đến thực thi trong thực tế từng giai đoạn và phân tích kết

quả đầu ra. Từ đó rút ra kết luận chính sách có đạt hiệu quả hay không, chính

sách mang lại những thành tựu, tác động tích cực nào đến nhóm đối tượng

chính sách cụ thể ở đây là tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

sáng tạo và những hạn chế, tồn tại của chính sách trong quá trình thực hiện.

16

Kết quả đánh giá này là cơ sở để các tổ chức, cá nhân trực tiếp thực

hiện, triển khai các quy trình chính sách có nền tảng để xem xét, chỉnh sửa, bổ

sung trong thời gian tiếp theo để chính sách ngày một hoàn thiện hơn.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính phát triển tổ chức hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

- Môi trường thể chế, pháp luật: Hệ thống pháp luật tạo nên những

khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội, vì vậy

các chính sách phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

sáng tạo khi ban hành phải căn cứ vào hệ thống pháp luật hiện hành, không

được trái với quy định pháp luật hiện hành, bên cạnh đó, chính sách cũng là

một nguồn tạo ra những thể chế pháp luật mới.

- Điều kiện kinh tế chính trị, văn hóa xã hội nơi chính sách được xây

dựng: Tại Việt Nam, các chính sách tồn tại với môi trường phong phú, đa

dạng bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tự nhiên. Các

môi trường này lại biến động không đều nhau trong từng thời kỳ phát triển,

chúng đan xen vào nhau, tác động phức tạp đến sự tồn tại của chính sách. Vì

thế, căn cứ vào môi trường tồn tại trong thực tế và tương lai để xây dựng

những chính sách phù hợp trong từng giai đoạn phát triển.

- Năng lực thực tế của các cơ quan hoạch định chính sách: Kết quả của

chính sách phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng

tạo phụ thuộc rất nhiều vào năng lực hoạch định, tổ chức, điều hành của hệ

thống các cơ quan công quyền cũng như khả năng huy động và sử dụng các

nguồn lực công để phục vụ cho công tác hoạch định, tổ chức, điều hành chính

sách của các cơ quan này. Năng lực hoạch định chính sách của đội ngũ cán bộ

lãnh đạo nhà nước đóng một vai trò quan trọng, đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo phải

luôn nâng cao năng lực chuyên môn cũng như khả năng lãnh đạo điều hành

chính sách, phải thường xuyên rèn luyện, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực

17

phân tích, quản lý, lựa chọn, giải quyết vấn đề và ra quyết định, v.v… Ngoài

ra, quá trình ra quyết định chính sách có thể cho kết quả tích cực hoặc tiêu

cực tùy thuộc vào khả năng của các cơ quan này trong việc huy động, bố trí

và sử dụng nguồn nhân lực.

- Năng lực thực tế của đối tượng thực thi chính sách: Chính sách cần

căn cứ vào trình độ của các đối tượng thực thi để xác định mục tiêu, biện pháp

cho thích hợp. Cụ thể, đối với những đối tượng có trình độ chuyên môn thấp,

cần phải đưa ra những chính sách cụ thể, rõ ràng, kèm theo đó là những

hướng dẫn chi tiết về quá trình thực hiện. Đối với những đối tượng có trình

độ, năng lực tốt hơn, cần tạo ra những không gian chính sách để họ có cơ hội

vận dụng khả năng sáng tạo, tìm kiếm các biện pháp, công cụ chính sách phù

hợp và cụ thể đối với chính sách này, đối tượng thực thi là các tổ chức, doanh

nghiệp hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thì đa số thuộc nhóm đối tượng

có năng lực, trình độ tốt. Ngoài ra, mỗi đối tượng thực thi chính sách hay một

cộng đồng chính sách đều chứa đựng những tiềm lực kinh tế, chính trị, văn

hóa xã hội. Nếu các nhà hoạch định chính sách biết khai thác và sử dụng đúng

những tiềm lực này thì quá trình ra quyết định chính sách sẽ diễn ra thuận lợi

và thông suốt.

- Nhân tố tự thân chính sách: tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố

gắn liền với mỗi vấn đề chính sách, có tác động trực tiếp đến cách giải quyết

vấn đề bằng chính sách và tổ chức thực thi chính sách. Nếu vấn đề chính sách

là đơn giản, liên quan đến ít đối tượng chính sách thì công tác tổ chức thực thi

chính sách sẽ thuận lợi hơn.

- Nguồn lực chính sách: Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực thi

chính sách là yếu tố ngày càng có vị trí quan trọng để cùng với yếu tố nhân sự

và các yếu tố khác thực hiện thắng lợi chính sách. Để xây dựng và thực thi

được chính sách phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

18

sáng tạo cần một nguồn lực vật chất và nhân sự đảm bảo, trong đó yếu tố con

người (năng lực, nguồn nhân lực) đóng vai trò vô cùng quan trọng, bên cạnh

đó nguồn lực vật chất tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng.

- Năng lực của cán bộ quản lý: Năng lực thực thi chính sách của cán bộ

công chức trong bộ máy quản lý là yếu tố chủ quan có vai trò quyết định đến

kết quả tổ chức thực thi chính sách. Năng lực thực thi của cán bộ, công chức

là thước do bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức, công cụ, về năng lực

thiết kế tổ chức, năng lực thức tế, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ

động ứng phó được với những tình huống phát sinh trong tương lai. Các cán

bộ công chức khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách, cần nêu cao

tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ luật công vụ trong lĩnh vực này mới

đạt hiệu quả thực thi. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan có thẩm quyền

tổ chức thực thi chính sách sẽ đưa ra những kế hoạch dự kiến không sát thực

tế, làm lãng phí nguồn lực huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính

sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình thực thi.

Tiểu kết chương 1

Doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN là nhưng doanh nghiệp đang trong

quá trình thành lập, chưa thực sự xác định được thị trường và mô hình nhân

sự, kinh doanh, tài chính chưa đầy đủ. Do tính rủi ro cao nên việc thu hút

nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN khó hơn doanh

nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp. Tuy nhiên khi thành công doanh nghiệp khởi

nghiệp có khả năng tạo ra nhưng đột phá mới về tăng trưởng của nền kinh tế.

Ngoài ra, mỗi giai đoạn phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN lại cần

sự hỗ trợ về các nguồn lực và tài chính khác nhau từ nhà nước và các cơ quan

quản lý liên quan.

19

Từ những phân tích trên, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đưa ra

những chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp như sau:

- Thứ nhất, hạn chế các rủi ro cho các tổ chức hỗ trợ, nhà nước cần có

biện pháp chia sẻ những rủi ro trong hoạt động đầu tư mạo hiểm:

+ Rủi ro đối với ngân hàng có thể được chia sẻ thông qua hoạt động

bảo lãnh công nghệ trong tín dụng;

+ Rủi ro đối với các nhà đầu tư có thể được chia sẻ khi nhà nước đối

ứng với vốn đầu tư của các quỹ ĐTMH, các nhà đầu tư thiên thần,…

- Thứ hai, nhà nước cần tham gia vào hoạt động đầu tư mạo hiểm cho

các lĩnh vực khoa học và công nghệ có thể mang lại nhiều lợi ích cho xã hội

và kinh tế quốc gia như công nghệ sinh học, vật liệu mới.

- Thứ ba, nhà nước cần hỗ trợ đầu tư vào các tổ chức giúp cho doanh

nghiệp trong giai đoạn đầu có thể bằng cách trực tiếp đầu tư hoặc đối ứng đầu

tư với các nhà đầu tư thiên thần và các quỹ đầu tư cho giai đoạn đầu.

- Thứ tư, nhà nước cần hỗ trợ, đầu tư cho các hoạt động đào tạo, tập

huấn khởi nghiệp, nâng cao tinh thần khởi nghiệp nhất là tại các trường đại

học, đây chính là đầu vào dồi dào cho các ý tưởng công nghệ khởi nghiệp.

- Cuối cùng, nhà nước cần đóng vai trò quan trọng trong việc truyền thông,

kết nối các nhà đầu tư với các sáng chế, các kết quả nghiên cứu có tiềm năng.

20

Chương 2

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ

DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP, ĐỔI MỚI SÁNG TẠO HIỆN NAY

2.1. Bối cảnh chung về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Việt

Nam giai đoạn 2013 – 2019

2.1.1. Thực trạng về doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

Có thể nói phong trào khởi nghiệp đã bắt đầu hình thành trong một vài

năm trở lại đây, đặc biệt với sự thành công của doanh nhân công nghệ

Nguyễn Hà Đông với trò chơi Flappy Bird được biết đến trên truyền thông thế

giới. Ngoài ra, một số điển hình doanh nghiệp khởi nghiệp đã thành công có

thể kể đến công ty thương mại điện tử Vatgia với trị giá gần 75 triệu USD,

VNG khoảng 1 tỷ USD… và một số doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam gọi

được vốn một vài triệu USD như Tiki, CocCoc, Foody, The Kafe... Trong năm

2015 và đầu năm 2016 cũng đã có một số doanh nghiệp mới nổi, nhận được vốn

đầu tư khoảng một vài trăm ngàn USD như Lozi, Triip.me, Beeketing,

Bigtime,… Đặc điểm chung của các doanh nghiệp này là hầu hết trong lĩnh vực

công nghệ thông tin (CNTT) và ứng dụng của thông tin trong các ngành dịch vụ

như thương mại điện tử, games, du lịch, truyền thông, giáo dục do quy mô mở

rộng thị trường của lĩnh vực khi có thêm một người sử dụng thì chi phí cận biên

của sản phẩm tịnh tiến đến không thì lợi nhuận được tối đa. Các lĩnh vực khởi

nghiệp khác rất thành công trên thế giới như y tế, môi trường, nông nghiệp cũng

đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam nhưng chưa nhiều và chưa có câu chuyện thành

công nổi bật. Hiện chưa có thống kê chính thức số lượng doanh nghiệp khởi

nghiệp ở Việt Nam, lĩnh vực hoạt động và giai đoạn phát triển của họ. Theo

thống kê của tạp chí khởi nghiệp Techinasia Đông Nam Á, Việt Nam có khoảng

gần 1000 doanh nghiệp khởi nghiệp, hầu hết trong lĩnh vực CNTT.

21

2.1.2. Thực trạng về các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp,

đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.

- Về các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp Khoa học và Công nghệ.

Về các đơn vị ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp có các tổ chức nổi bật trong

khu vực tư nhân như Topica Founder Insititute, 5 Desire, Hatch!Program và

khu vực công lập như vườn ươm đã được thành lập trong Đại học Bách khoa

Hà Nội, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc (Bộ KH&CN), Vườn ươm doanh

nghiệp chế biến thực phẩm Hà Nội (HBI), Đại học Bách khoa TP HCM, Khu

Nông nghiệp Công nghệ cao TP.HCM, Khu Công nghệ Phần mềm Đại học

Quốc gia TP. HCM.

Về các hoạt động khác của cộng đồng khởi nghiệp, một số sự kiện nổi

bật dành cho khởi nghiệp ở Việt Nam cũng như trong khu vực mà doanh

nghiệp khởi nghiệp Việt Nam có thể tham gia bao gồm Demo Asean, Startup

Asean, BarcampSaigon, Mobile Day, Startup weekend (NEXT), Start me up,

Techcamp Saigon, Tech talks, Google for Entrepreneur week, Web

Wednesday.

Một số cộng đồng khởi nghiệp lớn bao gồm Starthub.vn, Twenty.vn,

Startup.vn và Launch, là trung tâm của các hoạt động trao đổi online giữa các

nhóm khởi nghiệp, có số người tham gia vượt quá 14.000 người. Một số trang

thông tin về khởi nghiệp như techinasia.com, techdaily.vn, action.vn,

ICTnews.vn, pandora.vn,… cũng là nơi startup có thể cập nhật thông tin

thường xuyên về tình hình khởi nghiệp, tình hình phát triển của các doanh

nghiệp nói chung, những trường hợp sát nhập, mua bán, gọi vốn lớn cũng như

nâng cao kỹ năng quản lý và kinh doanh cho mình.

