intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuong 4 - Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển

Chia sẻ: Tran Nguyen Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

1.619
lượt xem
121
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu tham khảo và hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuong 4 - Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển

  1. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Chương 4 CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN A. Mục đích Giúp người học nắm được hoàn cảnh ra đời, đặc điểm chung của các học thuyết kinh tế có vị trí lịch sử là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. B. Yêu cầu Sinh viên nắm vững nội dung cơ bản các học thuyết kinh tế của các đại biểu tiêu biểu của trường phái này, các điểm tiến bộ, khoa học và những hạn chế của nó. Thấy được ý nghĩa của việc nghiên cứu. C. Nội dung I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN 1.1. Hoàn cảnh ra đời Các học thuyết kinh tế cổ điển ra đời vào cuối thế kỉ XVII, phát triển mạnh mẽ trong suốt thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX. Trường phái kinh tế chính trị cổ điển xuất hiện và phát triển ở hai nước Anh và Pháp, trong đó chủ yếu là nước Anh với ba nhà kinh tế tiêu biểu là W.Petty, A.Smith và D.Ricardo. Hoàn cảnh ra đời của các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển có thể khái quát ở những điểm sau: Cuối thế kỷ XVII, nhiệm vụ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản về cơ bản đã hoàn thành, vai trò của tư bản thương nghiệp giảm xuống, lý luận trọng thương không còn đủ sức thuyết phục. Thực tiễn đòi hỏi phải có lý luận mới thay thế cho lý luận trọng thương. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa ra đời ngày càng nhiều đã cho thấy nguồn gốc của cải không phải từ lưu thông mà phải từ sản xuất. Thực tế đó đã giúp các nhà kinh tế tư sản cổ điển đưa ra các học thuyết kinh tế khẳng định, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản. Về mặt xã hội, một yêu cầu mới đặt ra là tiếp tục phê phán phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời, khẳng định tính ưu việt hơn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và tìm biện pháp bảo vệ và thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh hơn. Trường phái kinh tế chính trị cổ điển ra đời đáp ứng được yêu cầu đó. 1. 2. Đặc điểm của các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 1 trị
  2. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển - Thứ nhất: Kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Với việc chuyển đối tượng nghiên cứu sang lĩnh vực sản xuất, đã giúp trường phái kinh tế này đi sâu nghiên cứu và giải thích đúng nguồn gốc của cải. - Thứ hai: Về phương pháp nghiên cứu, kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã sử dụng phương pháp trừu tượng hoá. Nhờ có phương pháp này, kinh tế chính trị cổ điển đã đi sâu nghiên cứu và trình bày có hệ thống các phạm trù kinh tế như giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi nhuận v.v... Tuy vậy, do giới hạn về thế giới quan và điều kiện lịch sử, các nhà kinh tế tư sản cổ điển đã có những kết luận không khoa học, thậm chí mâu thuẫn với những quan điểm của họ. Đó là tính hai mặt trong phương pháp luận của trường phái kinh tế này. - Thứ ba: Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển đề cao tư tưởng tự do kinh tế, đề cao tính quy luật trong nền kinh tế, tư tưởng này hoàn toàn khác với chủ nghĩa trọng thương - đề cao vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước. II. NỘI DUNG CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ TƯ SẢN CỔ ĐIỂN. 2.1. Học thuyết kinh tế của William Petty. 2.1.1. Sơ lược tiểu sử của W Petty. W.Petty (1623 - 1687) là nhà kinh tế học người Anh. Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau như vật lý, y học, âm nhạc, kinh tế v.v... W.Petty là tiến sỹ vật lý, là giáo sư giải phẫu và âm nhạc, là nhà công nghiệp lớn vừa là một chủ đồn điền. K.Marx cho rằng, W.Petty là người toàn tài, là cha đẻ của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Do hoạt động lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn, cho nên thế giới quan và phương pháp luận của W.Petty đã có bước tiến vượt bậc so với chủ nghĩa trọng thương. Về kinh tế, W.Petty đã viết nhiều tác phẩm có giá trị: Bàn về thuế khoá và lệ phí (1662), Giải phẫu học chính trị Ireland (1672), Số học chính trị (1676), Bàn về tiền tệ (1682). 2.1.2. Nội dung học thuyết kinh tế của W. Petty. 2.1.2.1. Lý thuyết giá trị - lao động. W.Petty là người đặt nền móng cho lý thuyết giá trị - lao động, bởi vì ông là người đầu tiên xác định đúng đắn vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị, là nguồn gốc thực sự của của cải. Nghiên cứu giá trị - lao động, ông dùng thuật ngữ giá cả bao gồm giá cả tự nhiên và giá cả chính trị. Theo ông, giá cả tự nhiên do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Giá cả chính trị (giá cả thị trường) do nhiều yếu tố chi phối cho nên khó xác định chính xác. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 2 trị
