Chọn lọc tự nhiên tác động lên
thành phần di truyền của quần thể
Cba quá trình y biến đổi tần sgene
đã xét trên đây đều một điểm chung là
không một quá trình nào định ớng đối
với sự thích nghi (adaptation). Theo nhận
định của một số tác giả (Mayer 1974;
Ayala Kiger 1980), c quá trình y
ngẫu nhiên đối với sự thích nghi, do
đó tự thân chúng sphoại tổ chức và
các đặc tính thích nghi của sinh vật.
Ch chọn lọc t nhiên (natural
selection) mới là quá trình thúc đẩy sự
thích nghi hạn chế các hiệu quả phá
hoại tổ chức của các quá trình khác.
Trong ý nghĩa đó, chọn lọc tự nhiên là
quá trình tiến hóa khốc liệt nhất, bởi vì
chmi thể giải thích được bản
chất thích nghi,tính đa dạng (diversity)
và có tổ chức cao của các sinh vật.
Ý tưởng về chọn lọc tự nhiên như quá
trình nền tảng, động lực của sự biến
đổi tiến hóa do Charles Darwin Alfred
Russel Wallace độc lập đưa ra năm 1858.
lun tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên
đã được phát triển đầy đủ, với chứng cứ
ủng hộ xác đáng, trong cuốn Nguồn c
các loài (The Origin of Species) do
Darwin xut bản năm 1859.
Theo Hartl et al (1988, 1997), trên quan
điểm thuyết tổng hợp hiện đại, thể
hình dung chọn lọc tự nhiên xy ra dựa
trên ba điểm chính: (1) mọi sinh vật,
đời con được sinh ra nhiều hơn ssống
sót sinh sản; (2) c thể khác nhau
vkhả ng sống t và sinh sản và phần
lớn những khác biệt này do kiểu gene;
(3) Trong mỗi thế hệ, các kiểu gene sống
sót ssinh sản nhiều hơn quyết định
sự phân bố lại các kiểu gene ở thế hệ sau.
Hậu quả là, các allele tăng ờng sự
sống sót và sinh sản sẽ gia ng tần stừ
thế hệ này sang thế hệ khác, và quần th
đó sngày càng sống sót và sinh sản tốt
hơn với môi trường ca nó.
Trên quan điểm đó, chọn lọc tự nhiên
được định nghĩa là s sống sót và sinh
sản biệt hóa của các kiểu gene.
Để hiểu được các tác dụng của chọn lọc
lên biến dị di truyền, ta phải t xem độ
phù hợp tương đối (relative fitness) của
các kiểu gene khác nhau. nhiều
thuật ngữ đồng nghĩa như: độ phù hợp
Darwin (Darwinian fitness), giá trchọn
lọc (selective value), hay giá tr thích
nghi (adaptive value). Tu trung,
th được định nghĩa như khả năng
tương đối của các kiểu gene khác nhau
trong việc truyn lại c allele cho những
thế hệ tương lai (Weaver Hedrick
1997).
Bởi vì chọn lọc tự nhiên tác động bằng
ssinh sản biệt hóa, nên ta có thxem
sđo hiệu năng sinh sản của một
kiểu gene. Để cho tiện, các nhà di truyền
học thường đặt định trị số độ phù hợp
(w) bằng 1 cho kiểu gene hiệu năng
sinh sản cao nhất. Một đơn vị đo liên
quan h số chọn lọc (selection
coefficient), được hiệy bằng s, và
được định nghĩa là s = 1 − w. Hệ số chọn
lọc đo mức độ giảm bớt độ phù hợp của
một kiểu gene. Gisử mỗi thế hệ các
kiểu gene AA và Aa đều sinh được 100
con, còn thđồng hợp lặn sinh được 80
con; nếu ta coi độ phù hợp của các th
mang allele trội là 1, thì đphù hợp của
các thđồng hợp lặn là 0,8. Hiệu số của
các trsố độ phù hp y chính h số
chọn lọc (s), và trong trường hợp này s =
1 0,8 = 0,2. Nếu như các kiểu gene
khnăng sống sót và sinh sản như nhau
thì s = 0; nếu một kiểu gene nào đó y
chết hoặc làm bất thụ hoàn toàn thì s = 1.
1. Chọn lọc và đột biến
Chọn lọc xu ớng đào thải các allele
hại ra khỏi quần thể, trong khi đột
biến thể tạo ra các allele hại mới.
Quần thể sẽ giữ nguyên trạng thái phân
bc kiểu gene nếu như tần số đột biến
mới xuất hiện vừa đúng bằng tần số
allele bị chọn lọc đào thải. Sau đây ta th
xét s cân bằng y trong trường hợp
"Chọn lọc chống lại các đồng hợp tử
lặn".
Gi sử A là allele bình thường và a
allele hại với tần số tương ứng của
chúng p q. Khi đó đphù hợp hay
giá trthích nghi của các kiểu gene AA,