Ngoài ra, những cuộc thi khởi nghiệp dành cho sinh viên, nhà nghiên

cứu trẻ như Cuộc thi khởi nghiệp quốc gia do Phòng Thương mại và Công

nghiệp (VCCI) tổ chức, Cuộc thi khởi nghiệp cùng Kawai tổ chức bởi Đại

22

học Ngoại thương Hà Nội và gần đây là Cuộc thi Bánh xe khởi nghiệp 2015

(Startup Wheel) do Trung tâm Hỗ trợ Thanh niên Khởi nghiệp (BSSC) trực

thuộc Hội LHTN Việt Nam và Hội doanh nhân trẻ TPHCM (YBA) đồng tổ

chức, Ngày hội Khởi nghiệp và Công nghệ (TechFest 2015) do Bộ KH&CN

và Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức với hàng trăm nhóm khởi nghiệp tham

gia cũng chứng tỏ phong trào khởi nghiệp đang diễn ra khá sôi nổi.

- Về tổ chức đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp khởi nghiệp Khoa

học và Công nghệ.

Ở Việt Nam, IDG Ventures Vietnam có thể coi là quỹ đầu tư cho

startup trong lĩnh vực công nghệ tồn tại lâu nhất ở Việt Nam và đã mang vào

Việt Nam 100 triệu USD để đầu tư cho các start-up tiềm năng trong vòng 10

năm trở lại đây. Ngoài ra, CyberAgent Ventures, quỹ đầu tư của Nhật Bản

cũng là một trong những quỹ đầu tư tích cực nhất ở Việt Nam. Tại thời điểm

hiện tại, quỹ đang tìm kiếm cơ hội để đầu tư cho startup trong lĩnh vực thương

mại điện tử (e-commerce).

DFJ Vinacapital hay Sumitomo là những tên quỹ đầu tư mới tham gia

vào thị trường nhưng cũng đã có những khoản đầu tư lớn vào giai đoạn sau

trong quá trình phát triển của startup (series B). Cụ thể, DFJ Vinacapital đầu

tư 2 triệu USD cho công ty xây dựng phần mềm quyết toán thuế TS24 trong

khi Sumitomo đầu tư 2 triệu USD cho tiki.vn. Có những quỹ/công ty lại lựa

chọn đầu tư vào giai đoạn đầu phát triển của startup như PVNI đầu tư cho startup

trong lĩnh vực giáo dục, thực phẩm hay OneCapitalWay đầu tư cho một số

startup trong lĩnh vực e-commerce. Ngoài ra còn một số công ty/quỹ đầu tư khác

từ Việt Nam cũng như trong khu vực như Kusto Tiger IT Fund, IDT, Mekong

Capital, Cloud Funding, VI Corporation, Gale Greek Investment.

Những quỹ/công ty đầu tư này đã góp phần tạo nên tên tuổi của một số

doanh nghiệp khởi nghiệp thành công, nhất là trong lĩnh vực games, internet

và e-commerce.

23

Các doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN trong nước thông thường chỉ

dựa vào tài chính của gia đình, bạn bè, người thân và trong một số trường hợp

là các thầy, cô hướng dẫn tại nhóm khởi nghiệp tại trường đại học. Tuy nhiên,

những khoản đầu tư này thường không đáng kể và chỉ trong giai đoạn đầu

phát triển của doanh nghiệp. Hầu hết những nhà đầu tư thuộc loại hình này

cũng không giúp được nhóm khởi nghiệp nhiều trong định hướng sản phẩm,

phát triển kế hoạch kinh doanh nên rất nhiều nhóm đã rơi vào tình thế khó

khăn về mặt tài chính và thị trường.

Ngoài những quỹ đầu tư lớn và gia đình, người thân, các doanh nghiệp

khởi nghiệp còn có thể dựa vào các nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp, hay

còn gọi là các nhà đầu tư thiên thần (angel investor). Các CLB/ Quỹ của các

nhà đầu tư thiên thần (nhà đầu tư cá nhân cho khởi nghiệp) đang dần được

hình thành như CLB Hatch!Angels của một số nhà đầu tư thiên thần tại Hà

Nội, CLB nhà đầu tư thiên thần thuộc CLB doanh nghiệp dẫn đầu (LBC) tại

TP HCM, Quỹ Khởi nghiệp doanh nghiệp KH&CN Việt Nam (Vietnam

Startup Foundation - VSF) do chủ nhiệm Đề án Thương mại hóa công nghệ

theo mô hình thung lũng Silicon tại Việt Nam – trực thuộc Bộ Khoa học và

Công nghệ đứng đầu, Quỹ Seed for action (Ươm mầm hành động) do các nhà

đầu tư người Việt Nam ở nước ngoài khởi xướng,... Tuy nhiên, ở Việt Nam,

khái niệm về đầu tư mạo hiểm, đầu tư thiên thần hay đầu tư cho khởi nghiệp

là khái niệm mới, đi kèm với rủi ro cao và yêu cầu chuyên môn sâu, do đó

trên thị trường chưa có nhiều nhà đầu tư theo hình thức này.

Việc thiếu các khoản đầu tư mạo hiểm là một trong những lý do khiến

doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam có nguy cơ thất bại cao. Theo đánh giá

chung của IDG Ventures Việt Nam, tỷ lệ thất bại của startup ở Việt Nam là

khoảng 80% trong ba năm đầu tiên.

24

2.2. Chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp, ĐMST giai đoạn 2013-2018.

Trong hệ thống chính sách về KH&CN đã có những chính sách liên

quan đến việc phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST

KH&CN như:

- Chính phủ vừa quy định nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và

vừa tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP. Theo Nghị định trên, các doanh nghiệp

nhỏ và vừa được hưởng nhiều chính sách hỗ trợ từ nhà nước như: hỗ trợ

thông tin, tư vấn, phát triển nguồn nhân lực, chuyển đổi từ hộ kinh doanh,

khởi nghiệp sáng tạo, tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị.

- Dự thảo Nghị quyết 19-2019/NQ-CP: Khuyến khích DN đổi mới sáng

tạo. Tại Dự thảo Nghị quyết 19-2019, Chính phủ giao nhiệm vụ đối với từng

bộ, ngành nhằm nâng cao trách nhiệm của các đơn vị này.

Cụ thể, Đối với Bộ Khoa học và Công nghệ, Chính phủ giao trong quý

II/2019 trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định bổ sung, sửa đổi quy

hoạch và chức năng của Khu công nghệ cao Hòa Lạc theo hướng từ năm 2019

chỉ thu hút đầu tư các loại công nghệ của CMCN 4.0; đồng thời hỗ trợ hoạt

động của Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia…

Bộ Tài chính được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công

nghệ sửa đổi ban hành trước tháng 6/2019 thông tư liên tịch hướng dẫn nội dung

chi và quản lý quỹ phát triển khoa học và công nghệ của DN theo hướng cho

phép DN tự chủ, tự quyết định sử dụng quỹ nghiên cứu và phát triển cho hoạt

động nghiên cứu và phát triển của DN; cho phép DN nhà nước sử dụng quỹ phát

triển khoa học công nghệ của DN đầu tư vào các DN đổi mới sáng tạo và không

bị coi là làm thất thoát tài sản nhà nước nếu đầu tư không thành công.

- Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/09/2010 Sửa đổi, bổ sung một

số điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2005 của

25

Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN

công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2007 của

Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN (gọi tắt là “Nghị định 96”). Ngoài ra,

các chương trình quốc gia như Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm (Chương trình 592) và Chương trình Phát triển thị trường công nghệ

đến năm 2020 (Chương trình 2075) cũng có một số hỗ trợ liên quan gián tiếp

đến hoạt động khởi nghiệp như hỗ trợ về mặt ươm tạo công nghệ, ươm tạo

doanh nghiệp KH&CN, sản xuất thử nghiệm, tiếp cận các phòng thí nghiệm

trọng điểm, đăng ký sở hữu trí tuệ đối với kết quả nghiên cứu của doanh

nghiệp, tổ chức sự kiện, truyền thông về việc thương mại hóa kết quả nghiên

cứu, đào tạo các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN.

- Ngoài các hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, một số chương trình, dự án

sử dụng vốn ODA của nước ngoài hiện cũng đang có các dự án hỗ trợ khởi

nghiệp, điển hình như:

+ Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN”

(FIRST) giữa Bộ KH&CN và Ngân hàng thế giới hướng đến mục tiêu hỗ trợ

nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền kinh

tế Việt Nam thông qua việc tăng cường hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa

học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sáng

tạo, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp để tạo thêm giá trị gia tăng cho nền

kinh tế. FIRST có nhiều cấu phần, trong đó có cấu phần hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp KH&CN để thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu của mình.

+ Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP)

đang khởi động giai đoạn 2 hầu hết hướng đến việc hỗ trợ các tổ chức, cá

nhân tham gia hoạt động ĐMST và các doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp,

các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp. IPP hỗ trợ cả bằng tài chính và các khóa đào

26

tạo, tập huấn, tư vấn có sự tham gia của các chuyên gia trong nước và quốc tế

nhằm nâng cao năng lực cho các đối tượng thụ hưởng.

+ Dự án “Dự án Hỗ trợ xây dựng chính sách đổi mới và phát triển các

cơ sở ươm tạo doanh nghiệp” Việt – Bỉ (BIPP) hỗ trợ Bộ KH&CN xây dựng

và hoàn thiện khung pháp lý để thúc đẩy việc thành lập và vận hành các vườn

ươm KH&CN nhằm tăng cường khu vực doanh nghiệp KH&CN NVV; Hỗ

trợ hoạt động cho một cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN tại Hà Nội và tại

TP HCM; Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, các doanh nghiệp

hiện đang hoạt động, đặc biệt là các doanh nghiệp tiềm năng trở thành Doanh

nghiệp KH&CN; Cộng đồng KH&CN bao gồm khoảng 1500 tổ chức

KH&CN, …

+ Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia (NATIF) và Chương trình hỗ trợ

doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ,

tự chịu trách nhiệm cũng có những nội dung hỗ trợ tài chính cho doanh

nghiệp để hoàn thiện công nghệ, sản phẩm của mình cũng như sản xuất thử

nghiệm các sản phẩm đó trước khi đưa ra thị trường.

Tuy nhiên, các văn bản và chương trình nêu trên chưa hỗ trợ được toàn

bộ quá trình phát triển phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN: từ

việc hình thành ý tưởng, phát triển ý tưởng thành kế hoạch kinh doanh đến

tiếp cận thị trường và mở rộng quy mô. Hầu hết các chương trình chỉ hỗ trợ

khi doanh nghiệp đã được thành lập và hoạt động được một thời gian chứ

chưa hỗ trợ bước hình thành và phát triển ý tưởng khởi nghiệp. Ngoài ra, một

trong những vấn đề quan trọng nhất cần được quan tâm trong việc hỗ trợ hình

thành và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp là đầu tư mạo hiểm lại chưa

được quan tâm đúng mức trong các văn bản chính sách và các chương trình.

Mặc dù Luật Công nghệ cao ra đời năm 2008 có đề cập đến việc “Nhà nước

27

khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong nước, người

Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế

tham gia hoạt động đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao, thành lập

quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao tại Việt Nam” và thành lập “Quỹ đầu tư

mạo hiểm công nghệ cao quốc gia” nhưng cho đến nay vẫn chưa có cơ chế để

thành lập các quỹ nói trên. Quy định của Bộ luật hình sự về "tội thiếu trách

nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước", "tội lập quỹ trái phép", "tội

thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" và các quy định về “bảo toàn và

gia tăng giá trị vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp” tại Luật Ngân sách

nhà nước và Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh

doanh tại doanh nghiệp cũng trở thành rào cản vô hình cho việc nhà nước đầu

tư vào việc ươm tạo và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Nhận thức được vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

trong việc phát triển nền kinh tế tri thức, đưa các kết quả nghiên cứu sáng tạo

vào ứng dụng trong thực tế, ngày 04/6/2013, Bộ KH&CN đã phê duyệt “Đề

án thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon tại Việt Nam”

(VSV) (Quyết định số 1383/QĐ-BKHCN). Mục tiêu của Đề án là thúc đẩy

thương mại hóa công nghệ ưu tiên thuộc các lĩnh vực năng lượng, y sinh, cơ

khí, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ thông tin và viễn thông theo mô

hình Thung lũng Silicon và xây dựng mối quan hệ giữa quỹ đầu tư mạo hiểm

và doanh nghiệp khởi nghiệp.

Sau 2 năm triển khai, Đề án đã đạt được nhiều thành công đáng kể.