  3. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Điểm hạn chế trong lý thuyết giá trị của W.Petty là quan điểm chỉ có lao động khai thác bạc (tiền) mới tạo ra giá trị. Theo ông, giá trị của hàng hoá là sự phản ánh giá trị của tiền giống như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy. Nghiên cứu quan hệ giữa năng suất lao động và giá trị hàng hoá, ông cho rằng giá cả tự nhiên tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Đây là quan điểm đúng, được nhiều nhà kinh tế kế thừa và phát triển. W.Petty đưa ra luận điểm: Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải. Luận điểm này đúng, khi coi của cải là giá trị sử dụng và đất đai, lao động là hai yếu tố của quá trình lao động sản xuất. Luận điểm này sai, khi coi của cải là giá trị và đất đai, lao động là hai nhân tố tạo ra giá trị. Nghĩa là nó mâu thuẫn với quan điểm của ông: giá trị hàng hoá do lượng lao động hao phí sản xuất ra hàng hoá quyết định. 2.1.2.2. Lý thuyết tiền. W. Petty phê phán lý thuyết tiền tệ của chủ nghĩa trọng thương. Theo ông, tiền tệ không phải lúc nào cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có. Tiền chỉ là công cụ của lưu thông hàng hoá, vì thế không nên tích trữ tiền quá mức cần thiết. Nghiên cứu tiền, W.Petty đã nghiên cứu hai thứ kim loại quý giữ vai trò tiền tệ là vàng và bạc. Theo ông, quan hệ tỷ lệ giữa chúng là do số lượng lao động hao phí để sản xuất vàng và bạc quyết định. Như vậy, ông đã xác định chính xác giá trị của tiền (vàng, bạc). Từ đó, ông khuyến cáo Nhà nước không nên phát hành tiền không đủ giá trị. W.Petty là người đầu tiên nghiên cứu số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông và xác định số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông, trên cơ sở số lượng hàng hoá và tốc độ chu chuyển của tiền tệ. Đây là một cống hiến xuất sắc của W.Petty và được các nhà kinh tế kế thừa và phát triển. 2.1.2.3. Lý thuyết tiền lương W.Petty coi lao động là hàng hoá và tiền lương là giá cả của lao động. Theo ông nếu trả lương cao thì công nhân hay uống rượu và bỏ việc còn trả lương thấp thì công nhân phải lao động tích cực. Vì vậy, giới hạn cao nhất của tiền lương là mức tư liệu sinh hoạt tối thiểu để nuôi sống công nhân. Quan điểm trả lương thấp của W.Petty thích hợp với giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi năng suất lao động còn thấp. Hơn nữa ông đã thấy được mối quan hệ giữa tiền lương và lợi nhuận, cho nên trả lương cao trực tiếp làm thiệt hại cho nhà tư bản. 2.1.2.4. Lý thuyết địa tô và lợi tức. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 3 trị
  4. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Lý thuyết địa tô của W.Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Ông cho rằng địa tô là số chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm tiền lương và chi phí về giống. Như vậy, địa tô bằng giá trị nông phẩm trừ đi chi phí sản xuất. Với quan điểm này, K.Marx cho rằng ông đã chỉ ra được nguồn gốc của địa tô và có mầm mống tư tưởng về bóc lột lao động làm thuê. W.Petty đã nghiên cứu địa tô chênh lệch và khẳng định các mảnh ruộng xa gần khác nhau mang lại thu nhập khác nhau. Tuy nhiên ông chưa nghiên cứu địa tô tuyệt đối là hình thức địa tô được hình thành do chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất. Theo W.Petty bán ruộng đất là bán quyền nhận địa tô và giá cả ruộng đất do địa tô quyết định. Ông đưa ra công thức tính giá cả ruộng đất: Giá cả ruộng đất = địa tô x 20. Khi nghiên cứu về lợi tức W.Petty cho rằng, lợi tức là thu nhập của tiền tệ cho vay và mức lợi tức phụ thuộc vào mức địa tô. Theo ông, người có tiền có thể sử dụng nó theo hai cách để có thu nhập. Cách thứ nhất là mua ruộng đất và cho thuê để thu địa tô và cách thứ hai là cho vay để thu lợi tức. Ông còn cho rằng, lợi tức phụ thuộc vào điều kiện sản xuất nông nghiệp do đó Nhà nước không nên quy định mức lợi tức. 2.2. Học thuyết kinh tế của Adam Smith 2.2.1. Sơ lược tiểu sửcủa Adam .SMith Adam Smith sinh 5-6-1723 tại Scotland trong một gia đình công chức ngành thuế. Ông là một người có tài năng và được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng của nước Anh. 1748 A.Smith tốt nghiệp đại học và ba năm sau ông tham gia giảng dạy một số môn học như lôgíc học, triết học, đạo đức, thiên văn. Năm 1763, ông đi du lịch nhiều nước Châu Âu. Tại Pháp, ông đã tiếp xúc với trường phái trọng nông và chịu ảnh hưởng các quan điểm kinh tế của trường phái này. Từ 1766 A.Smith xin thôi giảng dạy và tập trung nghiên cứu kinh tế. Năm 1776, ông xuất bản tác phẩm: "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các nước". Tác phẩm này đã làm cho ông nổi tiếng trên thế giới. Thế giới quan của A.Smith là chủ nghĩa duy vật, tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của ông còn mang tính chất tự phát, máy móc. Phương pháp luận của A.Smith có tính hai mặt, vừa khoa học vừa siêu hình. 2.2.2. Nội dung các học thuyết kinh tế của Adam Smith 2.2.2.1. Lý thuyết trật tự tự nhiên Xuất phát từ nhân tố "con người kinh tế", A.Smith cho rằng, thiên hướng trao đổi là đặc tính vốn có của con người và khi trao đổi sản phẩm cho nhau thì con Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 4 trị
  5. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Theo ông, lợi ích cá nhân là lợi ích xuất phát là động lực của kinh tế. Bởi vì mỗi người chỉ biết tư lợi chỉ thấy tư lợi và làm theo tư lợi. Khi "con người kinh tế" chạy đua theo tư lợi, tức là đi tìm kiếm lợi ích cá nhân của mình, thì họ bị chi phối và dẫn dắt của "bàn tay vô hình" - đó là các quy luật kinh tế khách quan. Ông coi hệ thống các quy luật kinh tế khách quan là "trật tự tự nhiên". Ông cho rằng, chính "trật tự tự nhiên" đã buộc những "con người kinh tế" đồng thời phải thực hiện nhiệm vụ không nằm trong dự kiến là đảm bảo lợi ích của xã hội. Vì thế giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội không mâu thuẫn với nhau. A.Smith cho rằng, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là xã hội bình thường còn xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến là xã hội không bình thường. Bởi vì chỉ có xã hội tư bản mới đảm bảo được các điều kiện để qui luật kinh tế hoạt động. A.Smith ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, vì thế ông đề cao vai trò của quy luật kinh tế khách quan. Theo ông, quy luật kinh tế là vô định, mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy sự hoạt động của quy luật kinh tế. Xuất phát từ quan điểm đó, ông cho rằng trong nền kinh tế Nhà nước có chức năng đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong nước, bảo vệ quyền sở hữu tư bản và thực hiện nhiệm vụ kinh tế, khi nhiệm vụ đó vượt quá sức của doanh nghiệp. 2.2.2.2. Lý thuyết phân công lao động. A.Smith sống trong giai đoạn phân công công trường thủ công của chủ nghĩa tư bản, do đó ông có điều kiện để nghiên cứu sâu vấn đề phân công lao động. Trước hết, A.Smith cho rằng lao động là nguồn gốc của của cải và sự giàu có của xã hội phụ thuộc hai yếu tố: tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành sản xuất vật chất và trình độ phát triển của phân công lao động. Như vậy, ông là người đầu tiên phân biệt được lao động sản xuất vật chất và lao động không sản xuất vật chất. Đây là một bước tiến so với chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông. Đi sâu nghiên cứu phân công lao động, A.Smith đã chỉ ra những ưu thế của phân công lao động. Theo ông, phân công lao động làm cho tay nghề và kỹ thuật của công nhân tăng lên; tiết kiệm thời gian lao động và tạo điều kiện áp dụng phương pháp sản xuất mới. Điểm hạn chế trong lý thuyết của A.Smith là ông chưa phân biệt rõ phân công lao động xã hội và phân công lao động trong công trường thủ công. A.Smith cũng đưa ra một quan điểm chưa chính xác: trao đổi là bản năng của loài người và trao đổi sinh ra sự phân công lao động. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 5 trị