Hàng loạt các hội thảo được tổ chức để kết nối giữa doanh nghiệp khởi nghiệp

trong nước với các nhà đầu tư trong nước và thế giới. Đặc biệt, VSV đã tổ

chức thành công khóa tập huấn tập trung (bootcamp) trong vòng 4 tháng để

hỗ trợ khởi nghiệp chuyên sâu cho 9 nhóm khởi nghiệp, được lựa chọn từ hơn

28

90 các dự án/doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng trên cả nước. Trong hai

năm 2014 - 2015 đã có 4/9 nhóm nhận được lựa chọn tham gia chương trình

huấn luyện tâp trung đã gọi thành công vốn đầu tư vòng tiếp theo – Chuỗi A

(serie A), trong đó có nhóm Big Time – cung cấp công cụ quản lý sự kiện –

nhận được hơn 200.000 USD đầu tư ngay sau Demo Day và được nhà đầu tư

định giá là 1,8 triệu USD; nhóm Lozi – phần mềm cung cấp thông tin đa dạng

về các địa điểm ăn uống của giới trẻ - vừa gọi được đầu tư lên đến hàng triệu

đô từ quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài; Loanvi – phần mềm quản lý cá

nhân – được nhận đầu tư 50.000 USD của quỹ Spark Lab Global và được lựa

chọn tham gia chương trình khởi nghiệp tại Chi-lê (Startup Chile) dành cho

các doanh nghiệp khởi nghiệp tiềm năng trên thế giới; nhóm Jobwise – cung

cấp công cụ tuyển dụng và quản lý nhân sự – nhận được đầu tư cá nhân

50.000 USD và ký hợp đồng 20.000 USD với Ngân hàng Quốc tế VIB.

Để tiếp tục phát huy hiệu quả của Đề án Silicon Việt Nam và giải quyết

các khó khăn vướng mắc đang tồn tại và mở rộng sự hỗ trợ của Nhà nước đối

với hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, Bộ KH&CN đã xây dựng “Đề

án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”,

đồng thời làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đưa các quy định về đầu tư

mạo hiểm và hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo vào Dự thảo Luật Hỗ trợ

doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một khi môi trường pháp lý dành cho các tổ chức

hay nói cách khác là quỹ đầu tư mạo hiểm và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

được xây dựng và đi vào cuộc sống sẽ là nền tảng vững chắc để hệ sinh thái

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam phát triển.

29

Bảng 2.2: Thực trạng các tổ chức hoạt động và hỗ trợ phát triển doanh

nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam

Thực trạng hoạt động Nhận xét

- IDG Ventures Vietnam đầu tư Các Quỹ/nhà ĐTMH chủ yếu Đầu tư mạo

100 triệu USD cho các start-up đầu tư vào các lĩnh vực hiểm cho

tiềm năng trong vòng 10 năm trở CNTT và thương mại điện do doanh

lại đây. khả năng tăng trưởng nhanh nghiệp khởi

- CyberAgent Ventures đầu tư và khả năng thu hồi vốn cao nghiệp

vào các lĩnh vực thương mại điện so với các lĩnh vực khác. KH&CN

tử.

- DFJ Vinacapital hay Sumitomo

chủ yếu đầu tư vào giai đoạn sau

- ….

- Đã có một số CLB đầu tư thiên

thần như CLB Hatch Angels;

CLB doanh nghiệp dẫn đầu

(LBC); Quỹ Khởi nghiệp doanh

nghiệp KH&CN Việt Nam

(Vietnam Startup Foundation –

VSF; Quỹ Seed for action …

- Trên địa bàn Hà Nội có khoảng Đã có các hoạt động hỗ trợ Các tổ chức

hơn 26 tổ chức hỗ trợ khởi DNKN trong nước cũng như hỗ trợ doanh

nghiệp, mô hình và tổ chức hoạt một số tổ chức kết nối giữa nghiệp khởi

động của tổ chức hỗ trợ khởi cộng đồng khởi nghiệp VN nghiệp

nghiệp rất đa dạng. và nước ngoài… Tuy nhiên

- Ươm tạo tư nhân: như Topica cần phát huy hơn tinh thần

30

Founder Insititute, 5 Desire, khởi nghiệp của các sinh viên

Hatch Program… trong trường đại học cũng

- Ươm tạo công lập: Đại học như các nhà nghiên cứu trẻ.

Bách khoa Hà Nội, Khu Công

nghệ cao Hòa Lạc (Bộ

KH&CN), Vườn ươm doanh

nghiệp chế biến thực phẩm Hà

Nội (HBI), Đại học Bách khoa

TP HCM, Khu Nông nghiệp

Công nghệ cao TP.HCM, Khu

Công nghệ Phần mềm Đại học

Quốc gia TP. HCM…

- Sự kiện mà DNKN Việt Nam

tham gia: Demo Asean, Startup

Asean, BarcampSaigon, Mobile

Day, Startup weekend (NEXT),

Start me up, Techcamp Saigon,

Tech talks, Google for

Entrepreneur week, Web

Wednesday….

- Một số cộng đồng khởi nghiệp

khác và cuộc thi khởi nghiệp cho

SV và các nhà nghiên cứu trẻ

trong các tổ chức nhà nước và

trường ĐH.

- Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng Thông qua nhiêu dự án đã có Các chính

tạo thông qua nghiên cứu sự hỗ trợ và phát doanh sách của Nhà

31

KH&CN” (FIRST) (Bộ KH&CN nghiệp KH&CN cũng như nước liên

– World Bank). DNKN tuy nhiên vẫn chưa hỗ quan đến

- Chương trình Đối tác đổi mới trợ hoàn toàn quá trình phát phát triển tổ

sáng tạo Việt Nam – Phần Lan triển doanh nghiệp khởi chức hỗ trợ

(IPP). nghiệp. doanh

- Dự án “Dự án Hỗ trợ xây dựng - Cần thiết thống nhất hệ nghiệp khởi

chính sách đổi mới và phát triển thống văn bản nhà nước trong nghiệp,

các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp” việc hỗ trợ và khuyến khích ĐMST

Việt – Bỉ (BIPP). thành lập quỹ ĐTMH.

- Quỹ đổi mới công nghệ Quốc

gia (NATIF) và Chương trình hỗ

trợ doanh nghiệp KH&CN.

- Luật CGCN 2008 đề cập đến

việc khuyến khích và thành lập

Quỹ ĐTMH.

2.3. Đánh giá chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt nam hiện nay.

Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam bắt đầu phát triển trong một vài

năm trở lại đây nhưng chưa tạo được chỗ đứng trong cộng đồng quốc tế.

Nguyên nhân chủ yếu do cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo ở trong nước vẫn

chưa tạo ra được những thương hiệu có sức hút mạnh mẽ như Google hay

Facebook hoặc tên các tổ chức ươm tạo (business incubator), tổ chức thúc đẩy

kinh doanh (business accelerator) như Y-combinator của Hoa Kỳ.

Trải qua 15 năm hình thành, hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo

ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:

32

- Chính sách chưa rõ ràng: Nhà nước đã có các chính sách về việc hình

thành, thành lập các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN (trong đó có

vườn ươm công nghệ); Ban hành những chính sách hỗ trợ cho các hoạt động

của các cơ sở ươm tạo thông qua các chương trình, đề án; Các điều kiện về

xây dựng, hình thành và hỗ trợ vườn ươm cũng như các giải pháp thực hiện

được thể hiện rõ ràng trong các văn bản đã ban hành. Một số quỹ tư nhân và

nhà nước đã ra đời để đầu tư, hỗ trợ cho các vườn ươm doanh nghiệp cả về

nguồn lực hoạt động và định hướng phát triển. Tuy nhiên, các văn bản chính

sách, thể chế hỗ trợ liên quan đến tổ chức trung gian được ban hành chủ yếu

2-3 năm trở lại đây chưa đi vào cuộc sống ( Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN

chỉ quy định về điều kiện thành lập, hoạt động của tổ chức trung gian dưới

hình thức tổ chức KH&CN là chưa đầy đủ và chưa công bằng đối với các loại

hình tổ chức trung gian khác dưới hình thức doanh nghiệp hoặc đối tác công

tư đang hiện hữu trong thực tiễn.

- Một số tổ chức trung gian – Cơ sở ươm tạo gặp khó khăn khi thực thi

các khung pháp lý đã có như Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư,

Luật sở hữu trí tuệ, Luật chứng khoán... Ví dụ: Khi vườn ươm ra đời dưới

hình thức công ty nhưng hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận thì tính thuế thế

nào...).

- Vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ hoạt động của các tổ chức hỗ

trợ DNKH, ĐMST còn hạn chế.

- Thiếu chính sách rõ ràng để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng

tạo như: Quỹ tài trợ vốn, chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư mạo hiểm

vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, khuyến khích các chương trình

đào tạo đổi mới sáng tạo trong trường học...

- Bất hợp lý trong quy định về nguồn kinh phí: Các chương trình, đề

án được ban hành đều xác định nguồn vốn thực hiện là từ các nguồn sau:

33

Ngân sách nhà nước, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ (quốc gia, bộ,

nghành, địa phương); huy động các nguồn tài chính khác.

Tuy nhiên, trong thực tế các nguồn quỹ này không nhiều. Hơn nữa, đây

là hoạt động liên quan đến đầu tư mạo hiểm nên khó khăn trong việc tiến

hành các thủ tục thành quyết toán. Bên cạnh đó, trong thời điểm kinh tế khó

khăn như hiện nay, Nhà nước đang thắt chặt chi tiêu dẫn đến tình trạng đã phê

duyệt dự án vườn ươm mà không thể thực hiện do không tìm được nguồn vốn

(Đề án vườn ươm cơ khí chế tạo của Thành phố HN là 1 ví dụ).

- Không có quỹ nào của nhà nước có bản chất và cơ chế hoạt động như

một quỹ đầu tư mạo hiểm: Trong 10 năm qua nhà nước đã có một số quỹ hỗ

trợ để đưa các kết quả nghiên cứu ra thị trường của các tổ chức công lập và

ngoài công lập như Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia

(NAFOSTED), Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia. Tuy nhiên, không có quỹ

nào có bản chất và cơ chế hoạt động như một quỹ đầu tư mạo hiểm – nhân tố

thiết yếu cho khởi nghiệp kinh doanh công nghệ trong kinh tế hiện nay. Các

doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ thành công ở Việt Nam cơ bản là nhờ

vào nguồn tài chính của các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài.

- Hạn chế về mặt các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo: Việt Nam

hiện nay có khoảng hơn 30 tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp. Tuy nhiên chỉ có một

số ít đơn vị thực hiện các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và ươm tạo

doanh nghiệp bài bản như: Công ty TNHH BK-Holdings của trường đại học

Bách khoa HN; Việt nam silicon Valley (VSV), Up-Co...Trong số này có một

số cơ sở ươm tạo có từ trước khi có đề án 844 và tiếp tục được hỗ trợ để duy

trì hoạt động và trưởng thành dẫn (ví dụ: Vườn ươm công nghệ và đóng gói

thực phẩm tại Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Vườn ươm BK-

Holdings tại đại học bách khoa;...) Phần lớn là các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp

còn lại (tư nhân thành lập) chủ yếu cung cấp dịch vụ cho thuê không gian làm

34

việc chung. Các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, vườn ươm, tổ chức thúc

đẩy kinh doanh trên địa bàn Hà Nội còn hoạt động riêng lẻ, chưa liên kết

thành mạng lưới.

- Hạn chế về tính liên kết các thành phần trong hệ sinh thái: Các vườn

ươm doanh nghiệp, tổ chức thúc đẩy kinh doanh trên hiện tại vẫn hoạt động

khá riêng rẽ, chưa được liên kết trở thành mạng lưới tương hỗ lẫn nhau. Điều

này rất cần chính phủ có những định hướng, chính sách quy tụ các thành phần

này trở thành mạng lưới liên kết chia sẻ kinh nghiệm, cơ sở, vật chất, đội ngũ

các nhà tư vấn (Mentor), các chương trình đào tạo, chia sẻ mạng lưới các nhà

đầu tư...góp phần phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, đặc biệt tại thời

điểm hiện tại khi các mô hình Quỹ đầu tư mạo hiểm chưa hình thành thì cần

thực hiện tốt những gì có thể để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

trên cả nước.