  6. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển 2.2.2.3. Lý thuyết tiền tệ. A.Smith đã thấy được sự xuất hiện của tiền tệ là một quá trình khách quan, đáp ứng yêu cầu trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên, ông chưa chứng minh được sự xuất hiện tiền tệ là kết quả của sự phát triển các hình thái giá trị. A.Smith đã phê phán chủ nghĩa trọng thương đánh giá quá cao vai trò của tiền tệ. Theo ông, tiền chỉ là "phương tiện kỹ thuật của trao đổi", là "bánh xe vĩ đại của lưu thông". Ông ví tiền là con đường rộng lớn trên đó chở đầy lúa mì và cỏ khô, nhưng nó không làm tăng thêm lúa mỳ và cỏ khô. A. Smith ủng hộ quan điểm của W.Petty về quy luật lưu thông tiền tệ. Ông đã nghiên cứu tiền giấy và cho rằng tiền giấy có nhiều ưu điểm khi thay thế tiền vàng trong lưu thông. Đồng thời ông khẳng định giá cả quyết định số lượng tiền tệ trong lưu thông, không phải số lượng tiền tệ quyết định giá cả. Đây là quan điểm hợp lý và nó chống lại lý thuyết về số lượng tiền tệ. Những quan điểm của A.Smith về tiền tệ nhìn chung là đúng đắn khoa học. Tuy nhiên ông chưa đi sâu nghiên cứu của bản chất và các chức năng của tiền. 2.2.2.4. Lý thuyết giá trị. Trước hết, A.Smith đã phân biệt giá trị sử dụng với giá trị trao đổi. Từ đó, ông kết luận giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Với quan điểm đó, ông kịch liệt phê phán quan điểm của một số nhà kinh tế thời kỳ đó cho rằng ích lợi của sản phẩm quyết định giá trị trao đổi. A.Smith nêu lên hai định nghĩa về giá trị hàng hoá: Thứ nhất: Giá trị hàng hoá do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Lao động là thước đo của mọi giá trị. Thứ hai: Giá trị hàng hoá được quyết định bởi số lượng lao động có thể mua được hàng hoá này. Với định nghĩa thứ nhất, A.Smith đã kế thừa tư tưởng của W.Petty và đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Với định nghĩa thứ hai, ông đã xa rời nguyên lý lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị. A.Smith cho rằng, trong chủ nghĩa tư bản giá trị được quyết định bởi thu nhập, nó bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Trong quan điểm này, ông đã nhầm lẫn giữa nguồn gốc giá trị và sự phân chia giá trị thành các nguồn thu nhập, đồng thời không tính đến bộ phận c trong giá trị của hàng hoá. Nghiên cứu giá trị, A.Smith đã phân biệt hai loại giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Theo ông, giá cả tự nhiên là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả thị trường là giá bán. Ông cho rằng giá cả tự nhiên có tính chất khách quan, giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quan hệ cung - cầu, độc quyền. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 6 trị
  7. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Như vậy, lý thuyết giá trị của A.Smith đã có sự kế thừa và phát triển lý thuyết giá trị - lao động của W.Petty. Tuy vậy, do tính chất hai mặt trong phương pháp luận cho nên lý thuyết giá trị của A.Smith vẫn còn một số điểm hạn chế. 2.2.2.5. Lý thuyết tiền lương Theo A. Smith, trước chủ nghĩa tư bản tiền lương là sản phẩm trọn vẹn của lao động. Trong chủ nghĩa tư bản tiền lương là thu nhập của công nhân làm thuê, nó không ngang bằng giá trị sản phẩm mà họ tạo ra. A. Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương. Theo ông, trước hết tiền lương phụ thuộc trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Đồng thời mức lương cao hay thấp chịu ảnh hưởng của các nhân tố như: điều kiện làm việc trình độ chuyên môn, tính chất ngành nghề. Nghiên cứu tiền lương trong xã hội tư bản, A. Smith đã chỉ ra mâu thuẫn giữa các nhà tư bản và công nhân. Theo ông, công nhân muốn được trả lương cao, còn chủ tư bản lại muốn trả lương thấp. Ông tán thành trả lương cao cho công nhân. Rõ ràng quan điểm của ông khác với quan điểm của W.Petty. Điểm hạn chế trong lý thuyết tiền lương của A.Smith là chưa hiểu đúng bản chất của tiền lương, cho nên ông cho rằng tiền lương là giá cả lao động. 2.2.2.6. Lý thuyết lợi nhuận, lợi tức, địa tô + Về lợi nhuận, lợi tức. Theo A.Smith, giá trị sản phẩm do công nhân tạo ra chia làm hai phần, một phần được chi vào tiền lương và phần còn lại để trả cho lợi nhuận của người kinh doanh. Như vậy, ông đã thấy được nguồn gốc của lợi nhuận là một phần sản phẩm lao động do công nhân tạo ra. Đây là quan điểm đúng đắn, được K.Marx kế thừa và phát triển. A.Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận. Theo ông, tiền lương tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại; quy mô tư bản đầu tư; sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản v.v... Đặc biệt, khi quan sát hiện tượng cạnh tranh trong xã hội tư bản, A.Smith đã phát hiện ra xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. A.Smith cho rằng, lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận và sinh ra từ lợi nhuận. Đồng thời ông đã nhận thấy xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận, khi đầu tư tư bản tăng lên. Mặc dầu ông chưa thấy được nguyên nhân sâu xa làm giảm sút tỷ suất lợi nhuận, song những quan điểm này đã cho thấy rõ thêm các quan hệ kinh tế trong xã hội tư bản. Điểm hạn chế trong lý thuyết lợi nhuận của A.Smith là chưa phân biệt được giá trị thặng dư với lợi nhuận và quan niệm lợi nhuận do toàn bộ tư bản Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 7 trị
  8. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển sinh ra. Quan điểm này một lần nữa chứng tỏ tính chất nước đôi trong lý thuyết của A.Smith. + Về địa tô: A.Smith cho rằng, địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm lao động. Với quan điểm này, ông đã chỉ ra được nguồn gốc, bản chất của địa tô trong chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, khi giải thích vì sao có địa tô thì ông cho rằng vì lao động nông nghiệp có năng suất cao hơn lao động ở các ngành khác. Theo ông, thu nhập trong công nghiệp bao gồm tiền lương và lợi nhuận còn thu nhập trong nông nghiệp bao gồm tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Khi nghiên cứu địa tô, A.Smith lại cho rằng địa tô là kết quả tác động của tự nhiên và mức địa tô do thu nhập của các mảnh ruộng đem lại. Theo ông mức thu nhập của các mảnh ruộng phụ thuộc vào độ màu mỡ và vị trí xa, gần của đất đai. Thực chất A.Smith đã nghiên cứu địa tô chênh lệch I. A.Smith đã phân biệt được địa tô với tiền tô. Theo ông, tiền tô bao gồm địa tô và lợi tức của tư bản đầu tư để cải tạo đất đai. Đây là bước tiến bộ trong lý thuyết địa tô và được một số nhà kinh tế sau này kế thừa. Lý thuyết địa tô của A.Smith chưa đề cập địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ông còn cho rằng, nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm quy luật giá trị. Nguyên nhân của sai lầm này là do ông chưa thấy được sự khác nhau giữa giá trị và giá cả sản xuất. 2.2.2.7. Lý thuyết tư bản Trước hết A.Smith cho rằng, vật phẩm tiêu dùng không thể là tư bản và không phải tất cả tư liệu sản xuất đều là tư bản. Theo ông, chỉ có những tư liệu sản xuất do lao động tạo ra và có thể đem lại lợi nhuận mới là tư bản. Như vậy, quan niệm của A.Smith về tư bản đã tiến xa hơn các nhà kinh tế trước ông. A.Smith đã chia tư bản thành tư bản cố định, tư bản lưu động và nêu lên các yếu tố cấu thành của tư bản cố định và tư bản lưu động. Theo A.Smith, tư bản lưu động là tư bản tồn tại dưới dạng hàng hoá và nó mang lại thu nhập cho người chủ, do kết quả tiêu thụ sản phẩm. Tư bản lưu động bao gồm các bộ phận: - Tiền tệ nằm trong lưu thông. - Lương thực dự trữ trong tay thương nhân và các nhà tư bản công nghiệp. - Dự trữ nguyên liệu và bán thành phẩm. - Hàng hoá dự trữ trong các kho hàng. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 8 trị
  9. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Tư bản cố định là tư bản mang lại thu nhập cho người có tư bản khi nó còn nằm trong tay người chủ. Tư bản cố định bao gồm các bộ phận: - Máy móc, công cụ sản xuất khác. - Nhà xưởng dùng cho sản xuất. - Công trình xây dựng và các phương tiện làm cho đất tốt hơn. - Khả năng có ích của mọi thành viên trong xã hội. Như vậy bước tiến của A.Smith là nêu được khái niệm về tư bản và chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Tuy nhiên, ông chưa phân biệt được tư bản sản xuất và tư bản lưu thông, cho nên có sự nhầm lẫn trong việc xác định các bộ phận cấu thành của tư bản cố định và tư bản lưu động. Đó là điểm hạn chế trong lý thuyết tư bản của A.Smith. 2.2.2.8. Lý thuyết thuế khoá. Lý thuyết về thuế khoá của A.Smith thể hiện tư tưởng tự do kinh tế, chống phong kiến và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Theo A.Smith, Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động kinh tế mà chỉ hoạt động để bảo vệ trật tự xã hội an ninh tổ quốc và phát triển những của cải công cộng. Để thực hiện các hoạt động đó, Nhà nước phải có thu nhập và thu nhập của Nhà nước lấy từ hai nguồn: thu nhập từ tư bản của Nhà nước và đất đai công cộng và thu nhập từ thuế. Theo ông trong hai nguồn thu đó thì thuế là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước. A.Smith đã nghiên cứu và chia các thứ thuế khác nhau thành hai loại: thuế trực thu và thuế gián thu. Trong hai loại thuế đó, ông ủng hộ thực hiện thuế gián thu và chống lại thuế trực thu, nhất là các loại thuế trực thu đánh vào giai cấp tư sản. Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập như tiền lương, lợi nhuận, địa tô, tài sản thừa kế. Thuế gián thu là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập. Với thuế gián thu ông cho rằng nên đánh vào các mặt hàng xa xỉ để điều tiết thu nhập của những người sống trung bình hoặc trên mức trung bình. Theo A.Smith, thuế phải phù hợp khả năng của công dân và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Để thực hiện điều đó, ông nêu lên các nguyên tắc thu thuế: - Các thần dân phải có nghĩa vụ nuôi chính phủ tuỳ theo khả năng và sức lực của mình. - Phần thuế mỗi người đóng góp phải được quy định chính xác. - Chỉ được thu thuế vào thời gian thuận lợi và theo phương thức thích hợp. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 9 trị
  10. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển - Nhà nước chi phí ít nhất vào công việc thu thuế. A.Smith chủ trương không thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ mậu dịch. Theo ông, tự do thương mại sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Đây là quan điểm thể hiện tư tưởng thị trường tự điều tiết của ông và nó có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn. 2.2.2.9. Lý thuyết tái sản xuất Trước hết, để nghiên cứu tái sản xuất A.Smith đã trình bày các khái niệm tổng thu nhập và thu nhập thuần tuý. Theo ông, tổng thu nhập là toàn bộ sản phẩm hàng năm của ruộng đất và lao động. Thu nhập thuần tuý là thu nhập trực tiếp chi cho tiêu dùng như tiền lương, lợi nhuận và địa tô. Như vậy, A.Smith cho rằng thu nhập thuần tuý chính là thu nhập quốc dân, nó bằng tổng thu nhập trừ đi chi phí khôi phục tư bản cố định và một phần tư bản lưu động. Khi nghiên cứu tái sản xuất A.Smith dự định nghiên cứu cả tái sản xuất mở rộng. Ông đã tìm hiểu vấn đề tích luỹ tư bản và tìm hiểu sự khác nhau giữa sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. Những tư tưởng này được K.Marx kế thừa và hoàn thiện sau này. Do nhận thức chưa đúng lượng giá trị hàng hoá, A.Smith gặp khó khăn khi nghiên cứu tái sản xuất. Ông không thể phân tích sâu sắc và rút ra được những kết luận đúng đắn cho quá trình tái sản xuất trong xã hội tư bản. 2.3. Học thuyết kinh tế của D. Ricardo 2.3.1. Sơ lược tiểu sử của D. Ricardo D. Ricardo (1772-1823) sinh trưởng trong một gia đình làm nghề môi giới ở thị trường chứng khoán Luân Đôn. Sau khi tốt nghiệp trung học thương nghiệp, ông làm việc trong lĩnh vực buôn bán chứng khoán và trở thành một trong những người giàu có ở nước Anh lúc bấy giờ. D. Ricardo nghiên cứu nhiều lĩnh vực: toán học, lý học, hoá học, kinh tế chính trị học v.v... Nhờ sống trong giai đoạn đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản, đã giúp ông có điều kiện nghiên cứu, kế tục xuất sắc A. smith và trở thành người tiền bối của K.Marx. Sở trường nghiên cứu của D. Ricardo là kinh tế chính trị học. Ông đã xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị: 1811 xuất bản tác phẩm "Giá cả cao của vàng là bằng chứng của sự giảm giá ngân phiếu",1815 xuất bản tác phẩm "Bàn về giá cả lúa mì", 1817 xuất bản tác phẩm "Những nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế khoá". Về phương pháp luận, D. Ricardo sử dụng phương pháp trừu tượng hoá để phân tích các hiện tượng và quá trình kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên phương pháp luận của ông vẫn mang tính máy móc, siêu hình và phi lịch sử. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 10 trị
  11. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển 2.3.2. Nội dung các học thuyết kinh tế của D. Ricardo. 2.3.2.1. Lý thuyết giá trị - lao động Lý thuyết giá trị - lao động giữ vị trí trung tâm trong học thuyết kinh tế của D. Ricardo. Công lao của D. Ricardo là đã rà soát lý thuyết của A.smith, phê phán những quan điểm sai lầm, kế thừa và phát triển thêm những quan điểm đúng đắn, khoa học. Trước hết, D.Ricardo phê phán quan điểm nước đôi của A.smith khi nêu ra hai định nghĩa về giá trị hàng hoá. Theo ông định nghĩa "giá trị hàng hoá do hao phí lao động quyết định" là đúng và định nghĩa còn lại là sai, cần vứt bỏ. Quan điểm này của ông đã khẳng định nguyên lý: Lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị hàng hoá. Kế thừa quan điểm của A.Smith, ông phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, đồng thời khẳng định giá trị sử dụng không quyết định giá trị trao đổi. Theo