Bảng 2.3 Tổng hợp các biện pháp hỗ trợ startup trong các chính

sách của Việt Nam

Nhóm biện Ví dụ về các hoạt động được Văn bản chính sách

pháp liệt kê

1.Phát triển, Hỗ trợ phát triển, hình thành cơ Đề án 844 NQ Hưng

hỗ trợ cơ sở sở hạ tầng phục vụ startup: Yên QĐ Huế QĐ Đà

vật chất - kỹ - Khu tập trung dịch vụ hỗ trợ Nẵng QĐ Nghệ An

thuật phục vụ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo QĐ Bắc Ninh QĐ

startup - Các Vườn ươm startup Bình Dương QĐ

- Các không gian làm việc Daklak QĐ Hải

chung, các cơ sở thí nghiệm, Phòng KH Hòa Bình

thực nghiệm Hỗ trợ cho startup

tại các khu vực này:

- Kinh phí thuê không gian, sử

35

dụng các thiết bị, hạ tầng

- Kinh phí lắp đặt thiết bị

- Kinh phí sử dụng mạng

Internet…

2.Thiết lập Kết nối các chủ thể liên quan NQ Hưng Yên QĐ

mạng lưới hỗ để hỗ trợ startup (cố vấn, kết Huế QĐ Đà Nẵng

trợ startup nối đối tác, tổ chức các đoàn QĐ Bà Rịa – Vũng

ra/vào…) Tàu QĐ KonTum

QĐ Bình Dương QĐ

Daklak

3.Đào tạo, Hỗ trợ xây dựng và phát triển Đề án 844 QĐ Bình

nâng cao năng mạng lưới đào tạo startup Hỗ Dương NQ Bến Tre

lực trợ kinh phí cho các hoạt động: QĐ Huế QĐ Nghệ

- Mua bản quyền các chương An QĐ Bắc Ninh

trình đào tạo, huấn luyện khởi QĐ Đồng Nai KH

Hòa Bình KH Lạng nghiệp

- Thuê chuyên gia, huấn luyện Sơn NQ Bến Tre

QĐ Huế QĐ Đà viên

- Chuyển giao, phổ biến giáo Nẵng QĐ Bình

trình khởi nghiệp Dương

- Đào tạo khởi nghiệp, kỹ năng

quản lý, kê khai thuế, lập kế

hoạch kinh doanh, quản lý dự

án đầu tư, các thủ tục pháp lý,

quản trị tài chính…

- Đào tạo nghề cho lao động

của startup

36

- Đào tạo công chức hỗ trợ

startup

4.Hỗ trợ về - Hình thành, vận hành các Đề án 844 NQ Bến

vốn Quỹ phát triển khoa học công Tre Đề án Lâm

nghệ, các quỹ khác hỗ trợ, cho Đồng NQ Hưng Yên

vay, góp vốn, đầu tư… vào QĐ Đà Nẵng QĐ Bà

startup Rịa – Vũng Tàu QĐ

- Hợp tác với các tổ chức tín Daklak QĐ Đồng

dụng để cung cấp vốn giá rẻ Nai QĐ Bắc Ninh

cho startup KH Hòa Bình

- Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

- Hỗ trợ startup tiếp cận các gói

hỗ trợ vốn, tín dụng

5.Hỗ trợ về - Ưu đãi thuế đối với startup Đề án 844

thuế

6.Hỗ trợ về sở - Hỗ trợ kinh phí dự án xây NQ Bến Tre Đề án

hữu trí tuệ, kỹ dựng, đăng ký, khai thác nhãn Lâm Đồng NQ

thuật, chất hiệu, chỉ dẫn địa lý Hưng Yên

lượng sản - Chương trình hỗ trợ phát triển

phẩm tài sản SHTT

- Hỗ trợ các thủ tục đăng ký

bảo hộ SHTT

- Hỗ trợ kinh phí xây dựng hệ

thống tuân thủ các tiêu chuẩn

quốc tế, quốc gia..

7.Hỗ trợ về Hỗ trợ hướng dẫn, tư vấn, đơn NQ Bến Tre QĐ Bắc

thủ tục hành giản hóa các thủ tục: Ninh QĐ Bà Rịa-

37

chính - Đăng ký kinh doanh Vũng Tàu QĐ Bắc

- Viết dự án Ninh QĐ Daklak

- Miễn, giảm phí đăng ký kinh QĐ Đồng Nai QĐ

doanh Hậu Giang

- Các thủ tục hành chính liên

quan tới gia nhập thị trường

(đất đai, môi trường, xây dựng,

phòng cháy chữa cháy…)

8.Hỗ trợ - Miễn phí đăng thông tin giới NQ Bến Tre QĐ

quảng bá, xúc thiệu, quảng bá Huế QĐ Nghệ An

tiến, tư vấn, - Giới thiệu đối tác cho startup QĐ Hậu Giang Đề

cung cấp - Hỗ trợ một phần chi phí tư án Lâm Đồng QĐ

thông tin vấn Huế QĐ Bắc Ninh

- Hình thành các trung tâm, QĐ Đà Nẵng QĐ

khu dịch vụ, hội đồng cố vấn Nghệ An QĐ Bình

hỗ trợ khởi nghiệp Dương QĐ Hải

Phòng KH Hòa Bình

9.Thông tin, cổ vũ phong trào startup

- Các đầu mối thông tin về các chương trình hỗ trợ startup - Cổng thông tin, chuyên mục startup, phóng sự, chuyên đề, hội thảo, - CLB startup, cuộc thi, Festival, tuần lễ startup…

Đề án 844 NQ Hưng Yên QĐ Huế QĐ Đà Nẵng QĐ Nghệ An QĐ Bà Rịa-Vũng Tàu QĐ KonTum QĐ Bắc Ninh QĐ Bình Dương QĐ Bình Định QĐ Đồng Nai QĐ Hà Giang QĐ Hải Phòng KH Hòa Bình QĐ Hậu Giang KH Lạng Sơn QĐ Daklak Đề án Lâm Đồng

Nguồn: tác giả tự tổng hợp.

38

Tiểu kết chương 2

Cả thế giới và Việt Nam hiện nay đang trên đà phát triển của cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0. Trên khắp cả nước, các doanh nghiệp khởi nghiệp,

ĐMST không ngừng phát triển và lớn mạnh, do vậy hệ sinh thái các tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đã theo đó dần hình thành. Tuy đã có những

bước đầu khả quan như việc các cơ quan quản lý liên quan quan tâm thành lập

tổ chức nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST, nhưng do chính sách

chưa phù hợp nên các tổ chức mới thành lập còn yếu kém, hoạt động riêng

biệt, chưa được liên kết trở thành mạng lưới tương hỗ lẫn nhau, dẫn đến tình

trạng khó triển khai thực hiện chính sách trong thực tế.

Dù trong hệ thống chính sách về KH&CN đã có những văn bản pháp lý

liên quan đến việc phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, nhưng

qua phân tích ở trên đều chưa thật sự hỗ trợ được toàn bộ quá trình phát triển

các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Hầu hết các chương trình chỉ hỗ

trợ tổ chức phát triển doanh nghiệp ở mức cơ bản mà chưa đi vào chi tiết. Các

chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh

nghiệp KH&CN chưa thể giải quyết được các vấn đề cốt lõi của doanh nghiệp

khởi nghiệp KH&CN. Ngoài các sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, một số

chương trình, dự án sử dụng vốn ODA của nước ngoài hiện cũng đang có các

dự án hỗ trợ khởi nghiệp nhưng vẫn đang theo hướng hỗ trợ kinh phí cho

doanh nghiệp (chỉ có dự án thuộc Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt

Nam – Phần Lan có hoạt động đào tạo, tập huấn) nhưng vẫn chưa thực sự tạo

ra được nền tảng đồng bộ các dịch vụ hỗ trợ xung quanh các nhóm doanh

nghiệp khởi nghiệp KH&CN, chưa kết nối được các thành phần tác động đến

sự phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN.

39

Chương 3

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP,

ĐỔI MỚI SÁNG TẠO VÀ GỢI SUY CHO VIỆT NAM

3.1. Một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển các tổ

chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

3.1.1. Kinh nghiệm Hoa Kỳ:

Hoa Kỳ có lẽ là quốc gia mà hoạt động tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp được

bắt đầu sớm nhất và mang lại hiệu quả rõ ràng nhất trên thế giới. Do đó các

doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN nhận được sự hỗ trợ từ cả tư nhân và Nhà

nước. Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ có những hỗ trợ trực tiếp về tài chính cho

doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN.

Ví dụ: Chương trình US Small Business Investment Company (SBIC)

và Small Business Innovation Research (SBIR) đã đầu tư 2,4 triệu USD trong

năm 1995 cho các doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN, hơn 60% tổng số vốn

đầu tư mạo hiểm của năm đó. Nghiên cứu 1.435 doanh nghiệp nhận đầu tư từ

SBIR và các doanh nghiệp không được đầu tư cho thấy các doanh nghiệp

được đầu tư có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn đáng kể. Những chính sách thúc

đẩy đầu tư trong những năm 1970-1980 cũng giúp ngành công nghiệp đầu tư

mạo hiểm ở Hoa Kỳ phát triển một cách nhanh chóng. Trong đó có Luật về

lương hưu cho phép các quỹ hưu trí được đầu tư tiền vào các quỹ đầu tư mạo

hiểm hoặc các tài sản có rủi ro cao.

Tổng thống Mỹ Barrack Obama có nói ”Các doanh nhân là sự thể hiện

lời hứa của Mỹ. Nếu bạn có một ý tưởng tốt và sẵn sàng làm việc chăm chỉ,

bạn có thể thành công ở đất nước này và khi thực hiện lời hứa của mình, các

doanh nhân cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và

tạo công ăn việc làm”.

40

Vào năm 2011, ông đã đưa ra sáng kiến hỗ trợ khởi nghiệp với tên gọi

“Nước Mỹ khởi nghiệp” - Startup America, thông qua một loạt các sáng kiến

của Nhà nước và tư nhân, nhằm mục đích mở rộng tiếp cận nguồn vốn cho

các doanh nghiệp khởi nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao trên khắp cả

nước.

Chương trình này bao gồm việc mở rộng các hoạt động thúc đẩy tinh

thần kinh doanh và tăng cường thương mại hóa khoảng 148 tỷ USD được

Chính phủ liên bang đầu tư hàng năm, với tham vọng tạo ra những lĩnh vực

kinh doanh hoàn toàn mới; loại bỏ các rào cản không cần thiết cho việc

khởi nghiệp kinh doanh; mở rộng hợp tác giữa các công ty lớn và công ty

khởi nghiệp.

Đặc biệt, năm 2012, Tổng thống Obama đã cho ban hành Đạo luật

Thúc đẩy khởi nghiệp (Jumpstart Our Business Startup Act – JOBS Act),

được coi là một trong những đạo luật quan trọng hỗ trợ các doanh nghiệp khởi

nghiệp tăng trưởng cao có thể tham gia thị trường chứng khoán (trở thành các

công ty đại chúng) hoặc có thể gọi vốn tư nhân một cách dễ dàng hơn. Ngoài

ra, JOBS Act còn chính thức chấp nhận và miễn thuế cho hình thức đầu tư gọi

vốn từ cộng đồng (crowd-funding).

Chương trình mở rộng tiếp cận vốn dành cho doanh nhân khởi nghiệp

bao gồm các sáng kiến của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ - Small Business

Association (SBA). Quỹ đầu tư Impact Fund 1 tỉ USD cung cấp vốn cho mục

đích tăng trưởng của các doanh nghiệp thuộc các vùng có điều kiện kinh tế

thấp hơn mức trung bình. Tài chính sẽ được cung cấp cho các công ty thuộc

lĩnh vực mới nổi như năng lượng sạch. SBA cung cấp số vốn theo tỷ lệ 2:1

với đầu tư của các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân.

Quỹ Đổi mới sáng tạo đầu tư giai đoạn khởi nghiệp 1 tỷ USD, dành cho

các công ty phải đối mặt với khó khăn trong tiếp cận vốn, đặc biệt là những

41

người không có tài sản thế chấp cần thiết hoặc không nhận được tín dụng

ngân hàng truyền thống. Đối với các công ty tăng trưởng cao, và có độ rủi ro

cao hơn thì tỷ lệ đầu tư của quỹ so với các quỹ đầu tư tư nhân là 1:1. Ngoài

ra, Hoa Kỳ còn giảm thuế cho khởi nghiệp với 17 cách thức khác nhau, ví dụ

giảm thuế trên thặng dư vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

Ngoài chương trình Startup America của chỉnh phủ thì nhiều tiểu bang

trong nước Mỹ, các hoạt động hỗ trợvà phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp

cũng diễn ra rất mạnh mẽ và đạt nhiều hiệu quả như Colorado, Ohio: Theo

chia sẻ của Bà Lisa Delp, chuyên gia của Chương trình Ohio Third Frontier,

trong Hội thảo về “Xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam” tại trụ sở Bộ

KH&CN tháng 10/2015. Chương trình hỗ trợ khởi nghiệp bang Ohio – Third

Frontier - là một chương trình hỗ trợ khởi nghiệp của Bang Ohio, Hoa Kỳ.

Trong đó, Chính quyền bang cho ra đời quỹ 2.1 tỷ USD để sẵn sàng làm vốn

đối ứng với các công ty công nghệ, trường đại học, viện nghiên cứu,… nhằm

mục đích tạo ra các công ty khởi nghiệp thành công. Bản thân quỹ này có

hàng loạt các chương trình con để hỗ trợ khởi nghiệp, bao gồm cả những

chương trình hỗ trợ về mặt nâng cao chất lượng khởi nghiệp lẫn những

chương trình trực tiếp kết nối vốn đầu tư cho khởi nghiệp như: Chương trình

nâng cao năng lực khởi nghiệp (Entrepreneur Signature Program - ESP) với

gần 150 triệu USD để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ tiếp cận

với các hỗ trợ về mặt tư vấn, huấn luyện; Chương trình hỗ trợ các cơ sở ươm

tạo (Edison Incubator Program) cung cấp 4.9 triệu USD cho các cơ sở ươm

tạo khởi nghiệp; Chương trình hỗ trợ tổ chức thúc đẩy kinh doanh (Ohio New

Entrepreneurs Fund Accelerator Program) hỗ trợ 1.7 triệu USD cho các tổ

chức thúc đẩy kinh doanh để triển khai các khóa huấn luyện tập trung từ 3-4

tháng hỗ trợ các nhóm khởi nghiệp; và Sáng kiến đầu tư vốn mồi (Pre-seed

Fund Capitalization Initiative) cung cấp hơn 85 triệu USD vốn đối ứng cho

các quỹ đầu tư mạo hiểm giai đoạn ươm mầm khởi nghiệp.

42

Bên cạnh đó theo SBA, 2000, ước tính có khoảng 250.000 nhà đầu tư

thiên thần ở Mỹ cam kết mỗi năm đóng góp 20 tỷ vào 30.000 doanh nghiệp

khởi nghiệp trong giai đoạn sơ khởi.

3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc:

Một số mô hình tổ chức hỗ trợ DNKH, ĐMST của Hàn như:

- Phòng Công nghiệp kỹ thuật số - chính quyền thành phố Seoul

Đây là một cơ quan chuyên trách về xây dựng chính sách cho khởi

nghiệp sáng tạo và hỗ trợ doanh nghiệp của chính quyền thành phố Seoul,

Hàn Quốc. Hàn có diện tích 100.032 km2, dân số khoảng 52 triệu dân, với

khoảng trên 5,1 triệu doanh nghiệp.

Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Seoul được hình thành bắt đầu

phát triển từ năm 1974, qua các giai đoạn sau:

Từ năm 1974-1986: Giai đoạn bắt đầu các hoạt động khởi nghiệp. Năm

1986 thành lập trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của thành phố Seoul.

Từ năm 1986-1997 (giai đoạn non trẻ): Hình thành một loạt các quỹ

đầu tư mạo hiểm tư nhân (VCs), đây là giai đoạn bùng nổ của các startup dựa

trên nền tảng Internet. Trước năm 1990, chính quyền thành phố Seoul đã có

chiến lược như: Quản lý có kế hoạch để thành phố phát triển nhanh; Quản lý

kinh tế với các gia đình có thu nhập thấp; Thành lập các công viên công nghệ

Từ năm 1997-2002 (giai đoạn phát triển về lượng): Số startup đã phát

triển lên tới con số trên 10000, thời kỳ bùng nổ starup quy mô lớn, làm nóng

thị trường chứng khoán Hàn quốc KOSDAQ.

Từ năm 2002-2004: Đây là giai đoạn điều chỉnh hệ sinh thái

Từ năm 2004-2012 (giai đoạn phát triển về chất): Đây là thời kỳ các

startup bắt đầu phát triển mạnh, có nguồn tài chính thông qua quỹ đầu tư mạo

hiểm (VCs fund), Quỹ đầu tư thiên thần (Angel Funds) và hệ thống cố vẫn từ

các doanh nhân thành đạt.

43

Từ năm 2012-2016 (giai đoạn mở rộng): Kế hoạch tạo ra các chu trình

cho startups; Kế hoạch đổi mới kinh tế 3 năm; các vùng thành lập trung tâm

đổi mới và kinh tế sáng tạo; thông qua đạo luật tăng tốc.

Như vậy, trải qua 6 giai đoạn, kể từ năm 1974 đến nay, tới 5/2018 tại Seoul

hiện có 43 trung tâm liên quan đến hỗ trợ khởi nghiệp, với tổng diện tích sàn

không gian hỗ trợ khởi nghiệp chung (co-working space) khoảng 202.703m2.

Ngoài ra, Seoul hiện có 110 cơ sở hỗ trợ khởi nghiệp liên quan, trong

đó có 19 trung tâm ươm tạo trong trường đại học (trong khoảng 50 trường đại

học của Seoul), 43 cơ sở hỗ trợ khởi nghiệp của chính quyền thủ đô Seoul, 02

trung tâm ươm tạo của nhà nước và 46 tổ chức hỗ trợ tư nhân. Các chính sách

hỗ trợ khởi nghiệp của chính quyền thành phố Seoul:

Về mô hình vận hành các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, chủ yếu tập

trung vào ba loại hình sau đây: (i) Loại hình tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp 100%

ngân sách thành phố, do cán bộ biên chế thành phố thực hiện công tác quản lý

và vận hành hỗ trợ khởi nghiệp; (ii) Loại hình theo hình thức chính quyền

thành phố hỗ trợ một phần ngân sách thành phố cho dầu tư ban đầu sau đó

giao tư nhân quản lý vận hành, quản lý, đồng thời hàng năm chính quyền

thành phố Seoul sẽ hỗ trợ kinh phí hoạt động; (iii) Loại 100% do tư nhân đầu

tư và quản lý, vận hành.

Về không gian khởi nghiệp: Seoul hình thành rất nhiều không gian hỗ

trợ khởi nghiệp sáng tạo, hiện có khoảng 202.703m2 sàn;

Về tài chính: Mỗi năm ngân sách hỗ trợ từ 20-25 tỷ won (tương đương

khoảng 400-500 tỷ đồng) cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó,

chính sách đầu tư tài chính cho starup cũng rất mạnh, trong đó ngân sách

chính quyền Seoul hỗ trợ 20%, ngân sách chính phủ hỗ trợ 50% và 30% từ

các quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính quyền thành phố Seoul hiện có quỹ thuộc

thành phố quản lý dành riêng cho vay khởi nghiệp.

44

Các đối tượng nhận được sự hỗ trợ này gồm: các trường đại học, tư

nhân, cộng đồng startup. Thành phố Seoul xây dựng kế hoạch ngân sách hoạt

động hằng năm dựa trên cơ sở đăng ký tài trợ của các trung tâm hỗ trợ khởi

nghiệp, vườn ươm doanh nghiệp…và có đánh giá về kết quả, hiệu quả hoạt

động hàng năm.

Thành phố Seoul có nhiều quỹ thành phố để cho vay khởi nghiệp.

- Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp Seoul (Seoul Startup Hub)

Dự án Seoul Startup Hub mới chỉ hình thành từ năm 2013 bắt đầu lập

kế hoạch sử dụng dịch vụ phát triển nguồn nhân lực của dự án được phó thị

trưởng thành phố Seoul ký duyệt, năm 2014 được tuyển chọn để đầu tư, năm

2015 mới bắt đầu thiết kế, năm 2016 mới bắt đầu xây dựng, đầu năm 2017

hoàn thành và bắt đầu tuyển chọn doanh nghiệp vào ươm tạo đợt 1 từ tháng

6/2017, đến tháng 6/2018 tuyển đợt 4.

Về mô hình trung tâm khởi nghiệp:

- Seoul Startup Hub là đơn vị sự nghiệp công lập của chính quyền

thành phố, 100% quỹ lương cán bộ, nhân viên (khoảng 20 cán bộ) và kinh phí

hoạt động do chính quyền thành phố Seoul chi trả. Đây là một trung tâm ươm

tạo đa nghành, đa lĩnh vực.

- Seoul startup Hub hỗ trợ cho các đối tượng là các cá nhân, các nhóm

và các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.

- Các cá nhân, các nhóm và các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

được vào tham gia ươm tạo miễn phí, hiện trung tâm có khoảng 300 nhóm

tham gia khởi nghiệp. Mỗi doanh nghiệp được hỗ trợ chỗ ngồi tối đa khoảng

từ 4-6 người với diện tích khoảng 15-20m2.

- Trung tâm có đội ngũ các chuyên gia, cố vẫn khoảng 300 người, trên

13 lĩnh vực.

- Các doanh nghiệp lớn cũng được tham gia đặt văn phòng hoạt động tại

trung tâm miễn phí để thực hiện kết nối, đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.

45

- Thời gian ươm tạo và chính sách hỗ trợ của Seoul Startup Hub:

- Thời gian hỗ trợ ươm tạo từ 2 năm- 3 năm.

- Các chính sách hỗ trợ của Seoul Startup Hub gồm: Hỗ trợ miễn phí

không gian khởi nghiệp; Hỗ trợ miễn phí đào tạo cho các cá nhân, các nhóm

và các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ chuyên gia, cố vấn viên,

chuẩn đoán viên miễn phí.

- Tỷ lệ hỗ trợ: Ngân sách địa phương (Thành phố Seoul hỗ trợ 20%) +

Ngân sách trung ương (Chính phủ hỗ trợ 50%) + Quỹ đầu tư mạo hiểm

(30%). Kinh phí hỗ trợ khoảng 15-16 tỷ won/năm (tương đương khoảng 300

tỷ VNĐ).

Ngoài ra, sau khi tốt nghiệp vườn ươm, các công ty khởi nghiệp thành

công còn được hỗ trợ cho vay với chính sách ưu đãi. Hiện đã có nhiều doanh

nghiệp ươm tạo tại trung tâm tốt nghiệp, phát triển và khởi nghiệp ra thế giới.

(Khu công nghệ cao Đà Nẵng đã đến tìm hiểu học tập, nghiên cứu để xây

dựng mô hình KCNC).

3.1.3. Kinh nghiệm của Singapore:

Từ năm 1995, Chính phủ nhận thức vai trò quan trong của doanh

nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao trong nước do vậy Chính phủ đã thiết lập

một tổ chức hỗ trợ để luân chuyển Vốn mạo hiểm với sự hoạt động rất tích

cực của Uỷ ban Phát triển Kinh tế nhằm hỗ trợ đối tượng khởi nghiệp

KH&CN.

Từ một quốc đảo có tình hình khởi nghiệp ở mức trì trệ, của những năm

đầu 2000, chỉ sau năm năm, năm 2005 giá trị đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực

công nghệ đã tăng từ mức dưới 30 triệu USD năm 2011 lên tới trên 1 tỉ USD

năm 2013.

Yếu tố quan trọng giúp cộng đồng khởi nghiệp ở Singapore phát triển

nhanh là do Chính phủ Singapore dành nhiều sự quan tâm tới các doanh

46

nghiệp khởi nghiệp. Chính phủ Singapore nhận thức được rằng, không thể chỉ

dựa vào các công ty đa quốc gia mà phải nỗ lực để khuyến khích tinh thần

kinh doanh trong nước.Những nỗ lực của Chính phủ Singapore đã giúp tạo đà

cất cánh cho các công ty khởi nghiệp ở quốc đảo này.