ông, giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng thước đo của giá trị trao đổi là giá trị - lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá. Về cơ cấu giá trị, D. Ricardo cho rằng giá trị không chỉ được quyết định bởi lao động trực tiếp "lao động sống" mà còn bao gồm lao động cần thiết trước đó đã chi phí trong công cụ sản xuất. Đây là bước tiến của D. Ricardo so với A.Smith: Ông đã chỉ ra rằng, giá trị hàng hoá không chỉ có v + m mà còn có yếu tố c (lao động quá khứ). D. Ricardo cho rằng, lượng giá trị hàng hoá được quyết định bởi lao động đồng nhất của con người, chứ không phải lao động cá biệt. Ông cũng đề cập tới lao động giản đơn và lao động phức tạp, khi xác định giá trị hàng hoá, tuy rằng còn rất sơ sài. Nghiên cứu mối quan hệ giữa năng suất lao động và giá trị hàng hoá, ông tán thành quan điểm của A.Smith: khi năng suất lao động tăng lên, thì giá trị hàng hoá giảm xuống. Lý thuyết giá trị của D. Ricardo cũng có những giới hạn nhất định. Trước hết do chưa nhận thức được tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá cho nên mới dừng lại ở lượng giá trị, chưa nghiên cứu chất giá trị. D.Ricardo cho rằng, giá trị là một phạm trù vĩnh viễn và giá trị của những hàng hoá khan hiếm sẽ do giá trị sử dụng quyết định. Mặt khác, ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá với giá cả sản xuất. 2.3.2.2. Lý thuyết tiền tệ. D. Ricardo hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán cho nên ông quan tâm nghiên cứu về lưu thông tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Trong tác phẩm "giá cả cao của vàng là bằng chứng của sự giảm giá ngân phiếu", ông cho rằng vàng và bạc có giá trị cố hữu của nó. Giá trị của tiền do giá trị vật liệu làm Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 11 trị
  12. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển ra tiền quyết định - đó là lao động đã hao phí để sản xuất ra vàng và bạc. Quan điểm này đã xuất phát từ lý thuyết giá trị - lao động của ông. D. Ricardo tán thành quan điểm của W.Petty về quy luật lưu thông tiền tệ. Tuy nhiên, ông lại xuất phát từ quan điểm của thuyết số lượng tiền tệ để kết luận; giá trị của tiền tệ do số lượng của chúng điều tiết. Nghĩa là số lượng tiền càng nhiều thì giá trị của tiền tệ càng ít và ngược lại. Như vậy, khi phân tích lưu thông tiền tệ, D. Ricardo đã thấy được tiền giấy không có giá trị nội tại giá trị tiền giấy được quyết định bởi giá trị của số vàng mà chúng đại diện. Trong lý thuyết tiền tệ của D. Ricardo vẫn còn những điểm hạn chế. Lý thuyết của ông chưa phân biệt rõ lưu thông tiền giấy và lưu thông tiền vàng. Lý thuyết tiền tệ của D. Ricardo cũng chưa đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, bản chất và các chức năng của tiền tệ. 2.3.2.3. Lý thuyết tiền lương. Xuất phát từ quan điểm lao động là hàng hoá, D. Ricardo cho rằng tiền lương là giá cả lao động. Ông phân biệt giá cả lao động bao gồm giá cả tự nhiên và giá cả thị trường của hàng hoá lao động. Theo ông, giá cả tự nhiên của lao động ngang bằng với giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết cho công nhân và gia đình. Giá cả thị trường của lao động phụ thuộc quan hệ cung - cầu về lao động. Từ đó ông kết luận rằng, tiền lương phụ thuộc vào hai nhân tố: giá cả các tư liệu sinh hoạt và cung - cầu của hàng hoá lao động. Trong lý thuyết tiền lương của D.Ricardo điểm giới hạn quan trọng là chưa phân biệt lao động với sức lao động, cho nên quan niệm tiền lương là giá cả lao động. Về sau, K.Marx đã chứng minh, tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động, nhưng được thể hiện ra bên ngoài là giá cả lao động. 2.3.2.4. Lý thuyết tư bản. D. Ricardo cho rằng, tư bản là một bộ phận của cải trong nước được dùng vào sản xuất, bao gồm thức ăn, đồ mặc, nguyên vật liệu v.v.. Quan điểm này của ông mới chỉ thấy tư bản dưới hình thái hiện vật, chưa thấy được tư bản là một quan hệ xã hội. D. Ricardo chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Theo ông, tư bản cố định là bộ phận tư bản tồn tại lâu dài và hao mòn chậm chạp, tư bản lưu động là bộ phận tư bản chi phí cho lao động hoạt động. Như vậy, ông không đưa bộ phận tư bản mua nguyên vật liệu vào tư bản lưu động. Khi nghiên cứu về cấu thành tư bản, D.Ricardo còn chia tư bản thành hai bộ phận, một bộ phận để đài thọ cho lao động và một bộ phận để mua nguyên Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 12 trị