Bên cạnh yếu tố môi trường thân thiện và nguồn nhân lực chất lượng;

yếu tố chủ yếu tạo nên sự thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN

công nghệ cao Singapore chính là do Chính phủ thúc đẩy vốn đầu tư mạo

hiểm cho khởi nghiệp. Các doanh nhân ở đây đã có cơ hội tiếp cận rất nhiều

khoản trợ cấp và các chương trình liên quan nhằm hỗ trợ hoạt động phát triển

giai đoạn đầu của doanh nghiệp.Các doanh nhân được tiếp cận nguồn tài trợ

bằng vốn đối ứng lên tới 50.000 SGD (tương đương 40.000 USD), đồng

thời doanh nghiệp của họ được nhận vào các vườn ươm công nghệ để hỗ trợ

hoạt động. Singapore cũng đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư mạo hiểm thế

giới, trong năm 2015, Singapore và Hàn Quốc sẽ xúc tiến lập một quỹ liên

doanh trị giá 40 triệu USD vào quý 1/2016 để rót cho các doanh nghiệp vừa

và nhỏ (SME) của cả hai bên.

Singapore hiện nay cũng đang tích cực tham gia hoạt động đầu tư mạo

hiểm thông qua hàng loạt các chương trình hỗ trợ vốn của nhà nước với mong

muốn hình thành một hành lang khởi nghiệp ở Đông Nam Á. Ngoài các

chương trình tài trợ trực tiếp, nguồn vốn nhà nước đầu tư cho khởi nghiệp

theo công thức góp vốn cổ phần tỷ lệ 1:1 cũng được Chính phủ Singapore

thực hiện qua chương trình SPRING SEED (SPRING SEEDS (SPRING

Startup Enterprise Development Scheme) do SPRING SEEDS Capital – cơ

quan thuộc Bộ Công Thương Singapore thực hiện để đồng đầu tư với các nhà

đầu tư tư nhân vào các doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng thương mại rõ

rệt (commercially viable) theo nguyên tắc1:1 (matching dollar-for-dollar) với

mức đầu tư đến $1,000,000. Vòng đầu tư tối đa ban đầu là $300,000. SPRING

47

SEEDS Capital cũng đầu tư cổ phần vào doanh nghiệp khởi nghiệp có khả

năng tăng trưởng sau khi đã được các nhà đầu tư thiên thần (Business Angels)

đầu tư theo tỷ lệ 1:1 (công thức BAS). Tổng đầu tư tối đa theo BAS lên đến

$1,500,000). Ngoài ra, để tăng cường mối quan hệ liên kết đối tác công tư,

Quỹ nghiên cứu Quốc gia Singapore (NRF) cũng được giao 60 triệu đô la

Singapore để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ khởi nghiệp thông qua việc ủy thác

đầu tư qua quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân. Phương thức hỗ trợ khởi nghiệp

được NSF Singapore áp dụng là công thức EVFS (Early-Stage Venture

Funding Scheme): khi huy động được từ $10,000,000 trở lên từ các nhà đầu

tư thì công ty đầu tư mạo hiểm tư nhân sẽ nhận được vốn đối ứng từ quỹ NRF

Singapore theo tỷ lệ 1:1 để đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp ở giai

đoạn sơ khởi. Kết quả là đã có 6 quỹ tư nhân được lựa chọn là: Jungle

Ventures, Golden Gate Ventures, Walden International, SBI Ven Capital,

New Asia Investments, and Monk’s Hill Ventures. Mỗi quỹ được nhận 10

triệu đô la Singapore (tương đương $7, 900,000).

Ngoài ra, các doanh nghiệp khởi nghiệp có chất lượng sau đó có thể

tiếp cận trực tiếp với quỹ NSF Singapore để tìm kiếm thêm nguồn vốn đầu tư

(mức đầu tư lên đến $3,000,000).

3.1.4. Kinh nghiệm của Israel:

Yozma trong tiếng Israel có nghĩa là “sáng kiến”. Đây cũng là tên của

chương trình đưa ra vào những năm 1990 bởi Chính phủ với đầu tư 100 triệu

USD để tạo ra 10 quỹ đầu tư mạo hiểm mới ở Israel. Chương trình này đã

được đưa ra để khắc phục vấn đề thiếu kinh nghiệm và năng lực của các

doanh nghiệp Israel trong việc chiếm lĩnh thị trường trên quy mô toàn cầu.

Trong thời kỳ cuối những năm 1980 đến đầu năm 1990, khởi nghiệp

kinh doanh của Israel vẫn còn trong giai đoạn trứng nước. Các công ty của

Israel không có kết nối lớn với các công ty nước ngoài.Trong khi rất thành

48

công trong việc phát triển công nghệ mới, các công ty Israel lại bị hạn chế

trong việc quản lý và tiếp thị toàn cầu.

Để làm được điều đó, các công ty cần vốn, và trước khi đầu tư mạo

hiểm ra đời ở Israel, quốc gia này chỉ các nguồn hỗ trợ rất nhỏ từ Văn phòng

Phụ trách Khoa học của Chính phủ và Chương trình Nghiên cứu Phát triển

Công nghiệp (BIRD). Để thực hiện các khoản tài trợ lớn hơn, Israel đã hợp

tác với Mỹ để hỗ trợ các doanh nghiệp Mỹ và Israel. Chương trình BIRD đã

góp phần thúc đẩy đáng kể các ngành công nghiệp, với 250 triệu USD dành

cho 750 dự án, đem lại một doanh thu là 8 tỷ USD. Giữa năm 1992 và 1997,

10 quỹ Yozma quyên góp được hơn 200 triệu USD. Mua lại hoặc tư nhân

trong thời hạn năm năm, Yozma quản lý ngày nay vốn gần 3 tỷ $ và hỗ trợ

hàng chục công ty Israel mới.

Các chương trình Yozma là xúc tác cho sự hình thành các chương trình

khác: Quỹ Israel Gemini Advent, Seed Israel vào năm 1994. Tính đến năm

2009, Israel đã có 45 quỹ đầu tư mạo hiểm của Israel. Ngay sau đó, Chính

phủ các nước khác chú ý và đến thăm Israel để học tập sự thành công của

chương trình Yozma, một chương trình đầu tư do Nhà nước khởi động rất

thành công, khác biệt với Mỹ, luôn do các quỹ đầu tư tư nhân dẫn đầu.

Với mục tiêu hỗ trợ phát triển khởi nghiệp, Israel cũng quan tâm đặc

biệt đến việc cải cách cơ chế tài chính quan liêu bằng việc nới lỏng các điều

kiện khắc nghiệt của ngành tài chính, bao gồm loại bỏ dần của trái phiếu

Chính phủ, mở rộng tiếp cận vốn cho các nhà đầu tư.

Vào năm 1997 đã có 17/25 trường hợp đầu tư qua quỹ và đầu tư trực

tiếp mua lại cổ phần của Yozma, sau khi cổ phần hóa Yozma, Chính phủ

Israel tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp bằng hình

thức hình thành các vốn mồi của nhà nước (Government seed fund). Điển

hình là sự hình thành của chương trình Heznek Program. Heznek là chương

49

trình của chính phủ Israel do Bộ Thương mại, Công nghiệp và Lao động quản

lý nhằm huy động vốn cùng đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc các công

ty đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp. Các doanh nghiệp khởi nghiệp

được đầu tư phải đáp ứng các yêu cầu là đi vào hoạt động dưới 6 tháng và chi

phí dưới 1 triệu NIS kể từ khi thành lập. Nhà nước đầu tư đối ứng tối đa 5

triệu NIS trong vòng 2 năm, không quá 66% chi phí cho R&D hoặc không

quá 50% tổng chi phí của doanh nghiệp đó. Các nhà đầu tư tư nhân có thể

mua cổ phần của nhà nước với giá ưu đãi bất kỳ lúc nào trong vòng 5 năm

đầu tiên.

Một số mô hình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo sáng tạo của Israel như:

Cơ quan đổi mới của Israel (Israel Innovation Authority-IIA)

Để hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, chính phủ Israel

thành lập ra một số cơ quan gọi là Ủy ban đổi mới sáng tạo quốc gia

(Innovation Authoirity Israel). Cơ quan đổi mới sáng tạo Israel có 6 đơn vị

với các nhiệm vụ cụ thể: 1 đơn vị chuyên xây dựng các tổ hợp giáo dục; 1 đơn

vị có nhiệm vụ hỗ trợ tài chính các doanh nghiệp khởi nghiệp nhưng chỉ trong

khoảng thời gian từ 1-2 năm; 1 đơn vị chuyên về các vườn ươm được các quỹ

đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình khởi nghiệp của các công ty; 1 đơn vị hỗ

trợ, thúc đẩy sản xuất thông qua ứng dụng công nghệ với năng suất cao, giảm

mạnh chi phí lao động; 1 đơn vị tham gia công tác xã hội có nhiệm vụ nâng

cao tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động trong lĩnh vực công nghệ cao.

Cơ quan này được chính phủ cấp kinh phí hàng năm để đầu tư cho

startup thong qua các vườn ươm. Tuy nhiên, để nhận được đầu tư từ Ủy ban

đổi mới sáng tạo, các vườn ươm phải mua giấy phép thông qua đấu thầu cạnh

tranh với giá khoảng 1 triệu $ và phải có các điều kiện nhất định như có ít

nhất 5 nhân sự làm việc toàn thời gian tại vườm ươm (giám đốc công nghệ,

giám đốc tài chính, giám đốc marketing, giám đốc nhân sự, kế toán) và có tối

50

thiểu 4 startup tham gia vườn ươm/1 chu kỳ. Thời gian hoạt động của giấy

phép là 8 năm. Tại Israel hiện có 25 vườn ươm và các vườn ươm này chủ yếu

là tư nhân và cũng có thể là công ty nước ngoài. Trung bình mỗi vườn ươm

nhận khoảng 500 đơn ứng viên/1 năm để tuyển chọn ra 4 startup tốt nhất ươm

tạo tại vườn ươm. Chu kỳ ươm tạo của mỗi startup sẽ kéo dài 18 tháng, chi

phí cho một vườn ươm vận hành trong một năm khoảng 1,7-2 triệu $.

Nguyên tắc của cơ quan đổi mới sáng tạo Israel là khi cấp vốn cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, bằng sáng chế phải được đăng kí tại Israel

và phải được cấp bởi cơ quan chức năng của Israel; doanh nghiệp không được

quyền chuyển giao các sáng chế đó cho các công ty nước ngoài.

Cơ quan đổi mới sáng tạo Israel không đưa ra định hướng đầu tư vào

lĩnh vực nào mà tùy thuộc vào doanh nghiệp. Nếu dự án hay, khả thi thì được

xét cấp vốn. Tuy nhiên, đối với những công ty lớn, cơ quan này sẽ đầu tư vào

một số lĩnh vực cần phát triển, mở rộng. Đặc biệt là ưu tiên đầu tư vào lĩnh

vực công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, trong đó có dự án phát triển otô không

người lái.

Phòng thử nghiệm sáng tạo công nghệ thuộc Vườn ươm doanh nghiệp

tại Tel Aviv (Creators Innovation Labs).

Phòng thử nghiệm sáng tạo thực tế là một mô hình công viên khoa học

(Science Park) được thiết lập trên cơ sở dự án Quadric Helix – Open

Innovation Cities, nhằm tập trung hỗ trợ phát triển các ứng dụng cho thành

phố thông minh (Smart City). Dự án Quadric Helix kết nối 4 đối tác gồm:

Thành phố Tel Aviv – Trường đại học Tel Aviv – Startup và các Công ty

công nghệ đa quốc gia.

Dự án được thông qua trên cơ sở đáp ứng các vấn đề đặt ra của thành

phố, đó là tạo ra môi trường để thử nghiệm các ứng dụng Smart City trước khi

đưa vào sử dụng trên thực tế, tạo ra cổng kết nối cung cấp thông tin công

51

nghệ cho các startup, kết nối các công ty công nghệ, các nhà đầu tư. Lãnh đạo

thành phố Tel Aviv mong muốn trở thành thành phố thông minh theo nghĩa là

nơi phát triển công nghệ để xây dựng thành phố thông minh trước tiên là phục

vụ cho chính cư dân của Thành phố, cải thiện điều kiện môi trường sống của

người dân, sau đó là xuất khẩu các sản phẩm, công nghệ xây dựng thành phố

thông minh ra các thành phố khác trên thế giới.

Dự án đã triển khai được hơn 1 năm, hiện tại đã ký kết với 5 thành phố,

có 100 startup tại đây, có 2 công ty lớn là Philip, CISCO đã đầu tư, dự án sẽ

triển khai trong vòng 3 năm, sẽ tự cân đối về tài chính.

3.2. Bài học cho chính sách phát triển các tổ chức doanh nghiệp

khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

3.2.1. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm Hoa kỳ:

Từ những phân tích và tìm hiểu việc Hoa Kỳ đưa ra các chính sách hỗ

trợ và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, hiện tại chính phủ Hoa Kỳ đưa ra

rất nhiều chính sách tạo điều kiện cho các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp KH&CN được hỗ trợ, tư vấn, giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp phát

triển thông qua các chương trình, dự án từ trung ương đến địa phương, thông

qua các đạo luật Thúc đẩy khởi nghiệp cũng như những chính sách về thuế,

hỗ trợ về mặt tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ cho các tổ chức thúc đẩy kinh doanh

để triển khai các khóa huấn luyện tập trung từ 3-4 tháng hỗ trợ các nhóm khởi

nghiệp. Cung cấp các nguồn đầu tư cho các quỹ đầu tư mạo hiểm theo cơ chế

đối ứng với với khu vực tư nhân. Đối với những lĩnh vực mới nổi như năng

lượng sạch có thể cung vốn đối ứng với tỉ lệ cao 2:1.

Có thể thấy là các quỹ đầu tư của Chính phủ Mỹ không thực hiện đầu

tư trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp mà hợp tác, đầu tư cùng với

các quỹ tư nhân, theo tỷ lệ tùy thuộc vào mức độ rủi ro của doanh nghiệp khởi

nghiệp. Phương thức này cho phép Nhà nước tác động được vào tiến trình

52

khởi nghiệp trong toàn nền kinh tế trong khi nguồn vốn tư nhân chưa đủ,

đồng thời cũng giảm bớt được rủi ro cho nguồn vốn của Nhà nước.

3.2.2. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm Hàn Quốc và Israel:

Dựa vào các mô hình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạ, xây dựng chính sách

phát triển các hệ sinh thái khởi nghiệp, vườn ươm doanh nghiệp tại Hàn Quốc

và Israel, ta rút ra một số bài học thực tế sau:

- Vai trò của chính phủ trong phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.

Chính phủ có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy hệ sinh thái khởi

nghiệp sáng tạo được thể hiện qua các nguồn vốn tài trợ từ ngân sách chính

phủ và địa phương. Tại hàn quốc có rất nhiều mô hình và hình thành hỗ trợ hệ

sinh thái khởi nghiệp khác nhau nên phương thức tài trợ của nhà nước cũng

rất đa dạng. Tại Israel chính phủ đóng vai trò chính yếu trong hỗ trợ các vườn

ươm thong qua điều tiết phân bổ ngân sách. Trong khi đó, chính quyền các

thành phố đóng vai trò hỗ trợ trong việc tài trợ các vườn ươm. Như vậy, các

nguồn tài trợ của chính phủ, sự hỗ trợ của các trường đại học hay của các

công ty, cùng với tiền thuê và nguồn thu nhập từ dịch vụ tư vấn tạo thành các

nguồn thu chính yếu cho các vườn ươm. Ngoài ra hai nước bạn cũng khuyến

khích hỗ trợ gián tiếp thông qua chính sách khuyến khích về thuế đối với các

doanh nghiệp đầu tư thành lập vườn ươm, cho vay lãi suất thấp cho các cơ

quan của chính quyền địa phương trong đầu tư vườn ươm và ấn định lãi suất

thấp cho các Vườn ươm khi huy động nguồn tài trợ từ các liên minh giữa các

ngân hàng, doanh nghiệp cho hoạt động.

- Phát triển các mô hình Vườn ươm, không gian khởi nghiệp.

Mô hình vườn ươm doanh nghiệp và các không gian khởi nghiệp là hỗ

trợ rất hiệu quả cho các startup ươm tạo và phát triển, Việt Nam nên hình

thành hoăc khuyến khích tư nhân hình thành nên các Vườn ươm doanh

nghiệp, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo (tư nhân) và các không gian

53

khởi nghiệp sáng tạo. Nhà nước nên ban hành các chính sách hỗ trợ như: hỗ

trợ hoạt động đào tạo, chuyên gia, hỗ trợ thuế, hỗ trợ tiền thuê mặt bằng

không gian làm việc…

Vị trí các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các vườn ươm

doanh nghiệp sáng tạo, công viên sáng tạo thường được bố trí gần các trường

đại học, viện nghiên cứu, gần trung tâm văn hóa, giáo dục thuận tiện cho giao

dịch và đi lại, có cảnh quan, không gian riêng biệt càng dễ thu hút, kịch thịch

sự sáng tạo…

Theo thống kê 90% startup sẽ chết sau khi gọi vốn ban đầu thành công.

Vấn đề không phải do công nghệ mà do những người làm startup thường chỉ

giỏi về mặt kỹ thuật nhưng lại thiếu hiểu biết về kinh doanh và thị trường. Do

vậy, tại các vườn ươm, startup chỉ cần tập trung vào việc phát triển sản phẩm,

còn việc thương mại hóa sẽ do những chuyên gia trong vườn ươm phụ trách.

Các vườn ươm sẽ định hướng các startup chỉ tập trung vào 1 ứng dụng duy

nhất của công nghệ để phát triển thành sản phẩm, trong đó cân bằng giữa ba

yếu tố: độ lớn của thị trường cho ứng dụng, thời gian để phát triển ứng dụng

và thời gian để thâm nhập thị trường. Mô hình vườn ươm hiệu quả nhất vẫn là

đối tác công - tư.

3.2.3. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm Singapore

Singapore đã sớm nhận thức được vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp

KH&CN trong việc phát triển KT-XH, Chính phủ Singapore đã sớm có những

chính sách phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp nhằm khuyển khích

tinh thần khởi nghiệp trong nước như tạo ra môi trường thân thiện cùng với nguồn

nhân lực chất lượng cao còn thúc đẩy nguồn vốn ĐTMH cho khởi nghiệp. Cũng

như Hoa Kỳ Chính phủ Singapore sẽ cũng cấp nguồn vốn đối ứng khi doanh

nghiệp khởi nghiệp KH&CN nhận được sự đầu tư từ khu vực tư nhân theo tỉ lệ

1:1 cho doanh nghiệp khởi nghiệp vào giai đoạn sơ khai.

54

3.3. Định hướng các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển

các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo ở Việt

Nam hiện nay.

Từ cơ sở lý luận, thực trạng phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp KH&CN ở Việt Nam và kinh nghiệm một số quốc gia trên thế

giới đề tài đưa ra một số đặc điểm, khó khăn của các tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp KH&CN từ đó đề xuất giải pháp cũng như điều kiện để

phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST KH&CN ở

Việt Nam:

3.3.1. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực đội ngũ nhân sự hỗ trợ,

thực hiện chính sách khởi nghiệp.

- Để tạo ra một môi trường khởi nghiệp phát triển mạnh mẽ rất cần sự

hỗ trợ của các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp, các tổ chức muốn phát triển chúng

ta cần có một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp thực hiện

nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST từ những giai đoạn còn

non trẻ. Là đội ngũ nguồn có chuyên môn cao có thể vạch ra các bước đột phá

giúp doanh nghiệp khởi nghiệp từ non trẻ có thể phát triển ngày một mạnh

mẽ. Chính sách đưa ra là cần đào tạo về con người, nâng cao năng lực tối ưu,

nhân sự có khả năng phân tích, hoạch định, hỗ trợ các doanh nghiệp tối đa

nhất có thể, để sở hữu được một đội ngũ chuyên môn cao, ta cần đẩy mạnh

các khóa học nâng cao nghiệp vụ chuyên môn bằng nhiều hình thức. Tại

thông tư số 05/2019/TT-BKHĐT về “hướng dẫn hỗ trợ phát triển nguồn nhân

lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” tại các điều 3,4,5 có đề cập việc bồi dưỡng

đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp nhưng chỉ là doanh

nghiệp vừa và nhỏ cho đến thời điểm hiện tại chính phủ chưa ban hành chính

sách bồi dưỡng cán bộ hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST vì vậy việc

55

nghiên cứu, đề xuất, ban hành các chính sách đào tạo, bồi dưỡng các đối

tượng trên là rất cần thiết.

- Các ý tưởng công nghệ, ý tưởng kinh doanh chủ yếu xuất phát từ

trong trường đại học, viện nghiên cứu nhưng khả năng chuyển thành kế hoạch

kinh doanh còn khó khăn, vì vậy cần ban hành các chính sách xây dựng các

quỹ hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp ĐMST nhằm xây dựng tinh thần kinh doanh

cho sinh viên từ trong trường đại học cũng như cho các nhà khoa học từ viện

nghiên cứu thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn, tổ chức thúc đẩy

doanh nghiệp hỗ trợ kinh nghiệm cho các nhóm khởi nghiệm.

3.3.2. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực ban hành và thực thi

chính sách phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới

sáng tạo

- Tăng cường và nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa Bộ

KH&CN, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính với địa phương trong xây

dựng và thực thi các chính sách lien quan đến hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.

- Xây dựng cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Bộ Khoa học và

công nghệ và các địa phương trong thực hiện các chương trình KH&CN quốc

gia như Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

(CT 592), chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ (CT

2075), chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; các quỹ, chương trình, đề

án, dự án lien quan đến khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo có vốn nước ngoài

(BIPP, IPP2, dự án FIRST, đề án thung lung Silicon).

- Các chính sách trong lĩnh vực phát triển tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp, ĐMST còn hạn chế, chưa thực sự cụ thể và dễ dàng áp dụng

trong thực tế hiện nay. Các bộ nghành, các cơ quan liên quan cần tiếp tục

nghiên cứu, tham mưu ban hành những chính sách cụ thể, từng bước giúp

doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST định hình mục tiêu phát triển, ví dụ như:

56

Phân loại các loại hình doanh nghiệp, ĐMST, xây dựng các nguyên tắc căn

bản để đảm bảo hoạt động đối với các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp, ĐMST.

3.3.3. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực đánh giá chính sách

phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo

- Tổ chức một số chương trình đào tạo, nâng cao tinh thần kinh doanh

cho các nhà khoa học, sinh viên trong nhà trường dưới sự kèm cặp, hướng

dẫn của các tổ chức chuyên môn.

- Doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN là nhưng doanh nghiệp mới

thành lập khả năng tiếp cận nguồn vốn ĐTMH chưa có, nhà nước cần tạo

kênh thông tin, truyền thông để doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN có khả

năng kết nối với các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước.

- Nhà nước trước mắt cùng tham gia bù đắp khoảng trống đầu tư cho cá

nhân, tổ chức khởi nghiệp do các doanh nghiệp khởi nghiệp thường bắt đầu từ

chu trình giữa của chuỗi nghiên cứu và phát triển.

- Cần thiết thống nhất hệ thống văn bản nhà nước trong việc hỗ trợ và

khuyến khích thành lập quỹ Đầu tư mạo hiểm (cơ chế thành lập, chia sẻ rủi

ro, đối ứng vốn khi có sự tham gia của khu vực tư nhân).

- Nhà nước cần xây dựng các cơ chế ưu đãi về thuế, tài chính cho

doanh nghiệp khởi nghiệp Khoa học và công nghệ.

- Nhà nước cần hỗ trợ thêm cơ sở hạ tầng như: không gian làm việc cho

các nhóm mới khởi nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp thuê

đất với giá ưu đãi...

- Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý đầy đủ cũng như cơ chế về quyền

sở hữu trí tuệ nhằm thu hút vồn từ nhà đâu tư nước ngoài.

Ngoài các chính sách trên, mới đây Thủ tưởng Chính phủ cũng mới ban

hành Quyết định số 844/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh

57

thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" nhằm Tạo lập môi

trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại

hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản

trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.