  13. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển vật liệu, công cụ sản xuất. Với quan điểm này, ông đã tiến gần tới sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến của K.Marx. 2.3.2.5. Lý thuyết lợi nhuận và địa tô + Lý thuyết lợi nhuận: D. Ricardo không trực tiếp trình bày nguồn gốc của lợi nhuận, nhưng theo ông giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn tiền lương mà họ nhận được. Như vậy, ông đã thấy được lợi nhuận là một phần giá trị lao động do công nhân tạo ra, nhưng không được trả công. Trong điều kiện cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, D. Ricardo cho rằng, lợi nhuận có khuynh hướng giảm xuống và nguyên nhân làm giảm lợi nhuận là do tiền công tăng lên. Đồng thời, ông cũng thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Tuy rằng ông chưa ra lý thuyết hoàn chỉnh về vấn đề này. Điểm giới hạn trong lý thuyết lợi nhuận của D. Ricardo là ông chưa phân biệt được giá trị thặng dư với lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư với tỷ suất lợi nhuận. Đặc biệt ông chưa thấy được do cấu tạo hữu cơ tư bản tăng lên đã làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống, + Lý thuyết địa tô Điểm nổi bật trong lý thuyết địa tô của D. Ricardo là do ông đã xuất phát từ lý thuyết giá trị - lao động để phân tích địa tô. Ông cho rằng, địa tô là một phần khấu trừ vào sản phẩm lao động của công nhân. Quan điểm này chứng tỏ D. Ricardo đã thấy được nguồn gốc - bản chất của địa tô trong chủ nghĩa tư bản. D. Ricardo cho rằng, do đất đai canh tác hạn chế, độ màu mỡ đất đai giảm sút, trong khi dân số tăng nhanh làm cho tư liệu sinh hoạt khan hiếm. Thực tế đã buộc phải canh tác trên ruộng đất xấu và giá trị nông phẩm do hao phí lao động trên ruộng đất xấu quyết định. Ở những ruộng đất tốt và trung bình sẽ có thu nhập lớn hơn và phần chênh lệch đó phải nộp cho địa chủ, đó là địa tô. Từ lập luận này, ông kết luận đất xấu không phải nộp địa tô. Kế thừa quan điểm của A.Smith, D. Ricardo đã phân biệt chính xác địa tô với tiền tô. Theo ông, địa tô là khoản trả công cho những khả năng thuần tuý tự nhiên, còn tiền tô bao gồm địa tô và lợi nhuận của tư bản đầu tư vào nông nghiệp. Như thế, tiền tô lớn hơn địa tô. Điểm giới hạn trong lý thuyết địa tô của D. Ricardo là không thừa nhận địa tô tuyệt đối và chưa nghiên cứu loại địa tô chênh lệch II. 2.3.2.6. Lý thuyết thuế khoá. Kế thừa và phát triển tư tưởng của A smith, D. Ricardo đã đưa ra một số quan điểm về thuế khoá có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Trước hết, ông khẳng định thuế có tác dụng tăng nguồn thu và đảm bảo chi tiêu của chính phủ. Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 13 trị
  14. TL hướng dẫn học tập môn Lịch sử các học thuyết kinh tế C 4 Các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển Mặt khác theo ông, nếu đánh thuế vào tư bản sẽ làm giảm quỹ hoạt động sản xuất và thuế đánh vào thu nhập sẽ hạn chế tích luỹ và tiêu dùng. D. Ricardo tán thành những nguyên tắc đánh thuế mà A.Smith đã nêu lên. Theo ông những nguyên tắc đó, đảm bảo trách nhiệm công dân và đảm bảo nguồn thu cho Chính phủ. Ông nghiên cứu nhiều loại thuế như thuế đánh vào thu nhập bao gồm thuế đánh vào lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tiền lương, tài sản thừa kế v.v. Đó là loại thuế trực thu. Đối với thuế đánh vào hàng hoá, ông khuyên nên thận trọng khi đánh thuế vào lương thực và cho rằng đối tượng đánh thuế thích hợp nhất là những hàng hoá sản xuất trong điều kiện đặc biệt thuận lợi. 2.3.2.7. Lý thuyết khủng hoảng kinh tế D.Ricardo cho rằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức có lợi nhất để tạo ra của cải. Từ đó, ông phủ nhận khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản và khẳng định sự tiến bộ của chủ nghĩa tư bản là tuyệt đối. Theo ông, nếu có khủng hoảng kinh tế thì đó là khủng hoảng cục bộ, cá biệt. Nghĩa là có thể có hàng hoá nào đó quá thừa và chi phí không được bù đắp đầy đủ, nhưng không thể xảy ra đồng thời với tất cả các hàng hoá. Giới hạn trong lý thuyết của ông gắn liền với nhận thức về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và những hạn chế trong lý thuyết giá trị, lý thuyết tiền tệ của ông. D. Nội dung ôn tập 1. Hoàn cảnh ra đời, đặc điểm cơ bản của các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển. 2. Lý luận giá trị - lao động của A. Smith và D. Ricardo Bùi Thị Minh Hồng Giảng viên khoa Lý luận chính 14 trị
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0