Tiểu kết chương 3

Từ kinh nghiệp quốc tế cho thấy chính phủ các nước đưa ra một số giải

pháp nhằm phát triển các tổ chức hỗ trợ DNKN, ĐMST như:

- Kết nối khởi nghiệp với các tổ chức hỗ trợ, quỹ bảo lãnh tín dụng và

các nhà cố vấn;

- Khuyến khích tư nhân hình thành nên các Vườn ươm doanh nghiệp,

các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo (tư nhân) và các không gian khởi

nghiệp sáng tạo;

- Nhà nước nên ban hành các chính sách hỗ trợ như: hỗ trợ hoạt động

đào tạo, chuyên gia, hỗ trợ thuế, hỗ trợ tiền thuê mặt bằng không gian làm

việc…;

- Chính sách khuyến khích về thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư

thành lập vườn ươm, cho vay lãi suất thấp cho các cơ quan của chính quyền

địa phương trong đầu tư vườn ươm và ấn định lãi suất thấp cho các Vườn

ươm khi huy động nguồn tài trợ từ các liên minh giữa các ngân hàng, doanh

nghiệp cho hoạt động;

- Tạo điều kiện dễ dàng hơn về tiếp cận vốn;

- Ngoài ra chính phủ các nước cũng cung cấp nguồn vốn đối ứng khi

doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN nhận được đầu tư từ khu vực tư nhân theo

tỷ lệ 1:1 cho doanh nghiệp khởi nghiệp và giai đoạn sơ khai. Hay một số tỷ lệ

khác tùy thuộc vào từng lĩnh vực mà doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh.

Bên cạnh đó nhằm thúc đẩy và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN

58

ở Việt Nam, ngoài các nỗ lực của bản thân doanh nghiệp thì vai trò của nhà

nước cũng rất quan trọng, thông qua việc ban hành các chính sách thiết thực

nhằm xây dựng hành lang pháp lý hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp khởi

nghiệp, ĐMST và cả các tổ chức hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp,

ĐMST. Trong các nhóm giải pháp nêu trên, nhóm giải pháp nâng cao năng

lực đội ngũ nhân sự hỗ trợ, thực hiện chính sách khởi nghiệp là quan trọng

nhất vì chính sách dù có chi tiết, nhiều ưu điểm đột phá đến đâu cũng không

thể trở thành hiện thực nếu thiếu đi đội ngũ nhân sự chuyên môn cao thông

thạo từng quy định, căn cứ của chính sách và áp dụng thực hiện hiệu quả

trong thực tế.

Các startup đáp ứng các tiêu chí liên quan có thể được hưởng hỗ trợ

thuộc các nhóm sau:

- Nhóm các hỗ trợ dành riêng cho startup (06 biện pháp):

+ Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết

bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung;

hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh

doanh mới;

+ Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản

phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng;

+ Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng

lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng

tạo;

+ Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ;

+ Cấp bù lãi suất thông qua các tổ chức tín dụng (tùy quyết định của

Chính phủ từng thời kỳ)

59

+ Hỗ trợ cho đầu tư vào startup

- Nhóm các hỗ trợ chung cho các SME, trong đó có các startup đáp

ứng điều kiện (07 biện pháp)

+ Hỗ trợ tiếp cận tín dụng, Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và

vừa + Hỗ trợ thuế, kế toán

+ Hỗ trợ mặt bằng sản xuất

+ Hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc

chung

+ Hỗ trợ mở rộng thị trường + Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý

+ Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực

60

KẾT LUẬN

Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp

4.0 trên thế giới hiện nay, doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST được kỳ vọng là

những doanh nghiệp mũi nhọn, đột phá, tạo ra giá trị kinh tế lớn và rất cần sự

quan tâm, ưu tiên phát triển dù ở bất cứ quốc gia nào. Chính vì thế, việc định

hình và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các Tổ chức hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp là vô cùng quan trọng, cấp bách và cần thiết.

Cộng đồng khởi nghiệp tại Việt Nam hiện nay cho rằng, Việt Nam

“đang ở trong thời kỳ bùng nổ của làn sóng khởi nghiệp thứ hai, với mốc thời

gian 2016 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nhân rộng và đặt

nền tảng cho những chặng đường tiếp theo của cộng đồng khởi nghiệp trong

nước”. Để đạt được các thành công vượt bậc, doanh nghiệp khởi nghiệp Việt

Nam không thể hoạt động riêng lẻ mà phải đặt trong hệ sinh thái khởi nghiệp

rộng lớn để hỗ trợ, hợp tác và cùng phát triển. Hiện nay, các tổ chức hỗ trợ

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, bao gồm các vườn ươm, các tổ chức thúc đẩy

kinh doanh và các tổ chức khác hỗ trợ khởi nghiệp đóng vai trò quan trọng

trong hệ sinh thái này với khả năng cố vấn và đầu tư vốn mồi cho các doanh

nghiệp khởi nghiệp.

Qua những đánh giá, phân tích về thực trạng phát triển các Tổ chức hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp hiện nay cũng như nghiên cứu kinh nghiệm

quốc tế về khởi nghiệp, người viết cho rằng nhà nước cần tiếp tục ban hành

các chính sách thiết thực hỗ trợ cả doanh nghiệp khởi nghiệp và các Tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, cụ thể như sau:

- Cần tiếp tục xây dựng chủ trương, hướng dẫn tiến hành xây dựng quỹ

đầu tư cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tại các trường đại học, viện nghiên

cứu, các địa phương để đầu tư vốn ban đầu cho các ý tưởng, dự án khởi

nghiệp, ĐMST;

61

- Tạo các gói tín dụng ưu đãi của ngân hàng cho khởi nghiệp ĐMST,

trong đó chấp nhận giao dịch bảo đảm bằng giá trị tài sản trí tuệ, giá trị dự án,

doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo;

- Cần ban hành các quy định hướng dẫn thành lập quỹ đầu tư cho khởi

nghiệp, ĐMST trong nước nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư

cho Startup, cần có những hoạt động xúc tiến, hợp tác, vinh danh cho các nhà

đầu tư thiên thần, có cơ chế, chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư mạo hiểm;

- Giao nhiệm vụ cụ thể cho các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp, đổi mới sáng tạo hỗ trợ doanh nghiệp tối đa về thông tin và tài chính

thông qua các dự án của Chính phủ hoặc dự án hợp tác quốc tế;

- Ban hành các chính sách xây dựng hoàn chỉnh mô hình hệ sinh thái

khởi nghiệp, hỗ trợ các phương thức kết nối bên trong hệ sinh thái và với các

hệ sinh thái khởi nghiệp quốc tế; hỗ trợ cung cấp các thông tin về thị trường

trong nước và quốc tế trong các lĩnh vực của doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi

mới sáng tạo.

Việc hỗ trợ, phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp và các Tổ chức hỗ

trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thông qua chính sách và hành

động thực tiễn là công việc lâu dài, đòi hỏi có lộ trình cụ thể và quyết tâm

cao. Dù vậy, thông qua những nỗ lực và cố gắng từ nhiều phía, các Tổ chức

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục phát triển lớn

mạnh, vững vàng hơn, là chỗ dựa tin cậy để các doanh nghiệp khởi nghiệp

tiếp tục tạo ra những giá trị kinh tế vượt bậc, làm nên những kỳ tích, làm giàu

cho đất nước Việt Nam trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.

62

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anh-Minh Do. Techinasia. 2013. “A comprehensive mindmap of

Vietnam’s startup ecosystem”. http://www.techinasia.com/mindmap-

vietnam-startup-ecosystem/.

2. Anh-Minh Do. Techinasia. 2014. “A comprehensive look at Vietnam’s

startup ecosystem in 2014: 6 investors, 10 incubators, and lots more”.

http://www.techinasia.com/comprehensive-on-vietnam-incubator-

ecosystem/

3. Chính phủ (2005), Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm

2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ

chức KH&CN công lập.

4. Chính phủ (2007), Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm

2007 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN

5. Chính phủ (2009), Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ : Về trợ

giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

6. Chính phủ (2010), Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/09/2010

7. Chính phủ (2016), Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ :

Về việc phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng

tạo quốc gia đến năm 2025"

8. Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN

công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592)

9. Chương trình Phát triển thị trường công nghệ đến năm 2020 (Chương

trình 2075)

10. Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ, Bộ

Khoa học và Công nghệ (2015), Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”

63

11. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2015), Biên soạn Tổng quan: “Xây dựng

và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp: vai trò của chính sách chính phủ”

12. Đại diện IDG Ventures Vietnam (2013), Báo cáo tại Hội thảo “Ươm tạo

Doanh nghiệp KH&CN trong các trường đại học, viện nghiên cứu, kinh

nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam” do Cục Phát triển thị trường và

doanh nghiệp khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức

ngày 06/8/2013 tại Hà Nội.

13. Nguyễn Thanh Hà, Vũ Cao Đàm (2008), “Đầu tư mạo hiểm”, Tạp chí

Hoạt động Khoa học, số 1/2008

14. Lê Quang Huy (1999), “Nghiên cứu một số vấn đề về đầu tư mạo hiểm

cho hoạt động khoa học và công nghệ”, Đề tài cơ sở

15. Israeli financing innovation schemesfor Europe; the Yozma program:

success factors and policy)

16. Jin Joo Ham (2016), Tài chính trong khởi nghiệp: Đánh giá chương trình và

quan điểm chính sách, Tạp chí Chính sách Khoa học và Công nghệ số 1

17. Phan Hoàng Lan (2015), Báo cáo tại Hội thảo “Hiệu quả thu hút vốn đầu

tư mạo hiểm cho đổi mới công nghệ cao các doanh nghiệp tại Việt Nam”

do Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế, tổ chức ngày

22/10/2015 tại Hà Nội.

18. Mandela Schumacher-Hodge, You Think You’re a Startup, But You’re

Really a Small Business (and that’s totally cool too),

https://medium.com/swlh/you-think-you-re-a-startup-but-you-re-really-a-

small-business-and-that-s-totally-cool-too-cd45ff80e6be#.ly4nmvgmu

19. Quốc hội (2006), Luật Chuyển giao công nghệ số 80/2006/QH1

20. Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12

21. Quốc hội (2013), Luật KH&CN 2013 số 29/2013/QH13

64

22. Trần Lương Sơn - Chu Thái Hòa, Nhà nước và khởi nghiệp, Bài học kinh

nghiệm đối với Việt Nam, http://vietnamreport.net/Nha-nuoc-va-khoi-

nghiep-Bai-hoc-kinh-nghiem-doi-voi-Viet-Nam-5332-1022.html

23. Startup Development Phases Document History,

http://www.startupcommons.org/startup-key-stages-previous-

versions.html

24. Startup Financing Cycle,

https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Startup_financing_cycle.svg

25. Tạ Doãn Trịnh (2015), "Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích tư

nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước để thành lập các quỹ đầu tư

mạo hiểm phát triển công nghệ mới, công nghệ cao”, Đề tài cấp Bộ

26. Tạ Doãn Trịnh (2015), Báo cáo tại Hội thảo “Hiệu quả thu hút vốn đầu tư

mạo hiểm cho đổi mới công nghệ cao các doanh nghiệp tại Việt Nam” do

Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế, tổ chức ngày 22/10/2015

tại Hà Nội.

27. VC policy: Yozma program 15 –year perspective by Gil Avnimelech

28. http://cafebiz.vn/cau-chuyen-kinh-doanh/khoi-nghiep-that-bai-la-binh-

thuong-chang-co-gi-dang-xau-ho-20150919104205256.chn

29. http://ictnews.vn/khoi-nghiep/voi-startup-mot-ke-hoach-kinh-doanh-hoan-

hao-thuc-chat-chi-la-hu-cau-139128.ict

30. http://dantri.com.vn/suc-manh-so/doanh-nghiep-khoi-nghiep-se-mai-

cham-lon-neu-van-gap-nhieu-rao-can-20160122072651417.htm

31. http://genk.vn/tin-ict/vi-sao-deca-vn-dong-cua-2016010316563024.chn

32. http://genk.vn/tin-ict/2015-nam-buon-cho-dich-vu-tmdt-tai-viet-nam-lam-

alibaba-khong-de-20151231141935442.chn

33. http://genk.vn/tin-ict/cai-chet-bat-ngo-cua-deca-va-nhung-dau-hoi-cho-

nganh-tmdt-viet-nam-20160102134822117.chn

65

34. http://genk.vn/tin-ict/beyeu-com-dong-cua-de-lai-loi-nhan-dau-thuong-

toi-tmdt-viet-nam-20151105142408702.chn

35. http://cafebiz.vn/cau-chuyen-kinh-doanh/tai-sao-uber-van-chua-len-san-

20160227081054669.chn

36. http://cafebiz.vn/nhan-vat/ceo-money-lover-neu-startup-cua-ban-song-

duoc-o-viet-nam-thi-hoan-toan-song-duoc-o-cac-nuoc-khac-

20160225115759585.chn

37. https://vi.wikipedia.org/wiki/WhatsApp

66